Lãnh đạo cấp trên phải tin tưởng tuy ệt đối vào người được chỉ định lãnh đạo một
tổ chức đang bất ổn. Tin tưởng thì hãy chỉ định. Tránh tuy ệt đối việc chưa tin
tưởng nhưng đã giao nhiệm vụ, giao rồi lại tìm cách can thiệp trực tiếp vào việc đã
giao.
- Khi lãnh đạo cấp trên đã tin tưởng giao nhiệm vụ thì cần tạo điều kiện, hậu thuẫn
người lãnh đạo tổ chức đang bất ổn vì phong cách lãnh đạo độc đoán phù hợp với
tổ chức trong giai đoạn này nhưng nó có thể gặp sự phản ứng từ nhiều phía.
30 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2739 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phong cách lãnh đạo độc đoán -Phong cách phù hợp để giải quyết bất ổn – Minh họa tại tổng công ty cấp nước sài gòn giai đoạn 2003 - 2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g
cách này thường đưa ra những chỉ dẫn chi tiết, vì vậy nhân viên biết chính xác
họ phải làm gì. Cách giao tiếp của nhà lãnh đạo là rõ ràng, ngắn gọn và xúc
tích, những gì màu mè và kiểu cách không hợp với họ. Khi muốn nhận thông
tin phản hồi từ nhân viên, họ thường chỉ đặt một câu hỏi: “Anh đã hiểu cần
phải làm gì chưa?”.
- Việc thiết lập các mục tiêu: Nhà lãnh đạo sẽ thường thiết lập các mục tiêu ngắn
hạn, liên tục, tuần tự cho tổ chức và cho nhân viên. Khi mục tiêu đã được xác
định rõ ràng và thời gian cũng được ấn định, thì nhân viên biết rõ lãnh đạo
mong chờ gì ở anh ta. Các mục tiêu và thời hạn thường là động lực thúc đẩy
con người.
- Cách thức ra quyết định: Người lãnh đạo thường quyết định phần lớn nếu
không muốn nói là tất cả mọi việc từ lớn đến nhỏ. Khi nảy sinh vấn đề cần giải
quyết, người lãnh đạo tự đánh giá các sự lựa chọn, ra quyết định và trực tiếp
hướng dẫn nhân viên những hành động họ cần phải thực hiện.
- Kiểm soát sự thực hiện và cung cấp thông tin phản hồi: Những nhà lãnh đạo
thường thiết lập các khâu kiểm soát nhất định để điều khiển quá trình thực hiện
công việc. Cách đưa mệnh lệnh của họ thường là: “Hãy quay trở lại gặp tôi vào
lúc 11 giờ trưa và báo cáo tóm tắt những công việc mà anh đã làm xong”. Các
nhà lãnh đạo thường xuyên cung cấp thông tin bổ sung dưới dạng các hướng
dẫn cụ thể về cách làm thế nào để cải tiến công việc tốt hơn.
- Sự khen thưởng và ghi nhận công việc: Nhà lãnh đạo cảm thấy hài lòng, hạnh
phúc khi nhân viên dưới quyền làm đúng theo sự hướng dẫn của họ. “Công
việc rất tuyệt vời, anh đã làm chính xác những gì mà tôi đã nói với anh”. Đó là
câu nói thể hiện thái độ hài lòng của họ đối với nhân viên.
1.1. Vận dụng phong cách lãnh đạo độc đoán vào quản trị doanh nghiệp:
Như ở trên đã đề cập, mỗi phong cách lãnh đạo đều có nhưng ưu, nhược điểm
tùy thuộc vào con người lãnh đạo cụ thể, tình huống cụ thể, tổ chức cụ thể mà áp dụng
phong cách lãnh đạo phù hợp để phát huy những ưu điểm, hạn chế nhược điểm của
mỗi phong cách. Dẫu biết vậy nhưng thường phong cách lãnh đạo độc đoán ít được áp
dụng, nếu phải áp dụng thì nên được áp dụng trong thời gian ngắn bởi những ưu,
khuyết điểm của nó.
Ưu điểm:
- Giải quyết công việc đã định trước nhanh chóng, đồng bộ.
- 8 -
Khuyết điểm:
- Tạo áp lực liên tục lên tổ chức. Lên bản thân người lãnh đạo.
- Triệt tiêu tính sáng tạo của nhân viên.
- Aùp dụng lâu sẽ phát sinh cách làm việc đối phó trong tổ chức.
Với các ưu, khuyết này, phong cách lãnh đạo độc đoán rất thích hợp trong giai
đoạn bất ổn ở một tổ chức, khi nhà lãnh đạo mới cần nhanh chóng ổn định lại tổ chức,
đặt cơ sở về nguồn lực, thời gian cho phong cách lãnh đạo phù hợp hơn khi tổ chức đã
dần ổn định. Phong cách lãnh đạo độc đoán cũng rất thích hợp khi có một nhiệm vụ
cấp thiết, rõ ràng từ cấp trên mà cách thức thực hiện hoặc đã được mô tả rõ ràng hoặc
đã được đúc kết kinh nghiệm từ trước. Khi đó, người lãnh đạo là người chỉ huy thực
hiện nhiệm vụ, làm đúng những gì được yêu cầu. Phong cách lãnh đạo này cũng thích
hợp trong trường hợp các nhân viên còn hạn chế về kinh nghiệm hoặc thiếu các kỹ
năng cần thiết để hoàn thành công việc. Người lãnh đạo theo phong cách này đưa ra
các bước đi cụ thể và hành động kiểm soát những khâu quan trọng để các nhân viên
có thể dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ.
- 9 -
CHƯƠNG 2 : TỔNG CÔNG TY CẤP NƯỚC SÀI GÒN
GIAI ĐOẠN 2003 -2006
(giai đoạn bất ổn và phục hồi sau đó)
2.1. Tổng quan về Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn
2.1.1. Mô hình – Tổ chức:
Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn được thành lập theo :
- Quyết định số 24/2005/QĐ-TTg ngày 26.01.2005 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thành lập Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn hoạt động theo mô hình Công
ty mẹ - Công ty con.
- Quyết định số 85/2005/QĐ-UB ngày 24.05.2005 của Chủ tịch UBND
TP.HCM về thành lập Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn hoạt động theo mô hình
Công ty mẹ-Công ty con.
Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn là doanh nghiệp Nhà nước được kinh doanh
đa ngành, trong đó ngành chính là sản xuất, cung ứng nước sạch và các sản phẩm,
dịch vụ khác về ngành nước để làm nòng cốt trong việc thực hiện quy hoạch phát
triển ngành cấp nước trên địa bàn thành phố và các vùng lân cận.
Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn (Công ty mẹ) tên giao dịch tiếng Anh:
SAIGON WATER CORPORATION, tên viết tắt: SAWACO là doanh nghiệp Nhà
nước, được hình thành trên cơ sở tổ chức lại Công ty Cấp nước TP.HCM.
Trụ sở chính : số 01, Công trường Quốc tế, Quận 3, TP.HCM
Điện thoại : 8291777 - 8291974 - 8231090 Fax : 8241644
Tổng Công ty được kinh doanh các ngành nghề sau:
+ Quản lý, phát triển hệ thống cấp nước và khai thác, sản xuất, cung ứng,
kinh doanh nước sạch cho nhu cầu tiêu dùng , sản xuất - kinh doanh các sản
phẩm, dịch vụ khác về ngành nước;
+ Sản xuất - kinh doanh vật tư, phụ tùng ngành cấp nước, thoát nước và các
loại vật liệu xây dựng khác;
+ Sản xuất, kinh doanh các sản phẩm cấu kiện bê tông, ống nước bê tông dự
ứng lực, ống nhựa lõi thủy tinh sợi phục vụ cho các công trình cấp thoát
nước và các công trình chuyên ngành giao thông công chính;
+ Xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị, công nghệ ngành cấp nước, thoát nước;
+ Tổ chức đào tạo các lĩnh vực liên quan đến ngành nước;
+ Thực hiện chức năng tư vấn xây dựng các công trình cấp nước, thoát nước;
công trình dân dụng - công nghiệp và các công trình xây dựng chuyên
ngành giao thông công chính;
+ Khảo sát, thiết kế, lập dự án, thẩm định thiết kế và giám sát thi công các
công trình cấp nước, thoát nước, dân dụng - công nghiệp;
- 10 -
+ Tổng thầu xây dựng các công trình cấp nước, thoát nước, các công trình
duy tu, sửa chữa và xây dựng cầu, đường bộ, bến bãi, cảng sông, cảng biển,
bờ kè, san lấp mặt bằng, nạo vét sông- kênh rạch, các công trình chiếu sáng
công cộng; tái lập mặt đường đối với các công trình chuyên ngành cấp nước
và công trình khác;
+ Đầu tư tài chính vào các doanh nghiệp khác.
Mô hình tổ chức:
Nhân sự hiện nay: 3509 người.
Trong đó:
PHÒNG
HỢP TÁC
PHÁT TRIỂN
KINH DOANH
TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÓ TGĐ
HỢP TÁC KINH DOANH
PHÓ TGĐ
KỸ THUẬT
XÍ NGHỆP
TRUYỀN DẪN
NƯỚC SẠCH
BAN QUẢN
LÝ
DỰ ÁN
VAY ADB
1273/VIE-SF
PMU
BAN QUẢN LÝ
DỰ ÁN
NƯỚC SÔNG
SÀIGÒN- GĐ
1
PHÒNG
KỸ THUẬT
CÔNG NGHỆ
PHÒNG
TỔ CHỨC
NHÂN SỰ
PHÒNG
KẾ HOẠCH
ĐẦU TƯ
CÔNG TY
CỔ PHẦN
CẤP NƯỚC
BẾN THÀNH
CÔNG TY
CỔ PHẦN
CẤP NƯỚC
CHỢ LỚN
CÔNG TY
CỔ PHẦN
CẤP NƯỚC
GIA ĐỊNH
CÔNG TY
CỔ PHẦN
CẤP NƯỚC
PHÚ HÒA
TÂN
CÔNG TY
CỔ PHẦN
CẤP NƯỚC
NHÀ BÈ
CÔNG TY
CỔ PHẦN
CẤP NƯỚC
THỦ ĐỨC
CHI
NHÁNH
CẤP NƯỚC
TÂN HÒA
NHÀ MÁY
NƯỚC
THỦ ĐỨC
NHÀ MÁY
NƯỚC
TÂN HIỆP
CÔNG TY TNHH
MỘT THÀNH
VIÊN
NƯỚC NGẦM
SÀIGÒN.
XÍ NGHỆP
CẤP
NƯỚC
TRUNG
AN
CÔNG TY
CÔNG TRÌNH
GIAO THÔNG
CÔNG CHÁNH
CÔNG TY
CP CƠ KHÍ
CÔNG TRÌNH
CẤP NƯỚC
CÔNG TY
CP TƯ VẤN
XÂY DỰNG
CẤP NƯỚC
CÔNG TY
TƯ VẤN
XÂY DỰNG
CÔNG TRÌNH
GIAO THÔNG
CÔNG CHÁNH
PHÓ TGĐ
KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
PHÓ TGĐ
XÂY DỰNG CƠ BẢN
PHÒNG
KẾ TOÁN
TÀI CHÍNH
VĂN PHÒNG
TỔNG
CÔNG TY
BAN QUẢN LÝ
DỰ ÁN
GIẢM THẤT
THOÁT NƯỚC
TỔNG KHO
VẬT TƯ
BAN QUẢN LÝ
DỰ ÁN
CẤP NƯỚC
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN CHUẨN BỊ
DỰ ÁN
HỖ TRỢ
KỸ THUẬT
VỐN ODA
- 11 -
Tổng Công ty có các đơn vị thành viên sau:
1. Các đơn vị kinh tế hạch toán phụ thuộc Tổng công ty bao gồm:
- Nhà máy nước Thủ Đức: đặt tại huyện Thủ Đức, xử lý nước từ nguồn nước thô
lấy ở sông Đồng Nai, công suất 750.000m3 nước sạch/ngày đêm.
- Nhà máy nước Tân Hiệp: đặt tại huyện Hóc Môn, xử lý nước từ nguồn nước thô
lấy ở sông Sài Gòn, công suất 300.000m3 nước sạch/ngày đêm.
- Xí nghiệp Cấp nước Trung An: quản lý các Trạm xử lý và các giếng lