Trước yêu cầu khách quan về việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị đã đề ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp nhằm giải quyết tốt hơn lợi ích của người lao động.
Với chính sách “khoán 10”: giao ruộng, giao đất cho người nông dân, làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, quá trình sản xuất nói chung được khép kín trong từng hộ. Theo kết quả điều tra năm 1990việc phân chia lợi ích trong hợp tác xã hợp lý hơn lợi ích xã viên tăng lên (Nhà nước 12,8%, tập thể 16,54%, xã viên được nhận 70,59%, sau khi trừ chi phí còn được hưởng 44,65%). Đây là một trong những yếu tố cơ bản đưa đến chỗ sản lượng lương thực bình quân thời kỳ 1989 - 1992 đạt 22,2 triệu tấm/năm, riêng năm 1992 đã đạt 24 triệu tấn, biến nước ta từ chỗ thiếu lương thực triền miên đến đủ và có thừa.
ở một số nơi đã xuất hiện một số loại hình hợp tác xã kiểu mới và có số người nông dân tự nguyện tham gia và góp cổ phần, lời ăn, lỗ chịu. Những loại hình này đang phát huy tác dụng và làm ăn có hiệu quả.
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 1995 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1986 Việt Nam thực hiện việc chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, chính sách kế hoạch và các công cụ khác . Quá trình chuyển tiếp đó đã đạt được những kết quả tuy là bước đầu nhưng đáng khích lệ.
Chúng ta đã bắt đầu kiềm chế được lạm phát trong điều kiện kinh tế phải đối phó với nhiều khó khăn và nguồn viện trợ từ bên ngoài rất hạn chế. Năm 1986 tỉ lệ lạm phát là 487% năm 1994 đạt mức hai con số: 14%.
Tốc độ trượt giá đã từ 15 -20% một tháng vào đầu năm 1989, giảm xuống còn dưới 4% một tháng năm 1992.
Trong nông nghiệp từ chỗ hàng chục năm liên tục phải nhập khẩu lương thực thì nay chúng ta đã đủ lương thực để phục vụ nhu cầu trong nước và lại còn xuất khẩu một lượng đáng kể. Năm 1992, lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu gạo, đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và Thái lan.
Quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam với các nước cũng tăng nhanh, mở rộng buôn bán với nhiều bạn hàng. Xuất khẩu năm 1989 - 1991 tăng 28% năm, thu hút ngày càng nhiều công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam với trên 400 dự án, vốn đăng ký khoảng 3 tỷ USD.
Lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ đã xoá bỏ chế độ tem phiếu và phân phối theo định lượng.
Có thể nói, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, áp dụng chính sách kinh tế mở đối với cả trong nước và ngoài nước là bứơc mở đầu đổi mới cơ bản về đường lối xuyên suốt mọi lĩnh vực hoạt động hay nói một cách khác cơ cấu kinh tế mới bắt đầu có hiệu quả.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đổi mới này bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế Việt Nam còn gặp không ít những khó khăn.
Trước hết đó là nguy cơ tụt hậu do:
Sự thiếu triệt để của công cuộc cải cách còn đang trong thời kỳ tranh tối tranh sáng nên chỉ cần một bước sơ hở có thể dẫn nền kinh tế đến chỗ sụp đổ.
Việt Nam đang là một nước nghèo kém phát triển, công nghiệp còn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật nhất là cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội quá yếu kém, không đồng bộ dân số đông (hơn 70 triệu dân) tăng nhanh, nhiều người không có việc làm, mức sống còn thấp, nhiều vấn đề về văn hoá - xã hội cần giải quyết.
Tốc độ phát triển của các quốc gia trong khu vực rất cao, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á là một khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi nôỉ nhất.
Thứ hai là còn tồn tại những mất cân đối do:
Sự phát triển thiếu toàn diện của cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Thực tế cho thấy trong số các doanh nghiệp quốc doanh chỉ có 1/3 số doanh nghiệp phát triển nhưng sự phát triển của họ đi liền với sự đầu tư của nhà nước về vốn, đất đai và tín dụng 2/3 số doanh nghiệp còn lại làm ăn thua lỗ.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng góp đáng kể vào GNP nhưng nhìn chung chưa được quan tâm thích đáng, đặc biệt trong việc xuất khẩu: Nhà nước chỉ cho phép các doanh nghiệp quốc doanh được xuất khẩu những mặt hàng trọng yếu trong nền kinh tế còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ được xuất khẩu những mặt hàng nói chung là đóng góp không đáng kể vào thu nhập ngân sách.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn và cũng từ sự say mê của em khi nghiên cứu vấn đề này nên em chọn đề tài: “Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”.
Được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Lê Kim Châu cùng với chút hiểu biết ít ỏi củamình, em mạnh dạn xin được trình bày một số ý kiến cá nhân mình với hy vọng góp phần nhỏ bé làm phong phú thêm hệ thống lý luận trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay. Em rất mong được sự góp ý của thầy côvà các bạn quan tâm đến đề tài này để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn và trân trọng ý kiến đóng góp.
CHƯƠNG I
I.Những vấn đề lý luận của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - LêNin.
Quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - LêNin
1.Giải thích quan điểm.
Trong việc nhận thức cũng như trong việc xem xét các đối tượng cần phải đứng trên quan điểm toàn diện. Như vậy câu hỏi đặt ra: quan điểm toàn diện là gì? Quan điểm toàn diện thể hiện qua hai nguyên lý sau:
a.Nguyên lý phổ biến giữa các sự vật hiện tượng hay gọi là mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng.
Các sự vật và hiện tượng muôn hình, nghìn vẻ trong thế giới không có cái nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập mà chúng là một thể thống nhất, trong đó các sự vật hiện tượng tồn tại bằng cách tác động lẫn nhau, ràng buộc nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên trong xã hội và trong tư duy con người mà còn diễn ra giữa các yếu tố các mặt khác, các quá trình của mỗi sự vật hiện tượng.
Có những mối liên hệ chỉ đặc trưng cho một đối tượng hoặc một nhóm đối tượng. Nhưng đồng thời có những mối liên hệ mang tính phổ quát cho mọi đối tượng của tồn tại, những mối liên hệ như vậy được gọi là liên hệ phổ biến.
Các mối liên hệ giữa vai trò qui định tư cách tồn tại của sự vật hiện tượng. Với một sự vật, hiện tượng có thể có vô lượng các mối liên hệ khác nhau. Mối liên hệ đều có những vị trí và vai trò khác nhau trong việc quy định những tư cách tồn tại của các sự vật hiện tượng (xét trong một điều kiện nhất định)
Nguyên tắc toàn diện có nguồn gốc từ mối liên hệ phổ biến đựơc nhận thức và được để lên thành nguyên lý chỉ đạo phương pháp hành động và suy nghĩ.
Trong nền kinh tế không có một sự kiện kinh tế nào tồn tại trong trạng thái cô lập, tách rời những sự kiện khác mà luôn nằm trong mối liên hệ với những sự kiện kinh tế khác.
Thực tế cho thấy, giá cả thị trường của mỗi loại hàng hoá chỉ biểu hiện ra trong mối quan hệ với sự biến động cung - cầu về loại hàng hoá đó, trong mối quan hệ với giá cả và các loại hàng hoá khác (tỉ giá với các loại hàng hoá bổ sung).
Cũng giống như sự tác động qua lại giữa cung cầu và giá cả trên thị trường hàng hoá, thị trường vốn, thị trường lao động không tồn tại trong trạng thái cô lập và tách rời mà trong sự liên hệ tác động qua lại.
Chẳng hạn như mỗi sự biến động về giá cả trên thị trường vốn (lãi suất) kéo theo hàng loạt các sự biến động lan truyền trên các thị trường lao động, thị trường hàng hoá.
Như chúng ta đã biết lãi suất trên thị trường vốn giảm các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất làm cho giá cả sức lao động, tiền công, tiền lương tăng lên do đó giá cả trên thị trường hàng hoá cũng tăng lên.
Nhận thức được mối liên hệ giữa các sự kiện kinh tế nhưng vấn đề là ở chỗ chúng ta áp dụng nguyên lý này để xem xét, từ đó đề ra đường lối chính sách trong việc tổ chức cơ cấu nền kinh tế như thế nào?
b.Nguyên lý của phép biện chứng duy vật về sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - LêNin.
Vận động là một khái niệm dùng để chỉ mọi sự biến động nói chung.
Mọi sự vật và hiện tượng là một dạng của vật chất trong quá trình vận động và được đặc trưng bởi một hình thức vận động nhất định. Mọi sự vật sự kiện trong vũ trụ tồn tại trong quá trình không ngừng chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác, từ hình thức này sang hình thức khác.
Bất kỳ một sự vận động nào cũng bao hàm trong một xu hướng rất nhiều xuyên suốt quá trình từ qúa khứ đến hiện tại, đến tương lai.
Trên bình diện triết học, xu hướng vận động từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, ngày càng hoàn thiện và phát triển.
Tuỳ theo các lĩnh vực khác nhau của thế giới vật chất mà sự phát triển thể hiện khác nhau mà nguồn của nó là sự liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật và hiện tượng. Song không nên hiểu sự phát triển bao giờ cũng diễn ra một cách giản đơn thẳng tắp. Xét từng trường hợp cá biệt thì có những vận động đi lên, tuần hoàn thậm chí đi xuống, nhưng xét cả quá trình trong phạm vi rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng thống trị. Khái quát tình hình trên, phép biện chứng duy vật khẳng định: phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động của sự vật, hiện tượng.
Nguyên lý về sự phát triển chỉ cho chúng ta: Muốn thực sự nắm được bản chất của sự vật hiện tượng, nắm được khuynh hướng vận động của chúng phải có quan điểm phát triển. Quan điểm này yêu cầu khi phân tích sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phải phát hiện các xu hướng biến đổi chuyển hoá của chúng, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
Nhưng trong quá trình phát triển ta phải hết sức chú ý đến việc kế thừa và sáng tạo những thành quả mà sự vật, hiện tượng trước đã đạt được.Phát triển không phải là vận động theo đường thẳng mà chỉ là xu hướng vận động theo hướng tiến lên.
Đối với một nền kinh tế, xu hướng tăng trưởng tự vạch đường đi biểu hiện xuyên qua các thời điểm mà ở đó ta có thể nhận thấy hoặc là nó đang ở trạng thái tương đối ổn định (tổng cung = tổng cầu) hoặc là trong trạng thái mở rộng phát triển sản xuất (tổng cung tổng cầu). Cứ mỗi khi nền kinh tế lâm vào thời kỳ khủng hoảng, suy thoái nếu nó không đủ sức để vượt qua đến thời kỳ hồi phục để tăng trưởng về sau thì nó sẽ bị đào thải và loại bỏ bằng một cuộc cách mạng xã hội hay đảo chính để thiết lập một trật tự kinh tế mới.
Vì vậy vận động bao hàm trong mình cả sự đào thải, loại bỏ, nhưng phát triển từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp ngày càng phát triển hoàn thiện hơn.
Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước cơ cấu nhiều thành phần.
Khuynh hướng vận động và phát triển trở thành một quy luật tất yếu khách quan trong mọi sự vật và hiện tượng. Đó là một điều không thể tránh khỏi và không xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người dù sự vận động ấy có thể diễn ra sớm hay muộn.
2Phân tích quan điểm toàn diện trên góc độ kinh tế.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã đề ra việc tiến hành đổi mới toàn diện, trên mọi mặt của đời sống xã hội nhằm phát triển đất nứơc và cũng nhờ đó chúng ta đã đứng vững trước cuộc khủng hoảng của hệ thống chủ nghĩa xã hội.
Nước ta xuất phát từ một nước phổ biến là sản xuất nhỏ, lực lượng sản xuất phát triển không đều và do đó các thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại. Nếu để phát triển tự phát trong nền kinh tế th ị trường thì theo logic tự nhiên, nền kinh tế nước ta sẽ đi đến chủ nghĩa tư bản. Vì thế một vấn đề đặt ra là nền kinh tế nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội của ta chỉ có phù hợp với quá trình lịch sử tự nhiên hay không?
Tại đại hội VII Đảng ta lại tiếp tục khẳng định công cuộc đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI, đồng thời cũng khẳng định con đường phát triển của theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những đổi mới quan trọng nhất là xây dựng một mô hình xã hội với nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước .
Xét trên tổng thể xã hội, mỗi thành phần kinh tế là một hệ thống có những phương án kinh doanh riêng rất khác nhau về nôị dung, chỉ tiêu và các bứơc đi để thích ứng một cách nhanh nhạy, chính xác với mọi biến đổi về nhu cầu của xã hội. Do vậy mỗi thành phần kinh tế đều có một vị trí và vai trò riêng trong quá trình phát triển kinh tế.
Mặt khác, sức mạnh cá biệt của từng thành phần chỉ có thể phát huy được trong những điều kiện cụ thể, trong những lĩnh vực nhất định, nghĩa là nếu chúng tồn tại biệt lập thì mỗi thành phần kinh tế không có khả năng khai thác có hiệu quả c ác nguồn nhân lực và tài lực ở từng ngành và từng vùng nhất định. Nhu cầu khai thác triệt để mọi tiềm năng của đất nước, gắn phát triển sản xuất với phát triển xã hội, gắn giải quyết việc làm ổn định và cải thiện đời sống nhân dân vv... qui định sự hiệp tác giữa các thành phần kinh tế. ở đâu và khi nào còn tồn tại nhu cầu này thì quan hệ giữa các thành phần kinh tế còn tồn tại. Toàn bộ những quan hệ này hợp thành cấu trúc của hệ thống kinh tế nhiều thành phần mà nên tách khỏi hệ thống sẽ không hiểu được vị trí và vai trò riêng của từng thành phần.
