MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 3
1. Khái niệm và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt 3
1.1. Khái niệm 3
1.1.1. Định nghĩa 3
1.1.2. Đặc điểm 3
1.2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế 4
2. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt 6
2.1. Các phương tiện thanh toán quốc tế 6
2.1.1. Hối phiếu (Bill of Exchange) 7
2.1.2. Séc (Cheque, Check) 8
2.1.3. Kỳ phiếu (Promissory note) 9
2.1.4. Thẻ thanh toán (Credit card) 9
2.2. Các phương thức thanh toán quốc tế 10
2.2.1. Phương thức chuyển tiền (Remittance) 11
2.2.2. Phương thức ghi sổ (Open account) 13
2.2.3. Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of payment) 14
2.2.4. Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary credit) 17
2.3. Các phương thức thanh toán giữa các ngân hàng 20
2.3.1. Thanh toán liên ngân hàng (Interbank of payment) 20
2.3.2. Phương thức thanh toán bù trừ (Clearing of payment) 21
2.3.3. Thanh toán qua tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước (Payment by account settled at National bank) 22
3. Các nhân tố tác động đến thanh toán không dùng tiền mặt 22
3.1. Nhân tố khách quan 22
3.1.1. Nhóm yếu tố chính trị, xã hội, pháp luật 22
3.1.2. Nhóm yếu tố kinh tế 23
3.1.3. Nhóm yếu tố về khoa học công nghệ 24
3.1.4. Yếu tố tâm lý 25
3.2. Nhân tố chủ quan 25
3.2.1. Chiến lược phát triển của ngân hàng 25
3.2.2. Trình độ của thanh toán viên 26
3.3. Các văn bản pháp lý và các quy định trong thanh toán không dùng tiền mặt. 26
3.3.1. Văn bản pháp lý 26
3.3.2. Các quy định trong thanh toán tiền mặt 27
4. Quá trình phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt 29
4.1. Quá trình phát triển của công tác thanh toán 29
4.2. Quá trình phát triển của công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam 30
4.2.1. Trước năm 1990 30
4.2.2. Sau năm 1990 31
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở VIỆT NAM 34
1. Môi trường kinh tế và hoạt động của hệ thống ngân hàng 34
2. Tình hình thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam 40
2.1. Tình hình chung 40
2.2. Thực trạng của từng phương thức 45
2.2.1. Thanh toán bằng séc 45
2.2.2. Phương thức dùng thẻ thanh toán. 49
Hộp 2 53
2.2.3. Thanh toán bằng phương thức chuyển tiền 56
3. Đánh giá chung tình hình thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt nam hiện nay 58
3.1. Những kết quả đạt được 58
3.2. Những hạn chế 60
3.3. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế 63
3.3.1. Từ phía khách hàng 63
3.3.2. Từ phía ngân hàng. 65
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 68
1. Một số mục tiêu định hướng và phương hướng thực hiện trong thời gian tới của ngân hàng nhà nước 68
1.1. Một số mục tiêu định hướng của ngân hàng Nhà nước 68
1.2. Phương hướng thực hiện 69
2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thanh toán không dùng tiền mặt 71
2.1. Áp dụng cho mọi phương thức thanh toán 71
2.1.1. Đào tạo đội ngũ cán bộ 71
2.1.2. Cải tiến các hình thức thanh toán truyền thống 72
2.1.3. Phát triển các hình thức thanh toán hiện đại 72
2.1.4. Mở rộng các loại hình dịch vụ ngân hàng 73
2.1.5. Môt số giải pháp thu hút dân cư mở tài khoản các nhân và thanh toán qua ngân hàng. 74
2.1.6. Giải pháp về Marketing 75
2.2. Áp dụng cho từng phương thức 76
2.2.1. Thanh toán bằng séc 76
2.2.2. Thanh toán bằng thẻ thanh toán 77
2.2.3. Thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ 80
2.2.4. Thanh toán bằng hình thức chuyển tiền và nhờ thu. 82
3. Kiến nghị nhằm thực hiện giải pháp thanh toán không dùng tiền mặt 84
3.1. Đối với Nhà nước 84
3.1.1. Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước : 84
3.1.2. Cải thiện Cán cân Thanh toán Quốc tế 85
3.1.3. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 86
3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước 87
3.3. Đối với khách hàng 88
KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
101 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2847 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển và hoàn thiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam - Một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không có thiện chí thực hiện trách nhiệm của mình đối với một nghiệp vụ thanh toán. Ngoài ra còn có hiện tượng khách hàng bị đối tác nước ngoài lừa, đặc biệt trong mấy năm gần đây, buôn bán tiểu ngạch phát triển rầm rộ, nhiều doanh nghiệp hăm hở gom hàng để xuất khẩu. Sau một vài phi vụ nhỏ làm ăn trót lọt, đến phi vụ lớn bị đối tác nước ngoài ép giá buộc phải bán tống, bán tháo, thậm chí bị đối tác lừa trong điều kiện chứng từ thanh toán bằng tín dụng thư đã mở. Hậu quả là tiền mất, tật mang, một số giảm đốc phải ra hầu toà, còn ngân hàng trong mối quan hệ liên quan hoặc là chủ nợ, hoặc là trung gian thanh toán đều bị vạ lây. Chính điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt.
3.3.2. Từ phía ngân hàng.
*). Hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập:
Vốn tự có của ngân hàng thương mại đều rất thấp, tỷ lệ Vốn tự có/ Tổng tài sản có đều nhỏ hơn 8% (hệ số Cooke), lợi nhuận ròng hàng năm không nhiều. Hơn nữa các qui chế hiện hành về việc sử dụng vốn tự có và lợi nhuận trong kinh doanh ngân hàng để đầu tư vào tài sản cố định còn rất khắt khe và cản trở các ngân hàng trong việc phát triển công nghệ hiện đại.
Các ngân hàng Việt Nam hiện nay nhìn chung vẫn đang ở xuất phát điểm thấp, còn nặng về các sản phẩm dịch vụ truyền thống, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng còn rất đơn điệu và chậm phát triển (với khoảng 300 sản phẩm), trong khi đó, ngân hàng các nước trong khu vực có đến hàng nghìn sản phẩm, ở ngân hàng Nhật có đến 6000 sản phẩm. Cần phải mở rộng và hiện đại hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các sản phẩm ngân hàng chủ chốt (Corebanking) cũng còn đang đơn điệu, ít ỏi nên khả năng hỗ trợ các dịch vụ trực tuyến chưa cao.
Công nghệ ngân hàng nhìn chung còn rất lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu về thanh toán ngày càng cao của khách hàng. Đội ngũ nhân viên quá đông nhưng số người đáp ứng được yêu cầu của mô hình kinh doanh mới không nhiều.
*). Trong tổ chức thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế:
Nhìn chung mô hình tổ chức hoạt động thanh toán còn nhiều bất cập, nhiều ngân hàng còn chưa giao quyền chủ động hoàn toàn cho chi nhánh. Bên cạnh một số ngân hàng như Vietcombank, các chi nhánh ngân hàng được quyền trực tiếp thiết lập quan hệ đại lý và mở tài khoản vãng lai ở ngân hàng nước ngoài thì có nhiều ngân hàng như ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam các chi nhánh phải mở tài khoản ngoại tệ tại các sở đầu mối, thực hiện các dịch vụ thanh toán thông qua các sở đầu mối. Ngoài ra, còn có trường hợp sự phân chia trách nhiệm, quyền hạn thực hiện các giai đoạn qui trình nghiệp vụ giữa sở đầu mối và các chi nhánh nhiều khi trùng lặp. Chúng ta có thể thấy một ví dụ điển hình như ở ngân hàng Nông nghiệp và Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thăng Long, khi khách hàng có nhu cầu mở L/C trả chậm và chấp nhận ký quĩ 100% trị giá của L/C, nhưng hiện tại, Chi nhánh Thăng Long vẫn phải gửi báo cáo lên trụ sở chính để theo dõi và thực hiện. Điều này đã làm kéo dài thời gian luân chuyển chứng từ đồng thời không phát huy được tính linh hoạt của các thanh toán viên - người trực tiếp giao dịch với khách hàng.
*). Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ
Thứ nhất: Khi thực hiện một L/C nhập khẩu, việc ký quĩ là rất quan trọng. Nhưng hiện nay các ngân hàng thương mại vẫn coi nhẹ việc đánh giá tài chính để xác định mức ký quĩ. Hiện tại các ngân hàng thương mại đều không quy định mức ký quĩ cụ thể mà trao quyền cho các phòng nghiệp vụ thẩm định và đề xuất mức ký quĩ. Nhưng sau một thời gian cần phải đánh giá lại thì lại không thực hiện đánh giá lại để đảm bảo tính chính xác. Một khi mức ký quĩ không được đảm bảo thì dẫn đến rủi ro đặc biệt là rủi ro về tỷ giá. Vì khi nhập hàng, người nhập khẩu không thể đo lường hết được mức độ trượt giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ (USD) nên khi hàng nhập về, tỷ giá biến động mạnh thì đối với những mặt hàng bán giá cạnh tranh không thể tăng giá được, người nhập khẩu không muốn nhận hàng vì sợ lỗ. Do vậy, nếu tỷ lệ ký quĩ không bù đắp được mức độ trượt giá của nội tệ thì rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng mở.
Thứ hai: Đa số ngân hàng thương mại chưa tự cân đối được ngoại tệ giữa xuất và nhập, nguồn ngoại tệ huy động được chủ yếu gửi Sở giao dịch chính để hưởng phí nên chi nhánh của nó phải phụ thuộc vào cơ chế và phí điều hoà dẫn đến sự chủ động trong sử dụng vốn chưa cao.
Trong thời gian qua, có thời điểm ngoại tệ khan hiếm, nhiều ngân hàng đã phải chấp nhận mua tỷ giá cao, đôi khi chấp nhận lỗ để phục vụ kịp thời nhu cầu nhập khẩu của khách hàng. Tuy vậy, điều này vẫn có thể giảm sự cạnh tranh so với các ngân hàng khác, ảnh hưởng đến nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
Ngoài những nguyên nhân từ phía khách hàng cũng như từ phía ngân hàng, chúng ta còn phải quan tâm đến những nguyên nhân từ phía Nhà nước.
Thứ nhất: Môi trường kinh tế vẫn chưa thật ổn định, có nghĩa là ngân hàng còn phải đối mặt với nhiều rủi ro khó lường. Chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh. Năng lực sản xuất của ngân hàng đã yếu do công nghệ và trình độ còn lạc hậu lại phải cạnh tranh gay gắt với đối thủ từ bên ngoài; điều này đã ảnh hưởng nghiêm trong tới các phương thức thanh toán tại ngân hàng.
Thứ hai: Môi trường pháp lý cho hoạt đông kinh doanh ngân hàng chưa đồng bộ và cũng đang trong quá trình hoàn thiện. Đáng chú ý là luật Các tổ chức tín dụng, luật Ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập, cần phải bổ sung và sửa đổi. Hơn nữa, còn nhiều phương thức thanh toán chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể, làm cho các phương thức này không được sử dụng rộng rãi, gây nên sự tụt hậu so với các thị trường ngân hàng khác trên thế giới.
CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
1. MỘT SỐ MỤC TIÊU ĐỊNH HƯỚNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG THỰC HIỆN TRONG THỜI GIAN TỚI CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
1.1. Một số mục tiêu định hướng của ngân hàng Nhà nước
Một là: Phát triển dịch vụ trong dân cư là một mục tiêu chiến lược nhằm mở rộng thị trường nâng cao hiệu quả và năng lực của ngành ngân hàng Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ đó sẽ thúc đẩy mạnh mẽ quá trình gửi tiền tiết kiệm vào đầu tư, nâng cao tỷ trọng đầu tư của dân chúng lên .
Hai là: Tổ chức dịch vụ tiền tệ dân cư thuận tiện, an toàn, đưa lại lợi ích cho khách hàng sử dụng, xây dựng thành tập quán sử dụng séc, thẻ nhựa, uỷ nhiệm thanh toán định kỳ để thay thế tập quán sử dụng tiền mặt, giảm tỷ trọng khối tiền mặt trên diện rộng M2 xuống dưới 10% vào nửa đầu thế kỷ 21.
Ba là: Tăng mạnh khối lượng và phạm vi cung ứng dịch vụ ngân hàng trong dân cư đưa doanh số thanh toán không dùng tiền mặt ngân hàng đến năm 2005 gấp đôi năm 2001 và đến năm 2020 gấp khoảng 15 – 16 lần năm 2001. Bằng mở rộng dịch vụ tiền tệ dân cư để điều chỉnh cơ cấu lao động; giảm mạnh lao động trong lĩnh vực liên quan, đặc biệt là trong khâu tiền mặt của ngân hàng nhà nước; của các tổ chức tín dụng và giảm lao động kho quĩ ở các doanh nghiệp, công sở, hộ kinh doanh cá thể.
Bốn là: Sớm triển khai và hoàn thiện chương trình hiện đại hoá trên toàn hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, các ngân hàng phải có sự kết hợp đồng bộ với nhau, tránh tình trạng mỗi ngân hàng làm một phách. Một số tổ chức tín dụng cần triển khai mạnh mẽ hơn nữa phương án thành lập công ty cổ phần tin học ngân hàng; trong đó ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về mặt thủ tục để mô hình công ty này sớm đi vào hoạt động.
Năm là: Thu hẹp tối đa thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế để tạo cơ hội hạn chế dẫn đến xoá bỏ tệ nạn tham nhũng công quĩ; tôn trọng pháp luật, bảo đảm công khai, công bằng và văn minh xã hội. Từ đó tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế của ngành ngân hàng theo quyết định số 683/QĐ-NHNN ngày 26/06/2003 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.2. Phương hướng thực hiện
Bám sát vào những mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra của ngành ngân hàng để từ đó đưa ra những phương hướng thực hiện hữu hiệu nhất cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng. Các ngân hàng cần đầu tư hơn nữa vào thị trường truyền thống, trên cơ sở phân loại khách hàng thực hiện đầu tư trực tiếp và mở rộng cho vay thông qua tổ nhóm tín chấp, đáp ứng đủ vốn cho các thành phần kinh tế nhằm phát triển sản xuất kinh doanh.
Các ngân hàng mở rộng vốn huy động tại chỗ, củng cố chất lượng hoạt động của hệ thống mạng lưới, coi trọng việc đổi mới phong cách giao dịch, tiếp khách văn minh lịch sự để tạo niềm tin và uy tín đối với khách hàng. Bên cạnh đó thực hiện giao các chỉ tiêu huy động vốn đến cho bộ phận kế toán, đưa các hình thức đa dạng về sản phẩm như chính sách lãi suất, kỳ hạn, các hình thức khuyến mại để thu hút khách hàng…và tổ chức tốt công tác tuyên truyền, quan tâm huy động tiền gửi không kỳ hạn từ các tổ chức kinh tế, khách hàng lớn với lãi suất thấp như: Kho bạc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội… nhằm hạ lãi suất đầu vào. Hơn nữa, các ngân hàng sẽ đa dạng hoá các hình thức tiền gửi cá nhân, tiền gửi tiết kiệm, mở rộng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ trên một năm. Ngoài ra, mỗi ngân hàng còn phải tiếp cận với các dự án lớn, phối hợp với các ngân hàng thương mại khác tham gia các dự án tài trợ hoặc làm đầu mối thu xếp cho các dự án lớn, chủ động tiếp cận và mở rộng quan hệ tín dụng với các tổng công ty lớn và các đơn vị thành viên, đồng thời tiếp cận với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất, kinh doanh hiệu quả để thiết lập và mở rộng mối quan hệ tín dụng thanh toán.
