Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước với 
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải đi từ mục 
tiêu cơ bản nhất của mọi sự phát triển xã hội đó là phát triển để cải thiện 
nâng cao chất lượng cuộc sống và vì sự sống trường tồn bền vững. Đây là 
vấn đề quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 
hiện nay cũng như về lâu dài. Tất cả các bài học kinh nghiệm đã rút ra trong 
quá trình quy hoạch phát triển trước đây cần phải được vận dụng triệt để cho 
quá trình phát triển của tương lai sao cho tránh được những hậu quả có thể 
xảy ra và đảm bảo hiệu quả cao nhất cho quá trình phát triển kinh tế. Chúng 
ta bảo vệ môi trường không phải nhằm mục đích hạn chế quá trình phát triển 
kinh tế mà nhằm mục đích đảm bảo hiệu quả kinh tế cao hơn cho quá trình 
phát triển tất yếu này, đồng thời nhằm bảo vệ chất lượng cuộc sống của mỗi 
con người chúng ta. Do đó, bảo vệ môi trường và tăng trưởng kinh tế có sự 
thống nhất.Có phát triển mới có kinh phí đầy đủ dành cho việc bảo vệ môi 
trường và có bảo vệ môi trường mới đảm bảo sự phát triển lâu dài và ổn 
định.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 21 trang
21 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3295 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: "Phép biện 
chứng về mối liên hệ 
phổ biến và vận dụng 
phân tích mối liên hệ 
giữa tăng trưởng kinh 
tế với bảo vệ môi trường 
sinh thái ở Việt Nam" 
Môc lôc 
Mục lục 
Lời mở đầu 
Chương 1 Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến 3 
1.1 Sự ra đời của phép biện chứng 3 
1.2 Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến 4 
1.2.1 Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến 4 
1.2.2 Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến 6 
Chương 2 Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ở 
Việt Nam 8 
2.1 Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
 8 
2.2 Môi trường đang bị huỷ hoại do các chính sách tăng trưởng kinh tế ở 
Việt Nam 9 
2.2.1 Trong công nghiệp 9 
2.2.2 Trong nông nghiệp 12 
2.2.3 Trong du lịch - biển 13 
2.2.4 Gia tăng mức tiêu thụ 14 
2.3 Hậu quả của ô nhiễm môi trường 15 
2.4 Giải pháp giải quyết vấn đề 16 
Tài liệu tham khảo 19 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 2
Lêi më ®Çu 
Chúng ta đang sống trong một mạng lưới sụ sống rộng lớn. Giống như một 
mạng nhện, càng có nhiều mối liên hệ thì mạng lưới càng bền vững. Chúng 
ta đã biết tất cả những mối liên kết trong sự sống sẽ không tồn tại và phát 
triển được nếu không được hỗ trợ bởi môi trường. Với tốc độ phá hoại môi 
trường như hiện nay của con người, môi trường của chúng ta đang dần bị 
suy thoái, mối liên kết của các mạng lưới sự sống đang dần bị phá vỡ. Sự 
tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh, một mặt nó nâng cao đời sống của 
người dân nhưng mặt khác nó đang gây một sức ép mạnh mẽ lên môi trường 
tự nhiên. Cũng như các nước đang phát triển khác, để có những kết quả về 
kinh tế trong giai đoạn trước mắt, chúng ta phải trả giá là mất đi ssự bền 
vững của các nguồn tài nguyên về lâu dài. Một thập kỷ phát triển nhanh 
chóng ở việt nam đã dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm đất, không khí, nước và 
quan trọng hơn là gia tăng mưc tiêu thụ, phân hoá giầu nghèo… mạng lưới 
đang dần mất đi sưc mạnh của nó. Chính vì vậy tôi quyết chọn đề tài này để 
nghiên cứu. 
Nghiên cứu "PhÐp biÖn chøng vÒ mèi liªn hÖ phæ biÕn vµ vËn dông 
ph©n tÝch mèi liªn hÖ gi÷a t¨ng trëng kinh tÕ víi b¶o vÖ m«i trêng 
sinh th¸i ë ViÖt Nam"’. Tôi muốn góp một phần công sức nhỏ bé của mình 
vào việc tìm kiếm con đường phát triển của việt nam trong những năm tới 
nhằm đưa việt nam trở thành một nước phát triển trong khu vực và trên thế 
giới. Hoàn thành tiểu luận này tôi đã gia tăng được tri thức cũng như hiểu 
biết về các vấn đề cấp thiết của Việt Nam. 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 3
Chương 1 Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến 
1.1 Sự ra đời của phép biện chứng 
Triết học ra đời từ thời cổ đại đánh dấu sự ra đời của phép biện chứng. 
Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển có phồn vinh có suy vong. Khởi 
đầu là phép biện chứng tự phát cổ đại, thể hiện rõ nét trong thuyết “âm - 
dương” của Trung Quốc, đăc biệt là trong nhiều học thuyết của Hi Lạp cổ 
đại. Đến khoảng thế kỷ 17 nửa đầu thế kỷ 18, phương pháp siêu hình thống 
trị trong tư duy triết học mà đại diện là Đêcactơ – ông được coi là linh hồn 
của phương pháp siêu hình. Trong khoảng nửa sau thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 
đây là thời kỳ tổng kết các lịch sử triết học nhân loại và hình thành hệ thống 
lớn đó là phương pháp biện chứng duy tâm mà đại diện là Hêgen ông được 
coi là tiền đề của phương pháp biện chứng duy vật sau này. Ngày nay phép 
biện chứng đã đạt đến trình độ cao nhất đó là phép biện chứng duy vât. Phép 
biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù, những 
nguyên lý, những quy luật được khái quát từ hiện thực phù hợp với hiện 
thực. Cho nên nó phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và sự phát triển của 
tự nhiên, xã hội và tư duy. Nhờ vậy nó đã khắc phục được những hạn chế 
vốn có của phép biện chứng tự phát cổ đại cho rằng thế giới là một chỉnh thể 
thống nhất, giữa các bộ phận của nó có mối liên hệ qua lại, thâm nhập vào 
nhau, tác động và chịu ảnh hưởng lẫn nhau, thế giới và các bộ phận cấu 
thành thế giới ấy không ngừng vận động và phát triển. Tuy nhiên sự hạn chế 
của phương pháp biện chứng này là tuy nó cho chúng ta thấy một bức tranh 
về sự tác động qua lại, sự vận động và phát triển nhưng chưa làm rõ được 
cái gì đang liên hệ cũng như những quy luật nội tại của sự vận động và phát 
triển. Hơn nữa phép biện chứng duy vật còn sửa được sai lầm của phép biện 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 4
chứng duy tâm khách quan thời cổ đại mà đại biểu là Hêgen - đại diện lỗi lạc 
của phép biện chứng. Hêgen cho rằng sự phát triển biện chứng của thế giới 
bên ngoài chỉ là sự sao chép lại sự tự vận động của “ý niệm tuyệt đối ”mà 
thôi. Phép biện chứng duy vật đã chứng minh rằng : những ý niệm trong đầu 
óc của chúng ta chẳng qua là sự phản ánh của các sự vật hiện thực khách 
quan, do đó bản thân biện chứng của ý niệm chỉ đơn thuần là sự phản ánh có 
ý thức của sự vận động biện chứng của thế giới hiện thực khách quan.Như 
vậy phép biện chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật 
vận động và sự phát triển chung nhất của thế giới. Vì vậy P.Ăngen đã định 
nghĩa: “phép biện chứng…là môn khoa học về những quy luật phổ biến của 
sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư 
duy.” 
1.2 Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến 
1.2.1 Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến 
Phép biện chứng duy vật có vai trò làm sáng tỏ những quy luật của sự liên 
hệ và phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và của tư duy. Vì vậy ở bất 
kỳ cấp độ phát triển nào của phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên 
hệ phổ biến vẫn được xem là một trong những nguyên lí có ý nghĩa khái 
quát nhất. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến cho rằng các sự vật hiện tượng 
và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ 
qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau.Trong đó liên hệ là sự tác động 
qua lại lẫn nhau, là điều kiện tiền đề tồn tại cho nhau, là sự quy định lẫn 
nhau, là sự nương tựa lẫn nhau, sự chuyển hoá lẫn nhau của các mặt, các yéu 
tố, các thuộc tính cấu thành sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. 