Vì thế quan hệ giữa các thành phần kinh tế là quan hệ phổ biến mà sự phát triển của những quan hệ đó mà quá trình từng bứơc xã hội hoá sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quá trình xã hội hoá của các lực lượng sản xuất luôn luôn diễn ra trong cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường định hướng quan hệ giữa các thành phần kinh tế cả trong quan hệ quốc gia lần trong quan hệ quốc tế theo nguyên tắc các bên cùng có lợi.
Nguyên tắc này là nguyên tắc hoạt động của các thành phần kinh tế trong quá trình hợp tác.
Việc thực hiện nguyên tắc này làm cho những ưu thế riêng của các thành phần kinh tế trong việc phát triển lực lượng sản xuất đều được phát huy. Các thành phần một mặt vừa kết hợp với nhau, vừa bổ sung cho nhauvà dođó gắn yếu tố truyền thống đã được chọn lọc trong quá trình phát triển xã hôị với yếu tố hiện đại, gắn các trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất tạo thành “Lực lượng sản xuất mới” kết hợp sự biến đổi về lượng với sự thay đổi về chất làm cho các thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển. Mặt khác , cơ chế thị trường với sự tác động của quy luật giá trị, qui luật cung - cầu buộc các thành phần kinh tế trong kinh daonh cạnh tranh với nhau quyết liệt và kết quả là dẫn đến sự phát triển của sản xuất, đổi mới công nghệ đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, góp phần xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của toàn xã hội. Trong cạnh tranh, thành phần kinh tế nào có cơ chế hoạt động thích hợp sẽ có nhịp độ phát triển nhanh hơn, tạo thành sự phát triển không đều, đặc biệt ở những vùng và những ngành có quan hệ trực tiếp với thị trường thế giới thì sự phát triển của các thành phần kinh tế đó sẽ diễn ra với tốc độ nhanh chóng, tạo thành các bước nhảy vọt về chất, phá vỡ tính cân bằng chính thể. Đó chính là nguyên nhân đưa đến các cuộc khủng hoảng. Vì vâỵ, xuất hiện nhu cầu điều chỉnh tự giác nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường nhằm đảm bảo khai thác và phát triển toàn bộ những năng lực sản xuất hiện có.
Nhà nước với tư cách là người đại diện cho mục tiêu phát triển chung của toàn hệ thống kinh tế phải đóng vai trò chủ đạo trong việc điều tiết nền kinh tế trên tầm vĩ mô, bảo đảm tỷ lệ phát triển cân đối và nhịp nhàng giữa các thành phần kinh tế - xã hội.
II. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
1. Tính tất yếu khách quan trong việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, khu vực kinh tế Nhà nước đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển kinh tế phục vụ cho tiền tuyến. Chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp và thành quả mà khu vực kinh tế đã đạt được.
Năm 1975 đất nước thống nhất. Chúng ta đã duy trì một nền kinh tế tập trung với những tham vọng không thể thực hiện được đó là tập trung phát triển công nghiệp nặng đồng thời phát triển toàn diện công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Nguồn lực của một nền kinh tế bao gồm ba yếu tố: Vốn, lao động, công nghệ. Thời gian này chúng ta chưa thể có đầy đủ cả ba yếu tố.
Thứ nhất, đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh của cải đổ vào phục vụ cuộc kháng chiến rất nhiều nên vốn tích luỹ trong nước không còn là bao.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng và máy móc trang thiết bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
Khi mà đầu vào chưa có đủ thì chắc chắn chúng ta không thể phát triển nền kinh tế có hiệu quả được. Chính vì phát triển nền kinh tế một cách thiếu toàn diện nên nền kinh tế sa sút, người dân mất lòng tin với Đảng và Nhà nước.
Tình hình trong nước là như thế, trong khi đó trên thế giới các mức trong khu vực đã và đang thực hiện một nền kinh tế hỗn hợp có hiệu quả.
Vì vậy năm 1986, chúng ta chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do còn nhiều thành hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất . Đại hội Đảng VII đã khẳng định các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương xứng với tinhs chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay đó là: thành phần kinh tế quốc doanh tập thể, cá thể, tư nhân tư bản chủ nghĩa và tư bản Nhà nước.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách Nhà nứơc hạn hẹp.
Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hôị vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc “phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nứơc về kinh tế xã hội”.
2.Những quan điểm chung về việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tồn tại trong nó những kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.
Tính thống nhất các thành phần kinh tế thể hiện:
Các thành phần kinh tế trong quá trình vận động không biệt lập nhau mà gắn bó, đan xen xâm nhập lẫn nhau thông qua các mối liên hệ kinh tế vì chúng đều là các bộ phận của hệ thống phân công lao động xã hội thống nhất.
Sự thống nhất các thành phần kinh tế còn vì có yếu tố điều tiết thống nhất đó là hệ thống các quy luật kinh tế đang tác động trong thời kỳ quá độ và thị trường thống nhất.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế với nhau thể hiện : Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu, giữa tư nhân với tập thể, với Nhà nước giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Mâu thuẫn là cội nguồn của mọi sự vận động và phát triển. Trong hệ thống kinh tế thống nhất của nền kinh tế quá độ chứa đựng những sự đối lập, những khuynh hướng đối lập, một mặt bài trừ, phủ định lẫn nhau, cạnh tranh với nhau mặt khác chúng thống nhất với nhau, thâm nhập, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển thông qua hợp tác và cạnh tranh, liên kết, liên doanh.
Các thành phần kinh tế đều được thừa nhận tồn tại khách quan và Nhà nước tạo điều kiện và môi trường để chúng tồn tại trên thực tế.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, trước mắt và trong tương lai vẫn có vai trò hết sức quan trọng có tính chất then chốt trong nền kinh tế nước ta, đặc biệt là trên một số lĩnh vực. Tuy vậy cũng không nên để cho các dn Nhà nước tồn tại tràn lan, nhất là những cơ sở doanh nghiệp Nhà nước không nhất thiết phải nắm. Cần tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng củng cố, kiện toàn để các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả và làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là một loại công cụ, là cơ sở vật chất -kỹ thuật của Nhà nứơc có tác động điều tiết nền kinh tế.
Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nứơc có thể thực hiện theo các hướng:
Đầu tư tập trung ưu tiên cho các loại doanh nghiệp Nhà nước theo thứ tự:
Thứ nhất, làm ăn có hiệu quả.
Thứ hai, đang hoạt động trong những ngành có vị trí then chốt và chiến lược quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba, đang hoạt động trong những ngành có điều kiện phát triển kỹ thuật và công nghệ tiến tiến, qua đó có thể tạo ra được cơ sở để cải tiến cơ cấu công nghiệp, hiện đại hoá nền kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả trong các ngành không quan trọng thì chuyển đổi sở hữu, sáp nhập, giải thể, cho thuê hoặc bán đấu giá.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước khác, khuyến khích các doanh nghiệp tự bỏ vốn để đầu tư cải tạo, mở rộng sản xuất - kinh doanh và vay vốn theo nguyên tắc “tự vay tự trả”.
Điều quan trọng là phải chuyển các doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo cơ chế thị trường và trở thành một chủ thể sản xuất - kinh doanh thực sự.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chính sách phát triển các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải được xây dựng trên quan điểm:
Không giới hạn sự phát triển.