Mỗi ngân hàng cần tăng cường đổi mới, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế. Tiếp tục đổi mới hệ thống thiết bị vi tính, tiếp nhận và triển khai các mạng thanh toán mới và áp dụng chương trình giao dịch một cửa, cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi giao dịch với ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện làm việc, xây dựng chương trình phần mềm giao dịch đồng bộ đáp ứng nhu cầu quy trình điều hành, qui trình nghiệp vụ đặc thù của từng ngân hàng và khai thác tốt cơ sở dữ liệu trong quá trình nghiệp vụ nhằm nâng cao uy tín, cạnh tranh của ngân hàng.
Củng cố bộ máy tổ chức của ngân hàng đảm bảo đủ mạnh, cải tiến lề lối làm việc, tổ chức chặt chẽ tác phong nghiệp vụ để nâng cao chất lượng nghiệp vụ, đáp ứng tốt nhất nghiệp vụ cho khách hàng, kể cả khách hàng gửi tiền, khách hàng vay tiền cũng như khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán, tăng cường khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng về chất lượng dịch vụ.
Phải tập trung hiện đại hoá bộ máy thanh toán, nâng cao chất lượng dịch vụ hiện có như: Dịch vụ chuyển tiền nhanh, chuyển tiền điện tử… và từng bước mở rộng các loại hình dịch vụ khác như: Thanh toán thẻ, séc du lịch, nối mạng thanh cho khách hàng, chuyển tiền mua bán, thanh toán ngoại tệ…Những dịch vụ này nhằm giảm tối đa lao động thủ công đối với các nghiệp vụ chuyên môn, điều hành.
Ngân hàng nên xây dựng phương án đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi cả về nghiệp vụ lẫn kỹ năng giao tiếp, cấp quản lý phải có kế hoạch phân loại cán bộ để có kế hoạch đào tạo cho phù hợp.
2. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
2.1. Áp dụng cho mọi phương thức thanh toán
2.1.1. Đào tạo đội ngũ cán bộ
Con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thành công trong sự nghiệp phát triển của đất nước cũng như của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Để trở thành một ngân hàng luôn đổi mới nghiệp vụ kinh doanh một cách có hiệu quả, cán bộ và nhân viên ngân hàng, nhất là người đứng đầu các bộ phận phải có trách nhiệm cao, làm việc với động cơ vì uy tín và sự thành đạt của ngân hàng. Những người này còn phải có trình độ nghiệp vụ cao, hiểu biết và có khả năng xử lý nhiều loại giao dịch phức tạp, đồng thời phải có khả năng giao tiếp tốt và thành thạo ngoại ngữ. Muốn làm được điều này, các ngân hàng phải có chế độ làm việc, khuyến khích tặng thưởng, đề bạt nhân sự phù hợp. Ngân hàng nên nghiên cứu, sớm áp dụng các biện pháp khuyến khích vật chất cũng như tinh thần cho cán bộ; tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, động viên toàn cán bộ phát huy hết khả năng góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch đề ra.
Tuy nhiên, quan trọng hơn tất cả là hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ của ngân hàng. Việc đào tạo chuyên môn của toàn ngân hàng nói chung và của phòng thanh toán quốc tế nói riêng sẽ là bước đầu cho việc áp dụng các hình thức giao dịch thanh toán mới. Việc đào tạo cần quan tâm đến kiến thức mới của kinh tế thị trường như: Marketing ngân hàng, phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng, phân tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng, dự đoán rủi ro có cơ sở khoa học, môi trường vi mô và môi trường vĩ mô trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho chính khách hàng mà còn củng cố thêm vị trí của sở trong thời gian tới. Sau đây là một số giải pháp cụ thể:
Đào tạo và đào tạo lại, nâng cao trình độ cán bộ cũ, đào tạo bổ sung kiến thức cho nhân viên mới tuyển dụng.
Đa dạng hoá loại hình đào tạo, thường xuyên tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, cử cán bộ đi học nâng cao.
Tổ chức các buổi dự thảo nhằm truyền đạt kinh nghiệm trong xử lý tình huống.
Tổ chức các kỳ thi sát hạch kiểm tra và tuyển chọn cán bộ có trình độ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm.
2.1.2. Cải tiến các hình thức thanh toán truyền thống
Đã có rất nhiều hình thức thanh toán được sử dụng ở nước ta, nhưng có những hình thức chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Ngân hàng Nhà nước cũng như các ngân hàng thương mại nên có sự đúc rút kinh nghiệm, cần có những thể lệ, chế độ đối với các hình thức này để chúng thực sự có hiệu quả. Trong các hình thức đó, hình thức nên được quan tâm nhiều hơn nữa là thương phiếu. Do tình hình thực tế ở Việt Nam nên thương phiếu chưa thực sự phát triển. Ngân hàng nên đứng ra làm hợp đồng và bảo lãnh cho các khách hàng có nhu cầu thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ bằng thương phiếu. Đối với các doanh nghiệp có thương phiếu nhưng chưa đến hạn thanh toán mà họ lại cần ngay một lượng tiền, ngân hàng có thể giúp đỡ họ bằng cách chiết khấu các thương phiếu đó.
2.1.3. Phát triển các hình thức thanh toán hiện đại
Hiện nay trên thế giới đã xuất hiện rất nhiều hình thức thanh toán hiện đại. Chúng cũng được sử dụng rộng rãi trong mọi hoạt động thanh toán của dân chúng cũng như của các tổ chức tài chính và xã hội. Ở Việt Nam cũng đã có nhiều hình thức thanh toán mới như thanh toán bằng máy ATM, thanh toán qua mạng diện thoại di động, thanh toán qua mạng Internet…nhưng chúng chưa được sử dụng một cách rộng rãi, chỉ mới trong giai đoạn thử nghiệm và cung cấp cho một số ít khách hàng. Một trong những biện pháp nhằm đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt là phát triển các hình thức thanh toán hiện đại này.
Một điều dễ nhận thấy là để phát triển các hình thức thanh toán hiện đại này cần phải có một hệ thống máy móc tối tân với lượng vốn lớn, nền móng khoa học công nghệ cao, các chuyên gia về máy móc cũng như nhân viên thanh toán phải có trình độ và bề dày kinh nghiệm. Tuy nhiên, phải đánh giá một cách khách quan là hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam mới chỉ vừa “tỉnh giấc” sau một thời gian dài của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Vì vậy, cách giải quyết tốt nhất là Việt Nam phải “đi tắt đón đầu” tiếp thu công nghệ của các nước phát triển, nhập máy móc thiết bị của họ một cách có chọn lọc, mua lại phần mềm hướng dẫn cách sử dụng các phương thức thanh toán hiện đại và cải tiến để phù hợp với nhu cầu thanh toán và tình hình thực tế của Việt Nam.
2.1.4. Mở rộng các loại hình dịch vụ ngân hàng
Trong nền kinh tế toàn cầu, đòi hỏi các ngân hàng phải có đủ năng lực tài trợ, đáp ứng nhu cầu quản trị rủi ro cho các công ty, bất kể lớn hay nhỏ, ở khắp nơi trên thế giới. Họ cũng cần có khả năng luân chuyển vốn xuyên biên giới và chuyển dịch nguồn vốn kịp thời đến các khu vực đang phát triển nhanh cũng như các loại hình kinh doanh có lợi.
Chìa khóa để đạt được thành công là đòi hỏi các ngân hàng thương mại nói chung phải có hoạt động truyền thống về tiếp nhận cho vay, uỷ thác, chuyển tiền… sang một nghiệp vụ mới thích hợp và độc đáo hơn. Những sáng kiến đổi mới một cách linh hoạt và phát huy nhiều kỹ năng sáng tạo hữu hiệu sẽ giúp các ngân hàng có lợi thế trong kinh doanh tiền tệ và chứng khoán, trong hoạt động thiết kế và phân bố sản phẩm mới. Những loại hình dịch vụ mới của ngân hàng trong thanh toán không dùng tiền mặt có thể là: Dịch vụ tư vấn thông tin, dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ tư vấn pháp luật; mở rộng loại hình dịch vụ ngân hàng tại nhà; dịch vụ thuê mua, dịch vụ mua bán chứng khoán…Những loại hình dịch vụ mới này đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều yếu tố, không thể thực hiện được một sớm một chiều, cần phải có sự hỗ trợ chung của toàn hệ thống cũng như sự phối hợp của các ngân hàng bạn, nó cũng đòi hỏi cán bộ lãnh đạo phải có hướng đi đúng đắn cho Sở giao dịch của mình.
