Đề tài Phát triển loại hình du lịch biển ở Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DU LỊCH BIỂN 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN. 1.1.1. Định nghĩa về du lịch. 1.1.2. Điều kiện để phát triển du lịch. 1.1.3. Các loại hình du lịch. 1.1.4. Du lịch biển và tài nguyên biển. 1.2.TIỀM NĂNG DU LỊCH BIỂN CỦA VIỆT NAM. 1.2.1. Vị trí địa lý. 1.2.2. Hệ thống tài nguyên du lịch biển. 1.2.3. Cơ sở kinh tế - xã hội phát triển Du lịch biển ở Việt Nam. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM. 2.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM THỜI KỲ 1995 - 2004. 2.1.1. Nhóm chỉ tiêu về khách du lịch. 2.1.2. Thu nhập từ hoạt động du lịch biển. 2.1.3. Cơ sở vật chất kĩ thuật. 2.1.4. Lao động trong loại hình du lịch biển. 2.2. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM. 2.2.1. Định hướng phát triển du lịch biển. 2.2.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. 2.2.3. Công tác quản lý nhà nước về du lịch đối với phát triển du lịch biển. 2.3. PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM ĐẶC THÙ VÀ CÁC KHU VỰC TRỌNG ĐIỂM PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN. 2.4. CÔNG TÁC PHỐI, KẾT HỢP PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN VỚI CÁC NGÀNH CÓ LIÊN QUAN TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC, ĐIỀU TRA CƠ BẢN VỀ BIỂN, ĐẢO. 2.5. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. 3.1. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH 3.2. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH TRONG LOẠI HÌNH DU LỊCH BIỂN. 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI Kết luận Tài liệu tham khảo

doc33 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9677 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển loại hình du lịch biển ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động du lịch; chính quyền địa phương là cơ quan quản lý nhà nước cấp địa phương tại điểm du lịch. 1.1.2. Các điều kiện để phát triển Du lịch. 1.1.2.1. Các điều kiện để phát triển cầu về du lịch (phát triển hoạt động đi du lịch). Thời gian rỗi: là khoảng thời gian mà con người tham gia vào các hoạt động xã hội, dành cho vực tự học nâng cao hiểu biết và hoạt động sáng tạo, thời gian để nghỉ ngơi tinh thần một cách tích cực,...Sự phân bổ thời gian rỗi hợp lý là điều kiện thực tế để tổ chức hoạt động đi du lịch và nghỉ ngơi của người lao động. Khả năng chi trả: là điều kiện cần thiết để biến nhu cầu đi du lịch nói chung thành nhu cầu có khả năng thanh toán. Do chi tiêu cho du lịch là chi tiêu trung hạn nên khi khả năng chi trả càng cao thì chi phí của cá nhân dành cho đi du lịch càng nhiều. Trình độ dân trí: nếu trình độ dân trí của người dân một quốc gia được nâng cao thì nhu cầu du lịch của nhân dân ở đó tăng lên rõ rệt. Mặt khác, nếu trình độ văn hóa chung của một đất nước cao, thì đất nước đó khi phát triển du lịch sẽ đảm bảo làm hài lòng khách du lịch đến đó. Điều kiện phát triển giao thông vận tải: phải được đảm bảo về mức độ an toàn, mức độ tiện nghi, tốc độ và giá cả. Không khí chính trị trên thế giới hòa bình và ổn định. 1.1.2.2. Điều kiện phát triển hoạt động kinh doanh du lịch (cung du lịch). Tình hình và xu hướng phát triển kinh tế. Tình hình chính trị hòa bình, ổn định của đất nước và các điều kiện an toàn với du khách. Điều kiện về tài nguyên du lịch: bao gồm tài nguyên nhân văn và tài nguyên tự nhiên. Điều kiện về sự sẵn sàng phục vụ khách du lịch Một số tình hình và sự kiện đặc biệt. 1.1.3. Các loại hình Du lịch. Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân du lịch thành các loại hình du lịch khác nhau và cơ bản có một số tiêu thức như sau: 1.1.3.1. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch: theo tiêu thức này du lịch được phân thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa: Du lịch quốc tế: là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau - khách du lịch phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch.. Bản thân du lịch Quốc tế được phân thành: Du lịch Quốc tế chủ động: Là hình thức du lịch của những người ở nước ngoài đến một quốc gia nào đó và tiêu ngoại tệ ở đó. Du lịch Quốc tế thụ động: là hình thức du lịch của công dân một quốc gia nào đó và của những người nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ quốc gia đó đi ra nước ngoài du lịch và trong chuyến đi đó họ đã tiêu tiến kiếm ra tai đất nước đang cư trú. Du lịch nội địa: là hình thức đi du lịch điểm xuất phát và điểm đến của du khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia. 1.1.3.2. Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch: theo tiêu thức này du lịch được phân tành các loại sau: Du lịch chữa bệnh: ở loại hình này, khách đi du lịch do nhu cầu điều trị các bệnh tật về thể xác và tinh thần của họ. Du lịch chữa bệnh lại phân thành: Chữa bệnh bằng khí hậu: khí hậu núi, khí hậu biển. Chữa bệnh bằng nước khoáng: tắm, uống nước khoáng; Chữa bệnh bằng bùn. Chữa bệnh bằng hoa quả. Chữa bệnh bằng sữa (đặc biệt là sữa ngựa). Du lịch nghỉ ngơi, giải trí: là loại hình du lịch có tác dụng làm giải trí, làm cuộc sống thêm đa dạng và giải thoát cho con người khỏi công việc hàng ngày. Du lịch thể thao: gồm du lịch thể thao chủ động, du lịch thể thao bị động. Du lịch thể thao chủ động: khách đi du lịch để tham gia trực tiếp vào hoạt động thể thao. Du lịch thể thao chủ động bao gồm: Du lịch leo núi. Du lịch săn bắn; Du lịch câu cá; Du lịch tham gia các loại thể thao: đá bóng, bóng chuyền, bóng rổ, trượt tuyết … Du lịch thể thao thụ động: là những cuộc hành trình đi du lịch để xem các cuộc thi thể thao quốc tế, các thế vận hội Olympic, … Du lịch văn hóa: nâng cao hiểu biết cho cá nhân về mọi lĩnh vực như: lịch sử, kiến trúc, kinh tế, hội họa,...cùng phong tục, tập quán của đất nước du lịch. Du lịch văn hóa gồm 2 loại: Du lịch văn hóa với mục đích cụ thể: khách du dịch thuộc thể loại này thường đi với mục đích đã định sẵn. Thường họ là cán bộ khoa học, sinh viên và các chuyên gia. Du lịch văn hóa với mục đích tổng hợp: gồm đông đảo những người ham thích mở mang kiến thức về thế giới và thỏa mãn những tò mò của mình. Du lịch công vụ: nhằm thực hiện mục đích chính là thực hiện nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó. Du lịch thương gia: mục đích chính là đi tìm hiểu thị trường, nghiên cứu dự án đầu tư, ký kết hợp đồng,.v.v. Du lịch thăm hỏi, du lịch quê hương Du lịch quá cảnh: nảy sinh do nhu cầu đi qua lãnh thổ của một quốc gia nào đó trong một thời gian ngắn để đến một quốc gia khác. 1.1.3.3. Căn cứ vào đối tượng khách du lịch: Du lịch thanh thiếu niên; Du lịch dành cho những người cao tuổi; Du lịch dành cho phụ nữ, du lịch gia đình. 1.1.3.4. Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi Du lịch theo đoàn: các thành viên tham dự đi theo đoàn và thường có chuẩn bị chương trình du lịch từ trước, trong đó đã định ra những nơi sẽ đến thăm, nơi lưu trú và ăn uống. Du lịch theo đoàn có thể được tổ chức theo 2 hình thức sau: Du lịch theo đoàn có thông qua tổ chức du lịch: đoàn du lịch được các tổ chức trung gian (các doanh nghiệp lữ hành), các tổ chức vận tải (thường là các hãng hàng không), hoặc các tổ chức du lịch khác (khách sạn),…tổ chức cuộc hành trình. Các tổ chức đó chuẩn bị và thỏa thuân trước chuyến hành trình và lịch đi cho đoàn. Mỗi thành viên trong đoàn được thông báo trước chương trình của chuyến đi. Du lich theo đoàn không thông qua tổ chức du lịch: đoàn du lịch tự chọn chuyến hành trình, tự xác định thời gian đi, số ngày đi, những nơi sẽ đến thăm,…có thể đoàn đã được thỏa thuận trước hoặc tới nơi mới tìm cơ sở lưu trú, ăn uống,… Du lịch cá nhân: Du lịch cá nhân có thông qua tổ chức du lịch: cá nhân đi du lịch theo kế hoạch định trước của các tổ chức du lịch, tổ chức công đoàn hay tổ chức xã hội khác. Khách du lịch không phải đi cùng đoàn mà chỉ tuân theo những điều kiện đã được thông báo và chuẩn bị trước. Du lịch cá nhân không thông qua tổ chức du lịch (đi tự do). 1.1.3.5. Căn cứ vào phương tiện giao thông được sử dụng. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành: Du lịch bằng xe đạp; Du lịch bằng xe máy; Du lịch bằng ôtô;… 1.1.3.6. Căn cứ vào phương tiện lưu trú được sử dụng. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành: Du lịch ở khách sạn (Hotel); Du lịch ở khách sạn ven đường (Motel - khách sạn bên lề những chặng đường dài dành cho khách du lịch đi bằng ôtô); Du lịch ở lều trại (Camping); Du lịch ở làng du lịch (Tourism village). 1.1.3.7. Căn cứ vào thời gian du lịch. Theo tiêu thức này du lịch được phân thành. Du lịch dài ngày; Du lịch ngắn ngày (thường gọi là du lịch cuối tuần - Weekend holiday). 1.1.3.8. Căn cứ vào vị trí địa lý của nơi đến du lịch. Theo tiêu thức này du lịch được phân thành. Du lịch nghỉ núi; Du lịch nghỉ biển, sông, hồ; Du lịch thành phố; Du lịch đồng quê. 1.1.4. Du lịch biển và tài nguyên du lịch biển. Du lịch biển có thể hiểu là loại hình du lịch được phát triển ở khu vực ven biển nhằm phục vụ nhu cầu của khách du lịch về nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, khám phá, mạo hiểm,... trên cơ sở khai thác tài nguyên du lịch biển bao gồm: tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Tài nguyên du lịch biển: Tài nguyên tự nhiên: là các điều kiện về địa hình, mà cụ thể là cảnh quan thiên nhiên ven biển; quần thể sinh vật trên cạn, dưới nước như cây cỏ, tôm, cá,...; khí hậu (số ngày mưa, số giờ nắng trung bình, nhiệt độ trung bình của không khí vào ban ngày, nhiệt độ trung bình của nước biển, cường độ gió, hướng gió). Tài nguyên nhân văn: là tổng thể các giá trị văn hóa, lịch sử, các thành tựu chính trị và kinh tế có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển của du lịch biển như các viện bảo tàng hải dương học, các làng xã ven biển với nghề thủ công đặc trưng, các di tích đặc trưng của một triều đại hoặc một nền văn minh cổ xưa,... 1.2.TIỀM NĂNG DU LỊCH BIỂN CỦA VIỆT NAM. 1.2.1. Vị trí địa lý, dân cư, xã hội. Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược thuận lợi về biển. Lãnh thổ đất liền của Việt Nam được bao bọc bởi đường bờ biển Đông trải dài trên 3.200 km trên 3 hướng: Đông, Nam và Tây Nam. Trung bình cứ 100 km2 diện tích đất liền Việt Nam thì có 1 km bờ biển, tỷ lệ này cao hơn so với tỷ lệ trung bình của thế giới (600 km2 mới có 1 km bờ biển). Vùng ven biển Việt Nam hiện gồm 29 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với diện tích tự nhiên là 140.413 km2, dân số 41,5 triệu bằng 41,5% diện tích và 53,4% dân số cả nước (theo số liệu điều tra năm 2000). Lãnh thổ Du lịch biển là nơi hội tụ của nhiều điểm thuận lợi và nguồn tài nguyên tự nhiên đa dạng và phong phú cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là du lịch bởi trên vùng lãnh thổ này hiện tập trung toàn bộ 6 di sản thế giới ở Việt Nam; phần lớn các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên; nhiều di tích lịch sử - văn hóa;.v.v. 1.2.2. Hệ thống tài nguyên du lịch biển (nguồn Tổng cục Du lịch). Vùng biển Việt Nam có điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thuận lơi cho phát triển nhiều loại hình du lịch, đặc biệt là du lịch biển. Đặc điểm địa hình tạo nên nhiều cảnh quan đẹp và hấp dẫn du trên dọc chiều dài 3.260 km bờ biển như Đèo Ngang, Đèo Cả, vịnh Nha Trang (được công nhận là một trong 29 vịnh đẹp nhất thế giới, nơi có khoảng 125 bãi cát lớn nhỏ khác nhau),.v.v.Trong số các bãi biển, có bãi biển dài tới 15 - 18 km với chất lượng tốt có giá trị hình thành các khu du lịch tầm cỡ quốc tế. Ở vùng nước ven bờ, nơi tập trung tới 2.773 hòn đảo, có nhiều đảo có giá trị du lịch như Quan Lạn, Cát Bà, Cù Lao Chàm, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc,.v.v.Đặc biệt vịnh Hạ Long là nơi tập trung 2.000 đảo đá vôi lớn nhỏ là hình thái địa hình karst ngập nước với cảnh quan thiên nhiên đặc biệt hấp dẫn đã được UNESCO hai lần công nhận là di sản thiên nhiên của thế giới. Vùng ven biển Việt Nam còn là nơi có nhiều hệ sinh thái điển hình, với tính đa dạng cao, trong đó có nhiều loại đặc hữu, quý hiếm. Những giá trị sinh thái tập trung chủ yếu ở hệ thống 13/28 vườn quốc gia; 22/55 khu bảo tồn thiên nhiên, trong đó có 2 khu bảo tồn biển là Hòn Mun (Khánh Hòa) và Cù Lao Chàm (Quảng Nam) và 17/34 khu rừng văn hóa lịch sử và môi trường ở vùng ven biển và hải đảo ven bờ trong đó tiêu biểu là vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới; rừng ngập mặn Cần Giờ là Khu dự trữ sinh quyển thế giới,.v.v. Bên cạnh giá trị tự nhiên, các yếu tố nhân văn giàu bẳn sắc văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc như Kinh, Hoa, Khơ Me, Chăm,.v.v.ở vùng ven biển cũng có ý nghĩa to lớn đối với phát triển du lịch biển. Hiện nay có tới 950/2509 di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng quốc gia nằm ở vùng ven biển, đặc biệt trong số đó có 4 di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận: Phố cổ Hội An, Cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn và. Nhiều lễ hội dân gian truyền thống, tiêu biểu là lễ hội Nghinh Ông hay lễ cúng cá Ông (cá voi); nhiều làng nghề truyền thống;.v.v. là những giá trị văn hóa hấp dẫn khách du lịch. 1.2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội phát triển Du lịch biển ở Việt Nam . 