Cho phép các doanh nghiệp có đủ điều kiện quy định của Nhà nứơc được mở rộng các hoạt động xuất nhập khẩu và liên kết kinh tế với nứơc ngoài.
Ngành nghề, thời gian và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp phải theo đúng quy định của Nhà nước.
Khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức theo các hình thức sở hữu đan xen.
Với quan điểm này, các chính sách phát triển kinh doanh là một thể thống nhất không phân biệt thành phần sở hữu và cơ quan chủ quản các hình thức sở hữu đan xen nhau sẽ tạo nguồn động lực mới cho sự phát triển của các thành phần kinh tế.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM
I.Khái quát.
1/ Trong thời kỳ đầu cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các xác định quốc doanh (doanh nghiệp Nhà nước) là lực lượng kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Chúng được hình thành từ ba nguồn sau đây:
Thứ nhất: xây dựng mới bằng các nguồn vốn của ngân sách Nhà nước, nguồn vốn viện trợ hoặc vốn đi vay (của Liên Xô cũ), Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong thời kỳ đó.
Thứ hai: quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân của các nhà tư bản mại bản dân tộc đã ra nước ngoài hoặc các xí nghiệp Nhà nước ở chế độ cũ.
Thứ ba: biến các xí nghiệp tư nhân của các nhà tư bản dân tộc thành các xí nghiệp công tư hợp doanh, và sau đó thành các xí nghiệp quốc doanh.
Cơ chế quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa lúc đó là cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, tất cả đều do ngân sách Nhà nước cấp và tất cả phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
Trong nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ:
Các doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải và xây dựng. Kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng rất lớn trong các ngành công nghiệp.
Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động hầu hết trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
Các doanh nghiệp đều có cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp chi phối, hiệu quả kinh tế kém.
Dưới ánh sáng đường lối của Đảng, trong mấy năm qua chúng ta đạt được những thành tự đáng kể trong tăng trưởng kinh tế, mở rộng thị trường. Hàng hoá phong phú cả về chủng loại, mẫu mã và chất lượng. Lạm phát được kiềm chế, giá cả dần dần được ổn định. Đời sống cán bộ công nhân viên chức và nhân dân bước đầu được cải thiện.
Từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế tị trường, doanh nghiệp đã được “cởi trói”. Doanh nghiệp Nhà nước được quyền tự chủ về nhiều mặt, tự chịu trách nhiệm về đầu vào và đầu ra trong sản xuất - kinh doanh, tự mua bán vật tư và sản phẩm.
Các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể sau nhiều năm bị cấm đoán, nay được tự do sản xuất - kinh doanh trở thành người bạn đồng hành trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Sự phát triển và cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hợp doanh trong nước với nước ngoài được thừa nhận.
Việt Nam từ một nền kinh tế khép kín đã và đang dần chuyển sang nền kinh tế mở, có điều kiện tiếp xúc với thị trường thế giới, với kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến, với mô hình tổ chức và phương pháp quản lý mới, hiện đại. Mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp được tự do cạnh tranh và phát triển trong môi trường mới.
Những thắng lợi bước đầu rất quan trọng đó của công cuộc đổi mới đất nước được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng phát triển kinh tế trong mấy năm gần đây và ở cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo xu hướng tiến bộ.
a)Về tăng trưởng kinh tế:
Trong năm 1922, tuy nền kinh tế của nước ta còn gặp nhiều khó khăn, song đó cũng là năm đầu tiên chúng ta đã hoàn thành toàn diện và vượt mức các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước. So với năm 1991, tổng sản phẩm trong nước tăng 10% thu nhập quốc dân tăng 7,5% giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 15%.
Tình hình sản xuất của năm 1993 tiếp tục tăng so với năm 1992.
b)Về cơ cấu kinh tế theo ngành nghề.
Đại hội Đảng lần thứ VI, trên cơ sở nhận rõ và phê phán những thiếu sót, sai làm trước đây đã đề ra chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế phục vụ các chương trình kinh tế lớn của đất nước trong giai đoạn trước mắt và lâu dài: sản xuất lương thực, hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Thực hiện chủ trương đó, cơ cấu kinh tế ngành được thay đổi một bước cơ bản, phù hợp với nền kinh tế thị trường ngày càng mở rộng, tạo ra một bước phát triển mới trong việc phục vụ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cấp thiết và ngày càng lớn của nhân dân ta sau những năm chịu đựng thiếu thốn do chiến tranh kéo dài.
Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu trong mấy năm gần đây cũng được đổi mới. Tỉ trọng hàng thành phẩm xuất khẩu tăng lên, năm 1990, tỉ trọng đó là 8% năm 1991 tăng lên 17%. Tỉ trọng hàng nhiêu liệu, khoáng sản nhập khẩu giảm từ 31,4% năm 1990 xuống 21,4% năm 1991. Tổng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1986 - 1990 đạt 6,85 tỷ rúp/đô la: bằng 2,37 lần so với thời kỳ 1981 - 1985, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 27%. Năm 1990 xuất khẩu đạt 2,2 tỷ rúp/ đôla, so với năm 1985 bằng 3,27 lần. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu so với năm 1990 tăng 14,7%. Trong lúc đó kim ngạch nhập khẩu tăng chậm hơn. Năm 1990, kim ngạch nhập khẩu đạt 2,5 tỷ rúp/đô la bằng 1,4 lần so với năm 1985, năm 1991 đạt 2,2 tỷ rúp/đôla, giảm 11,1% so với năm 1990.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa hình thành và tạo nên được những ngành mũi nhọn của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, nhằm làm chủ thị trường trong nước và cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.
c)Về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần:
Chuyển một nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung với thành phần kinh tế thuần nhất sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một bước đổi mới quan trọng. Chúng ta không đặt nền kinh tế hàng hoá đối lập với chủ nghĩa xã hội, không coi kinh tế tư nhân, cá thể là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, mà coi là bạn đồng hành của kinh tế Nhà nước trên con đường phát triển kinh tế của đất nước. Với quan điểm đó, kinh tế tư nhân được phục hồi và phát triển, đã và đang có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Tỉ trọng kinh tế tư nhân trong từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân đều tăng lên với mức độ khác nhau. Tỉ trọng thành phần kinh tế quốc doanh giảm tương ứng.
Theo tài liệu của Tổng cục Thống kê năm 1988, tỉ trọng kinh tế quốc doanh giảm xuống còn 30,5%, tỉ trọng kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên: 69,5%. Đến năm 1991, kinh tế quốc doanh chiếm 37%, ngoài quốc doanh chiếm 63%. Thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm sản xuất ra của kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng tăng.
Năm 1994, đất nước bắt đầu thực hiện quá trình công nghiệp hoá -hiện đại hoá với chiến lược phát triển các thành phần kinh tế hướng ra xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế phải phát triển thế mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, điều quan trọng là phải tạo ra môi trường tự do để tất cả các thành phần kinh tế có thể xuất khẩu.
Để tạo nguồn tích luỹ trong nước và để phù hợp với trình độ khoa học - công nghệ trong nước, nhiệm vụ đầu tiên chúng ta thực hiện đó xuất khẩu sản xuất thô hay chúng ta “bóc” tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu. Hiện nay một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là: dầu lửa, than đá, gạo.
Việt Nam còn phải nhập khẩu hầu hết những linh kiện điện tử và đồ điện dân dụng từ nước ngoài. Vì vậy nhiệm vụ thứ hai đặt ra là sản xuất thay thế hàng nhập khẩu.
Đất nước đang đứng trước mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới trang bị kỹ thuật - công nghệ phát triển sản xuất trong nền kinh tế quốc dân với khả năng tiền vốn eo hẹp của ngân sách và sức ép của lực lượng lao động dôi dư cần được giải quyết việc làm. Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá này làm thế nào chúng ta khuyến khích phát triển toàn diện các thành phần kinh tế hướng ra xuất khẩu, nhất là ở vùng nông thôn có những làng nghề truyền thống mà lâu nay bị mai một, cầu phục hồi phát triển để tạo ra nhiều hàng hoá xuất khẩu thu ngoại tệ, góp phần tích luỹ vốn nhằm đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại?
II.Thực trạng phát triển của các thành phần kinh tế hiện nay.
Các thành phần kinh tế Việt Nam dựa trên ba hình thức sở hữu: Nhà nước, tư nhân, hỗn hợp.
1/ Thành phần kinh tế Nhà nước:
Thành phần này dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước về những tư liệu sản xuất chủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ số vốn thuộc về Nhà nước hoặc phần của Nhà nước chiếm tỉ trọng khống chế.
Theo số liệu thống kê, đến năm 1989 cả nước có 12.084 doanh nghiệp Nhà nước, với số vốn khoảng 10USD, trong đó các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành công nghiệp chiếm 49,3% tổng số vốn xây dựng 9%, nông nghiệp 8,1%. Lâm nghiệp 1,2%. Giao thông vận tải 14,8%; thương nghiệp 11,57%, các ngành khác 5,9%.
Hàng năm, thành phần kinh tế Nhà nước đã tạo ra khoảng 35 - 40% GDP và 22 - 30% GDP, đóng góp từ 60 - 80% tổng số thu ngân sách.
Nhìn tổng quát, toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nước chưa tự đảm bảo tái sản xuất giản đơn. Sự tăng trưởng hàng năm của khu vực kinh tế Nhà nước chủ yếu do việc gia tăng lượng vốn và lao động. Số đóng góp của khu vực kinh tế Nhà nước so với số chi của ngân sách Nhà nước cho khu vực này từ năm 1990 trở về trước là 1:3.
Sau ba năm cấu trúc lại và chuyển đổi cơ chế nhìn chung năm 1991 khu vực kinh tế Nhà nước có một số chuyển biến bước đầu. Các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp do Trung ương quản lý trong ngành công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải và bưu điện viễn thông đã từng bước thích nghi với cơ chế thị trường nên đã đi dần vào thế ổn định.
Nhưng những điểm sáng này chưa nhiều. Sự khởi sắc của chúng vẫn chưa có cơ sở chắc chắn và lâu bền. Số doanh nghiệp Nhà nước đang trong tình trạng phá sản hoặc có nguy cơ phá sản, đình đốn vẫn chiếm quá nửa số doanh nghiệp Nhà nước hiện có.
Kết quả điều tra gần đây cho thấy, trong quá trình vận hành cơ chế quản lý mới, kinh tế Nhà nước cũng bộc lộ nhiều mặt yếu kém và hạn chế.
Một là, đại bộ phận doanh nghiệp Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn như thiếu vốn, thiếu thị trường, bị thua lỗ triền miên, phải “ăn dần” vào vốn. Hiện nay, trong tổng số doanh nghiệp Nhà nước, chỉ khoảng 20 - 25% (chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước trung ương) có lãi, 30 - 35% hoà vốn, còn lại khoảng 40% (chủ yếu là doanh nghiệp địa phương) bị lỗ vốn. Số doanh nghiệp thua lỗ chiếm tới 38% số tài sản cố định và 33% số lao động. Tình hình phổ biến là thiếu việc làm, thừa nhân lực, đặc biệt trong thương nghiệp, xây dựng, thừa khoảng 40 - 50% số lao động hiện có. Hiện nay có khoảng 80 - 90% số doanh nghiệp Nhà nước quận, huyện, 50 - 60% số doanh nghiệp Nhà nước cấp tỉnh thuộc tất cả các ngành kinh tế đang trong tình trạng đình đốn, không có khả năng hoạt động. Số doanh nghiệp này hầu hết là quy mô bé, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, không đồng bộ, sản phẩm làm ra kém chất lượng.
Hai là, nhìn chung các doanh nghiệp Nhà nước có hiệu quả thấp, mới huy động khoảng 40 - 50% năng lực sản xuất. Hệ số sinh lời của vốn cố định trong kinh tế Nhà nước bình quân chỉ đạt 7% năm, trong đó, ngành công nghiệp 3%, giao thông vận tải 2%, thương nghiệp 2%. Hệ số sinh lời vốn lưu động cũng chỉ đạt 11%/ năm, trong đó các ngành tương ứng đạt 10,6%, 9,4%, 9,5%. Mức tiêu hao vật chất cho một đơn vị giá trị tổng sản phẩm xã hội cao hơn so với kinh tế ngoài quốc doanh và gấp 1,3 - 2,2 lần mức trung bình trên thế giới.
Mặt hàng làm ra đơn điệu, chậm cải tiến mẫu mã, chất lượng thấp và không ổn định, chỉ khoảng 15% số loại sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, 65% đạt tiêu chuẩn trung bình, 20% đạt chất lượng kém và quá kém.
Ba là, tài sản, vốn của Nhà nước giao cho doanh nghiệp phổ biến là không được bảo tồn và phát triển, năng lực sản xuất không được mở rộng và tái tạo, ngược lại bị thất thoát, hư hỏng, lãng phí nhiều nhưng không biết quy trách nhiệm về ai.
Trong những năm gần đây, không ít doanh nghiệp đã lợi dụng những kẽ hở của cơ chế quản lý mới chưa được hoàn chỉnh và đồng bộ để mua đi bán lại tài sản, vật tư, khai báo sai doanh thu, định ra những chế độ chi tiêu, phân phối rất tuỳ tiện trong đơn vị khác để chia chác, làm giàu cho cá nhân, vi phạm lợi ích Nhà nước.
Tình hình nêu trên đã làm cho vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước bị lu mờ, nhất là trong điều kiện Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển, tạo ra môi trường cạnh tranh theo cơ chế thị trường.
Vì vậy việc đánh giá kinh tế Nhà nước ở nước ta cần phải đứng trên quan điểm lịch sử mà phán xét một cách khách quan, toàn diện. Không nên chỉ đơn thuần dựa vào những yêu cầu của một nền kinh tế hàng hoá mà phê phán có tính một chiều, phủ nhận mọi sự đóng góp quan trọng của kinh tế Nhà nước, thậm chí đi đến chỗ cực đoan muốn xoá bỏ nó. Phải nghiêm túc vạch ra những yếu kém của nó để khắc phục, làm cho kinh tế Nhà nước chẳng những hoạt động có hiệu quả về mặt kinh tế, mà còn làm tròn được trách nhiệm về mặt xã hội.