Ngoài ra những người theo quan điểm duy vật biện chứng còn khẳng định cơ 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 5
sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng chính là tính thống 
nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật, các hiện tượng 
trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng 
cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế 
giới vật chất. Các mối liên hệ diễn ra trong mỗi sự vật, giữa các sự vật với 
nhau, trong toàn bộ vũ trụ, trong mọi không gian và thời gian. Quan điểm 
duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của 
sự liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà nó còc nêu rõ 
tính đa dạng của sự liên hệ qua lại đó. Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa 
dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát triển của chính các sự vật và hiện 
tượng quy định. Có mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác 
động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt 
khác nhau của một sự vật, nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận 
động và phát triển của sự vật. Có mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa 
các sự vật, các hiện tượng khác nhau, nói chung nó không có nghĩa quyết 
định, hơn nữa nó thường phải thông qua các mối liên hệ bên trong mà phát 
huy. Tuy nhiên mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi còn 
giữ vai trò quyết định. Ngoài ra còn có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ 
thứ yếu, có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao 
quát một số lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực riêng biệt của thế giới. Có mối 
liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại 
được thực hiện thông qua một hay một số khâu trung gian. Có mối liên hệ 
bản chất và mối liên hệ không bản chất, có mối liên hệ tất yếu và mối liên hệ 
ngẫu nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự sự vật khác nhau, có mối liên hệ 
khác nhau của cùng một sự vật. Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động và 
phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối 
liên hệ với nhau tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật và các 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 6
quá trình tương ứng. Quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi 
phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại đó. Các loại liên hệ khác 
nhau có thể chuyển hoá cho nhau. Sự chuyển hoá đó có thể diễn ra hoặc do 
thay đổi phạm vi bao quát khi xem xét hoặc do kết quả vận động khách quan 
của chính sự vật hiện tượng ấy. 
1.2.2 Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến 
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến xét dưới góc độ thế giới quan thì nó 
phản ánh tính thống nhất của vật chất và thế giới. Các sinh vật, hiện tượng 
trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng 
cũng chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất đó là thế giới 
vật chất. Xét dưới góc độ nhận thức lí luận, nó là cơ sơ lí luận của quan điểm 
toàn diện. Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận 
thức các sự vật, hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có nhận thức 
đúng về sự vật chúng ta cần xem xét nó: một là : trong mối liên hệ qua lại 
giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật 
đó, hai là : trong mối liên hệ qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác, 
kể cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Hơn thế nữa quan điểm toàn diện đòi hỏi để 
nhận thức đúng sự vật, chúng ta cần xem xét nó trong mối quan hệ với nhu 
cầu thực tiễn của con người. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đi từ 
tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút 
ra bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. 
Nhưng quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt 
kê những quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng đó, nó đòi hỏi phải 
làm nổi bật cái cơ bản nhất, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng 
đó. Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn, 
nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi để cải tạo được sự vật, chúng ta 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 7
phải bằng hoạt động thực tiiễn của mình biến đổi những mối liên hệ nội tại 
của sự vật cũng như mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. 
Muốn vậy phải sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp, nhiều phương tiện 
khác nhau để tac động nhằm thay đổi những liên hệ tương ứng. Để tránh 
những phưng pháp luận sai lầm trong việc xem xét sự vật, hoạt động cần 
tránh chủ nghĩa chiết trung, thuật nguỵ biện. Mọi sự vật hiện tượng đều tồn 
tại trong không gian thời gian nhất định và mang dấu ấn của không gian thời 
gian đó. Do đó chúng ta cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xet và giải 
quyết mọi vấn đề thực tiễn đặt ra. 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 8
Chương 2 Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ở 
Việt Nam 
2.1 Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi 
trường 
Môi trường sinh thái là toàn bộ các điều kiện vô cơ, hữu cơ của các hệ sinh 
thái ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và mọi hoạt động khác của xã hội 
loài người. Nó là những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay 
một sinh vật tồn tại, phát triển trong quan hệ với con người. Còn tăng trưởng 
kinh tế nhằm cải thiện và phát triển đời sống của con người. Vì vậy giữa môi 
trường sinh thái và tăng trưởng kinh tế có mối liên hệ biện chứng chặt chẽ. 