2.1.5. Môt số giải pháp thu hút dân cư mở tài khoản các nhân và thanh toán qua ngân hàng.
Phương thức thanh toán trong dân cư hiện nay chủ yếu là phương thức thanh toán tiền mặt trao tay. Tỷ lệ người dân mở tài khoản cá nhân còn ít, lượng giao dịch thanh toán qua ngân hàng chưa nhiều. Ngân hàng cần có biện pháp kích thích dân cư mở tài khoản cá nhân và tuyên truyền quảng cáo để họ biết được lợi ích của việc mở tài khoản cá nhân. Các biện pháp khuyến khích có thể là: Giảm chi phí hoặc không thu phí dịch vụ thanh toán qua ngân hàng của dân cư; tăng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của dân cư cao hơn mức lãi suất cho các doanh nghiệp vay; trường hợp một số khách hàng hội đủ điều kiện, ngân hàng có thể ưu đãi lãi suất cho vay và thời gian thẩm định khi khách hàng có nhu cầu vay. Thêm nữa, ngân hàng cần phát triển qui mô mạng lưới cung cấp giữa các ngân hàng nhằm giảm chi phí. Từ đó, ngân hàng sẽ đưa và phát triển một số dịch vụ nhằm khuyến khích dân cư thanh toán qua tài khoản mở tại ngân hàng của mình:
- Thứ nhất, ngân hàng nên đưa và phát triển dịch vụ chi trả tiền lương cho cán bộ công nhân viên qua ngân hàng. Xuất hiện dịch vụ này là do hiện nay xuất hiện nhu cầu của các cơ quan nhờ ngân hàng trích từ tài khoản tiền gửi trả lương cho cán bộ công nhân viên theo danh sách; công nhân viên có nhu cầu dành một phần tiền lương gửi ở tài khoản cá nhân; công nhân viên có nhu cầu thanh toán một số khoản chi phí như chi phí điện nước, bảo hiểm theo định kỳ. Chính vì vậy, các ngân hàng nên tiếp cận các doanh nghiệp để các doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ này, tạo thói quen thanh toán qua tài khoản cá nhân.
- Thứ hai, ngân hàng nên phát triển nghiệp vụ cho vay đời sống, tổ chức thu nợ hàng tháng từ tài khoản cá nhân. Bởi vì, sau khi Chính phủ có chủ trương kích cầu tiêu dùng, ngành ngân hàng đã triển khai mạnh nghiệp vụ cho vay và đã thu được những kết quả khá khả quan góp phần “xã hội hoá” công tác ngân hàng. Tuy nhiên, cần gắn kết các nghiệp vụ cho vay hơn nữa phục vụ đời sống cán bộ công nhân viên. Ngoài ra, để thực hiện thu nợ tốt hơn đối với những khách hàng đã có tài khoản cá nhân, ngân hàng nên thu nợ hàng tháng bằng cách rút tiền từ tài khoản của họ.
- Thứ ba, ngân hàng nên thúc đẩy việc thực hiện các nghiệp vụ môi giới, trung gian thanh toán, hỗ trợ vốn trong giao dịch mua bán bất động sản và mua bán các tài sản có giá trị lớn qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Bằng cách này, ngân hàng vừa nâng cao sức cạnh tranh của mình với các ngân hàng khác, vừa tăng doanh số; vừa thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2.1.6. Giải pháp về Marketing
Hoạt động ngân hàng là hoạt động có tính cạnh tranh sâu sắc. Vì thế, để khai thác triệt để thế mạnh, khắc phục những điểm yếu, mỗi ngân hàng cần có chính sách Marketing hoàn chỉnh và hợp lý. Một chiến lược phù hợp phải nhằm vào ba mục tiêu chính: Tăng khả năng sinh lợi, tăng sức mạnh cạnh tranh, an toàn trong kinh doanh. Chính vì thế các ngân hàng cần:
Xác định thị trường hiện tại cũng như thị trường tiềm năng cho các dịch vụ thanh toán. Xác định thị trường cụ thể để xác định và phục vụ được nhu cầu của khách hàng trên đoạn thị trường đó, từ đó rút ra kinh nghiệm và những biện pháp để phục vụ khách hàng tốt nhất.
Chính sách Marketing của ngân hàng phải bao gồm được 4 chính sách lớn: Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra; chính sách giá cả; chính sách phân phối; chính sách giao tiếp – khuyếch trương. Ngân hàng phải kết hợp linh hoạt 4 chính sách này thu hút khách hàng, mở rộng mạng lưới tiêu thụ cũng như đánh bại đối thủ cạnh tranh.
Ngân hàng cần có một đội chuyên trách phân tích, tổng hợp các thông tin về khách hàng. Hoạt động chăm sóc khách hàng phải được thực hiện một cách thường xuyên và chu đáo hơn. Ngân hàng nên có hình thức ưu đãi như ưu đãi về phí dịch vụ thanh toán, ưu đãi về lãi suất ..., đồng thời phát triển tốt mối quan hệ với khách hàng cũ và không ngừng tìm kiếm và tạo mối quan hệ với khách hàng mới. Ngân hàng cần sẵn sàng cạnh tranh với các đối thủ khác bằng chính chất lượng sản phẩm, tinh thần thái độ phục vụ đặc biệt là dịch vụ hoàn hảo, chất lượng cao để thu hút khách hàng. Để làm được điều này, ngân hàng cần tiếp tục nghiên cứu chu kỳ sống của các sản phẩm, dịch vụ do ngân hàng cung cấp giúp công tác kế hoạch hoá sản phẩm, nghiên cứu và phát triển dịch vụ thích hợp với từng thị trường trong từng giai đoạn cụ thể để khai thác thị trường đó với hiệu quả cao nhất.
2.2. Áp dụng cho từng phương thức
2.2.1. Thanh toán bằng séc
Séc là một lĩnh vực không còn mới ở Việt Nam song tính phổ dụng còn thấp và chưa có một sự đầu tư đáng kể nào, vì vậy séc chưa được hình thành thành một thị trường thống nhất. Hiện nay trên thế giới đã hình thành hai mô hình để xây dựng trung tâm xử lý séc: Mô hình cũ (xử lý séc truyền thống) và mô hình mới (mô hình có sự can thiệp của công nghệ hiện đại). Ở Việt Nam nên đi theo con đường thứ hai. Việt Nam là một nước đi sau, vì vậy rút ngắn thời gian là một việc làm cần thiết. Việt Nam có thể xây dựng thị trường séc bằng các biện pháp sau:
Ngân hàng có thể thành lập trung tâm xử lý séc ở ba miền như: Hà Nội - Đà Nẵng – Thành phố Hồ Chí Minh. Sự lựa chọn này là có cơ sở, bởi vì 3 thành phố này chiếm tới 80 % số lượng séc trong toàn quốc Nguồn: Tạp chí Tin học ngân hàng số 2/2003
. Bên cạnh đó, ngân hàng nên cho phép sử dụng rộng rãi séc ở ngoài phạm vi các thành phố, tỉnh cùng tham gia vào trung tâm này.
Các chi nhánh ngân hàng sẽ gửi tờ séc và các thông tin về séc đến ngân hàng nhà nước để kiểm tra, kiểm soát chúng và thanh toán bù trừ, sau đó phân loại và gửi các séc đến ngân hàng phát hành. Ngoài việc thanh toán qua trung tâm bù trừ, các ngân hàng trên cùng địa bàn có thể mở tại nhau các tài khoản song biên clearing. Tài khoản này hoạt động trên nguyên tắc phục vụ lẫn nhau việc thu hộ, chi hộ trong những phạm vi thanh toán đã được thoả thuận trước giữa các ngân hàng với nhau trong đó có séc cá nhân. Đến kỳ các ngân hàng đối chiếu song biên với nhau để quyết toán số tiền đã thu hộ, chi hộ và thanh toán với nhau các khoản phải thu, phải chi. Các ngân hàng không nên tính lãi những tài khoản này, không bắt buộc duy trì số dư ký quĩ khi làm thủ tục mở và trong suốt quá trình hoạt động. Tài khoản song biên này sẽ giúp cho quá trình thanh toán séc được nhanh chóng hơn và khi có sự cố sẽ rút ngắn thời gian xử lý.
Ngân hàng nên phát hành thẻ séc dùng song song với séc cá nhân. Mục đích của việc ra đời thẻ này là tạo tâm lý an tâm khi sử dụng và hạn chế khả năng sử dụng thẻ bất hợp pháp. Trên thẻ séc ghi đầy đủ các yếu tố để đảm bảo cho thanh toán như: Họ tên chủ tài khoản, địa chỉ, số chứng minh nhân dân, số hiệu, tên ngân hàng giao dịch, số của thẻ séc. Khi người thụ hưởng có tài khoản ở một ngân hàng và muốn phát hành séc, ngân hàng sẽ cấp cho chủ tài khoản một thẻ séc kèm theo số séc đã nhượng, có nghĩa là ngân hàng nhượng séc đảm bảo khả năng chi trả cho người thụ hưởng, có thể gọi đây là chứng chỉ thanh toán do ngân hàng nơi mở phát hành cho người sử dụng séc, một loại dùng trong phát hành séc không thể chuyển nhượng. Có thể khi cần thiết ngân hàng nên nghiên cứu thủ tục uỷ quyền sử dụng thẻ séc giống như người được uỷ quyền phát hành séc hiện nay.
Ngân hàng cũng nên quan tâm đến séc cá nhân có đảm bảo khả năng chi trả của ngân hàng thương mại. Từ một bộ phận dân cư có sử dụng séc thanh toán (Có bảo chi cả sổ séc lẫn mức khống chế không quá một số tiền nhất định khi mỗi tờ séc trao tay) có tác dụng kích thích nhu cầu thanh toán. Tuỳ theo từng giai đoạn, ngân hàng có thể qui định séc không được chuyển nhượng và séc được chuyển nhượng. Đối với những khách hàng có uy tín hoặc có những đảm bảo phù hợp, ngân hàng có thể cấp tín dụng bằng cách áp dụng hình thức thấu chi (Tính lãi tiền vay khi vượt quá số dư trong một thời hạn nhất định). Với doanh nghiệp khi bán hàng cho dân cư sử dụng séc thanh toán thì doanh số bán hàng bằng các hình thức thanh toán qua ngân hàng nên được miễn hoặc giảm thuế trong những thời kỳ nhất định.
2.2.2. Thanh toán bằng thẻ thanh toán
Nghiệp vụ thẻ là một trong những nghiệp vụ mới mẻ của ngân hàng bán lẻ . Nó đang phát triển với tốc độ lớn, qui mô rộng nên việc tìm hiểu và quản trị rủi ro là vấn đề cần được quan tâm đối với những đối tác tham gia nghiệp vụ này. Rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán thẻ có thể hiểu là khả năng tổn thất tài chính hoặc giảm lợi nhuận kinh doanh so với dự kiến của chủ thẻ, của ngân hàng phát hành, của ngân hàng thanh toán hoặc của đơn vị chấp nhận thẻ; kể cả khả năng giảm hoặc mất cơ hội kinh doanh hay cơ hội thoả mãn mong muốn của các chủ thể này.
Trong thời gian tới ngân hàng nên mở rộng mạng lưới các cơ sở chấp nhận thẻ nhất là ở những nơi có giao dịch lớn tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng dùng thẻ để thanh toán hàng hoá và dịch vụ. Ngân hàng có thể đưa ra các biện pháp như: Lắp đặt máy kiểm tra và thanh toán thẻ miễn phí, thu phí thấp hơn hoặc không thu phí trong thời gian đầu đối với cơ sở chấp nhận thẻ. Đồng thời ngân hàng cần có biện pháp khuyến khích các ngân hàng thương mại chấp nhận thanh toán cả thẻ nội địa lẫn thẻ quốc tế.
Ngân hàng Nhà nước nên thành lập và phát triển trung tâm thẻ quốc gia để làm cầu nối giữa các ngân hàng thương mại chưa là thành viên của các tổ chức thẻ quốc tế đồng thời là người bảo trợ cho các ngân hàng này. Trung tâm xử lý thẻ sẽ điều hành toàn bộ hoạt động thanh toán thẻ tại các ngân hàng và các điểm thanh toán thẻ: Cấp phép thanh toán và xử lý các hoá đơn thanh toán. Việc thành lập hệ thống thanh toán bù trừ và tỷ giá chuyển đổi giữa VND và ngoại tệ trong thanh toán thẻ quốc tế ở Việt Nam thiết nghĩ là một việc làm cần thiết. Tập trung phối hợp với các tổ chức thẻ quốc tế và các cơ quan an ninh quốc tế phòng chống tội phạm trong lĩnh vực thẻ.
Hạn chế và rủi ro tín dụng: Ngân hàng cần cân nhắc xem xét kỹ lưỡng các trường hợp cho vay tín chấp để phát hành thẻ; đặc biệt là với thẻ có hạn mức đặc biệt (V.I.P). Lưu ý với chủ thẻ các quyền lợi của họ, đặc biệt cần lưu ý về các nghĩa vụ của chủ thẻ đối với ngân hàng khi sử dụng dịch vụ này. Ngân hàng cần theo dõi chặt chẽ việc sử dụng thẻ và tình hình chi tiêu của các chủ thẻ, chú ý và có biện pháp theo từng bước đối với các chủ thẻ trì hoãn hoặc không chịu thanh toán sao kê để thông báo, nhắc nhở, khuyến cáo, khoá thẻ tạm thời hoặc chấm dứt hợp đồng thẻ tuỳ theo hành vi của chủ thẻ.
Hạn chế rủi ro trong phát hành và sử dụng thẻ: Cán bộ phát hành phải kiểm tra, xác minh các thông tin phát hành thẻ và các thông tin của khách hàng một cách kỹ lưỡng bằng nhiều hình thức phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Ngoài ra, các cán bộ phát hành phải đảm bảo các nguyên tắc an toàn như: Thẻ và PIN phải được giao tận tay chủ thẻ hoặc thẻ và PIN (Personal inden tification number – số nhận dạng cá nhân) phải được gửi cách biệt nhau. Bên cạnh đó, ngân hàng nên đẩy mạnh việc sử dụng chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức thẻ quốc tế như: phải thường xuyên và cập nhật các thông tin trên các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức thẻ quốc tế như SAFE của Mastercard, GFIS, CRIS của Visa. Ngân hàng nên thường xuyên cập nhật vào hệ thống quản lý danh sách thẻ mất cắp, thẻ bị hạn chế và thẻ cấm lưu hành…
Mua bảo hiểm cho nghiệp vụ thẻ nếu có hoặc trích lập dự phòng rủi ro để bù đắp phát sinh từ nghiệp vụ phát hành thẻ.
Hạn chế rủi ro nội bộ: Thường xuyên kiểm tra hệ thống máy tính của mình, đảm bảo tính liên tục và ổn định. Tăng cường kiểm soát các bước thực hiện nghiệp vụ của các cán bộ làm việc trực tiếp. Hạn chế tối đa tình trạng trục trặc kỹ thuật trong hệ thống, khi hệ thống ngừng hoạt động hoặc phát hiện sai sót phải có biện pháp sửa chữa và xử lý kịp thời.
Một câu hỏi đặt ra cho Việt Nam là làm thế nào để từ 5 – 10 năm tới thị trường thẻ ở Việt Nam phát triển như các nước khác? Theo tôi, việc cần làm ngay là:
- Thứ nhất, ngân hàng Nhà nước nên khuyến khích các ngân hàng thương mại trích một phần vốn điều lệ đang được chính phủ xem xét tăng lên cho các ngân hàng thương mại quốc doanh để đầu tư vào mạng lưới thanh toán thẻ.
- Thứ hai, tổng công ty Bưu chính viễn thông cần đầu tư xây dựng và giảm chi phí thuê bao đường truyền thanh toán trực tuyến cho các cửa hàng.
- Thứ ba, Chính phủ nên có các qui định dần dần buộc các cơ sở bán hàng dịch vụ có số vốn lớn như các siêu thị phải trang bị thiết bị thanh toán thẻ. Xét trên khía cạnh tài chính chống thất thu thuế, đây có thể là giải pháp rất hiệu quả.
- Thứ tư, trước mắt, về phía tổ chức nên miễn các khoản thuế thu nhập từ hoạt động kinh doanh thanh toán cho các ngân hàng thương mại.
- Thứ năm, ngân hàng Nhà nước nên khuyến khích nhiều hơn nữa các ngân hàng thương mại cổ phần tham gia vào hoạt động thanh toán thẻ. Theo kinh nghiệm điển hình của Nhật Bản, công ty dịch vụ tiết kiệm của Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường thẻ ở Việt Nam.
2.2.3. Thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ
Mặc dù được xem là một phương thức có độ an toàn cao, chặt chẽ và được sử dụng rộng rãi nhưng phương thức tín dụng chứng từ vẫn chứa đựng những nguy cơ tiềm ẩn. Đó là khả năng bị từ chối thanh toán, chứng từ bất hợp lệ, khách hàng mất khả năng thanh toán, bất đồng quan điểm giữa các bên trong việc xác định tính hợp pháp và hợp lý của bộ chứng từ. Vì vậy:
- Các ngân hàng cần thẩm định để nắm bắt được tình hình tài chính của khách hàng mình:
+) Đối với ngân hàng mở: Thẩm định để nắm bắt được tình hình tài chính của nhà nhập khẩu là biện pháp có hiệu quả nhất để ngăn ngừa rủi ro, thể hiện bản chất thư tín dụng là độc lập với hợp đồng ngoại thương và hàng hoá.
+) Đối với ngân hàng chiết khấu cũng cần tìm hiểu kỹ về người xuất khẩu trước khi nhận chiết khấu.
- Ngân hàng nên đưa ra một mức ký quĩ cụ thể đối với từng loại khách hàng. Với những khách hàng mới giao dịch lần đầu hoặc trường hợp ngân hàng cảm thấy người nhập khẩu khó có khả năng chi trả thì ngân hàng nên yêu cầu người nhập khẩu kỹ quĩ 100 % trị giá L/C, hoặc yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, hoặc phải có người bảo lãnh.
Ngân hàng kiểm tra kỹ đơn yêu cầu mở L/C để phát hiện ra những điều khoản bất lợi cho người nhập khẩu, cho ngân hàng phát hành như việc đưa ra những quyết định không rõ ràng trong mô tả hàng hoá, hoặc yêu cầu không rõ ràng về việc kiểm tra chứng từ.
Khi kiểm tra bộ chứng từ do ngân hàng chứng từ gửi đến, ngân hàng mở phải thông báo lại sự bất hợp lệ trong vòng 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được bộ chứng từ. Nội dung thông báo phải ghi lại tất cả những bất hợp lệ mà nó phát hiện, và những bất hợp lệ này là toàn bộ và cuối cùng. Có nghĩa là ngân hàng mở không được bổ sung bất cứ điều khoản bất hợp lệ nào khác, mặc dù sau đó mới phát hiện ra. Bởi vì trong thực tế, có những trường hợp ngân mở thông báo báo cho ngân hàng chiết khấu những điều không đúng và ngân hàng chiết khấu không chấp nhận, sau đó ngân hàng mở lại thông báo những bất hợp lệ khác. Điều này phát sinh tranh chấp giữa hai ngân hàng gây nên những chi phí vô ích không đáng có.
Về phương diện pháp lý: Cho đến nay, UCP 500 được tất cả các ngân hàng được phép thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế áp dụng nhằm mục đích hoà nhập vào mạng lưới thanh toán xuất nhập khẩu toàn cầu. Nhưng việc vận dụng UCP 500 vào nước ta gần như tuyệt đối mà không có bất kỳ một sự điều chỉnh nào. Trong khi đó các quốc gia khác hầu như đều có văn bản luật hoặc văn bản dưới luật về giao dịch thanh toán tín dụng chứng từ trên cơ sở thông lệ quốc tế liên quan đến thông lệ quốc tế phù hợp với những đặc thù của nước họ. Ta cũng nên có văn bản luật hoặc văn bản dưới luật đề cập đến mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng mua bán ngoại thương của người mua người bán với giao dịch chứng từ giữa các ngân hàng. Khi thực hiện cũng cần tuân thủ chặt chẽ các bước qui định nghiệp vụ theo đúng thông lệ quốc tế để phòng tránh và hạn chế rủi ro. Những điểm khác biệt với thông lệ quốc tế phải chỉ rõ nguồn gốc văn bản pháp lý qui định.
Để thực thi qui chế quản lý ngoại hối, ngân hàng Nhà nước cần có những văn bản qui định trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ liên quan khi chuyển tiền ra nước ngoài. Ngân hàng hướng dẫn kiểm tra chi tiết việc kiểm tra giấy phép nhập khẩu và cota nhập khẩu bất hợp lệ của khách hàng khi phát hành thư tín dụng của khách hàng khi phát hành thư tín dụng tránh trường hợp khách hàng sử dụng giấy phép ở nhiều ngân hàng với mục đích thiếu trung thực. Ngân hàng Nhà nước cũng cần có một văn bản pháp lý cho giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu, đó có thể là một nghị định về thanh toán quốc tế đề cập đến mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại thương của người mua và người bán với giao dịch thanh toán tín dụng chứng từ giữa các ngân hàng. Mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu và các ngân hàng khi tham gia phương thức tín dụng chứng từ; mối quan hệ này cũng cần được pháp lý hoá trên cơ sở luật pháp quốc gia. Để tạo hành lang pháp lý của các giao dịch này, các ngân hàng và khách hàng cần yêu cầu ký kết một thoả thuận chung mang tính nguyên tắc trong giao dịch bằng văn bản.
Hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng chứng từ là một phương thức phức tạp đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều phòng ban trong nước như: Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam… Chính vì thế, sự kết hợp chặt chẽ của các cơ quan hữu quan nhằm tạo ra sự nhất quán cho việc ban hành cũng như áp dụng và thi hành là hết sức cần thiết. Ngân hàng cũng nên kết hợp chặt chẽ với cục, vụ, phòng chức năng thuộc Bộ công an. Đây là sự kết hợp đúng đắn và linh hoạt nhằm tạo ra một cơ sở thông tin tốt hơn cho kinh doanh nhằm ngăn ngừa các hoạt động lừa đảo.
2.2.4. Thanh toán bằng hình thức chuyển tiền và nhờ thu.
*). Hình thức thanh toán chuyển tiền
Hiện nay, ở rất nhiều ngân hàng, chuyển tiền vẫn còn chiếm tỷ lệ cao trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Chính vì thế, để hình thức thanh toán này có hiệu quả hơn nữa, cần có những giải pháp thích hợp. Cụ thể là:
Để khuyến khích khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng thì ngân hàng nên miễn phí cho khách hàng khi sử dụng hình thức thanh toán này trong thời gian đầu hoặc trong những món có giá trị nhỏ. Bên cạnh đó còn cho họ một mức lãi suất thấp. Đây là một cách để chuyển tiền được sử dụng nhiều hơn trong dân chúng, mà ngân hàng lại có thể lấy số tiền trên tài khoản gửi của khách hàng cho vay với lãi suất cao hơn.
