MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRÁI PHIẾU TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Tổng quan về hoạt động kinh doanh trái phiếu tại Công ty chứng khoán
1.1.1. Hoạt động cơ bản của Công ty chứng khoán
1.1.2. Hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán
1.2. Phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán
1.2.1. Quan niệm về phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá mức phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu của công ty chứng khoán
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán
1.3.1 Nhân tố chủ quan
1.3.2. Các nhân tố khách quan
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRÁI PHIẾU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN THĂNG LONG
2.1. Khái quát về công ty Cổ phần chứng khoán Thăng Long
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
2.1.2. Cơ cấu tổ chức, nhân sự
2.1.3. Kết quả kinh doanh chủ yếu
2.2. Thực trạng phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán Thăng Long
2.2.1. Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam
2.2.2. Thực trạng phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu của Công ty Cổ phần Chứng khoán Thăng Long
2.3. Đánh giá thực trạng phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu của Công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long
2.3.1. Những kết quả chính về hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS
2.3.2 Hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS chưa phát triển
2.3.3 Nguyên nhân hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS chưa phát triển
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRÁI PHIẾU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN THĂNG LONG
3.1. Quan điểm và định hướng phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại Công Ty cổ phần chứng khoán Thăng Long
3.1.1. Nhận định thời cơ
3.1.2. Quan điểm và định hướng phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại Công ty Cổ phần chứng khoán Thăng Long
3.2. Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại Công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long
3.2.1. Tăng cường sự quan tâm của Lãnh đạo công ty chứng khoán
3.2.2. Tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức của công ty
3.2.3. Tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
3.2.4. Tăng vốn cho hoạt động kinh doanh trái phiếu
3.2.5. Các giải pháp khác
3.3. Một số kiến nghị hỗ trợ phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK Thăng Long
3.3.1. Đối với Ngân hàng TMCP Quân Đội
3.3.2. Đối với UBCKNN và Chính phủ
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
100 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2613 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bổ sung thêm các kiến thức về nghiệp vụ chứng khoán phái sinh, các công cụ phòng ngừa rủi ro, chiến lược quản lý danh mục chứng khoán. Một số hình thức TLS cần chú trọng đối với việc đào tạo đội ngũ cán bộ trong thời gian tới là:
- Đối với cán bộ lãnh đạo điều hành của TLS: Cần tham gia các khóa học ngắn hạn, hội thảo về chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách huy động vốn, chính sách phát hành và giao dịch trái phiếu bên cạnh đó chú trọng tham gia các khóa đào tạo chuyên sâu về quản trị chiến lược, quản trị marketing, quản lý rủi ro, quản lý chất lượng …
- Đối với các nhân viên trực tiếp làm việc: Trước hết khuyến khích nhân viên tự đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ chuyên môn với chức năng công việc đồng thời tạo điều kiện và hỗ trợ chi phí theo học các lớp huấn luyện đào tạo nghiệp vụ, có thể cử các cán bộ tham gia các khóa học đào tạo tại nước ngoài để nâng cao kiến thức chứng khoán hiện đại cũng như học tập kinh nghiệm đầu tư ở nước ngoài…
- Khuyến khích động viên và thúc đẩy sự chia sẻ kỹ năng, tri thức giữa các thành viên trong TLS trên tinh thần không ngừng học tập để chuẩn bị tạo nền tảng cho sự phát triển liên tục và bền vững.
- Thực hiện chuyên môn hóa trong phân công lao động, phân định rõ trách nhiệm một cách khoa học và phù hợp với năng lực của từng nhân viên. Bên cạnh đó, cần khích lệ tinh thần làm việc và ý thức gắn bó lâu dài với TLS thông qua các hình thức khen thưởng về mặt vật chất và tinh thần cho những cá nhân có thành tích tốt.
- Trong thời gian tới, TLS cần có kế hoạch tuyển dụng thêm cán bộ làm việc trong bộ phận kinh doanh trái phiếu. Hiện nay, mảng kinh doanh trái phiếu đang thuộc phòng Nguồn vốn, phòng Nguồn vốn chịu trách nhiệm cân đối nguồn và huy động nguồn để thực hiện các hoạt động đầu tư trong công ty, cũng là phòng cân đối nguồn vốn có thể sử dụng được cho hoạt động đầu tư trình ban Tổng giám đốc. Tuy nhiên, hiện mới chỉ có 1 cán bộ chuyên trách về hoạt động kinh doanh trái phiếu vì vậy, để phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu trong tương lai phù hợp với chiến lược của công ty thì mảng kinh doanh trái phiếu cần phải đầu tư thêm nhân lực, mở rộng phạm vi hoạt động và chuyên môn hóa các khâu của quá trình kinh doanh trái phiếu. Cụ thể cần phân chia mảng kinh doanh trái phiếu gồm 2 mảng cơ bản là phân tích và đầu tư, trong đó tối thiểu có 1 cán bộ chịu trách nhiệm kết hợp với bộ phận phân tích cổ phiếu để đưa ra những báo cáo hàng ngày về tình hình TTTP, tài chính tiền tệ và kinh tế vĩ mô đồng thời nghiên cứu phân tích TPDN, đánh giá hoạt động kinh doanh vi mô để chuyển bộ phận kinh doanh trái phiếu. Trong bộ phận đầu tư cũng cần chia ra bộ phận trading và back, trading sẽ là người đầu tư và tìm nguồn hàng, tham gia các cuộc đấu thầu và bảo lãnh phát hành TPCP, phân tích giá và là người trực tiếp làm việc với bộ phận kinh doanh trái phiếu tại các CTCK, Ngân hàng và các Quỹ tham gia TTTP. Đây cũng là bộ phận sẽ kết hợp với phòng tư vấn đầu tư và bảo lãnh phát hành trái phiếu để đưa nguồn nhu cầu về đại lý phát hành và bảo lãnh trái phiếu.
Tr.P Nguồn vốn
Phân tích TP
Huy động nguồn
Cân đối nguồn
Back - TP
Trading TP
Nguồn: CTCK ThăngLong
Hình 3.2. Mô hình phòng Nguồn vốn mới
Trưởng phòng Nguồn vốn là người chịu trách chung về toàn bộ hoạt động của phòng. Định kỳ hàng tuần, phòng sẽ có buổi họp chung, phổ biến tình hình hoạt động của từng bộ phận để mọi người trong phòng có thể nắm bắt được tình hình hoạt động chung của phòng.
Với những cải tổ về nhân sự như trên TLS mới đảm bảo được chất lượng và số lượng của đội ngũ nhân viên cho mục tiêu phát triển mảng kinh doanh trái phiếu, nâng cao uy tín của TLS trên thị trường trái phiếu.
3.2.4. Tăng vốn cho hoạt động kinh doanh trái phiếu
Như đã đề cập tới nhiều lần, quy mô về vốn là vấn đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh trái phiếu, mỗi lô trái phiếu thường giá trị tối thiểu 10 tỷ và khi có cơ hội, TLS cần luôn có một lượng vốn để đáp ứng nhu cầu mua trái phiếu. Nắm giữ một lượng trái phiếu đủ lớn và một nguồn tài chính chắc chắn sẽ giúp TLS linh hoạt và không bỏ lỡ bất cứ một cơ hội kinh doanh nào.
Hiện nay, với mức duyệt chi ngân sách cho hoạt động kinh doanh trái phiếu dài hạn mới chỉ dừng ở 100 tỷ đồng và ngắn hạn là 500 tỷ đồng nhưng tính đến thời điểm này, lượng trái phiếu TLS nắm giữ chỉ còn 100 tỷ đồng. Trong khi đó, tổng tài sản của TLS lên tới 4210 tỷ đồng, từ đó cho thấy nguồn vốn sử dụng cho trái phiếu là quá nhỏ so với quy mô của công ty. Nguồn vốn cho hoạt động tự doanh của công ty lên tới hơn 1000 tỷ trong đó cổ phiếu niêm yết là 700 tỷ còn lại là cổ phiếu OTC. Gần 3.000 tỷ đồng còn lại, TLS sử dụng nguồn vay ngắn hạn để phục vụ cho hoạt động dịch vụ chứng khoán.