Như chúng ta đã biết môi trường sống được sinh ra và tồn tại trong tự nhiên, 
vì vậy có thể nói nó tồn tại một cách khách quan độc lập với ý thức con 
người. Tuy nhiên sự phát triển của môi trường lại hoàn toàn phụ thuộc vào ý 
thức của con người, con người có thể tác động làm cho môi trường tốt lên 
hoặc xấu đi. Tăng trưởng kinh tế lại được sinh ra, tồn tại và phát triển hoàn 
toàn phụ thuộc vào con người nên nó tồn tại chủ quan. Môi trường chịu tác 
động trực tiếp của con người, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào con người 
từ đó ta có thể thấy môi trường cũng chịu tác động của tăng trưởng kinh tế 
và ngược lại, mối quan hệ giữa chúng được thông qua một thực thể đó là con 
người. Môi trường là địa bàn để tăng trưởng kinh tế hoạt động vì tăng trưởng 
kinh tế diễn ra trên diện rộng và cần khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm 
phục vụ cho lợi ích của con người. Nhưng tài nguyên của môi trường không 
phải là vô hạn. Nếu chỉ tăng trưởng kinh tế mà không nghĩ đến việc cải tạo 
môi trường thì một ngày nào đó tăng trưởng kinh tế phải dừng lại do môi 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 9
trường bị suy thoái. Lúc đó con người phải gánh chịu hậu quả do chính con 
người gây ra. Một sản phẩm do con người tạo ra lại phá huỷ cái mà con 
người chịu tác động trực tiếp vì con người không thể sống mà không chịu sự 
tác động của môi trường. Ngược lại, nếu tăng trưởng kinh tế gắn với việc 
bảo vệ môi trường thì không những nó làm cho đời sống của con người ngày 
càng được cải thiện mà nó còn làm cải thiện cả môi trường do kinh tế phát 
triển nhà nước có ngân sách cho những dự án bảo vệ môi trường, nguồn tài 
nguyên bị khai thác được thay thế dần bởi các nguồn tài nguyên tự tạo 
2.2 Môi trường đang bị huỷ hoại do các chính sách tăng trưởng kinh tế 
ở Việt Nam 
2.2.1 Trong công nghiệp 
Thực hiện nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, kể từ năm 1986 
Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới. Công cuộc đổi mới này được tiến 
hành trên toàn diện, trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội như đổi 
mới tư duy, hệ thống kinh tế, chính sách, thể chế quản lí hành chính… Trong 
lĩnh vực kinh tế, Việt Nam chuyển từ nền kinh tế chỉ huy, tập chung, quan 
liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ 
chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ 
Nghĩa. Trong gần hai thập kỷ qua thực hiện chủ trương và đường lối đổi mới 
nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu to lớn. Chính sách đổi 
mới đã mang lại những thay đổi, tạo ra một nền kinh tế năng động, một xã 
hội văn minh, công bằng và dân chủ. Tổng sản phẩm quốc nội ( GDP) tăng 
trung bình hơn 7%/năm. Đặc biệt trong công nghiệp, tăng trưởng công 
nghiệp từ xuất phát điểm chỉ có 0,6% năm 1980 tăng lên đến 6,07% năm 
1990 và giai đoạn 1991-2000 tăng lên trung bình 12,9%/năm, trong đó thời 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 10 
kỳ 1991-1995 có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 17%/năm. Tỷ trọng công 
nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, từ mức 
22,7% GDP năm 1991 tăng lên 36,6% năm 2000. Sự phát triển của quá trình 
công nghiệp hoá trong những năm qua một mặt là động lực thúc đẩy phát 
triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người dân nhưng mặt khác nó đã ít 
nhiều bộc lộ những mặt trái của nó mà nếu không có biện pháp bảo vệ cụ thể 
thì trong tương lai không xa chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả 
nghiêm trọng do chính chúng ta gây ra. 
Theo ước tính hiện nay nước ta có khoảng trên 60.000 công ty và doanh 
nghiệp tư nhân, hơn 4.500 hợp tác xã phi nông nghiệp và trên 2 triệu hộ kinh 
doanh cá thể. Cùng với sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp và cơ sở 
kinh doanh đó, hiện nay trên cả nước tổng lượng chất thải rắn ước tính 
khoảng 49. 000 tấn/ngày, trong đó chất thải rắn công nghiệp chiếm khoảng 
27.000tấn/ngày. Việc quản lý chặt chẽ chất thải rắn nguy hại đang gặp nhiều 
khó khăn, không có đủ kho chứa đủ tiêu chuẩn để lưu giữ các chất thải độc 
hại trước khi xử lí, không có nhà máy xử lí chất thải độc. Phần lớn chất thải 
rắn nguy hại này thuần tuý chỉ được chôn chung lẫn lộn với rác thải sinh 
hoạt hay thậm chí đổ ngay tại nhà máy gây mối nguy hại rất lớn đối với môi 
trường sống. 
Ngoài ra, trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các cơ sở doanh nghiệp 
thường thải ra một lượng nươc thải khá lớn. Đặc biệt là khoảng hơn 90% cơ 
sở sản xuất cũ chưa có thiết bị xử lí nước thải. Phần lớn các nhà máy xí 
nghiệp nếu có tiíen hành xử lí thì chỉ xử lí sơ bộ rồi thải thẳng ra nghuồn 
nước mặt, gây ô nhiễm trầm trọng đối với nhiều dòng sông. Trong nhiều 
trường hợp, nuớc thải ứ đọng lâu ngày còn gây ô nhiễm không khí, mất mỹ 
quan, lan truyền bệnh dịch và nhiều tác động tiêu cưc khác. Nước thải công 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 11 
nghiệp chính là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm cho môi trường 
đô thị 
Khí thải của các cơ sở doanh nghiệp sản xuất cũng là vấn đề cần bàn tới. Ô 
nhiễm môi trường không khí chủ yếu do các ngành nhiệt điện, công ngiệp 
hoá chất gây nên. Ví dụ nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nồng độ bụi trung bình 
tại các điểm đo đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến 6 lần. Tại nhà máy 
nhiệt điện Uông Bí, nồng độ bụi đo trong 1 giờ từ 4 đến 4,7 mg/m3, gấp 13 
đến 16 lần trị số cho phép. Nồng độ các chất khí độc hại khác như CO2, NO2, 
SO2… trong không khí xung quanh nhiều nhà máy và khu công nghiệp đều 
vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 2,5 lần. Điều này đã gây tác động xấu 
đối với mùa màng và sức khoẻ của nhân dân của cả một vùng rộng lớn xung 
quanh các khu vực nhà máy. Tuy trong thời gian qua, phần lớn các nhà máy 
đã trang bị thiết bị xử lí bụi nhưng số lượng các nhà máy có thiết bị xử lí khí 
độc hại cón rất ít mà chủ yếu được thải thẳng ra ngoài không khí, ảnh hưởng 
trực tiếp đến sưc khoẻ con người. 
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng phát triển thì nhu cầu khai 
thác các thành phần môi trường để làm nguyên liệu đầu vào cho hoạt động 
sản xuất ngày càng tăng. Quá trình này thể hiện mối liên hệ cơ bản giữa phát 
triển và môi trường đồng thời cũng là một vấn đề nan giải. Việc khai thác 
quá mức nguồn tài nguyên là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự hao kiệt về tài 
nguyên, mất cân bằng sinh thái và suy giảm chất lượng môi trường. Nạn 
khai thác gỗ trái phép gây ra sự suy nghiêm trọng độ che phủ của rừng. Nếu 
như năm 1945 độ che phủ nước ta đạt 43% thì tính đến tháng 12 năm 2000 
độ che phủ rừng chỉ còn 29, 8% và đang ngày càng bị thu hẹp 
Còn nhiều nhiều vấn đề ô nhiễm do công nghiệp gây ra như việc nhập 
khẩu các thiết bị lạc hậu từ nước ngoài, hay tiếng ồn từ các cơ sở sản xuất… 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 12 
mà trong phạm vi bài tiểu luận triết học của mình tôi không thể trình bày hết 
được, trên đây là những vấn đề mà theo tôi là cấp thiết và cần có hướng giải 
quyết kịp thời. 
2.2.2 Trong nông nghiệp 
Nước ta là một nước có nền kinh tế xuất phát điểm là nông nghiệp và cho 
đến nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào tài nguyên, 
nông sản và hàng sơ chế. Kim ngạch xuất khẩu khoáng sản và hàng hoá 
nông lâm, thuỷ hải sản chiếm tới 63% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt 
Nam. Nước ta đang trên đà hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình này hứa hẹn 
nhiều cơ hội cho Việt Nam đẩy mạnh sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu to lớn 
của thị trường quốc tế.Tuy nhiên đi đôi với sự gia tăng này của các hoạt 
động sản xuất là khả năng gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường ngày càng 
lớn. Sự gia tăng xuất khẩu các mặt hàng từ nguồn tài nguyên không tái tạo 
được và việc khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên có thể tái tạo nhằm 
phục vụ xuất khẩu có thể làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của nước ta trong 
tương lai. Mặt khác, các ngành nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi cũng có 
nhiều cơ hội để thâm canh, gia tăng sản lượng dẫn đến việc phá huỷ tái 
nguyên thiên nhiên do khai thác, trồng trọt và chăn nuôi không hợp lí. Để 
tăng sản lượng các loại rau, củ, quả… người nông dân thường phun các loại 
chất kích thích, phân bón, thuốc trừ sâu… Trình độ nhận thức và chuyên 
môn của người dân còn thấp, thêm vào đó đội ngũ cán bộ nông nghiệp còn 
chưa nhiều vì vậy người nông dân chưa ý thức được hành động của họ sẽ 
dẫn đến hậu quả gì. Việc sử dụng các loại hoá chất và sau đó vứt ngay các 
loại vỏ, bao đựng trên ruộng trước tiên gây ô nhiễm nguồn nước sau là gây 
nguy hiểm cho những người sử dụng các loại rau, củ, quả đó. Thực tế là 
trong năm 2002, ở miền Bắc, giá nhãn và vải đã mất giá nghiêm trọng do 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 13 
Trung Quốc không nhập khẩu vì hàng chưa đảm bảo tiêu chuẩn chất 
lượng… Sử dụng hoá chất không được phép trước tiên là gây ô nhiễm nguồn 
nước, không tiêu thụ được hàng hoá, sau cùng là gây ra thoái hoá đất- một 
sự mất mát lớn. Môi trường nông thôn cũng đang kêu cứu. 