Mở rộng dịch vụ Homebanking và Telephonebanking cho các tổ chức, gia đình, cá nhân nối với các ngân hàng. Dich vụ này với mục đích là để cho họ đưa ra một lệnh chi định kỳ, ví dụ như: Chi tiền điện, nước, điện thoại hàng tháng... sẽ không thu phí của Sở điện lực, Công ty cấp thoát nước, Bưu điện vì khi sử dụng dịch vụ này, họ đã giảm được một công việc là nhân viên hàng tháng phải đến từng nhà để thu tiền điện nước, điện thoại…
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khách hàng của các ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh cũng như các cá nhân có nhu cầu về vốn cao, việc cho khách hàng vay trong thanh toán vừa tháo gỡ tài chính cho khách hàng, vừa đảm bảo cho đơn vị thụ hưởng thu được tiền, vừa thực hiện nhiệm vụ kinh doanh của ngân hàng lại giữ được quan hệ tốt với khách hàng. Như vậy, ngân hàng nên cho vay để đảm bảo khả năng thanh toán. Để làm tốt điều đó, phải phân loại khách hàng. Nếu đối tượng là khách hàng tốt, có quan hệ thường xuyên, lâu dài nhưng do nguyên nhân khách quan dẫn đến số dư trên tài khoản không đủ thanh toán trong thời gian ngắn thì ngân hàng nên cho khách hàng vay với mức lãi suất phù hợp (cao nhất là bằng lãi suất nợ quá hạn của loại cho vay ngắn hạn mà ngân hàng nên áp dụng).
Để đảm bảo sự công bằng và bình đẳng, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của đơn vị mua, đơn vị bán phải nộp UNC (Uỷ nhiệm chi) để trả tiền trong điều kiện hiện nay, ngân hàng nên qui định sau 2 ngày kể từ ngày nhập kho hàng hoá, nhập các cung ứng dịch vụ thì đơn vị mua phải lập UNC để trích tài khoản trả tiền cho đơn vị cung cấp. Khi nộp UNC phải kèm theo hoá đơn nhập kho hàng hoá để ngân hàng kiểm soát.
*). Đối với hình thức thanh toán nhờ thu
Nhờ thu là một hình thức không đảm bảo quyền lợi cho người bán. Vì vậy, ngân hàng nên đứng ra bảo vệ quyền lợi cho người bán bằng cách khống chế bộ chứng từ trong thanh toán. Tức là chỉ khi nào người mua thanh toán cho người bán lập tức ngân hàng có tài khoản tiền gửi của người bán, trong thời hạn đó mới giao chứng từ cho người mua.
Khi khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng một cách phổ biến thì Nhà nước nên qui định các ngành thu dịch vụ như: Bưu điện, Công ty điện lực, Công ty cấp thoát nước, Thuế…sử dụng hình thức thanh toán nhờ thu. Vì khi sử dụng hình thức này thì nhân viên của họ đỡ mất thời gian đi lại, mặt khác có thể giảm khối lượng nhân viên dẫn đến tiết kiệm được chi phí tiền lương cho nhân viên. Để làm được điều này đòi hỏi bảng kê thanh toán tiền dịch vụ các ngành bưu điện, điện lực… phải chính xác.
3. KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN GIẢI PHÁP THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
3.1. Đối với Nhà nước
Ngoài các điều kiện năng lực của bản thân ngân hàng, sự hỗ trợ của Nhà nước, đặc biệt về mặt pháp lý đóng vai trò quan trọng. Vì thế, bản thân Nhà nước cũng phải có những giải pháp thích hợp nhằm giúp ngân hàng có những hoạt động bớt rủi ro hơn. Cụ thể là :
3.1.1. Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước :
Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường như: Bộ luật Dân sự, bộ luật Thương mại, luật Ngân hàng Nhà nước, luật Các tổ chức tín dụng…Tuy nhiên vẫn còn quá chung chung, sau khi văn bản luật có hiệu lực cũng không có văn bản hướng dẫn cụ thể, nhiều lĩnh vực chưa được sửa đổi, có văn bản phải sửa đổi và bổ sung nhiều lần, không có tính ổn định nên việc thực thi và áp dụng là rất khó. Thực tế là các văn bản luật liên quan đến hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng, đặc biệt là hoạt động nhờ thu và chuyển tiền còn nhiều vướng mắc…Chính vì vậy, dù luật được ban hành nhưng phần qui định về thanh toán không dùng tiền mặt, thể thức thanh toán phổ biến, chiếm đa số trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, tổ chức tín dụng vẫn dậm chân tại chỗ, gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động tài chính. Để tạo điều kiện và môi trường pháp lý cho các ngân hàng hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực trong đó có hoạt động thanh toán thanh toán không dùng tiền mặt, Nhà nước cần :
- Xử lý các văn bản pháp lý, các đạo luật đồng bộ. Bên cạnh, hoàn thiện những chính sách hiện hành, nghiên cứu cho ra đời những văn bản mới về lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán…
- Đổi mới công tác ngoại hối, chế độ quản lý ngoại hối.
3.1.2. Cải thiện Cán cân Thanh toán Quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế là công cụ tổng hợp và quan trọng để đánh giá, phân tích mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nó thể hiện các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, hoạt động đầu tư và vay nợ, viện trợ nước ngoài. Tình trạng cán cân thanh toán liên quan đến khả năng thanh toán của đất nước, của các ngân hàng; nó tác động đến tỷ giá hối đoái và dự trữ ngoại tệ của đất nước. Vì vậy, cải thiện cán cân thanh toán là cực kỳ quan trọng. Do đó Nhà nước cần:
- Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, đặc biệt là hoạt động thương mại đối với những thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, các nước trong khối ASEAN, các nước Đông Âu…Từng bước tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO.
- Cần khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên cũng như tiềm năng về sức lao động. Cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới, tăng cường các mặt hàng chế biến gia công, giảm tỷ trọng sản phẩm thô, xác định các mặt hàng chủ lực đi đôi với việc xây dựng và phát triển thị trường trọng điểm, đồng thời mở rộng thêm thị trường và mặt hàng mới, cần đầu tư thích đáng vào những sản phẩm mà Việt Nam có ưu thế như: Gạo, cà phê, cao su, khí đốt…
- Nhà nước cần có chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu như giảm lãi suất, thuế, tạo điều kiện để các doanh nghiệp có điều kiện giảm giá thành và nâng cao tính cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới. Đối với hàng nông sản, Nhà nuớc cần có chính sách trợ giá giúp nông dân tránh được những thiệt thòi do sự xáo trộn của thị trường nội địa đồng thời cũng là biện pháp giúp họ yên tâm sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân.
- Bên cạnh đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước cần có chính sách quản lý nhập khẩu thông qua cấp giấy phép nhập khẩu, quản lý hạn ngạch và công cụ thuế nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được.
- Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta cần tiếp tục tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Mở rộng hợp tác và liên doanh với nước ngoài để nâng cao năng lực ngành công nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu.
3.1.3. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ra đời từ 10/1994, đây là nơi diễn ra trao đổi, cung cấp ngoại tệ, giải quyết nhu cầu ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại và cho cả nền kinh tế. Thông qua thị trường này, Nhà nước có thể điều hành tỷ giá, giữ vững sự ổn định tiền tệ bằng những dấu hiệu thị trường. Các ngân hàng thương mại có điều kiện thuận lợi để mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, trong những năm qua, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phát huy hết hiệu quả do nhiều nguyên nhân: Sự điều tiết của nhà nước còn mang nặng dấu ấn hành chính, chưa nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường, các giao dịch diễn ra với hình thức đơn giản, số lượng thành viên tham gia chưa nhiều…Định hướng của Nhà nước là phải hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tiến tới thành lập thị trường hối đoái ở Việt Nam. Muốn vậy, chúng ta phải tích cực xây dựng các điều kiện cơ bản thông qua việc :
- Đa dạng hoá hình thức mua bán trên thị trường: Hiện nay, chủ yếu mới là phương thức giao ngay. Để có được thị trường hối đoái hiện đại phải mở rộng các hình thức mua bán kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn…
- Đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh trên thị trường. Bên cạnh loại ngoại tệ cơ bản như USD, phải đưa vào kinh doanh các ngoại tệ có nhu cầu như JPY, EURO…Bởi vì một nền kinh tế mở phải có nhiều mối quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới.
- Mở rộng số lượng thành viên tham gia trên thị trường: Hiện nay, Nhà nước mới chỉ cho phép hội sở của các ngân hàng thương mại tham gia trên thị trường. Chính sách này bộc lộ nhiều hạn chế: Ngân hàng Nhà nước chưa tiếp cận sát sao với thị trường, các dấu hiệu thị trường chưa phản ánh đầy đủ, kịp thời. Việc cho phép các chi nhánh ngân hàng thương mại, các nhà môi giới hoạt động sẽ thúc đẩy thị trường phát triển, giúp cho cung cầu sớm gặp nhau.
3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một cơ quan Chính phủ, là ngân hàng Trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những hoạt động cơ bản của ngân hàng Nhà nước là quản lý ngoại hối. Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành những văn bản pháp qui qui định quyền hạn, trách nhiệm của ngân hàng cũng như của doanh nghiệp trong các giao dịch liên quan đến ngoại hối. Ngoài việc thắt chặt quản lý ngoại hối, ngân hàng Nhà nước cần có qui định rõ ràng hơn đối với doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu để giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong việc xin mua ngoại tệ để thực hiện các nghĩa vụ thanh toán quốc tế.
Mặt khác, tỷ giá cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. Việc áp dụng một tỷ giá kém linh hoạt sẽ làm sai lệch giá trị thực của đồng Việt Nam so với các loại ngoại tệ khác, và do đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng thực hiện các giao dịch ngoại thương của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng một chế độ tỷ giá hợp lý hơn, điều này không chỉ giúp các doanh nghiệp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của mình mà còn góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của đất nước.
Cuối cùng, Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ giữa ban thanh tra của ngân hàng Nhà nước với bộ máy kiểm tra giám sát của các ngân hàng thương mại để nhanh chóng phát hiện những vướng mắc, những sai lầm để kịp thời xử lý.
3.3. Đối với khách hàng
Thanh toán không dùng tiền mặt là một hoạt động chứa nhiều rủi ro. Sự rủi ro không đơn giản ở sự tách biệt về vị trí địa lý giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu mà nhiều khi rủi ro xuất phát từ chính những khách hàng yêu cầu ngân hàng thực hiện thanh toán. Để hạn chế điều này, các khách hàng phải không ngừng hoàn thiện mình nhất là trong điều kiện phát triển của các công cụ thanh toán như hiện nay. Các khách hàng không ngừng nghiên cứu tìm hiểu thêm các công cụ trong thanh toán để có thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu của mình trong giao dịch ngoại thương. Trong hoạt động này, ngân hàng chỉ nên đóng vai trò tư vấn cho các doanh nghiệp chứ không phải là “làm hộ” như hiện nay vẫn làm. Các cán bộ thanh toán chỉ nên căn cứ vào nhu cầu mà khách hàng đặt ra để hướng dẫn họ một phương thức thanh toán tối ưu nhất chứ không nên áp đặt.
Sự tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng là một trong những điều kiện thuận lợi cho mọi khách hàng đến giao dịch tại ngân hàng. Một khách hàng có mối quan hệ thường xuyên và luôn luôn chấp hành mọi qui định của ngân hàng chắc chắn sẽ được những ưu tiên nhất định từ phía ngân hàng. Do đó, trong giao dịch của mình, khách hàng nên thực hiện một cách nhanh nhất và tốt nhất những nghĩa vụ của mình đối với ngân hàng. Trong trường hợp có những thông tin thiếu chính xác khách hàng nên cẩn trọng xem xét và phản hồi lại cho ngân hàng để ban lãnh đạo có biện pháp xử lý kịp thời.
Bên cạnh đó, khách hàng nên thận trọng lựa chọn đối tác. Thông tin từ phía đối tác cần được thu thập đầy đủ từ nhiều nguồn khác nhau như ngân hàng, cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài. Bởi vì, dù thanh toán theo phương thức nào thì việc trả tiền cũng phụ thuộc vào thiện chí của người mua, uy tín cũng như mối quan hệ giữa hai bên.
KẾT LUẬN
Xã hội càng phát triển thì ngân hàng càng đóng vai trò then chốt, nó là cơ quan giữ chức năng tổ chức quản lý lưu thông tiền tệ. Ngân hàng cũng là một bộ phận lớn tham gia quản lý, giữ thăng bằng về giá cả, là một hệ thống các kế hoạch của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế nước ta đang đi lên quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, vai trò của ngành ngân hàng phải đáp ứng được thực tiễn của nền kinh tế đất nước để thực hiện tốt việc đưa đồng tiền vào sản xuất có hiệu quả. Bởi vậy ngành ngân hàng nước ta càng phải khẩn trương nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn, không ngừng đưa công tác ngân hàng ngày càng đổi mới và nâng cao, tăng cường các phương tiện tính toán, thông tin hiện đại và đồng bộ. Đặc biệt là “Tăng cường quản lý lưu thông tiền tệ, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt phục vụ tốt quá trình sản xuất kinh doanh”.Nguồn: Văn kiện Đại hội Đảng VI
. Để làm được điều này đòi hỏi phải có sự trợ sức của các cấp, các ngành, các thành phần trong xã hội; đặc biệt là phải có “chỉ lối, đưa đường” của Đảng và Nhà nước. Muốn xã hội càng phát triển, cuộc sống của người dân ngày càng nâng cao thì phải đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt. Chính vì thế “Phát triển và hoàn thiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt - một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước”.
Hi vọng qua khoá luận này, em có thể phản ánh phần nào thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam và có thể đóng góp một vài giải pháp nhỏ nhằm phát triển và hoàn thiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt.
Tuy vậy, do thời gian nghiên cứu còn eo hẹp với điều kiện và nhận thức còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của thày cô cùng bạn đọc để khoá luận hoàn chỉnh hơn nữa.
Em xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban lãnh đạo và cán bộ phòng Thanh toán Quốc tế tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chi nhánh Thăng Long đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn hướng dẫn chu đáo và tận tình của Thày Phan Trần Trung Dũng đã giúp em có phương pháp nghiên cứu khoa học để em hoàn thành khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX.
Giáo trình Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, PGS. Đinh Xuân Trình – Nhà xuất bản giáo dục, 2002.
Thẻ thanh toán quốc tế và việc ứng dụng thẻ tại Việt Nam, Lê Văn Tề & Trương Thị Hồng- Nhà xuất bản trẻ.
Giao dịch thương mại điện tử, Nguyễn Văn Minh & Trần Hoài Nam – H: Chính trị quốc gia, 2002.
Tạp chí Tin học Ngân hàng.
Tạp chí Ngân hàng.
Thời báo Ngân hàng.
Thời báo kinh tế.
Tạp chí Thương mại.
Thông tin Kinh tế thương mại.
Báo cáo thường niên các năm của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chi nhánh Thăng Long.
Báo cáo thường niên các năm của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Luận án phó tiến sĩ “Giải pháp hoàn thiện và mở rộng hệ thống thanh toán của Ngân hàng Công thương”, Bùi Khắc Sơn.
Luận án tiến sĩ “Những vấn đề nhằm hoàn thiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế”, Lại Ngọc Quý.
www.Vnexpress.net
www.Vietlaw.com.vn
www.Vnn.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển và hoàn thiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ở việt nam - một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.doc