Để phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu, TLS cần sử dụng tối thiểu 500 tỷ cho hoạt động kinh doanh trái phiếu dài hạn và 800 tỷ cho hoạt động kinh doanh ngắn hạn. Trong đó, nguồn vốn sử dụng cho kinh doanh dài hạn có thể được huy động do phát hành cổ phiếu tăng vốn, do phát hành trái phiếu TLS.
Nguồn vốn ngắn hạn có thể huy động từ repo chính những trái phiếu TLS hiện có và những cổ phiếu TLS nắm giữ. Bên cạnh đó có thể huy động từ ngân hàng mẹ là NHTMCP Quân Đội.
Việc phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ cần phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng vì đây là phương pháp tăng vốn nhanh nhưng sẽ bị pha loãng cổ phiếu và chịu áp lực cổ tức từ các cổ đông của công ty. Ngoài ra có thể nghiên cứu thêm phát hành trái phiếu chuyển đổi từ đó thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư đồng thời giảm bớt áp lực chia cổ tức từ các cổ đông.
Bên cạnh đó, TLS có thể cân nhắc việc bán cổ phần cho các đối tác, cổ đông chiến lược lớn, nhất là từ các tổ chức tài chính có uy tín trong và ngoài nước. Một mặt có thể gia tăng nguồn vốn của TLS, mặt khác có thể được hỗ trợ về quản trị vốn cũng như quản trị điều hành hoạt động hiện đại của thế giới.
3.2.5. Các giải pháp khác
Mở rộng quan hệ khách hàng và các nhà đầu tư khác
Khách hàng là mục tiêu mà bất kỳ công ty chứng khoán nào cũng phải hướng tới, đặc biệt là khách hàng tổ chức do đặc thù khối lượng giao dịch thường lớn và ổn định. Nhất là đối với TTTP đòi hỏi vốn lớn, chỉ các nhà đầu tư tổ chức mới có đủ nguồn lực để tham gia.
Với hoạt động môi giới trái phiếu, TLS cần tận dụng vị thế hiện tại là một trong 13 thành viên giao dịch trái phiếu chính phủ để đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm khách hàng giao dịch. Ngoài việc tăng thị phần và thu phí giao dịch, TLS có thể kết hợp với khách hàng để trở thành đối tác trong hoạt động kinh doanh trái phiếu. Để lôi kéo khách giao dịch tại TLS, mà chủ yếu là các tổ chức lớn cần sự hỗ trợ của ban lãnh đạo không chỉ về quan hệ mà còn cần đảm bảo lợi ích của các bên, đồng thời, thành lập một bộ phận chuyên tìm hiểu và ghi nhận các nhu cầu thực tế của khách hàng, từ đó mở rộng thêm các dịch vụ sản phẩm một cách kịp thời để tăng hiệu quả hoạt động, đồng thời nghiên cứu, phân tích và cải tiến tăng cường những dịch vụ hỗ trợ nghiệp vụ chính. Trong hoạt động tự doanh trái phiếu, TLS cũng cần phải mở rộng đối tác kinh doanh tới các tổ chức bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ xã hội, các nhà đầu tư nước ngoài… Bên cạnh đó, cũng cần tham gia Hiệp hội trái phiếu Việt Nam để TLS có thể mở rộng và xây dựng mạng lưới khách hàng và các đối tác, từ đó từng bước phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS.
Xây dựng cơ sở dữ liệu về chứng khoán đầu tư
Một cơ sở dữ liệu đầy đủ về TTTP Việt Nam sẽ là một tài liệu quan trọng và xác thực giúp TLS có một cái nhìn tổng thể và đặc thù về trái phiếu cũng như các dữ liệu trong quá khứ của trái phiếu đầu tư từ đó giúp cho TLS có được các quyết định đầu tư kịp thời và chính xác.
Nguồn để xây dựng hệ thống dữ liệu là:
- Thông báo kết quả giao dịch của Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
- Trang web các thông tin kinh tế như (www.vneconomy.com), trang web Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (www.sbv.gov.vn) các báo cáo về tình hình thị trường tiền tệ, kinh tế vĩ mô của các Ngân hàng và tổ chức tài chính uy tín như bloomberg, reuter,...
- Thu thập thông tin từ các báo, tạp chí chuyên ngành như: Đầu tư chứng khoán, Đầu tư, Thời báo kinh tế Việt Nam, Thời báo Ngân hàng, Thời báo tài chính,…
- Kết hợp với các phòng ban khác trong CTCK để có các nguồn thông tin khác nhau.
Ngoài ra, TLS cần tổ chức bộ phận chuyên trách công tác thông tin để công bố thông tin kịp thời và nâng cao chất lượng thông tin của doanh nghiệp. Thông tin cần cập nhật định kỳ, thường xuyên, có số liệu thống kê và phân tích xu hướng phát triển. Bên cạnh đó, cần nâng cao trình độ của bộ máy quản lý, đội ngũ kế toán…
Cơ sở dữ liệu được chia thành các loại trái phiếu với từng kỳ hạn khác nhau, phải thường xuyên cập nhật thông tin về trái phiếu và tình hình giao dịch trên thị trường để nghiên cứu. Bên cạnh đó, cơ sở dữ liệu có thể lưu dưới dạng đóng file văn bản và lưu vào hệ thống đĩa mềm để tiện tra cứu và bảo quản.
Tận dụng hệ thống trang thiết bị sẵn có và phát triển một số dịch vụ bổ trợ đi kèm
Hiện nay ngoài các kênh cung cấp thông tin truyền thống là báo chí, trang web, … TLS còn sử dụng kênh thông tin bloomberg với hệ thống khá đầy đủ về thi trường tài chính và về giao dịch chứng khoán, ngoài ra TLS còn sử dụng hệ thống Reuter Messager để chat với các chuyên viên trong lĩnh vực kinh doanh trái phiếu. Đây cũng là công cụ khá hữu hiệu trong việc tìm kiếm cơ hội giao dịch và môi giới kinh doanh trái phiếu.
Một số hoạt động bổ trợ khác như bảo lãnh phát hành TPDN và thực hiện làm đại lý phát hành trái phiếu cần được đẩy mạnh trong thời gian tới. Hiện tại TLS đã là thành viên đấu thầu TPCP, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, thành viên lưu ký, và thành viên nghiệp vụ thị trường mở nên TLS cần tận dụng cơ hội để phát triển hoạt động quản lý danh mục kinh doanh trái phiếu, ủy thác kinh doanh trái phiếu cho khách hàng. Đối tượng khách hàng đầu tiên là những khách hàng hiện có và trong thời gian tới TLS cần đẩy mạnh hoạt động Marketing TLS có thể hướng tới các doanh nghiệp cả trong nước và nước ngoài. Những dịch vụ này một mặt đem lại nguồn thu cho TLS một mặt giúp TLS tiến thêm một bước sâu hơn vào thị trường tài chính Việt Nam, đẩy mạnh mảng xúc tiến quan hệ với khách hàng.
Nghiên cứu và sử dụng các công cụ phái sinh
Các công cụ phái sinh có chức năng giúp CTCK tham gia hoạt động kinh doanh trái phiếu phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra, nó bao gồm các dạng hợp đồng phái sinh,sản phẩm tài chính, kỹ thuật ứng dụng trong kinh doanh chứng khoán… Việc áp dụng các công cụ này nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng thông qua việc tăng tính thanh khoản và phòng ngừa rủi ro đối với trái phiếu.
Mặc dù thị trường chứng khoán hiện nay chưa đủ điều kiện để triển khai các nghiệp vụ này theo đúng nghĩa của nó, tuy nhiên sớm hay muộn, TTCK Việt Nam nói chung và TTTP nói riêng cũng cần phải xây dựng khung pháp lý để áp dụng các công cụ chứng khoán phái sinh. Vì vậy, TLS cần đầu tư nghiên cứu tìm hiểu và chuẩn bị về những công cụ này để sẵn sàng tham gia thị trường nhằm đa dạng hóa loại hình sản phẩm cũng như phòng ngừa rủi ro trên TTTP.
3.3. Một số kiến nghị hỗ trợ phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK Thăng Long
Sự ổn định về mặt chính trị, tốc độ tăng trưởng kinh tế cả nước trong những năm qua ở mức cao, thu nhập của dân cư đã được cải thiện, đã có những tác động tích cực đến TTCK nói chung và TTTP nói riêng. Những thành quả TTTP đạt được trong thời gian qua là tiền đề thuận lợi cho sự phát triển trong tương lai. Qua những phân tích thực tế thời gian qua, cho thấy TTTP Việt Nam đang đang trên đà phát triển. Song song cùng với sự phát triển đó, hoạt động kinh doanh trái phiếu của TLS cũng đang từng bước hoàn thiện để trở nên chuyên nghiệp, trở thành một trong những nhà đầu tư uy tín trên thị trường và thu được nhiều lợi nhuận từ mảng hoạt động tài chính này.
Trên cơ sở đó, TLS có một số kiến nghị đối với Ngân hàng Quân Đội và UBCK Nhà Nước để có thể phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS như sau:
3.3.1. Đối với Ngân hàng TMCP Quân Đội
Ngân hàng TMCP Quân Đội thành lập từ năm 1994 và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đánh giá là một trong những ngân hàng TMCP hàng đầu Việt Nam.
Với vai trò là cổ đông lớn chiếm 51% vốn điều lệ của Công ty Cổ phần chứng khoán Thăng Long, Ngân hàng TMCP Quân Đội đã luôn là chỗ dựa vững chắc giúp TLS phát triển. Hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS cũng đã được Ngân hàng Quân Đội hỗ trợ rất nhiều cả về vốn và về uy tín. Vốn khi TLS có nhu cầu môi giới trái phiếu và uy tín có Ngân hàng TMCP Quân Đội hỗ trợ trong quan hệ đối với các đối tác trong bước đầu TLS tham gia vào hoạt động kinh doanh trái phiếu. Ngoài ra, Ngân hàng TMCP Quân đội cũng đã truyền đạt nhiều kinh nghiệp trong giao dịch trái phiếu trên thị trường cũng như có các báo cáo phân tích thị trường tiền tệ, TTTP để TLS tham khảo. Thời gian tới, để mở rộng hoạt động kinh doanh và môi giới trái phiếu, phát triển và khẳng định vị thế của TLS trên TTTP cần rất nhiều hỗ trợ của Ngân hàng Quân Đội hơn nữa cụ thể như sau:
- Phối hợp để trao đổi thông tin, nhận định thị trường: trên cơ sở cùng phối hợp, TLS có thể cung cấp các báo cáo ngành, báo cáo giao dịch trái phiếu hoặc báo cáo tình hình kinh tế vĩ mô còn TLS cần báo cáo thị trường ngoại hối của MB.
- Cần sự chia sẻ khách hàng với MB: Thực tế, MB thường thực hiện giao dịch với khách hàng lớn (chủ yếu là các ngân hàng trong nước và nước ngoài) và các giao dịch có giá trị lớn trên 50 tỷ đồng. Ngân hàng MB có thể nhường các giao dịch nhỏ lẻ (chủ yếu các quỹ, CTCK… các giao dịch có giá trị tới 50 tỷ đồng.
- MB vẫn có một danh mục dành riêng cho hoạt động trading trái phiếu bên cạnh danh mục nắm giữ đầu tư dài han, và MB ưu tiên chào qua TLS với mức giá thị trường để tận dụng nguồn thu từ hoạt động môi giới.
- Với những hoạt động môi giới trái phiếu, MB sẽ hỗ trợ TLS nguồn vốn trong thời gian ngắn với lãi suất thị trường.
Lợi thế của TLS là có một ngân hàng TMCP lớn, có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh trái phiếu hỗ trợ, vì vậy, sự giúp đỡ của ngân hàng TMCP Quân Đội trên cơ sở vốn, kinh nghiệm và mối quan hệ là rất quan trọng giúp TLS thâm nhậm và tạo vị thế trên TTTP.
3.3.2. Đối với UBCKNN và Chính phủ
Hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS làm một bộ phận không thể tách rời sự phát triển của TTTP Việt Nam. TLS không thể phát triển hoạt động trái phiếu nếu như TTTP Việt Nam vẫn còn non trẻ như thời điểm hiện nay. Vì vậy, để có thể mở rộng quy mô, nâng cao vị thế của TLS thì TTTP cũng cần phải phát triển.
Là một bộ phận trong sự phát triển thống nhất của thị trường tài chính, để phát triển TTTP trên cơ sở phối hợp đồng bộ với các thị trường bộ phận khác nhằm đảm bảo hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước, về cơ bản Việt Nam cần phải xây dựng, hoàn thiện và thúc đẩy sự phát triển đồng bộ giữa TTTP sơ cấp và thứ cấp, phát triển TTTP cả về quy mô và chất lượng nhằm thúc đẩy thị trường phát triển một cách bền vững bên cạnh đó phải đẩy mạnh việc đa dạng hóa hình thức TPCP, TPCQĐP, TPDN. TTTP phải đáp ứng vai trò là kênh huy động, chu chuyển vốn trung hạn và dài hạn cho nền kinh tế đồng thời học hỏi kinh nghiệm phát triển TTTP ở các quốc gia có thị trường tài chính vững mạnh. Nâng cao và củng cố vị thế của TTTP Việt Nam trên trường quốc tế trên cơ sở bảo đảm tính ổn định tài chính quốc gia và tạo dựng nền tảng pháp lý thống nhất và chặt chẽ để TTTP vận động và phát triển, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, cũng như có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia. Trên cơ sở đó, các kiến nghị đối với UBCKNN và Chính Phủ như sau:
3.3.2.1. Mở rộng quy mô, đa dạng hoá và tăng tính thanh khoản cho TTTP
Trái phiếu đa dạng đảm bảo mang lại những lợi ích khác nhau cho nhà đầu tư, sẽ tạo nhiều sự lựa chọn cho nhà đầu tư, trên cơ sở đó nhà đầu tư so sánh, phân tích, đánh giá và đi đến quyết định đầu tư. Điều này sẽ kích thích và thu hút nhà đầu tư, thúc đẩy TTTP thêm sôi động.
Đối với TPCP
Đa dạng hóa hình thức TPCP, đa dạng hoá không chỉ là việc phát hành nhiều loại TPCP với nhiều kỳ hạn khác nhau mà còn phải kết hợp việc đa dạng hóa về lãi suất, loại hình và phương thức thanh toán vốn gốc và lãi TPCP. Bên cạnh những loại TPCP truyền thống, Chính phủ cần triển khai thêm một số một số loại trái phiếu:
+ Trái phiếu trả lãi bằng 0 hay còn gọi là trái phiếu được chiết khấu: là loại trái phiếu giá bán thấp hơn mệnh giá, nhà đầu tư sẽ thu được lợi nhuận tích lũy dưới dạng lãi từ vốn khi trái phiếu đến hạn thanh toán.
+ Trái phiếu đa thời hạn: trái phiếu có nhiều ngày đáo hạn khác nhau.
+ Trái phiếu thanh toán từng phần: đây là loại trái phiếu mà lãi suất được thanh toán khi đáo hạn nhưng gốc của trái phiếu sẽ thanh toán từng phần theo định kỳ hàng năm. Loại trái phiếu này sẽ giảm áp lực tăng lãi và giảm thiểu rủi ro tái đầu tư, tăng thêm độ an toàn cho người sở hữu trái phiếu.
+ Trái phiếu option: cho phép người mua trái phiếu có quyền đòi nợ đối với người phát hành tại bất kỳ một thời gian nào đó trong tương lai.