2.2.3 Trong du lịch biển 
Trước tình hình tăng trưởng kinh tế, các phương tiện thông tin, giao thông 
vận tải ngày càng dễ dàng và thuận tiện. Đây là điều kiện để hoạt động du 
lịch phát triển trở nên nhanh chóng. Ngành du lịch nước ta hãy còn rấy nhỏ 
bé so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên trong 10 năm 
qua, cùng với quá trình đổi mới và chuẩn bị hội nhập nền kinh tế thế giới du 
lịch nước ta cũng đã có những bước phát triển ban đầu. Năm 2001 toàn 
ngành đón 2,33 triệu lượt khách quốc tế, tăng gần 9%so với năm 2000, vượt 
kế hoạch 6% so với năm 2000. Du lịch phát triển tạo nhiều công ăn việc làm 
cho dân cư và thu được một lượng ngoại tệ lớn cho ngân sách quốc gia. Tuy 
nhiên cũng như sự phát triển trong công nghiệp và nông nghiệp, hoạt động 
du lịch cũng đang tác động đến môi trường về nhiều mặt. 
Do nhu cầu phát triển du lịch, nhiều diện tích đất đai bị khai phá để xây 
dựng cơ sở hạ tầng như làm đường giao thông khách sạn, các công trình thể 
thao, các khu vui chơi giải trí. Điều đó gây phá hoại hoặc tổn thất tới cảnh 
quan thiên nhiên, các hệ sinh thái. 
Hoạt động du lịch có thể gây tác động khác tới tài nguyên nước, đặc biệt là 
các chất thải, các chất gây ô nhiễm do các khách sạn, nhà hàng, các hoạt 
động vận tải thuỷ và khách du lịch tạo nên. Hiện nay ở nước ta, tình trạng 
rác thải bừa bãi tại các điểm du lịch, vui chơi giải trí còn phổ biến, điều đó 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 14 
không những ảnh hưởng tới vệ sinh công cộng và môi trường mà còn gây 
cảm giác khó chịu cho du khách. 
Khi hoạt động du lịch nhộn nhịp lên thì đó cũng là điều đe doạ tới chất 
lượng không khí. Trước hết là ô nhiễm không khí do giao thông vận tải. Du 
khách có thể đi bằng đường bộ hoặc máy bay. Tuy nhiên không giống như ô 
tô, xe máy… ô nhiễm do máy bay ít được nhận thấy trực tiếp. Thế nhưng 
đây lại là phương tiện gây ô nhiễm trực tiếp lên tầng ôzôn. 
Sự phát triển du lịch còn tạo nên mối đe doạ tới các hệ sinh thái như phá 
những khu rừng ngập mặn để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm mất hoặc chia cắt 
nơi cư trú của các loài sinh vật, khai thác bừa bãi các tài nguyên rừng, biển 
để sản xuất các sản phẩm phục vụ khách du lịch như tiêu bản các loại thú 
rừng, hoa lan rừng, tắc kè, đồi mồi, san hô… tại nhiều điểm du lịch của nước 
ta.Ngoài ra việc khai thác hải sản biển cũng đang ở mức báo động. Đánh cá 
ven bờ giảm một cách đáng kể và số thuyền đánh cá đã tăng lên một cách 
nhanh chóng do có sự khuyến khích của chính phủ. Việc khai thác dầu 
không hợp lí cũng là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm biển. 
2.2.4 Gia tăng mức tiêu thụ 
Việt Nam là một nước đang phát triển về kinh tế, kinh tế phát triển kéo 
theo thu nhập cũng tăng lên. Đời sống người dân càng được nâng cao thì nhu 
cầu về các phương tiện trong cuộc sống cũng đòi hỏi cao hơn, nhu cầu của 
con người bây giờ không còn là ăn no, mặc ấm nữa mà đã tiến đến một bước 
cao hơn dó là nhu cầu ăn ngon, mặc đẹp. Với mức dân số như hiện nay là 80 
triệu người và ước tính đến năm 2042 sẽ có khoảng 155 triệu người, tất cả 
sống trong một đất nước có diện tích chỉ bằng ½ nước Pháp. Vấn đề sẽ trở 
nên khó khăn hơn với 55% dân số dưới 25 tuổi, tức là sẽ có một sự bùng nổ 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 15 
về dân số khi những người trẻ tuổi này bước vào tuổi sinh nở. Dân số đông, 
kinh tế phát triển, nhu cầu đi lại cũng tăng, hàng ngày lượng khí thải từ các 
phương tiện giao thông như ô tô, xe máy… đang góp một phần không nhỏ 
vào ô nhiễm không khí. Dân số đông, nguời ta lấp ao hồ để lấy đất ở. Rừng 
ngày càng bị thu hẹp do nhu cầu khai thác gỗ mạnh để sản xuất ra đồ dùng 
phục vụ cho con người. Các loại động vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng 
trước tình trạng săn bắt tràn lan để làm vật chưng bày hoặc làm thịt cho các 
thực khách… Hệ sinh thái đang mất đi sự cân bằng trước sự phá hoại như vũ 
bão của con người. 
2.3 Hậu quả của ô nhiễm môi trường 
“Nếu chúng ta bắn vào thiên nhiên một phát đạn, thì thiên nhiên sẽ bắn trả 
lại ta bằng đại bác ”. Thực tế cho thấy, đi kèm với quá trình công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá, chúng ta đang phải gánh chịu những hậu quả do chính 
chúng ta gây ra. Trong vòng 7 năm trở lại đây, các thảm hoạ tự nhiên như 
bão xoáy, lụt lội, hạn hán…ngày càng tăng nhanh cả về tần suất lẫn cường 
độ như hạn hán ở miền Trung, bão lụt ở đồng bằng sông Cửu Long, cháy 
rừng ở U Minh… đã cướp đi sinh mạng của nhiều người, thâm hụt vào ngân 
sách quốc gia hàng trăm tỷ đồng - một con số không nhỏ đối với một quốc 
gia còn nghèo như Việt Nam. Ngoài ra, đi đôi với sự suy giảm môi trường, 
các bệnh về thời tiết cũng gia tăng, thiệt hại người do các bệnh về đường 
nước tăng như sốt rét, tiêu chảy... Các bệnh liên quan đến đường ruột bệnh 
giun, bệnh sán máng, giun trong máu… các bệnh về hô hấp như viêm phổi, 
ung thư phổi… Cuộc sống của con người đang bị đe doạ 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 16 
2.4 Giải pháp giải quyết vấn đề 
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang tăng cường quan 
hệ thương mại song phương với các nước trên thế giới và tiến hành thủ tục 
đàm phán để gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới(WTO), tham gia tích 
cực vào các định chế kinh tế khu vực như ASEAN, APEC, ASEM… và đặc 
biệt là hiệp định thương mại Việt -Mỹ. Để hàng Việt Nam có chỗ đứng và 
khả năng cạnh tranh với các nước khác chúng ta cần: 
 Tăng cường kiểm tra, giám sát sự tuân thủ về pháp luật của các cơ sở 
công nghiệp 
 Khuyến khích sử dụng công nghệ và dây chuyền sản xuất tiết kiệm 
năng lượng, nguyên liệu, phát triển nguồn năng lượng sạch, ít khí thải. 
 Bắt buộc các nhà máy mối đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến, xây 
dựng và vận hành hệ thống xử lí nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường. 
 Lập quy hoạch môi trường song song với việc quy hoạch và phát triển 
công nghiệp. 
 Đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống tiêu thoát nước, xử lí nước thải công 
nghiệp trước khi thải ra môi trường. 
 Tổ chức và quản lý kịp thời đúng quy cách các loại chất thải rắn công 
nghiệp, chất thải y tế và các loại chất thải khác. 
 Thực hiện chủ chương xanh hoá đô thị và khu công nghiệp, xây dựng 
hành lang xanh và vùng chuyển tiếp giữa khu công nghiệp và khu dân 
cư. 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 17 
 Tăng cường vai trò của nhà nước trong khâu thẩm định, kiểm tra các 
mặt hàng nhập khẩu vào nước ta như máy móc, thiết bị vật tư, nguyên 
vật liệu, các giống mới… 
 Cần bảo vệ, tôn tạo, khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lí, đảm bảo 
sự phát triển bền vững. 
 Các sản phẩm về nông nghiệp cần hạn chế các loại thuốc gây hại cho 
người sử dụng cũng như cho đất trồng. 