2/ Thành phần kinh tế tập thể:
Thành phần kinh tế tập thể dựa trên sở hữu hỗn hợp gồm các đơn vị kinh tế do những người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng cùng có lợi.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, các loại hình hợp tác này được Nhà nước bảo trợ áp dụng nhiều chính sách ưu tiên cung cấp tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu, giá cả, bảo tiêu. Đồng thời nó phải thực hiện các nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh theo các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao. Thành phần kinh tế tập thể được xem là trợ thủ đắc lực, là bạn đồng hành của các doanh nghiệp Nhà nước.
a)Kinh tế tập thể trong nông nghiệp:
Trước yêu cầu khách quan về việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị đã đề ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp nhằm giải quyết tốt hơn lợi ích của người lao động.
Với chính sách “khoán 10”: giao ruộng, giao đất cho người nông dân, làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, quá trình sản xuất nói chung được khép kín trong từng hộ. Theo kết quả điều tra năm 1990việc phân chia lợi ích trong hợp tác xã hợp lý hơn lợi ích xã viên tăng lên (Nhà nước 12,8%, tập thể 16,54%, xã viên được nhận 70,59%, sau khi trừ chi phí còn được hưởng 44,65%). Đây là một trong những yếu tố cơ bản đưa đến chỗ sản lượng lương thực bình quân thời kỳ 1989 - 1992 đạt 22,2 triệu tấm/năm, riêng năm 1992 đã đạt 24 triệu tấn, biến nước ta từ chỗ thiếu lương thực triền miên đến đủ và có thừa.
ở một số nơi đã xuất hiện một số loại hình hợp tác xã kiểu mới và có số người nông dân tự nguyện tham gia và góp cổ phần, lời ăn, lỗ chịu. Những loại hình này đang phát huy tác dụng và làm ăn có hiệu quả.
Tuy nhiên khi hoàn cảnh và điều kiện thay đổi mô hình này đã bộc lộ những thiếu sót, yếu kém sau:
Thứ nhất: chúng ta tiến hành cải tạo nông nghiệp chủ ý nhiều đến thay đổi chế độ sở hữu với tư liệu sản xuất, mà hầu như thiếu sự quan tâm đến việc tổ chức lại sản xuất theo phương thức của nền sản xuất tiến bộ, và không coi trọng đúng mức lợi ích cá nhân của người lao động, do đó người nông dân không gắn với ruộng đất, bởi vì phần thu nhập không những quá ít ỏi mà còn mang tính bình quân giữa những người đóng góp công sức nhiều với người đóng góp ít.
Thứ hai: Bộ máy quản lý hợp tác xã cồng kềnh, quan liêu, cán bộ nói chung thiếu năng lực tổ chức, quản lý do ít được đào tạo và chất lượng đào tạo kém.
Vì vậy để có thể phát triển thành phần kinh tế tập thể có hiệu quả chúng ta phải coi trọng kết hợp hài hoà giữa ba lợi ích: xã hội, tập thể, cá nhân, vì đó là cơ sở để phát huy các động lực cá nhân, tập thể, xã hội. Mỗi lợi ích có phạm vi nhất định, song sự thống nhất giữa ba lợi ích sẽ phát huy ảnh hưởng tích cực đến kết quả sản xuất.
Với sự nghiệp đổi mới một cách căn bản và toàn diện, thành phần kinh tế tập thể trong nông nghiệp sẽ tạo ra sức sản xuất mới, đưa nông nghiệp và nông thôn phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới.
b)Trong công nghiệp:
So hợp tác xã thương nghiệp từ 32.034 năm 1988 giảm còn 21.901 năm 1989; 13.086 năm 1990 và 9.660 năm 1991. Mức sản xuất cua những hợp tác xã này năm 1989 giảm 36,1% và năm 1991 giảm 47% so với năm trước. Vì lẽ đó, mức đóng góp của chúng trong giá trị tổng sản lượng của toàn ngành công nghiệp tính theo giá cố định năm 1982 giảm dần, năm 1988 giảm 23,9%, năm 1989 giảm 15,8%, năm 1990 giảm 13,7% và năm 1991 giảm 6,8%.
c)Trong thương nghiệp:
So với năm 1986, đến năm 1991 chỉ còn khoảng 25% số hợp tác xã mua bán còn hoạt động, còn gắn 3.300 hợp tác xã đã giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động. Tương ứng với tình hình này, vai trò của hợp tác xã mua bán trong thị trường xã hội cũng giảm sút nghiêm trọng: tổng mức bản lề hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội từ 25 - 30% những năm 1980 - 1985, xuống còn 14,6% năm 1986: 12,6%; năm 1987: 9,2% năm 1988 6,1% năm 1989: 2,7% năm 1990 va chỉ còn 1,8% năm 1991.
Sở dĩ các hợp tác xã mua bán lâm vào tình trạng hiện nay là do:
Trong quá trình thành lập và phát triển ca s hợp tác xã đã không nhất quán những nguyên tắc cơ bản của tổ chức kinh tế tập thể là tự nguyên, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Vừa qua, nhiều tổ chức hợp tác xã đã hoạt động cũng như mô hình thương nghiệp quốc doanh.
Phương thức hoạt động không bám sát mục tiêu và nhiệm vụ khí sáng lập, nhiều tổ chức hợp tác xã dần dần trở thành tổ chức đi buôn kiếm lời cho mỗi nhóm người.
Vốn ít, không am hiểu thị trường nên hoạt động bị thua lỗ, mất vốn.
Nhận thức của các cấp quản lý, nhất là chính quyền huyện, tỉnh, không rõ đối với loại hình kinh tế này, hoặc can thiệp quá sâu vào hoạt động của nó, hoặc sát nhập, giải thể một cách tuỳ tiện.
Phát triển tổ chức tràn lan. ở những nơi hợp tác xã được xây dựng xuất phát từ phong trào, chứ không vì nhu cầu người tiêu dùng: do vậy nhiều hợp tác xã ở thành phố cho tư thương đội lốt kinh doan nhằm trốn thuế.
Tuy các hợp tác xã mua bán đã phân rã hàng loạt, song không thể vì vậy mà phủ nhận hoàn toàn vai trò của loại hình này. Trước hết cần khẳng định, trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xây dựng như nước ta, thì hợp tác xã là hình thức tổ chức kinh tế hợp lý nhất. Nó dễ tập hợp các hộ nông dân lại để sản xuất, kinh doanh trên nguyên tắc bình đẳng tự nguyện, cùng có lợi. Trong thời gian tới, cần từng bước củng cố loại hình hợp tác xã mua bán ở nước ta, nhất là ở nông thôn.
Quan điểm đổi mới với hợp tác xã là:
Trả lại cho hợp tác xã cái bản chất của mình - là tổ chức kinh tế tự nguyên của nhân dân lao động, thực hiện chức năng mối dây liên kết những người sản xuất nhỏ với thị trường.
Hợp tác xã hoạt động tự do, bình đẳng với các thành phần khác trên thị trường. Nhưng do điều kiện và vị trí của mình, hợp tác xã cần chú trọng thành lập mối liên hệ kinh tế với thương nghiệp quốc doanh.
Quán triệt nguyên tắc quản lý của kinh tế tập thể.
3/ Kinh tế tư nhân:
Dựa trên hình thức sở hữu tư nhân. Theo cách hiểu truyền thống trước đây thì kinh tế tư nhân (bao gồm thành phần tư bản tư nhân và kinh tế tư nhân của những người sản xuất nhỏ) là thành phần kinh tế không tiến bộ, phải nhanh chóng xoá bỏ hoặc cải tạo bằng mọi giá.
Quan điểm này đã lỗi thời, xét cả trên phương diện lý luận thực tiễn nhưng nó vẫn còn in đậm những dấu ấn trong suy nghĩ và hành động của không ít người trong số chúng ta. Điều đó biểu hiện ở chỗ, mặc dù tự tồn tại và phát triển lâu dàu của tư nhân đã được thừa nhận, nhưng trong thực tiễn, tình trạng phân biệt đối xử “kinh tế quốc doanh là con đẻ, kinh tế tư nhân là con ghẻ” tuy không còn nặng nề, nghiêm trọng như trước đây, nhưng vẫn còn khá phổ biển.
So các với các doanh nghiệp Nhà nước các doanh nghiệp tư nhân vẫn bị thua thiệt trong việc vay vốn, cấp tín dụng, thuê đất, xuất nhập khẩu, tìm kiếm thị trường và bạn hàng ở nước ngoài, thuê bao điện thoại, Fax v.v... Một trong những điều nhức nhối nhất của các nhà doanh nghiệp tư nhân là họ vẫn bị liệt vào giai cấp bóc lột.
Sự phát triển rầm rộ nhất của kinh tế tư nhân với biến tương loại hình xí nghiệp và công ty tư doanh là vào cuối năm 1988 cho đến nửa năm 1990.
Lúc bấy giờ cả nước có gần 500 xí nghiệp và công ty tư doanh nhiều nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh với 235 cơ sở, số vốn đầu tư của mỗi cơ sở từ 100 triệu trỏ lên, thành phố Hà Nội 77 cơ sở với số vốn đầu tư từ 30 triệu trở lên.
Có thể nói, tình hình chung của kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay là hoạt động đang khó khăn, phát triển chậm lại, dè dặt hơn, cân nhắc hơn.
Thành phần kinh tế tư nhân của những người sản xuất nhỏ chiếm khá đông trong cả nước. Sau khi Nhà nước ban hành Luật doanh nghiệp và Luật công ty (năm 1991) số hộ cá thể tăng lên đến gần 50 vạn hộ và cuối năm 1992 là hơn 70 vạn hộ.
Loại hình kinh tế cá thể đâu có ý nghĩa chiến lược tình thế trong những năm trước mắt, nhanh chóng tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người thất nghiệp, nâng cao mức sống cho dân cư đang quá nghèo, nhưng có nhược điểm là quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ còn lạc hậu, khó làm giàu, ít có khả năng trở thành doanh nghiệp lớn có vai trò làm tăng trưởng nền kinh tế đất nước chưa thể hoà nhập vào nền kinh tế thị trường mở cửa, chưa có khả năng tiếp thị thị trường quốc tế nên không có chính sách hỗ trợ của Chính phủ.
Nhà nước cũng nên có chính sách hỗ trợ cho kinh tế tư nhân, nếu ngành đó, doanh nghiệp đó góp phần tăng trưởng kinh tế. Việc cho tư nhân vay vốn chỉ ở mức 5-10% tổng số vốn cho vay là con số chưa thu phục được nhân tâm. Sự phân biệt trong lãi suất ngân hàng cũng vậy. Chính sách đúng làm cho dân yêu tâm, tin tưởng, thấy có lợi thì họ sẽ cố gắng sản xuất làm giầu cho chính mình và cho đất nước.
Tuyệt đại bộ phận các nước phát triển kinh tế thị trường đều coi sở hữu tư nhân là một động lực chủ yếu để phát triển nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường ở các nước này được cấu trúc từ hai khu vực chủ yếu: kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà nước. Quan hệ của các khu vực kinh tế trong cơ cấu nền kinh tế thì trường là chấp thuận bình đẳng với tư cách là các lực lượng kinh tế tham gia thị trường, nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế: sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai. Định hướng hoạt động của nền kinh tế thị trường là sự phối hợp một cách có hiệu quả nhất hoạt động của các khu vực kinh tế. Khu vực kinh tế Nhà nước không thể hoạt động có hiệu quả nếu đặt nó biệt lập và đối kháng theo kiểu “ai thắng ai” với khu vực kinh tế tư nhân và ngược lại, khu vực kinh tế tư nhân không thể nào phát huy tốt hiệu năng nếu nó không được khu vực kinh tế Nhà nước làm “giá đỡ” tạo tiền đề và môi trường.
Tóm lại, vic đánh giá và phát triển thành phần kinh tế tư nhân trên quan điểm toán điệp của chủ nghĩa Mác- Lênin, mà trước hết là căn cứ vào sự đóng góp của khu vực này đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế và mối tác động qua lại với khu vực kinh tế khác. Đánh giá càng đúng đắn và toàn diện, Nhà nước càng có cơ sở để hoạch định các quan điểm quản lý và chính sách quản lý của mình với khu vực kinh tế này trong tương lai.
4/ Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước:
Dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp. Đó là sự hoạt động phối hợp giữa Nhà nước với tư bản nước ngoài qua các hợp đồng góp vốn đầu tư dưới hình thức liên doanh và hợp doanh.
Các xí nghiệp liên doanh và hợp doanh với nước ngoài đã thu hút khoảng gần 14.2 nghìn lao động trực tiếp sản xuất và hàng vạn lao động vệ tinh khác.
Chúng đã có những đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, đặc biệt là góp phần từng bước cân bằng cán cân ngoại thương, tạo điều kiện cho chúng ta học tập kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp của cả nước.
Nhưng trong quá trình phát triển, lực lượng kinh tế này cũng bộc lộ một số hạn chế:
Khoảng 70-75% dự án có quy mô dưới 7 triệu USD, điều đó chứng tỏ là công ty đầu tư vào Việt Nam phần lớn là công ty nhỏ, ít vốn, tìm kiếm những cơ hội đầu tư có thể đem lại lợi nhuận ngay và thu hồi vốn nhanh
Vốn tập trung liên doanh và hợp doanh tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Vũng Tàu.
Số thuế phải nộp của các xí nghiệp có vốn đầu tư với nước ngoài còn rất hạn hẹp, chưa phản ánh đúng thực tế hoạt động của chúng. Không ít xí nghiệp còn khai man sổ sách chứng từ.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN PHÁT TRIỂN
1. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á, nơi mà đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi nổi nhất. Từ thập kỷ 60 trong khu vực đã có những nước phát triển với tốc độ thần kỳ như: Hàn Quốc, Đài Loan, Xingapo, Hồng Kông, Maialixia. Thái Lan...
Vì sao các nước này đã vươn lên trở thành nước công nghiệp mới phát triển ở châu á, có nền công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu cao cấp, hệ thống dịch vụ thương mại, tài chính, có sức cạnh tranh vào bậc mạnh nhất trên thế giới? Nhưng nguyên nhân đưa đến sự thành công của họ là những kinh nghiệm theo tôi nghĩ chúng ta nên tham khảo và học tập.
Về nguyên nhân khách quan:
Sự thành công của các nước NIC trong khu vực đều bắt nguồn từ một số yếu tổ quốc tế.
Xingapo có vị trí địa lý kinh tế và chính trị chiến lược ở Đông Nam á nên không ngừng được các cường quốc tư bản chủ nghĩa ủng hộ và giúp đỡ. Xét về mọi khía cạnh như xây dựng kết cấu hạ tầng quân sự hay sản xuất, về đầu tư tư bản hay chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ... nói chung các nước phương Tây, trước hết là Mỹ và Nhật. Nếu như Đài Loan, Nam Triều Tiên được hướng nhiều hơn về sự viện trợ không hoàn lại của Mỹ và các khoản bồi thường của Nhật Bản, thì Xingapo được hưởng các cơ sở quân sự của Anh, sau khi Anh rút khỏi nước này vào năm 1971.
Sự bành trướng kinh tế của Nhật Bản xuống khu vực Đông Nam á cũng là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến sự phát triển của Xingapo, đặc biệt là đối với sự thay đổi công nghệ và sản xuất các mặt hàng cao cấp dành cho xuất khẩu.Về nguyên nhân chủ quan:
Yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự thành công của nước này là ở chỗ Chính phủ đã tạo ra được một môi trường kinh doanh bên trong rất thuận lợi để từ đó tận dụng mức tối đa các cơ hội khách quan và đối phó một cách có hiệu quả với những thách thức từ bên trong và bên ngoài.Chính phủ đã sớm lựa chọn, theo dõi hệ thống kinh tế thị trường, định hướng ưu tiên sản xuất dành cho xuất khẩu. Ngay từ đầu, các nước này đã xác định thành phần kinh tế tư nhân là động lực chính thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Họ coi thành phần kinh tế tư nhân nước ngoài và các khoản đầu tư trực tiếp của nước ngoài là yếu tố then chốt.Chính phủ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài.Nguồn nhân văn trong nước dồi dào, trí thức cao, ở Xingapo Chính phủ luôn động viên những người lao động học tập người Nhật.
II. Một số biện pháp
Để cho các thành phần kinh tế có thể hoạt động có hiệu quả nhất, phát huy tối đa ưu thế của mình Nhà nước cần có những chính sách quản lý vĩ mô phù hợp.
Phát triển toàn diện kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một công việc không phải là đơn giản. Thành phần kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo để đồng hoá các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước không nên coi trong hay coi nhẹ bất cứ một thành phần kinh tế nào vì mỗi thành phần kinh tế đều có ưu điểm của nó, nếu Nhà nước phát triển toàn diện các thành phần thì cũng có nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất một cách tối đa.
Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều bộ luật và Pháp lệnh, trong đó có những luật rất quan trọng đối với thành phần kinh tế. Nhưng nhìn chung, hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, chưa có những Bộ Luật, đạo Luật có tính chất xương sống như Bộ Luật dân sự, thương mại, lao động, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật hợp tác xã.
Trước mắt, Nhà nước cần ban hành sớm các Bộ Luật trên, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh.Về chính sách tài chính:
Để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Nhà nước nên dùng một phần thích đáng ngân sách để đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, điều tra thăm dò tài nguyên, xây dựng các khu chế xuất, các vùng kinh tế mới, cho các hoạt động cung cấp thông tin, dự báo thị trường trong và ngoài nước.
Trong chính sách thuế của nước ta hiện nay còn nhiều bất hợp lý, thuế vừa thất thu, vừa lạm thu (thuế chồng lên thuế), chưa công bằng giữa các thành phần kinh tế; Thuế lợi tức đối với thành phần kinh tế quốc doanh thấp hơn thành phần ngoài quốc doanh, điều này làm kìm hãm sự phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Phương hướng chung của chúng ta là tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện chính sách thuế theo hướng mở rộng diện đánh thuế, hạ bớt mức thuế thu hẹp độ chênh lệch giữa các mức thuế.
Chúng ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá với chiến lược hướng ra xuất khẩu. Do đó cần phải có các chính sách ưu tiên, khuyến khích các thành phần kinh tế trong việc xuất khẩu không phân biệt quốc doanh hay ngoài quốc doanh.
Trên đây là một số biện pháp có tính chất định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất của nước ta hiện nay là tiềm lực kinh tế còn non yếu, muốn vậy một mặt phải biết đánh giá đúng tình hình kinh tế trong nước đồng thời rút ra những bài học thành công và thất bại trong quá trình phát triển kinh tế của các nước phát triển để hoạch định chiến lược kinh tế xã hội phù hợp với nước ta.
KẾT LUẬN
Nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một bước ngoặt hết sức quan trọng và phức tạp. Nước ta có đạt được những thành công như mong muốn hay không còn tuỳ thuộc các chính sách kinh tế của nhà nước và bản thân sự cố gắng của từng thành phần kinh tế.
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dựa trên nguyên tắc toàn diện là một bước đi đúng hướng mà Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện trong những năm gần đây. Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có sự tôn trọng, giữ gìn những thành quả mà trước dây chúng ta đã đạt được thì chắc chắn nền kinh tế Việt Nam sẽ nhanh chóng phát triển kịp với nhịp độ phát triển của khu vực, đưa nền kinh tế Việt Nam hoà chung cùng nhịp với guồng máy kinh tế thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kinh tế chính trị Mác - Lênin - Tập II
2. Triết học Mác - Lênin - Tập II.
3. Vấn đề đổi mới quản lý doanh nghiệp ở Việt Nam - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia -1994.
4. Đổi mới và phát triển các thành phần kinh tế ở Việt Nam - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia - 1993.
5. Thành công của Singapore trong phát triển kinh tế - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia - 1993.
6. Tạp chí kinh tế và phát triển số 2.
7. Các thành phần kinh tế Việt Nam - Thực trạng kinh tế và giai pháp - Nhà xuất bản Thống kê - 1993.
8. Văn kiện đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ III, IV, V, VI, VII.
9. Tăng trưởng kinh tế ở Châu á gió mùa - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - 1989.
10.Những nền kinh tế thần kỳ ở Châu á - Nhà xuất bản khoa học xã hội - 1990.
11.Kinh tế học về tổ chức và phát triển nền kinh tế quốc dân Việt Nam - Nhà xuất bản Tư tưởng văn hoá - 1992.
12.Tạp chí cộng sản các số 10/1990; 10/1991; 12/1991 và 6/1992.
13.Tạp chí triết học số 2/1990 và 2/1992.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kc089_8148.doc