+Trái phiếu có lãi suất thay đổi: lãi suất của nó có thể được thay đổi và điều chỉnh theo từng thời kỳ khi lãi suất thị trường có sự biến động, đảm bảo lãi suất thực dương cho nhà đầu tư vì mục tiêu lãi suất. Loại trái phiếu này sẽ thu hút nhà đầu tư hưởng lãi suất vừa thu hút nhà đầu tư hưởng chênh lệch giá thúc đẩy thị trường TPCP hoạt động sôi nổi.
Phương thức phát hành: Kế hoạch phát hành TPCP cần được xây dựng một cách thống nhất, khoa học và tránh sự chồng chéo triệt tiêu lẫn nhau giữa các đợt phát hành hay giữa các phương thức phát hành với nhau. Đẩy mạnh phát hành TPCP qua phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành, tuy nhiên nên có sự phân chia khối lượng phát hành cho mỗi phương thức theo kỳ hạn trái phiếu, tránh tình trạng các đợt phát hành diễn ra quá gần nhau làm giảm hiệu quả của các đợt phát hành. Mặt khác, khi phát hành TPCP theo phương thức đấu thầu qua TTCK, cần hạn chế áp đặt lãi suất một cách chủ quan.
Bên cạnh đó, để tạo đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường, cần lập chương trình kế hoạch phát hành TPCP, chọn loại TPCP có thời hạn phù hợp để tập trung phát hành lô lớn tạo nên TPCP phát hành chuẩn và hình thành đường cong lãi suất chuẩn, tạo nền tảng cơ bản lãi suất chuẩn cho các công cụ nợ. Đẩy mạnh việc phát hành TPCP lô lớn sẽ giảm số lượng các loại TPCP lưu hành trên thị trường, giúp các nhà đầu tư cũng như các tổ chức trung gian dễ theo dõi, nắm bắt diễn biến về giá của các loại TPCP. Đồng thời giảm dần đến chấm dứt việc phát hành bán lẻ qua hệ thống KBNN.
Cơ chế lãi suất, Chính phủ nên áp dụng lãi suất thả nổi đối với TPCP. Để tăng tính hấp dẫn của TPCP nên áp dụng lãi suất điều chỉnh theo lạm phát và áp dụng phương thức trả lãi linh hoạt như trả lãi trước, trả lãi định kỳ…để nhà đầu tư có thể giảm thiểu rủi ro và đa dạng hoá danh mục đầu tư. Xây dựng một cơ chế lãi suất thực sự hấp dẫn nhà đầu tư kể cả trong điều kiện lạm phát hay thiểu phát nhằm tối đa lợi nhuận của nhà đầu tư trên cơ sở dung hòa với lợi ích của Chính phủ.
Đối với TPCQĐP
Cần có kế hoạch phát hành trái phiếu đô thị đi kèm theo với nhiều tiện ích khác nhau nhằm giúp cho các nhà đầu tư luôn có được hàng hóa đa dạng phù hợp với chiến lược đầu tư của mình, qua đó tạo điều kiện cho chính quyền địa phương nâng cao khả năng huy động vốn trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc huy động vốn. Có thể nghiên cứu phát hành trái phiếu đô thị dưới các hình thức: trái phiếu chiết khấu, trái phiếu đa kỳ hạn, trái phiếu thanh toán từng phần, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phiếu option…
Hơn nữa, trong điều kiện phát triển thực tế của các địa phương, nhu cầu vốn tài trợ cho đầu tư phát triển rất lớn và cấp thiết, Chính phủ nên xem xét và bổ sung thêm một số quy định pháp lý nhằm tăng cường khả năng huy động vốn đầu tư cho các dự án đầu tư của địa phương thông qua phương thức phát hành loại trái phiếu thu nhập, loại trái phiếu được phát hành dựa trên nguồn thu tài chính của dự án, công trình và không được cân đối từ ngân sách địa phương. Chính quyền các tỉnh cần có chính sách khuyến khích các cơ quan công quyền có chức năng công ích phát hành trái phiếu để tài trợ cho các dự án, cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương có thể thực hiện bảo lãnh để tăng thêm uy tín cho đơn vị phát hành. Trái phiếu thu nhập có thể phát hành theo các mục đích như:
+ Trái phiếu xây dựng nhà ở: tài trợ cho việc xây dựng những khu dân cư cho những gia đình có thu nhập thấp.
+ Trái phiếu công nghiệp: tài trợ để xây dựng các khu công nghiệp, sân bay, bến cảng, xử lý nước thải, ô nhiễm môi trường …
+ Trái phiếu hệ thống cấp thoát nước: tài trợ cho những dự án cấp thoát nước cho dân cư và các ngành thuộc khu vực đô thị.
+ Trái phiếu bệnh viện: tài trợ cho việc xây dựng và vận hành các bệnh viện.
Đối với TPDN
Thực tế cho thấy thị trường TPDN chỉ chiếm khoảng 10% TTTP. Việc tham gia TTTP của các doanh nghiệp trong nước mới chỉ là những bước đi đầu tiên với quy mô nhỏ lẻ, nên bước đầu các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ phát hành trái phiếu ra thị trường nội địa và chủ yếu là chọn hình thức phát hành riêng lẻ, tức là doanh nghiệp có thể thương lượng trực tiếp với người cung cấp vốn. Các quy định về điều kiện để doanh nghiệp phát hành trái phiếu riêng lẻ cũng đơn giản hơn việc doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng. Để phát triển thị trường TPDN cần có những cải cách từ phía Chính phủ và cả doanh nghiệp.
Bộ Tài chính cần phải có những cải cách mạnh mẽ hơn nữa về cơ chế chính sách và kỹ thuật để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, chú trọng việc tuyên truyền phổ biến và đào tạo cho các doanh nghiệp về cách thức huy động vốn, kinh nghiệm quản lý quỹ.... Để phát triển thị trường TPDN trước hết phải phát triển thị trường TPCP, thị trường TPCP vẫn phải là bước khởi đầu.
Nhà nước đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN. Cần có chính sách khuyến khích các Tổng công ty nhà nước phát hành trái phiếu để huy động đầu tư vốn dài hạn phục vụ đổi mới công nghệ và tạo hàng hóa cho TTCK. Trước mắt, các lĩnh vực như hàng không, điện lực, dầu khí, bưu chính viễn thông là những lĩnh vực mà nền kinh tế hiện đang rất cần tăng cường đầu tư và phát triển để tạo đà cho công nghiệp hóa.
Về phía các doanh nghiệp để thành công trong việc phát hành trái phiếu, doanh nghiệp cần phải xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn hiệu quả nhằm đảm bảo khả năng thanh toán và tạo sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư cũng như đảm bảo được lợi ích của doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp cần thực hiện tốt một số vấn đề:
+ Trước hết, doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược phát triển dài hạn trong đó gồm cả việc huy động vốn. Doanh nghiệp cần xác định nhu cầu và mục đích huy động vốn, cần gắn việc huy động với việc sử dụng vốn.
+ Thứ hai, việc quản lý tốt ngân quỹ là vấn đề phức tạp. Doanh nghiệp phải giải quyết cùng lúc việc thu hút một lượng vốn lớn; phải trả được các khoản nợ và phải có tiền để sản xuất kinh doanh hoặc để đầu tư.
+ Thứ ba, việc công bố thông tin liên quan đến việc phát hành trái phiếu phải đảm bảo tính công khai minh bạch tạo lòng tin đối với nhà đầu tư.
Ngoài ra, để tăng tính hấp dẫn và đa dạng, doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu có chuyển đổi thành cổ phiếu hay trái phiếu gắn với quyền mua; đảm bảo sự ổn định trước biến động của nền kinh tế, doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu có lãi suất đảm bảo bằng vàng hay lãi suất thực được đảm bảo dương trong trường hợp lạm phát cao để thu hút nhà đầu tư. Việc phát triển thị trường TPDN có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp trong việc nâng cao năng lực huy động vốn, tăng khả năng linh hoạt trong quản trị vốn, đồng thời tăng khả năng tích tụ, tập trung và phân phối nguồn vốn có chi phí rẻ cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Phát triển công cụ phái sinh liên quan đến trái phiếu
Đầu tư chứng khoán nói chung và kinh doanh trái phiếu nói riêng luôn chứa đựng rủi ro, việc bảo hiểm cho các khoản rủi ro trong quá trình đầu tư là điều cần thiết. Mặt khác, khi TTTP phát triển đến giai đoạn cao tất yếu dẫn đến việc hình thành các sản phẩm phái sinh liên quan đến trái phiếu nhằm đa dạng hoá và đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư từ khả năng sinh lợi đến mục tiêu giảm thiểu, hoán đổi rủi ro. Hiện nay, thị trường giao dịch trái phiếu ở Việt Nam khá đơn điệu, dừng lại ở nghiệp vụ mua bán trái phiếu giao ngay, làm hạn chế mục đích đầu tư và tính linh hoạt của thị trường. Cần phát triển các sản phẩm chứng khoán phái sinh liên quan đến trái phiếu như: quyền chọn mua, bán chứng khoán; hợp đồng tương lai; hợp đồng kỳ hạn; các sản phẩm từ chứng khoán hóa tài sản và các khoản nợ... Hệ thống NHTM phải đóng vai trò chủ đạo trong quá trình cung cấp các sản phẩm phái sinh cho TTCK. Ngoài ra, nghiệp vụ repo trái phiếu tạo tính thanh khoản rất cao cho TTTP.
Các công cụ phái sinh nói chung được đánh giá là rất hữu hiệu trong phòng ngừa rủi ro, giúp nhà đầu tư tự tin hơn khi tham gia thị trường. Tuy nhiên, các công cụ này cũng có tính hai mặt, để áp dụng vào TTCK Việt Nam cần xây dựng khuôn khổ pháp luật cho hoạt động này, các cơ quan quản lý có thể đưa ra các quy định về số lượng quyền chọn tối đa của các nhà đầu tư để hạn chế tình trạng lũng đoạn thị trường. Bên cạnh đó, cần thực hiện đồng bộ với việc phát triển quy mô thị trường, hệ thống giao dịch, hệ thống tài chính ngân hàng, sự hiểu biết về TTCK của công chúng đầu tư và tăng cường khả năng giám sát thị trường của cơ quan quản lý.
3.3.2.2. Xây dựng và phát triển hệ thống định mức tín nhiệm
Tính minh bạch về thông tin là một trong những điều kiện để phát triển thị trường vốn nói chung và TTTP nói riêng. Trong hoàn cảnh đó, dịch vụ đánh giá tín nhiệm với các thông tin chính xác, kịp thời sẽ cung cấp thêm cho các cơ quan giám sát TTCK và các cơ quan quản lý tài chính công cụ để quản lý và giám sát; cung cấp thông tin để cho phép các nhà đầu tư kiểm soát và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh; đồng thời đối với nhà phát hành nó được dùng như một chiến lược huy động vốn. Do đó, việc xây dựng hệ thống ĐMTN ở Việt Nam hiện nay đã trở nên cấp thiết.
Để tổ chức ĐMTN tồn tại và phát triển trong giai đoạn TTTP Việt Nam còn non trẻ cần chú trọng các vấn đề sau:
- Nhanh chóng xây dựng khung pháp lý về hoạt động ĐMTN, có một khung pháp lý sẽ tạo điều kiện cho các công ty định mức tín nhiệm trong nước ra đời, vừa tạo điều kiện để thu hút sự tham gia của các công ty, tổ chức uy tín trên thế giới.
+ ĐMTN được nhắc đến trong Nghị định 52/NĐ-CP nhưng chỉ dừng lại ở mức độ mở ngoặc “nếu có”. Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho sự hình thành và hoạt động hiệu quả của tổ chức định mức tín nhiệm, trước tiên phải mang tính chất tiền đề, là những cơ sở pháp lý cơ bản nhất để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực ĐMTN, đồng thời định ra hướng đi đúng cho cá nhân, tổ chức liên quan trong khuôn khổ mà pháp luật quy định.
+ Luật chứng khoán cần bổ sung một phần quy định về những vấn đề chung nhất trong hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm như: khái niệm, địa vị pháp lý, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm...
+ Bên cạnh những vấn đề chung, để tạo môi trường pháp lý cho hoạt động ĐMTN, Chính phủ cần ban hành các Nghị định để chi tiết hóa và hướng dẫn thi hành các điều khoản này. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, hoạt động ĐMTN là lĩnh vực hoàn toàn mới mẽ; hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện, ta chưa lường trước được hết những phát sinh và tính phức tạp của hoạt động này. Việc sửa đổi bổ sung để hoàn thiện trong quá trình điều hành là điều không thể tránh khỏi, nếu ở mức Nghị định vừa đảm bảo được hiệu lực pháp lý vừa có thể sửa đổi bổ sung kịp thời. Do đó trong giai đoạn đầu Chính phủ ban hành ở mức Nghị định là hợp lý. Cùng với sự phát triển của thị trường vốn và trong quá trình điều hành hoạt động ĐMTN đã rút tỉa được kinh nghiệm nếu xét thấy cần thiết thì ban hành luật hoạt động ĐMTN.
+ Hoạt động ĐMTN là một bộ phận của TTCK, nó liên quan chặt chẽ với hoạt động của toàn TTCK và ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường, do đó cần phải có sự đồng bộ hóa các quy định có liên quan đến hoạt động ĐMTN với các quy định khác có liên quan. Cần giám sát và có qui định xử phạt đối với các hành vi sai trái khi tổ chức ĐMTN đưa ra các kết quả xếp hạng tín nhiệm không trung thực.
- Tiêu chuẩn hoá các thông tin tài chính của các doanh nghiệp. Một tổ chức ĐMTN phụ thuộc vào sự sẵn có các thông tin chính xác tin cậy về các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Mặt khác, các cơ quản lý không chỉ dừng lại ở việc khuyến khích xếp hạng tín nhiệm mà phải thông qua việc ban hành các quy định về ĐMTN bắt buộc, yêu cầu các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK phải thực hiện ĐMTN, nhất là các doanh nghiệp phát hành trái phiếu dù chào bán ra công chúng hay chào bán riêng lẻ. Minh bạch hoá thông tin vừa tạo sự yên tâm cho nhà đầu tư vừa tạo uy tín cho bản thân các doanh nghiệp phát hành. Một trở ngại cho sự phát triển của các tổ chức ĐMTN là có quá ít công cụ nợ để định giá, do đó cần mở rộng quy mô cung chứng khoán đặc biệt là TPDN.
- Cần nâng cao nhận thức của nhà phát hành và nhà đầu tư về ĐMTN. Để hệ thống ĐMTN tồn tại và phát triển là sự công nhận và xem công tác ĐMTN như một trong những nhân tố toàn diện nhất để nhận biết những rủi ro tiềm ẩn. Để làm được điều này, cần phải làm cho các nhà đầu tư, các tổ phát hành trái phiếu và các tổ chức trung gian thị trường hiểu được những lợi ích mà ĐMTN mang lại. Bên cạnh đó, các tổ chức ĐMTN phải tạo được sự tin cậy, tín nhiệm từ phía những người ủy thác và công chúng đầu tư, đảm bảo nguyên tắc hoạt động tính tin cậy, tính độc lập, tính khách quan và chuyên nghiệp.
- Cuối cùng, để hệ thống ĐMTN thành công còn phụ thuộc vào khuôn khổ chính sách dẫn dắt, có thể thực hiện các bước đi sau:
+ Hợp tác và tiếp thu kinh nghiệm, chuyên môn từ các tổ chức ĐMTN nổi tiếng trên thế giới. Vai trò của các tổ chức ĐMTN quốc tế, ngay cả trong giai đoạn đầu, cần được xem xét một cách phù hợp. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các tổ chức ĐMTN quốc tế sẽ gia tăng sự lựa chọn và chất lượng của các dịch vụ cung cấp cho các tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Áp lực cạnh tranh từ các tổ chức ĐMTN quốc tế cũng sẽ buộc các tổ chức ĐMTN trong nước tăng cường chất lượng và tính cạnh tranh về dịch vụ của họ. Tuy nhiên, với mục đích phát triển các tổ chức ĐMTN trong nước, trong giai đoạn đầu nên hạn chế sự tham gia của các tổ chức ĐMTN nước ngoài, chỉ dừng ở mức hỗ trợ thu hút vốn nước ngoài. Việc tham gia vào các mảng thị trường khác chỉ nên cho phép khi đã qua một số giai đoạn nhất định, với điều kiện lộ trình đó phải được minh bạch và có độ tin cậy cao.
+ Trong điều kiện hiện tại của VN, có một số lý do không ủng hộ việc cho phép các Công ty định mức tín nhiệm tư nhân hoạt động. Thứ nhất, các tổ chức tư nhân này thường có quy mô nhỏ. Thứ hai, có rủi ro là một số tổ chức phát hành có thể thành lập các Công ty định mức tín nhiệm của chính mình để đạt được những kết quả sai lệch về tình hình tín dụng của họ. Mặc dù vậy, các tổ chức ĐMTN nhà nước cũng vẫn có những điểm yếu, vấn đề phức tạp nhất có thể xảy ra là sự can thiệp của Chính phủ đối với kết quả định mức tín nhiệm. Để đảm bảo chất lượng định mức tín nhiệm, việc thực thi công tác kiểm soát, giám sát và phân định trách nhiệm rõ ràng phải được chú trọng. Ngoài ra, việc lựa chọn quyền sở hữu đối với các tổ chức ĐMTN đòi hỏi phải xem xét kỹ tới quy mô và tính chuyên nghiệp cần thiết.... Trong giai đoạn đầu có thể thành lập một tổ chức ĐMTN thuộc sở hữu nhà nước và sau đó có thể cho phép chuyển thành sở hữu tư nhân.
Dựa trên những vấn đề trên, chính phủ Việt Nam nên đưa ra một khung pháp lý tối thiểu cho hoạt động xếp hạng tín nhiệm trong nước. Như đã nói, đã có một vài tổ chức hoạt động xếp hạng tín nhiệm. Mặt khác, một số doanh nghiệp lớn khi phát hành trái phiếu đã thuê dịch vụ của các công ty xếp hạng hàng đầu thế giới. Về lý thuyết, không có luật nào quy định về các công ty xếp hạng tín nhiệm, các công ty phát hành trái phiếu (được quy định trong nghị định 52/2006) có thể thuê dịch vụ của một hay nhiều tổ chức xếp hạng trong nước, cho dù nó không tương thích lắm với các xếp hạng do các công ty nước ngoài đưa ra. Đánh giá xếp hạng do các công ty nước ngoài cung cấp có thể không giúp ích gì nhiều cho một số công ty vì chủ yếu các công ty của Việt Nam đều xếp hạng thấp từ BB đến BB. Do đó, thị trường TPDN của VN cần những công ty xếp hạng trong nước có khả năng đưa ra các phân tích và số liệu sát thực với thị trường trong nước và được công nhận trên thế giới.
Xếp hạng tín nhiệm đã trở nên ngày càng quan trọng trong lĩnh vực tài chính và mức độ tin cậy của các công cụ nợ vẫn phản ánh các tập quán của thị trường đó, tác giả thấy rằng rất cần thiết phải xây dựng những công ty xếp hạng tín nhiệm tốt ở Việt Nam. Nói cách khác, nếu như không có một công ty xếp hạng tính dụng trong nước nào thì các doanh nghiệp Việt Nam phải dựa vào các công ty xếp hạng nước ngoài ngay cả khi phát hành trái phiếu trên thị trường trong nước.
3.3.2.3. Thu hút và phát triển đội ngũ tạo lập thị trường
Ở các TTCK phát triển, các nhà tạo lập thị trường là các trung gian tài chính. Họ niêm yết giá mua, giá bán và sẵn sàng thực hiện giao dịch với các mức giá đã niêm yết. Các hoạt động của họ tạo tính linh hoạt cho TTTP; tăng khả năng thực hiện giao dịch trái phiếu làm cho thị trường giao dịch trái phiếu sôi động hơn thông qua cạnh tranh về giá cả đặt ra giữa các nhà tạo lập thị trường khác nhau…
Trong điều kiện TTTP còn sơ khai, hình thành và phát triển đội ngũ các nhà tạo lập thị trường là điều cần thiết. Cần có đội ngũ chuyên gia có năng lực làm tư vấn cho Chính phủ để xây dựng chính sách phối hợp đồng bộ giữa các kênh huy động vốn. Để xây dựng đội ngũ các nhà tạo lập thị trường có tiềm năng tài chính đủ mạnh sẵn sàng mua - bán một lượng trái phiếu nhất định khi có yêu cầu của nhà đầu tư, cần có chủ trương khuyến khích các NHTM và các công ty bảo hiểm có tiềm năng tài chính lớn tham gia.
3.3.2.4. Thực hiện công khai hóa thông tin
Việc công khai và minh bạch hoá thông tin là một yếu tố quan trọng để thị trường trái phiếu hoạt động lành mạnh. Do đó, Chính phủ và doanh nghiệp cần tích cực thực hiện công khai hóa thông tin, khắc phục tình trạng bưng bít thông tin hoặc công khai mang tính hình thức. Công bố thông tin một cách tùy tiện, không có hệ thống và chuẩn mực sẽ tạo tâm lý e ngại đối với nhà tư là nguyên nhân làm cho TTTP kém phát triển. Độ tin cậy của thông tin là cơ sở để nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư, giảm thiểu rủi ro.
Về phía Chính phủ, công tác công khai hóa thông tin trong thời gian tới cần hoàn thiện các mặt sau:
- Tăng cường công bố kế hoạch phát hành trái phiếu, các thông tin về khối lượng phát hành, lãi suất và thời hạn. Bên cạnh đó cần tăng khả năng tiếp cận thông tin về cơ cấu nợ, lý do huy động vốn và đặc biệt là chiến lược quản lý nợ. Cụ thể vào đầu năm, Chính phủ công khai kế hoạch phát hành trái phiếu trong năm gồm các nội dung: thời điểm phát hành, khối lượng phát hành, lãi suất dự kiến, đối tượng tham gia… Vào cuối năm, cần công khai báo cáo tổng hợp, chi tiết về tình hình sử dụng vốn huy động từ TPCP, TPCQĐP trong năm. Bên cạnh đó, TPCP là một hàng hóa niêm yết trên thị trường, để thu hút nhà đầu tư hơn nữa, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, TPCP cần được các tổ định mức tín nhiệm có uy tín trên thế giới như Moody’s, S&P, Fitch đánh giá.
- Ngày nay, cần khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin để đưa thông tin đến nhà đầu tư, đặc biệt là phương tiện thông tin trực tuyến từ internet, thông qua các website giúp cho nhà đầu tư dễ truy cập. UBCKNN cần thiết lập hệ thống thông tin tự động để nhà đầu tư trong và ngoài nước có thể tra cứu thông tin bất cứ lúc nào. Xây dựng website chuyên cung cấp thông tin về trái phiếu và TTTP trong đó bao gồm các thông tin về: thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp, các chính sách, chiến lược phát triển, khung pháp lý có liên quan để cung cấp thông tin đến các nhà đầu tư. Lựa chọn nhà cung cấp thông tin về TTTP trên cơ sở gắn kết về tính chuyên nghiệp và cơ sở vật chất kỹ thuật của các thành viên tham gia thị trường.
- Để đảm bảo thông tin được công bố chính xác và minh bạch cần nâng cao tính cưỡng chế của pháp luật; nâng cao kiến thức, kinh nghiệm cho các nhà đầu tư, các tổ chức trung gian thị trường để phân tích thông tin của các tổ chức phát hành; hệ thống kế toán kiểm toán đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đối với các trường hợp vi phạm về công bố thông tin trên TTCK, cần có các biện pháp chế tài xử lý vi phạm. Mặt khác, Chính phủ nên đi đầu trong công tác đào tạo kiến thức trong các lĩnh vực như: pháp lý, kế toán…
Về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần tổ chức bộ phận chuyên trách công tác thông tin để công bố thông tin kịp thời và nâng cao chất lượng thông tin của doanh nghiệp. Thông tin cần cập nhật định kỳ, thường xuyên, có số liệu thống kê và phân tích xu hướng phát triển. Bên cạnh đó, cần nâng cao trình độ của bộ máy quản lý, đội ngũ kế toán…
3.3.2.5. Hoàn thiện hệ thống pháp lý và hệ thống quản lý
Để TTTP vận hành tốt đòi hỏi một hệ thống pháp lý hoàn thiện mang lại một sân chơi công bằng, luật sở hữu rõ ràng và thông tin minh bạch cũng như một cơ quan quản lý thị trường có năng lực.
Hiện nay, hoạt động của TTTP được điều chỉnh bởi các văn bản pháp quy: Nghị định 141/2003/NĐ-CP (quy định việc phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và TPCQĐP), Nghị định 52/2006/NĐ-CP (quy định việc phát hành TPDN), Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 (quy định về chứng khoán và TTCK) và một số các văn bản pháp quy khác có liên quan.
Tiếp tục rà soát, bổ sung và sửa đổi để hoàn thiện khung pháp lý. Quốc hội bên cạnh việc đã thông qua Luật chứng khoán đồng thời phải từng bước hoàn thiện Luật Chứng khoán cho phù hợp với tình hình đặc thù của TTCK sơ khai đang từng bước phát triển và hội nhập. Phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong việc hoàn thiện các văn bản pháp luật để giảm bớt sự chồng chéo và mâu thuẫn.
Các quy định về đấu thầu TPCP và việc công khai hóa thông tin của Chính phủ về TPCP cần được thể hiện trong Luật Chứng khoán, không nên quy định riêng lẻ trong các văn bản dưới Luật như hiện nay. Cần có các quy định để ràng buộc trách nhiệm của các thành viên tham gia đấu thầu và bảo lãnh phát hành. Xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động công bố thông tin, nền tảng là Luật Chứng khoán và Luật Kế toán. Tạo khuôn khổ pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh cũng như các tranh chấp, kiện tụng giao dịch.
Hiện nay, hoạt động của thị trường OTC không trái với pháp luật hiện hành, tuy nhiên Luật Chứng khoán Việt Nam vẫn chưa có những điều khoản về thị trường OTC. Các đối tượng tham gia thị trường đang đứng trước nguy cơ phải gánh chịu rủi ro nếu không được bảo vệ bởi bất kỳ khung pháp lý nào, do đó cần có khung pháp lý rõ ràng để bảo vệ các đối tượng tham gia thị trường. Cụ thể trong Luật Chứng khoán cần quy định rõ đối tượng được phép thành lập, thủ tục thành lập, cơ cấu điều hành Trung tâm OTC, quy định đối với trường hợp giải thể trung tâm OTC…
Ban hành các quy định để tạo cơ sở pháp lý cho các CTCK tái cơ cấu theo hướng tăng quy mô vốn, mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ; cần có cơ chế hỗ trợ khuyến khích các quỹ đầu tư chứng khoán trong và ngoài nước tham gia thị trường.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần thực hiện chương trình cải cách sâu, rộng các quy định pháp lý về chuẩn mực quản lý, giám sát và tổ chức hệ thống giám sát phù hợp với thông lệ quốc tế. Thực hiện quản lý theo chuẩn mực để sớm hình thành cơ chế quản lý bình đẳng; nâng cao hiệu quả giám sát từ phía Nhà nước. Thành lập hiệp hội TTTP sẽ giúp xây dựng và chuẩn hoá các phương thức cũng như điều kiện giao dịch chung.
3.3.2.6. Các kiến nghị khác
- Phát triển thị trường phi tập trung (OTC)
Trên thế giới, TTTP thường được tổ chức theo hình thức thị trường OTC, đây vốn là thị trường giao dịch của những chứng khoán chưa niêm yết hoặc chưa đủ kiện niêm yết trên thị trường tập trung. Cụ thể, TTTP ở Mỹ, toàn bộ TPCP phải được tập trung phát hành và giao dịch qua thị trường OTC; TTTP tại Hàn Quốc, giao dịch OTC là chủ yếu. Các tổ chức tài chính trung gian như các NHTM, tổ chức kinh doanh bảo hiểm sẽ thực hiện vai trò tạo lập thị trường. Trái phiếu có độ rủi ro thấp nên chủ yếu được các tổ chức tài chính trung gian nắm giữ, đặc biệt là các ngân hàng phát triển, các NHTM và các tổ chức bảo hiểm. Các tổ chức tài chính này không muốn giao dịch qua Sở giao dịch chứng khoán do chi phí quá cao so với thu nhập của trái phiếu. Việc giao dịch thẳng giữa các tổ chức tài chính trung gian không chỉ giúp họ tiết kiệm chi phí mà còn tạo được phương thức giao dịch, thanh toán linh hoạt và phù hợp. Hơn nữa, để thực hiện vai trò tạo lập thị trường, các tổ chức tài chính trung gian phải có một lượng vốn đủ lớn, và như vậy với quy mô rất lớn của TTTP, các CTCK thường không thể đáp ứng yêu cầu vốn cho hoạt động tạo lập TTTP.
TTGDCK Hà Nội thành lập năm 2005, hoạt động gần giống thị trường phi tập trung cũng đã đạt được những thành công nhất định. Nhưng hiện nay, TTTP sơ cấp khá phức tạp với nhiều kênh phát hành đan xen với kênh đấu thầu qua TTCK, TTTP thứ cấp còn kém phát triển với khối lượng giao dịch chủ yếu là TPCP. Do vậy việc xây dựng và phát triển thị trường OTC đóng một vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian tới. Cần xây dựng TTTP Việt Nam theo mô hình thị trường OTC, trên cơ sở đồng bộ với TTTP tập trung và phù hợp với chiến lược phát triển TTCK. Trong đó, cho phép các NHTM, các công ty bảo hiểm và các tổ chức Tài chính trung gian khác đủ khả năng trở thành nhà tạo lập TTTP. Với lượng trái phiếu lớn đang được các NHTM và tổ chức kinh doanh bảo hiểm nắm giữ, với hệ thống thanh toán liên ngân hàng đang vận hành tốt, thị trường OTC đối với trái phiếu sẽ sớm vận hành có hiệu quả.
Nâng cao nhận thức về chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng cho các doanh nghiệp và công chúng đầu tư
Doanh nghiệp và công chúng đầu tư là bộ phận không thể thiếu và góp phần quan trọng tạo nên sự phát triển của TTTP. Chú trọng hơn nữa trong công tác tuyên truyền, đào tạo kiến thức về chứng khoán cho các doanh nghiệp và công chúng. Trong thời gian qua, tuy các doanh nghiệp và công chúng có quan tâm tìm hiểu về TTCK nhưng hầu như chỉ tập trung vào cổ phiếu. Thông qua các phương tiện đại chúng, hệ thống thông tin trực tuyến internet để tuyên truyền cho doanh nghiệp và công chúng một sự hiểu biết toàn diện về TTCK trong đó có TTTP. Giúp các doanh nghiệp nhận thức được vai trò, lợi ích của việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Nâng cao nhận thức trong công chúng về vai trò, rủi ro và tính hữu ích của việc kinh doanh trái phiếu.
KẾT LUẬN
Phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu là hình thức sử dụng vốn không mới của các tổ chức tín dụng Việt Nam đặc biệt là các NHTM nhưng hoạt động này hiện nay hầu như mới chỉ dừng ở việc mua bán trái phiếu sơ cấp và nắm giữ trái phiếu cho tới khi đáo hạn để hưởng trái tức và hạn chế hoạt động rủi ro. Trong thời gian 2-3 năm trở lại đây, hoạt động kinh doanh trái phiếu mới thực sự thu hút quan tâm của các CTCK, tham gia kinh doanh trái phiếu không chỉ để hạn chế rủi ro mà còn để mua bán trên thị trường thứ cấp nhằm thu lợi nhuận chênh lệch.
Là một CTCK thành lập từ những ngày đầu TTCK ra đời nhưng phải đến tháng 6/2008 TLS mới chính thức gia nhập vào TTTP nhưng cũng đã thu được những thành công nhất định. Nhận thức rõ vai trò của phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tác giả đã lựa chọn đề tài “Phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long” cho luận văn thạc sỹ. Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu và vận dụng các lý luận về kinh tế – tài chính, luận văn đã thực hiện được các mục tiêu nghiên cứu đặt ra và được trình bày như sau:
Thứ nhất, trình bày những vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh trái phiếu của CTCK. Quan niệm về phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu của CTCK.
Thứ hai, đánh giá thực trạng phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu của TLS hiện nay, đặc biệt tập trung đi sâu phân tích những kết quả đạt được, đánh giá hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS là chưa phát triển đồng thời đưa ra nguyên nhân chưa phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu của TLS.
Thứ ba, qua những nguyên nhân gây cản trở sự phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS để đề xuất những giải pháp và kiến nghị đối với NHTM Cổ phần Quân đội, UBCKNN và Chính phủ nhằm phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu của TLS trong thời gian tới cũng như phát triển TTTP Việt Nam
Là một xu hướng phát triển chung của thị trường tài chính thế giới , hoạt động phát triển kinh doanh trái phiếu đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu nghiêm túc và công phu cả về mặt thực tiễn và lý luận, những kết quả nghiên cứu của luận văn chỉ là một số đóng góp nhỏ và chưa thể bao quát toàn bộ các khía cạnh, lĩnh vực. Do vậy, chắc chắn còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu để không ngừng phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long trong thời gian tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ủy Ban chứng khoán Nhà nước (2008), Đề án xây dựng thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt, Hà nội.
2.Chính phủ (2003), Nghị định 144/2003/NĐ-CP, Chứng khoán và thị trường chứng khoán, Hà Nội.
3. Chính phủ (2007), Nghị định số 14/2007/NĐ-CP, Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng Khoán, Hà Nội.
4.PGS.TS. Trần Đăng Khâm (2007), Thị trường chứng khoán phân tích cơ bản, NXB ĐH Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội.
5. PGS.TS. Lê Hoàng Nga, Nguyễn Thu Hà (2005), Thị trường trái phiếu Việt Nam thực trạng và giải pháp, Hà Nội.
6. Vũ Thị Hoàng Mai, Nguyễn Thị Hảo, Phạm Thị Vân Trinh (2008), Bài thảo luận nhóm “Giải pháp phát triển trái phiếu ở Việt Nam” , Trường Đại học mở TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
7. Trần Bích Vân (2009), Luận văn thạc sỹ kinh tế “Xây dựng công ty TNHH Chứng khoán Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thành nhà tạo lập thị trường trái phiếu của Việt Nam”, Trường ĐH Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
8. Công ty chứng khoán Thăng Long (2009), Điều lệ hoạt động công ty chứng khoán Thăng Long, Hà Nội.
13. Nguyễn Huy, Anh Hiển (2008), 5 nhươc điểm lớn của thị trường trái phiếu Việt Nam, Báo Đầu tư chứng khoán, Hà Nội.
9. Thủy An, Long Hưng (2009), Làm gì để trái phiếu hấp dẫn nhà đầu tư, Đất Việt online, www.baodatviet.com.
10.Chuyengiachungkhoan.com (2006), Kinh doanh trái phiếu, www.chuyengiachungkhoan.com.
11. Cộng đồng đầu tư chứng khoán Việt Nam (2009), Vai trò của các chuyên gia và nhà tạo lập thị trường trên thị trường chứng khoán, www.forum.thuchanhchungkhoan.com
12. Thanh Hải (2008), Triển vọng thị trường trái phiếu năm 2009, Vneconomy, www.vneconomy.com.
14. Hồng Phúc (2004), Chứng khoán Việt Nam vắng bóng nhà tạo lập thị trường, Vietnamnet, www.vietnamnet.vn.
15. Hồng Phúc (2004), 6 khuyết điểm của thị trường trái phiếu, Vietnamnet, www.vietnamnet.vn.
16. Anh Việt (2009), Khơi thông kênh huy động vốn trái phiếu, Báo Đầu tư chứng khoán, www.dautuchungkhoanonline.com.
\
PHỤ LỤC 1
Danh sách CTCK thành viên hệ thống giao dịch TPCP chuyên biệt
STT
Tên CTCK
Tên viết tắt
1
Công ty cổ phần chứng khoán An Bình
ABS
2
Công ty TNHH chứng khoán ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
VCBS
3
Công ty cổ phần chứng khoán TP Hồ Chí Minh
HCM
4
Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn thương tín
SBS
5
Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn
SSI
6
Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt
BVS
7
Công ty TNHH chứng khoán ACB
ACBS
8
Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp
AGS
9
Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam
IBS
10
Công ty chứng khoán Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
BSC
11
Công ty chứng khoán Thăng Long
TLS
12
Công ty cổ phần chứng khoán FPT
FPTS
Nguồn: Thống kê từ SGDCKHH
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Trang
Bảng 1.1. Vốn điều lệ các CTCK đến tháng 12/2009 4
Bảng 2.1. Số lượng lao động tại thời điểm 31/12/2009 của TLS 34
Bảng 2.2. Một số chỉ tiêu tổng hợp về kết quả kinh doanh của TLS 34
Bảng 2.3. Một số chỉ tiêu tài chính của TLS 35
Bảng 2.4. Giá trị TPCP phát hành qua các năm 36
Bảng 2.5. Tình hình đấu thầu TPCP từ năm 2000-2009 37
Bảng 2.6 Thống kê tình hình giao dịch TPCP từ 2006-2009 40
Bảng 2.7. Thị phần giao dịch trái phiếu của TLS qua các năm 45
Bảng 2.8. Doanh thu hoạt động tự doanh trái phiếu của TLS 47
Bảng 2.9. Doanh thu hoạt động kinh doanh trái phiếu qua các năm 48
Bảng 2.10. Một số chỉ tiêu về hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán tham gia KDTP thời điểm 31/12/2009 53
Bảng 2.11. Lợi nhuận các dịch vụ của TLS qua các năm 56
Bảng 2.12. Thị phần môi giới trái phiếu của các CTCK 57
Bảng 2.13. Các chỉ tiêu đánh giá mức phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS 60
Hình 2.1: Mô hình tổ chức tại TLS 30
Hình 2.2. Sơ đồ tổ chức tại trụ sở chính 31
Hình 2.3. Giá trị TPDN phát hành từ năm 1994- 2009 39
Hình 2.4. Khối lượng và giá trị giao dịch TPCP từ năm 2000-2009 41
Hình 2.5. Tăng trưởng vốn điều lệ của TLS 43
Hình 2.6. Giá trị phát hành TPDN tại TLS 44
Hình 2.7. Doanh thu hoạt động tự doanh trái phiếu của TLS 47
Hình 2.8. Tỷ trọng doanh thu các hoạt động kinh doanh trái phiếu 48
Hình 2.9. Tỷ trọng đầu tư vào các nghiệp vụ tại TLS thời điểm tháng 12/2009 48
Hình 2.10. Quy trình hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS 50
Hình 2.11. Lợi nhuận các dịch vụ của TLS qua các năm 56
Hình 2.12. Cơ cấu hoạt động của phòng Nguồn vốn 63
Hình 3.1. Giá trị vốn hóa thị trường qua các năm 66
Hình 3.2. Mô hình phòng Nguồn vốn mới 71
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại Công ty cổ phần Chứng khoán Thăng Long.doc