1.2.3.1. Hệ thống đô thị ven biển. Hệ thống đô thị Việt Nam tập trung chủ yếu ở ven biển với 43 đô thị từ cấp thị xã trở lên, trong đó có 1 đô thị đặc biệt (Thành phố Hồ Chí Minh); 3 đô thị loại 1 (bao gồm cả Thành phố Huế mới được công nhận năm 2004); 5 đô thị loại 2; 7 đô thị loại 3 và 27 thị xã (đô thị loại 4). Hệ thống đô thị có vị trí đặc biệt quan trọng trong tổ chức hoạt động du lịch theo lãnh thổ, trong đó các đô thị đặc biệt và đô thị loại 1 đều là các trung tâm vùng du lịch. Sự phát triển nhanh chóng của hệ thống vùng ven biển hiện nay sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của du lịch biển. 1.2.3.2. Cơ sở hạ tầng du lịch biển. Đường bộ: Hệ thống giao thông đường bộ, đặc biệt là tuyến quốc lộ xuyên Việt (quốc lộ 1A) được nâng cấp cùng việc xây dựng quốc lộ 10, tạo điều kiện gắn kết các địa phương vùng ven biển trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và du lịch nói riêng. Một số đường quốc lộ như quốc lộ 18, quốc lộ 51B, .v.v. đã được nâng cấp tạo gắn kết hoạt động du lịch của 2 Trung tâm quan trọng nhất là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh với du lịch biển. Từ các đô thị, cảng biển, hệ thống quốc lộ Đông Tây, nối liền vùng ven biển Việt Nam với những lãnh thổ phía Tây đất nước và xa hơn với các nước trong khu vực, góp phần vào sự phát triển của du lịch biển. Đường sắt: Quan trọng nhất và có ý nghĩa du lịch là tuyến đường sắt Thống Nhất Bắc - Nam từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh. Tuyến đường này sẽ góp phần đẩy mạnh sự phát triển của du lịch biển khi nó được hòa vào hệ thống đường sắt xuyên Á. Đường biển: Trên chiều dài 3.260 km bờ biển từ mũi Ngọc (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang), hiện có 73 cảng biển lớn nhỏ, phần lớn tập trung ở miền Trung và Đông Nam Bộ, trong đó có một số cảng biển đã đón tàu du lịch Columbus, Europa (Đức), Arion (Autralia),… cập bến như Hạ Long, Đà Nẵng, Nha Trang, Thành phố Hồ Chí Minh, Phú Quốc. Hiện có nhiều tuyến đường biển trong nước và quốc tế đang hoạt động như tuyến Hải Phòng - Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng - Đà Nẵng; Thành phố Hồ Chí Minh - Rạch Giá…và các tuyến quốc gia như Thành phố Hồ Chí Minh - Vladivostoc, Hồng Kông, Singapore, Băng Cốc; Hải Phòng đi Hồng Kông, Manila, Tôkyô,… Đường hàng không: Cả nước hiện nay có khoảng 14/18 sân bay, trong đó có 2/3 sân bay quốc tế đang được khai thác ở vùng ven biển, đó là: Cát Bi (Hải Phòng); Vinh (Nghệ An); Đà Nẵng; Phù Cát (Bình Định); Tuy Hòa (Phú Yên); Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hòa); Vũng Tàu, Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tầu); Tân Sơn Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh); Cà Mau (Cà Mau); Rạch Giá, Phú Quốc (Kiên Giang). Trong số các sân bay trên có nhiều máy bay mới được nâng cấp và mở rộng như sân bay Phú Bài, Côn Đảo, Phú Quốc,.v.v.góp phần quan trọng góp phần thúc đẩy du lịch biển phát triển. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM. 2.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1995-2004. 2.1.1. Nhóm chỉ tiêu về khách du lịch. 2.1.2.1. Khách du lịch quốc tế. Vùng ven biển hàng năm thu hút trên 73% số lượt khách du lịch quốc tế đến các địa phương tăng trưởng với tốc độ trung bình khoảng 15,2%/năm. Năm 1997 số lượng khách du lịch quốc tế đến vùng ven biển đạt 2.127 ngàn, năm 2000 là 3.299 ngàn và đến năm 2002 các tỉnh ven biển đã đón gần 5,3 triệu lượt khách quốc tế. Năm 2003, do ảnh hưởng của dịch SARS, lượng khách du lịch quốc tế đến vùng ven biển có hơi giảm so với năm 2002, tuy nhiên năm 2004 lại tăng trở lại cùng với việc tăng số lượng khách quốc tế đến Việt Nam (Bảng 1). Số liệu trên thống kê ở phạm vi toàn vùng ven biển Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2004 cho thấy số lượt khách du lịch quốc tế đến các khu vực trọng điểm du lịch vùng ven biển tăng nhanh với tốc độ bình quân khoảng 12,6%/năm. Riêng khu vực Quảng Ninh - Hải Phòng và Huế - Đà Nẵng có tốc độ tăng khá cao (trên 41%/năm ); tiếp đến là Nha Trang - Khánh Hòa (2,5%/năm), Bà Rịa - Vũng Tàu (12,6%/năm). Khách du lịch quốc tế đến vùng ven biển Việt Nam phân bố không đồng đều theo lãnh thổ. Có 4 khu vực thu hút khách nhiều nhất đó là: Tp Hồ Chí Minh, Vũng Tàu (hơn 40% tổng lượng khách quốc tế đến vùng ven biển), Quảng Ninh - Hải Phòng (trên 25%); Huế - Đà Nẵng (12%) và Nha Trang - Khánh Hòa (xấp xỉ 4%). Bốn khu vực trọng điểm này đã thu hút tới 80% tổng số khách quốc tế đến nghỉ ngơi tham quan trong toàn vùng ven biển. Đây là những khu vực có những đô thị lớn với điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tương đối tốt, đồng thời là những nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch có giá trị. Khách du lịch Việt Nam và vũng ven biển ngày càng tăng và hiện đang chiếm tỷ lệ cao nhất (27% tổng số khách quốc tế), sau đó là Việt kiều, khách Mỹ (12%), Nhật Bản (>6%). Khách du lịch đường biển chủ yếu từ các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và một số nước Tây Âu tăng nhanh trong thời gian qua. Năm 1993 mới có 18.414 khách (chiếm 3,07% thị phần) đến năm 2001 đã tăng lên 284.612 khách (chiếm 12,2% thị phần khách khách quốc tế; và khoảng 1- 2% thị phần thu nhập), tốc độ tăng bình quân 40,5%/năm. Bảng 1: Số lượt khách du lịch quốc tế đến các tỉnh ven biển giai đoạn 1995 - 2004 Đơn vị: 1.000 lượt Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số lượt khách 1.865 2.208 2.127 1.973 2.246 3.299 4.092 5.299 4.720 5.960 Tỷ lệ đến vùng Bắc Bộ(%) 10,97 9,46 10,44 12,22 14,83 21,37 20,59 21,37 23,40 22,56 Tỷ lệ đến vùng Bắc Trung Bộ (%) 11,67 11,85 11,46 11,28 10,84 12,20 13,66 14,21 16,75 17,21 Tỷ lệ đến vùng Nam Trung Bộ và Nam Bộ (%) 50,15 56,10 51,66 48,09 45,71 39,93 39,56 38,17 32,10 34,15 Tỷ lệ so với cả nước (%) 72,79 77,41 73,56 71,59 71,38 73,50 73,81 73,75 72,25 73,92 Nguồn: Tổng cục Du lịch, Viện NCPT Du lịch 2.1.2.2. Khách du lịch nội địa. Vùng ven biển Việt Nam là nơi luôn thu hút tới trên 50% số lượt khách du lịch nội địa đi lại giữa các vùng trong cả nước với tốc độ tăng trung bình thời kỳ 1995 - 2004 là 12,5%/năm. Năm 1997 toàn vùng đón 5.742 ngàn lượt khách; năm 2000 đón được 7.465 ngàn lượt khách; và năm 2002 đạt 10.804 ngàn lượt khách. Năm 2003, mặc dù số lượng khách quốc tế giảm do ảnh hưởng của dịch SARS, tuy nhiên lượng khách nội địa vẫn tăng và đạt 14.642 ngàn lượt khách (bảng 2). Bảng 2: Số lượt khách du lịch nội địa đến các tỉnh ven biển giai đoạn 1995 - 2004 Đơn vị: 1.000 lượt Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số lượt khách 5.741 6.999 6.752 7.465 8.298 10.803 12.679 13.804 14.642 15.850 Tỷ lệ đến vùng Bắc Bộ(%) 12,28 11,06 12,23 13,35 14,21 16,29 16,51 16,64 15,63 16,20 Tỷ lệ đến vùng Bắc Trung Bộ (%) 4,55 4,48 4,04 4,28 4,82 4,5 4,66 4,81 6,52 6,85 Tỷ lệ đến vùng Nam Trung Bộ và Nam Bộ (%) 36,19 39,53 34,98 36,12 36,10 34,38 34,11 33,87 35,26 33,93 Tỷ lệ so với cả nước (%) 53,02 55,17 51,25 53,75 55,13 55,17 55,28 55,32 57,41 56,98 Nguồn: Tổng cục Du lịch, Viện NCPT Du lịch Các trọng điểm du lịch vẫn là những khu vực thu hút lượng lớn khách du lịch nội địa. Ví dụ năm 2003 khu vực Vũng Tàu - Thành phố Hồ Chí Minh đón 27,4% số lượt khách, Hải Phòng: 13,4%; Huế -Đà Nẵng: 2,6%; Khánh Hòa: 1,5%. Tốc độ tăng trung bình khách du lịch nội địa ở khu vực này cũng cao như: Quảng Ninh - Hải Phòng là 39%/năm; Nha Trang - Khánh Hòa và Vũng Tàu - Thành phố Hồ Chí Minh là 16%/năm và 17%/năm; Huế - Đà Nẵng: 7,3%/năm. 2.1.2. Thu nhập từ hoạt động du lịch biển. Thu nhập xã hội từ du lịch ở các tỉnh ven biển luôn chiếm tỷ lệ lớn (trên 70%) trong tổng thu nhập xã hội từ du lịch cả nước. Năm 2002 tỷ lệ này là 73,21% tức đạt khoảng 17.204 tỷ đồng. Năm 2003, hoạt động du lịch nói chung, du lịch biển nói riêng bị ảnh hưởng của dịch SARS nên thu nhập du lịch biển giảm chỉ đạt 15.982 tỷ đồng, bằng 71,03% thu nhập du lịch cả nước, tuy nhiên năm 2004 thu nhập du lịch biển lại tăng trở lại đạt 26.000 tỷ đồng tăng hơn 10,63% so với năm 2002 và hơn 15,56% so với năm 2003 (bảng 3) . Bảng 3: Thu nhập xã hội từ hoạt động du lịch biển giai đoạn 1995 -2004 Đơn vị: tỷ đồng Năm 1995* 1996* 1997* 1998* 1999* 2000* 2001 2002 2003 2004 Thu nhập du lịch cả nước 11.423 13.415 15.056 14.000 15.600 17.400 20.500 23.500 22.500 26.000 Thu nhập du lịch biển 80.554 97.996 10.885 10.038 11.319 12.705 14.992 17.204 15.982 18.866 Tỉ lệ thu nhập du lịch biển so với cả nước 70,52 73,05 72,30 71,70 72,56 73,02 73,13 73,21 71,03 72,56 Nguồn: * Viện NCPT Du lịch. 2.1.3. Cơ sở vật chất kĩ thuật. 2.2.3.1. Cơ sở lưu trú. Số lượng khách sạn vùng ven biển phát triển nhanh chóng. Đến tháng 6/2004, cả nước có 3.810 cơ sở lưu trú với tổng số 85.380 buồng khách sạn, trong đó các tỉnh ven biển chiếm tới 2.337 cơ sở lưu trú với 56.890 buồng khách sạn, bằng 61,5% tổng số cơ sở lưu trú và 66,7% số buồng của cả nước. Trong số các cơ sở lưu trú trên ở vùng ven biển có 2 khách sạn, khu nghỉ dưỡng đạt tiêu chuẩn 5 sao với 724 buồng; 14 cơ sở có chất lượng 4 sao với 1432 buồng; 49 cơ sở đạt 3 sao với 3.011 buồng. Hầu hết các địa phương ở các trọng điểm du lịch đều có hệ thống khách sạn, khu du lịch (resort) chất lượng cao, ví dụ: Quảng Ninh có 260 cơ sở lưu trú với 3.480 phòng đạt tiêu chuẩn 3-4 sao; tương tự ở Đà Nẵng có 69 cơ sở với 2.343 buồng; Khánh Hòa có 260 cơ sở với 5.645 buồng, v.v. Các khách sạn 4 và 5 sao tiêu biểu là New World Hotel (Sài Gòn); Hữu Nghị (Hải Phòng); Heritage, Ha Long Plaza (Hạ Long); Furarna (Đà Nẵng); Novotel (Phan Thiết);… Tuy nhiên trong thời gian gần đây, do sự phát phát triển thiếu căn cứ quy hoạch, số lượng các cơ sở lưu trú, đặc biệt là các khách sạn mini, ở vùng ven biển tăng nhanh, tạo tình trạng thừa vào mùa vắng khách, ảnh hưởng tới công suất sử dụng phòng trung bình chung của cả năm. Mặc dù số lượng cơ sở lưu trú ở vùng ven biển nhiều, song quy mô nhìn chung còn nhỏ, chất lượng chưa cao, các dịch vụ bổ sung còn nghèo nàn. 2.1.3.2. Các cơ sở vui chơi giải trí - thể thao. Trên phạm vi cả nước nói chung, vùng ven biển nói riêng, các cơ sở vui chơi giải trí thể thao còn nghèo nàn, quy mô nhỏ, hình thức đơn điệu, thiếu hấp dẫn. Đây chính là nguyên nhân chính không giữ được khách lưu lại dài ngày (khách quốc tế khoảng 2,5 - 3 ngày; khách nội địa khoảng 1,5 - 2 ngày). Ở một số các trung tâm du lịch biển lớn như Hạ Long, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu,…các hình thức vui chơi, thể thao trên bờ, trên mặt nước và trong lòng biển chưa đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch (thí dụ: lướt ván, nhẩy dù trên biển, lặn biển…), làm giảm tính hấp dẫn của các khu du lịch biển đồng thời làm giảm hiệu quả kinh doanh của nghành du lịch. Việc đầu tư xây dựng các khu vui chơi giải trí tổng hợp ven biển và trên đảo là một đòi hỏi cấp bách của du lịch vùng ven hiện nay. 2.1.4. Lao động phục vụ trong loại hình du lịch biển. Trong những năm gần đây, cùng với sự gia tăng của dòng khách du lịch, lao động phục vụ trong nghành du lịch cũng tăng nhanh, nhằm đáp ứng nhu cầu, từ 3,5 vạn lao động trực tiếp năm 1992 lên 9,9 vạn năm 1996, 13 vạn lao động năm 1999 và năm 2004 đạt khoảng 22 vạn. Tốc độ tăng trung bình hàng năm đạt gần 25%. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghiệp vụ tại các trường du lịch hay các khóa đào tạo tại chỗ đật 75%, tỷ lệ đạt trình độ đại học và trên đại học khoảng 7,5%. Hiện nay trên phạm vi cả nước có 73 cơ sở đào tạo hệ trung học, cao đẳng và đại học có đào tạo chuyên ngành du lịch và liên quan đến du lịch, trong đó có 39 cơ sở đào tạo nằm ở vùng ven biển, chiếm 52%. Đặc biệt các cơ sở đào tạo nghề quan trọng của nghành tập trung chủ yếu ở vùng ven biển, bao gồm: trường nghiệp vụ du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Vũng Tàu, Quảng Ninh. Trong thời gian tới một số trường sẽ được đề nghị thành lập tại Hải Phòng, Cần Thơ, Đà Lạt và Viện đào tạo Du lịch tại Đà Nẵng. 2.2. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH BIỂN. 2.2.1. Định hướng phát triển du lịch biển. Nhiệm vụ xây dựng Chiến lược và quy hoạch đã được Tổng cụ Du lịch chú trọng chỉ đạo thực hiện có kết quả. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam thời kì 2001 - 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 97/2002/QĐ - TTg, ngày 22/7/2002. Căn cứ Chiến lược phát triển du lịch biển, hệ thống quy hoạch du lịch cả nước, bao gồm cả lãnh thổ du lịch biển, đã được tích cực triển khai thực hiện. Đến nay, quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 - 2010; quy hoạch phát triển các vùng du lịch: Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ; quy hoạch phát triển các trung tâm du lịch: Hà Nội và phụ cận; Hải Phòng - Quảng Ninh; Huế - Đà Nẵng và phụ cận; Nha Trang - Ninh Chữ- Đà Lạt; Thành phố Hồ Chí Minh và phụ cận đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được thực hiện và phê duyệt. Cho tới nay, 100% các địa phương ven biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang đều đã xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của địa phương giai đoạn đến năm 2010, trong đó có nhiều địa phương đã và đang tiến hành việc điều chỉnh quy hoạch để phù hợp với điều chỉnh chung của nghành và thực tiễn phát triển trong bối cảnh mới. Bên cạnh các dự án quy hoạch do ngành thực hiện, Tổng cục Du lịch đã chủ động phối hợp với Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO), Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Nhật Bản (JICA) và chuyên gia CuBa thực hiện và thẩm định một số quy hoạch du lịch quan trọng như: Điều chỉnh quy hoạch phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam; Quy hoạch phát triển du lịch vùng ven biển miền Trung Việt Nam (từ Thanh Hóa đến Bình Thuận); Quy hoạch phát triển du lịch Cửa Lò (Nghệ An); Phát triển bền vững du lịch đảo Phú Quốc (Kiên Giang); Thẩm định kết quả định hướng quy hoạch do Tổng cục Du lịch thực hiện phát triển du lịch vịnh Vân Phong - Đại Lãnh (Khánh Hòa) và phát triển du lịch đảo Phú Quốc (Kiên Giang). Kết quả công tác quy hoạch trên đã góp phần tích cực vào phát triển du lịch vùng ven biển. 2.2.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. 2.2.2.1. Việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Ngành. Việc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Ngành nhằm thúc đẩy sự phát triển của Du lịch Việt Nam đã được quan tâm triển khai trong thời gian qua. Tiêu biểu phải kể đến là: Pháp lệnh Du lịch (1999); các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh; Quy chế Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực Du lịch … Ngoài ra nhiều văn bản liên nghành cũng đã được xây dựng và ban hành tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch nói chung và du lịch biển nói riêng. Ví dụ: để tạo điều kiện cho phát triển du lịch tàu biển, Tổng cục Du lịch đã phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 61/2003/QĐ-BTC, nagỳ 25/4/2003 ban hành mức biểu thu phí, lệ phí hàng hải và dịch vụ cảng biển. Tuy nhiên, việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có tính đặc thù riêng cho du lịch biển chưa được thực hiện. Ví dụ: văn bản điều chỉnh hoạt động nhằm bảo đảm an toàn cho khách du lịch trên biển (phương tiện, điều kiện trang thiết bị…); phát triển du lịch ở những khu vực có hệ sinh thái và môi trường biển nhạy cảm; xây dựng phát triển các công trình dịch vụ trên bờ biển;.v.v. 2.2.2.2. Việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực có liên quan. Do Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, vì thế hoạt động du lịch nói chung, du lịch biển nói riêng có thể bị điều chỉnh bởi những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Tiêu biểu có thể kể đến: Luật Bảo vệ Môi trường (1993); Luật Di sản Văn hóa (2003); Luật Bảo vệ và Phát triển Tài nguyên rừng; Luật Thủy sản (2003); Luật Giáo dục; Luật Tài nguyên nước (1998); Luật Đất đai (2003).v.v. và các Nghị định, Thông tư, Quyết định hướng dẫn có liên quan. Tổng cục Du lịch đã tích cực tham gia vào quá trình xây dựng (đóng góp ý kiến, cử chuyên gia, cử chuyên gia tham gia…) các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trên. 2.2.3. Công tác quản lý nhà nước về du lịch đối với phát triển du lịch biển. Hệ thống Quản lý Nhà nước về Du lịch trên phạm vi cả nước nói chung, ở vùng ven biển nói riêng ngày càng được hoàn thiện góp phần tích cực nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch. Bên cạnh việc nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ quan chức, bộ máy quản lý nhà nước của ngành cũng được hoàn thiện với sự thành lập Cục Xúc tiến Du lịch. Hệ thống các cơ sở chuyên ngành ngày càng được củng cố, góp phần tăng cường chức năng quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn các địa phương. Hiện ở vùng ven biển có10/15 Sở Du lịch, Sở Thương mại - Du lịch. Một số địa phương đang có kế hoạch thành lập sở Du lịch riêng để tăng cường hơn năng lực quản lý nhà nước về Du lịch như tỉnh Kiên Giang. 2.3. PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM ĐẶC THÙ VÀ CÁC KHU VỰC DU LỊCH BIỂN TRỌNG ĐIỂM. Từ năm 1994 đến nay, hình ảnh du lịch biển Việt Nam ngày càng rõ nét với sự ra đời của nhiều khu du lịch biển tương đối hoàn chỉnh như Tuần Châu (Hạ Long), Furarna (Đà Nẵng) - là khu du lịch đạt tiêu chuẩn 5 sao vừa được Hiệp hội Khách sạn Thế giới (World Hotels) bình chọn là khu nghỉ mát tốt nhất thế giới năm 2004, Hòn Tre (Nha Trang), Novotel (Phan Thiết),.v.v.Đây là những nỗ lực rất lớn của du lịch Việt Nam hướng tới xây dựng những sản phẩm du lịch hấp dẫn, có sức cạnh tranh. Trong quá trình phát triển du lịch biển Việt Nam đã tập trung đầu tưđể hình thành những khu du lịch quốc gia được xác định trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam bao gồm: các khu du lịch tổng hợp Hạ Long - Cát Bà, Cảnh Dương - Lăng Cô - Hải Vân - Non Nước, Văn Phong - Đại Lãnh; các khu du lịch chuyên đề Tam Cốc - Bích Động (Ninh Bình), Kim Liên (Nghệ An), Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), Đường mòn Hồ Chí Minh (Quảng Trị), Hội An (Quảng Nam), Phan Thiết - Mũi Né (Bình Thuận), Long Hải (Bà Rịa - Vũng Tàu), Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh), Cà Mau (Cà Mau), Phú Quốc (Kiên Giang). Như vậy vùng ven biển là nơi tập trung chủ yếu các khu du lịch quốc gia với 3/4 khu du lịch tổng hợp và 10/17 khu du lịch chuyên đề. Để tạo điều kiện thu hút đầu tư, Nhà nước đã hỗ trợ nâng cấp và phát triển hạ tầng ở những khu vực này. Trong 4 năm (2001-2004), nhà nước đã hỗ trợ các địa phương ven biển 939,5 tỷ đồng, chiếm 58,86% tổng số vốn ngân sách hỗ trợ nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch cả nước (Bảng 4). Nguồn hỗ trợ trên đã tạo được sức hút với các dự án đầu tư phát triển du lịch với hàng ngàn tỷ đồng từ các thành phần kinh tế để phát triển các sản phẩm, khu du lịch vùng ven biển. Đặc biệt sự hỗ trợ đã tạo ra sức hấp dẫn đối với các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch. Kết quả thống kê cho thấy tổng số dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch ở các địa phương ven biển đến năm 2003 là 143 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt 3.779,92 triệu USD, chiếm khoảng 60% số vốn đăng ký đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch trong phạm vi cả nước. Bảng 4: Hỗ trợ từ ngân sách để nâng cấp hạ tầng du lịch ở các địa phương ven biển giai đoạn 2001 - 2004 Đơn vị: tỷ đồng Năm 2001 2002 2003 2004 Các địa phương ven biển 170,0 203,5 281,0 285,0 Cả nước 266,0 380,0 405,0 500,0 Nguồn: Tổng cục Du lịch. 2.4. CÔNG TÁC PHỐI, KẾT HỢP PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN VỚI CÁC NGÀNH CÓ LIÊN QUAN TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC, ĐIỀU TRA CƠ BẢN VỀ BIỂN, ĐẢO. Quan điểm phát triển Du lịch kết hợp với đảm bảo an ninh Quốc phòng luôn được quán triệt trong công tác chỉ đạo và hoạt động phát triển du lịch biển. Điều này được thể hiện rõ trong việc phối hợp giữa Tổng cụ Du lịch và Bộ Quốc phòng trong các hoạt động điều tra nghiên cứu, lập các dự án phát triển du lịch kết hợp đảm bảo an ninh quốc phòng trên các đảo Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Trường Sa, gần đây là đảo Phú Quốc và khu vực bán đảo Cam Ranh. Hoạt động nghiên cứu làm cơ sở cho phát triển du lịch biển bền vững luôn được quan tâm thực hiện. Tổng cụ Du lịch đã phối hợp chặt chẽ với Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường), .v.v. để triển khai nhiều đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà nước, cấp ngành mà tiêu biểu là: đề tài cấp Nhà nước “Luận chứng khoa học kỹ thuật phát triển du lịch biển Việt Nam” (thuộc Chươn trình điều tra nghiên cứu biển cấp Nhà nước 48-B); đề tài độc lập cấp Nhà nước “Cơ sở khoa học phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam”; các đề tài “Luận chứng phát triển du lịch Hạ Long - Cát Bà - Đồ Sơn”, “Định hướng phát triển dulịch vùng duyên hải Nam Trung Bộ”, “Định hướng phát triển vùng trọng điểm kinh tế miền Trung” (phối hợp với Bộ Kế hoạch Đầu tư); các đề tài “Định hướng phát triển du lịch sinh thái Cù Lao Chàm”, “Thực trạng và định hướng phát triển du lịch khu vực từ Thanh Hóa đến Quảng Trị” (phối hợp với Đại học Quốc gia Hà Nội”; “Cơ sở khoa học phát triển du lịch vũng - vịnh ở Việt Nam” (phối hợp với Phân viện Hải dương học Hải Phòng); . v.v. Kết quả của những nghiên cứu trên không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà bước đầu đã phát huy tác dụng trong thực tế quy hoạch, phát triển du lịch biển, đặc biệt là xây dựng phát triển các khi du lịch, các tuyến điểm du lịch và các sản phẩm du lịch biển. 2.5. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN. 2.5.1. Điểm mạnh, yếu của việc khai thác loại hình Du lịch biển. 2.5.1.1. Điểm mạnh: Qua tìm hiểu thực trạng phát triển du lịch biển thời gian từ 1994 đến nay có thể thấy du lịch biển đã có những khởi sắc, tạo ra được diện mạo rõ ràng hơn về một ngành kinh tế biển tiềm năng. Các mục tiêu phát triển ngành cơ bản đã được thực hiện. Sự phát triển du lịch biển đã góp phần tích cực tạo ra diện mạo mới cho hệ thống đô thị ven biển, đặc biệt là các trọng điểm du lịch như: Hạ Long, Cát Bà, Đồ Sơn, Cửa Lò, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang, Phan Thiết, Vũng Tàu,.v.v. Sự phát triển du lịch biển không chỉ tạo ra thu nhập cho hàng ngàn lao động trực tiếp trong ngành, mà còn tạo thêm được nhiều việc làm cho cộng đồng người dân ven biển với khoảng 50 vạn lao động gián tiếp. 2.5.1.2. Điểm yếu: Trong thời gian dài, tỷ trọng khách du lịch, thu nhập du lịch biển so với du lịch cả nước không có gì thay đổi đáng kể, mặc dù vùng ven biển là lãnh thổ có nhiều lợi thế hơn những lãnh thổ khác về tài nguyên du lịch, được nhà nước đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và chiếm tỷ trọng lớn về sự hỗ trợ của nhà nước đối với việc nâng cấp hạ tầng du lịch. Điều này cho thấy sự tăng trưởng về giá trị tuyệt đối về lượng khách và thu nhập du lịch biển trên chủ yếu là do sự phát triển tự nhiên về du lịch; du lịch biển chưa tạo được sự hấp dẫn đặc biệt đối với khách du lịch so với những vũng lãnh thổ khác trong cả nước. Chưa xây dựng được các sản phẩm du lịch đặc trưng cho từng vùng, vì vậy không chỉ có sự trùng lặp về sản phẩm du lịch trong cùng một khu vực mà còn có sự trùng lặp về sản phẩm du lịch giữa các khu vực có điều kiện địa lý và đặc điểm tài nguyên du lịch khác nhau. Điều này ảnh hưởng tới mức độ hấp dẫn của du lịch biển Việt Nam và ảnh hưởng đến thu nhập du lịch, mức độ đóng góp của du lịch biển vào sự phát triển kinh tế biển với tư cách là một ngành kinh tế biển quan trọng. Thực tế cho thấy trong suốt thời gian dài thu nhập du lich biển so với các ngành kinh tế biển khác như dầu khí, thủy sản còn thấp hơn và chỉ đứng trên ngành giao thông - dịch vụ hàng hải. Cơ sở hạ tầng du lịch, đặc biệt là hệ thống cảng biển du lịch vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển về chất lượng và quy mô để tiếp nhận các tàu du lịch từ các nước trong khu vực và quốc tế. Hệ thống giao thông thủy bộ hoặc là xuống cấp hoặc là được đầu tư nâng cấp không đồng bộ dẫn tới khả năng phục vụ kém. Môi trường biển đặc biệt môi trường ở một số khu vực trọng điểm phát triển du lịch biển như: Hạ Long - Cát Bà, Huế - Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu,.. đã có sự suy thoái do hoạt động phát triển kinh tế kinh tế xã hội, trong đó có hoạt động du lịch. Nguy cơ ô nhiễm dầu do sự cố có chiều hướng gia tăng, mà điển hình là vụ chìm tàu và tràn dầu của tàu chở dầu Mỹ Đình ở vịnh Hạ Long đầu năm 2005. Đây là vấn đề cần phải được đặc biệt quan tâm và chỉ đạo thực hiện sát sao để đảm bảo sự phát triển bền vững của du lịch biển. Việc quản lý khai thác tài nguyên biển thiếu bền vững do sự chồng chéo trách nhiệm và quan liêu trong việc quản lý. Biểu hiện cụ thể nhất là việc khai thác rừng ngập mặn (cát biển, núi đá,…), nước ngầm, thủy sản,.v.v. Kết quả của tình trạng này sẽ làm cho sự suy giảm tài nguyên vùng ven biển gia tăng cùng với những vấn đề môi trường nảy sinh. Sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động phát triển du lịch biển còn hạn chế và mang tính tự phát, thiếu sự hướng dẫn, tạo điều kiện từ phía ngành và chính quyền địa phương. Kết quả của tình trạng này sẽ làm hạn chế sự đóng góp của du lịch biển vào nỗ lực bảo tồn tài nguyên và môi trường biển. Công tác bảo tồn tôn tạo tài nguyên và bảo vệ môi trường của hoạt động du lịch ở vùng ven biển, vùng biển và hải đảo còn nhiều bất cập ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững chung ở khu vực này. 2.5.1.3. Những nguyên nhân của tình trạng: Do sự bất cập của một số chính sách hiện hành: một số chính sách điều tiết phát triển kinh tế vĩ mô khi áp dụng cho lĩnh vực du lịch đã có những ảnh hưởng nhất định. Do công tác tổ chức triển khai thực hiện chiến lược, quy hoạch ngành trên lãnh thổ vùng ven biển, hải đảo: việc quản lý quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập, thiếu sự kiểm tra giám sát, điều chỉnh kịp thời để các ý tưởng quy hoạch được phê duyệt đi vào cuộc sống. Do hạn chế trong phối kết hợp phát triển du lịch của ngành với các địa phương vùng ven biển và các bộ ngành có liên quan. Do sự bất cập của công tác đầu tư phát triển, đặc biệt về hạ tầng, đầu tư phát triển các khu du lịch, các trọng điểm phát triển du lịch biển. Do những nguyên nhân khác: thiên tai (bão, lũ lụt, nước biển xâm thực,...), dịch bệnh bùng phát ( SARS, cúm gia cầm,...), nhận thức xã hội về du lịch chưa cao... 2.5.2. Cơ hội và thách thức đặt ra cho phát triển du lịch biển. 2.5.2.1. Cơ hội: Phát triển du lịch biển có được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ. Điều này được thể hiện rõ ngay trong tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Chính phủ đối với phát triển kinh tế biển, trong du lịch biển được xác định là 1 trong 4 ngành kinh tế biển chủ đạo (bao gồm: Giao thông vận tải - Dịch vụ, Thủy sản, Dầu khí và Du lịch biển) và được làm rõ trong Nghị quyết 03/NQ - TW của Bộ Chính trị, các Chỉ thị 339/TTg và 171/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, đất nước đã phát triển trong môi trường an ninh, chính trị ổn định. Gần đây, Hiệp định phân định ranh giới trên biển trên Vịnh Bắc Bộ và hợp tác khai thác hải sản giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được ký kết góp phần tích cực tạo sự ổn định ở khu vực biển Đông. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để du lịch nói chung, du lịch biển nói riêng ở Việt Nam phát triển. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh khu vực và quốc tế có nhiều yếu tố thiếu ổn định. Hầu hết những tài nguyên du lịch biển nước ta còn nằm trong dạng nguyên sơ chưa được khai thác. Do vậy trong quá trình quy hoạch phát triển, chúng ta có thể học hỏi được những bài học kinh nghiệm từ các nước láng giềng để tránh lặp lại những sai lầm như các nước này đã gặp phải, nhằm khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, bảo đảm môi trường và phát triển bền vững. Sự phát triển mạnh mẽ của một số ngành kinh tế khác như Giao thông vận tải, Bưu chính Viễn thông,.v.v.dẫn đến sự phát triển nhanh chóng cơ sở vật chất hạ tầng và vật chất kỹ thuật, cũng đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc triển khai thự hiện chương trình phát triển du lịch biển. Chính sách của Đảng và Chính phủ đã có tác động khuyến khích các nhà đầu tư quốc tế đầu tư vào phát triển những khu du lịch biển cao cấp. Pháp lệnh Du lịch được ban hành với hệ thống các Nghị định và văn bản hướng dẫn thực hiện đã tạo hành lang pháp lý, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về du lịch, trong đó có du lịch biển phát triển. Ban chỉ đạo Nhà nước về Du lịch đã được thành lập. Đây là điều kiện cơ bản nhằm tạo nên sự đạo thống nhất và sự kết hợp giữa các Bộ ngành và địa phương trong việc thực hiện những mục tiêu chiến lược trong phát triển du lịch. 2.5.2.2. Thách thức: Hoạt động phát triển du lịch Việt Nam nói chung, du lịch biển nó riêng, đang diễn ra trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trong phát triển du lich giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đây là thách thức mà du lịch biển phải đối mặt trong quá trình hội nhập, mặc dù kinh nghiệm kinh doanh, quảng bá,.v.v. của du lịch biển Việt Nam còn hết sức hạn chế. Phát triển du lịch biển hiện nay đang đứng trước nguy cơ suy giảm tài nguyên và sự xuống cấp của môi trường ở vùng ven biển do sự phát triển thiếu đồng bộ, sự bất cập giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ dẫn đến tình trạng chồng chéo trong khai thác sử dụng tài nguyên biển; sự bất cập của công tác quản lý trong phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này. Đây là một thách thức không nhỏ đối với du lich biển trong quá trình phát triển. Cơ sở hạ tầng những năm gần đây đã được cải thiện đáng kể những nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của phát triển du lịch, chưa tạo ra được thuận lợi cho du khách, vì vậy làm giảm sức hấp dẫn của điểm đến du lịch biển đối với khách, ảnh hưởng tới khả năng quay lại nhiều lần. Vốn đầu tư du lịch còn quá hạn chế, đặc biệt vốn đầu tư từ ngân sách cho nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch, tạo điều kiện tiếp cận các điểm du lịch biển tiềm năng, các địa điểm thăm quan du lịch hấp dẫn ở vùng ven biển, đặc biệt ở hệ thống đảo ven bờ. Hệ thống chính sách phát triển du lịch nói chung, du lịch biển nói riêng, còn chưa đồng bộ, chưa khuyến khích được đầu tư phát triển, đặc biệt đối với những sản phẩm du lịch biển chất lượng cao. Công tác quản lý của ngành chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch biển, phối hợp liên ngành còn chồng chéo. Tình hình bất ổn định của quốc tế và khu vực (các cuộc khủng hoảng chính trị, chiến tranh, dịch bệnh bùng phát - cúm gia cầm, SARS ), đặc biệt là thảm họa Sóng thần ngày 26/12/2004 xảy ra ở khu vực Nam Á đã và đang tác động rất tiêu cực đến phát triển du lịch Việt Nam nói chung, du lịch biển nói riêng, nhất là trong điều kiện sức cạnh tranh của ta còn yếu. CHƯƠNG III MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. 3.1. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH 3.1.1. Những kiến nghị đối với các cơ quan quản lý cấp Trung ương về du lịch. Tổng cục Du lịch tích cực phối hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan soạn thảo kế hoạch thực hiện các chiến lược dài hạn; đồng thời tư vấn, đề xuất cho Chính phủ các giải pháp đẩy nhanh quá trình cải cách thủ tục hành chính nhằm mục tiêu giảm thiểu sự chồng chéo về mặt quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh loại hình du lịch biển và hạn chế tối đa sự phức tạp trong quá trình hoàn tất thị thực nhập cảnh cho khách du lịch quốc tế inbound. Đầu tư phát triển du lịch biển: Đầu tư phát triển hạ tầng du lịch biển: một trong những hạn chế đối với sự phát triển du lịch biển thời gian qua là sự bất cập về hạ tầng du lịch biển, đặc biệt là hệ thống cảng du lịch, sân bay và đường giao thông ven biển. Chính vì vậy để tăng cường sự phát triển của du lịch biển, cần có sự quan tâm hơn nữa của Chính phủ đối với việc nâng cấp, mở rộng và xây mới các công trình du lịch biển lồng ghép trong các chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng ven biển. Đầu tư cho việc đánh giá có hệ thống tiềm năng tài nguyên du lịch biển. Để có cơ sở cho việc hoạc định một chiến lược phát triển du lịch biển lâu dài, đảm bảo sự phát triển bền vững từ góc độ tài nguyên và môi trường, rất cần có được những thống kê, đánh giá một cách sát thực tiềm năng du lịch biển, đặc biệt đối với những tiềm năng đặc thù, có giá trị. Để giải quyết vấn đề này, cần thiết phải có sự hỗ trợ của Chính phủ về một chương trình điều tra tổng hợp, có hệ thống về tiềm năng và thực trạng khai thác tiềm năng du lịch biển. Đầu tư cho bảo tồn và phát triển tài nguyên du lịch biển có giá trị đặc biệt. Sự xuống cấp hiện nay của tài nguyên du lịch biển đặc biệt bao gồm cả các di sản thế giới ở vùng ven biển liên quan đến năng lực tài chính cho việc bảo tồn và phát triển những giá trị đó. Chính vì vậy, ngoài sự quan tâm hỗ trợ về vật chất kỹ thuật của Chính phủ về vấn đề này rất cần có cơ chế để sử dụng một phần kinh phí từ thu nhập du lịch phục vụ cho mục đích trên. Chính phủ cần có những ưu tiên đặc biệt với những dự án đầu tư phát triển du lịch biển có tính bền vững để khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt hiện nay là các doanh nhân Việt kiều đầu tư có chiều sâu, đảm bảo vừa phát triển du lịch biển không ngừng, vừa gìn giữ bảo tồn những nguồn tài nguyên biển đặc thù của Việt Nam. Chính sách khuyến khích phát triển du lịch ở vùng đảo xa góp phần bảo đảm chủ quyền lãnh thổ, an ninh quốc phòng. Tổng cục Du lịch cần xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng các đơn vị cung ứng dịch vụ du lịch biển có tính quy chuẩn chung làm căn cứ cho các cơ quan cấp giấy phép trong việc xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch biển. 3.1.2. Những kiến nghị đối với các cơ quan quản lý cấp địa phương về du lịch: Cùng các sở ban ngành có liên quan bàn bạc, tham mưu cho Ủy ban Nhân dân địa phương trong việc ban hành các quy định về bảo tồn và khai thác tài nguyên biển phục vụ mục đích kinh tế. Các sở du lịch cần phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền sở tại thường xuyên kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh các hoạt động tổ chức khai thác tài nguyên biển bừa bãi, đồng thời tuyên dương các doanh nghiệp kinh doanh du lịch chấp hành tốt các quy định chung. Đẩy mạnh công tác giáo dục tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân địa phương, hướng dẫn viên và khách du lịch trong việc bảo vệ tài nguyên và môi trường biển. 3.2. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH TRONG LOẠI HÌNH DU LỊCH BIỂN. Các doanh nghiệp cần xác định rõ tầm quan trọng và ý nghĩa sống còn của việc khai thác, bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên biển đối với lĩnh vực mà đơn vị mình đang kinh doanh để có được cái nhìn tích cực hơn trong mỗi chương trình, dịch vụ mà mình cung cấp. Các doanh nghiệp du lịch cần phải là những người chủ động đi đầu trong việc tuyên truyền giáo dục trước hết là cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp của mình, khách du lịch mà mình phục vụ và sau đó mới, sau đó là phối hợp với cơ quan có thẩm quyền, cơ quan có liên quan ở Trung ương và địa phương về công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường biển. Đẩy mạnh việc đầu tư phát triển cơ sở vật chất, hạ tầng theo hướng hiện đại hóa, vừa đạt mục tiêu giảm chi phí cầu thành sản phẩm dịch vụ mà mình cung cấp, vừa nhằm mục đích bảo vệ môi trường; nhắm tới những tiêu chuẩn quốc tế đặc biệt là tiêu chuẩn ISO 14001 về quản lý và bảo vệ môi trường. 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI: Thứ nhất, là phải điều chỉnh ngay cách thức quản lý, áp dụng phương pháp quy hoạch tổng thể phát triển du lịch biển gắn với quy hoạch, kế hoạch bảo vệ tài nguyên, môi trường và phương pháp quy hoạch chi tiết phù hợp với đặc điểm tài nguyên, môi trường đồng thời có sự tham gia của cộng đồng. Thứ hai, là phải áp dụng ngay các biện pháp xử phạt bằng cả hai hình thức: cảnh cáo và răn đe đối với các doanh nghiệp khai thác quá mức cho phép hoặc gây ô nhiễm môi trường: ví dụ như doanh nghiệp phải bồi thường tiền trong các trường hợp không quá nghiêm trọng hoặc bị tước quyền tham gia kinh doanh khi có những hành vi phạm quá nghiêm trọng.v.v. Thứ ba, là cần triển khai các dự án phát triển du lịch biển quan tâm nhiều tới chất lượng môi trường, đảm bảo cho du lịch biển không chỉ phát triển về quy mô mà còn cả về chất lượng. Thứ tư, là cùng Sở Tài nguyên và Môi trường xúc tiến việc đưa một số khu bảo tồn biển quốc gia vào danh sách các khu bảo tồn thiên nhiên thế giới (UNESCO), để vừa làm tăng vai trò, vị trí, tầm quan trọng của các khu bảo tồn này trên thế giới, vừa tranh thủ được sự giúp đỡ trong công tác bảo vệ, bảo tồn của bạn bè quốc tế. Kết luận Trong những năm qua, phát triển du lịch biển đã có những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác, tạo thêm nhiều việc làm cho cư dân vùng ven biển và đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước nói chung, ở vùng biển và hải đảo nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những bước phát triển đáng ghi nhận, sự phát triển du lịch biển trong thời gian qua còn không ít mặt hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra với tư cách là một trong 4 ngành kinh tế biển chủ yếu là dầu khí, thủy sản, giao thông vận tải biển và du lịch. Vì vậy vấn đề đặt ra trong những năm tới đây là toàn ngành Du lịch, đứng đầu là Tổng cục Du lịch và các địa phương ven biển cần phối hợp hành động thúc đẩy du lịch biển phát triển liên tục, bền vững để tương xứng với tiềm năng và vị trí; phấn đấu “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa” như tinh thần Chỉ thị 20-CT/TW và triển khai Nghị quyết 03/NQ-TW của Bộ Chính trị về nhiệm vụ phát triển kinh tế biển, góp phần hình thành chiến lược phát triển du lịch biển gắn với an ninh quốc phòng của đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Tổng cục Du lịch, Dự thảo luật Du lịch. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (2004), Giáo trình Kinh tế Du lịch, Nxb Lao động Xã hội. Tổng cục Du lịch (2004), Số liệu thống kê Du lịch biển. Tiềm năng Việt Nam thế kỷ XXI, Nxb Thế giới. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DU LỊCH BIỂN 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN. 1.1.1. Định nghĩa về du lịch. 1.1.2. Điều kiện để phát triển du lịch. 1.1.3. Các loại hình du lịch. 1.1.4. Du lịch biển và tài nguyên biển. 1.2.TIỀM NĂNG DU LỊCH BIỂN CỦA VIỆT NAM. 1.2.1. Vị trí địa lý. 1.2.2. Hệ thống tài nguyên du lịch biển. 1.2.3. Cơ sở kinh tế - xã hội phát triển Du lịch biển ở Việt Nam. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM. 2.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM THỜI KỲ 1995 - 2004. 2.1.1. Nhóm chỉ tiêu về khách du lịch. 2.1.2. Thu nhập từ hoạt động du lịch biển. 2.1.3. Cơ sở vật chất kĩ thuật. 2.1.4. Lao động trong loại hình du lịch biển. 2.2. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM. 2.2.1. Định hướng phát triển du lịch biển. 2.2.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. 2.2.3. Công tác quản lý nhà nước về du lịch đối với phát triển du lịch biển. 2.3. PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM ĐẶC THÙ VÀ CÁC KHU VỰC TRỌNG ĐIỂM PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN. 2.4. CÔNG TÁC PHỐI, KẾT HỢP PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN VỚI CÁC NGÀNH CÓ LIÊN QUAN TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC, ĐIỀU TRA CƠ BẢN VỀ BIỂN, ĐẢO. 2.5. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. 3.1. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH 3.2. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH TRONG LOẠI HÌNH DU LỊCH BIỂN. 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI Kết luận Tài liệu tham khảo Trang 1 2 3 4 7 7 7 8 11 14 14 15 15 16 17 17 19 20 25 27 28 29 30

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển Loại hình Du lịch Biển ở Việt Nam.doc
Luận văn liên quan