 Có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm có nhãn sinh thái 
Ngoài ra để đảm bảo sự phát triển bền vững nhà nước củachúng ta cần: 
 Có chính sách ưu đãi đối với những hộ nhận khoán rừng 
 Có hình phạt nặng hơn nữa đối với những kẻ chặt phá rừng trái phép 
 Thành lập các khu bảo tồn động, thực vật 
 Khai thác gỗ hợp lí 
 Cán bộ kiểm lâm có chức vụ và quyền hạn cao hơn nữa để công tác 
kiểm lâm được chặt chẽ hơn, ngoài ra cán bộ kiểm lâm cần có những 
chính sách ưu đãi hơn 
 Khai thác dầu hợp lí 
 Bảo vệ nguồn sinh vật biển, đặc biệt là những loại quý hiếm 
 Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 18 
Lời kết 
Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước với 
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải đi từ mục 
tiêu cơ bản nhất của mọi sự phát triển xã hội đó là phát triển để cải thiện 
nâng cao chất lượng cuộc sống và vì sự sống trường tồn bền vững. Đây là 
vấn đề quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 
hiện nay cũng như về lâu dài. Tất cả các bài học kinh nghiệm đã rút ra trong 
quá trình quy hoạch phát triển trước đây cần phải được vận dụng triệt để cho 
quá trình phát triển của tương lai sao cho tránh được những hậu quả có thể 
xảy ra và đảm bảo hiệu quả cao nhất cho quá trình phát triển kinh tế. Chúng 
ta bảo vệ môi trường không phải nhằm mục đích hạn chế quá trình phát triển 
kinh tế mà nhằm mục đích đảm bảo hiệu quả kinh tế cao hơn cho quá trình 
phát triển tất yếu này, đồng thời nhằm bảo vệ chất lượng cuộc sống của mỗi 
con người chúng ta. Do đó, bảo vệ môi trường và tăng trưởng kinh tế có sự 
thống nhất.Có phát triển mới có kinh phí đầy đủ dành cho việc bảo vệ môi 
trường và có bảo vệ môi trường mới đảm bảo sự phát triển lâu dài và ổn 
định. 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
 19 
Tài liệu tham khảo 
G.s Lê Quý An, Du lịch và môi 
trường, Tạp chí Du lịch, số 12, 
1999. 
Nguyễn Anh, Hội thảo khoa học 
về môi trường chuyên ngành mỏ, 
luyện kim, hoá chất, Tạp chí Công 
nghiệp, số 19, 1999. 
Craig Leisher, Môi trường Việt 
Nam những điều cần làm, Tạp chí 
Bảo vệ môi trường, số 7, 2001. 
Lê Minh Đức, Bảo vệ môi trường 
và vấn đề phát triển bền vững ở 
Việt Nam, Con số và sự kiện, số 
12, 1999. 
Th.s Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Đặng 
Thị Thu Hoài, Hội nhập kinh tế thế 
giới với bảo vệ môi trường ở Việt 
Nam, Tạp chí Chuyên đề môi 
trường kinh tế, 2001. 
T.s Nguyễn Đắc Huy, Đinh Đức 
Tường, Nguyễn Mỹ Hoàng, Một 
vài suy nghĩ về quản lý môi trường 
trong nền kinh tế chuyển đổi ở Việt 
Nam, Tạp chí Chuyên đề Môi 
trường kinh tế, 2001. 
T.s Trần Thanh Lâm, Một tiếp cận 
mới trong quản lý thương mại và 
bảo vệ môi trường ở Việt Nam, 
Tạp chí Xây dưng, số 3, 2002. 
Nhiều tác giả, Bảo vệ môi trường 
trên quan điểm phát triển bền 
vững, Tạp chí Bảo vệ môi trường, 
số 6, 2002. 
Nhiều tác giả, Định hướng nhà 
nước và hiện trạng môi trường ở 
Việt Nam, Tạp chí Công nghiệp, số 
18, 2000. 
Nhiều tác giả, Môi trường, quá 
khứ, hiện tại, tương lai, Tạp chí 
Khoa học công nghệ và môi 
trường, số 7, 2002. 
T.s Danh Sơn, Các lợi ích về bảo 
vệ môi trường ở nước ta, Tạp chi 
Bảo vệ môi trường, số 2 năm 
2001. 
Lâm Minh Triết, Nguyễn Thanh 
Hùng, Một vài giải pháp môi 
trường cho các cơ sở sản xuất vừa 
và nhỏ, Tạp chí Bảo vệ môi 
trường, số 7, 2001. 
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
 For evaluation only.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 t011_0661.pdf t011_0661.pdf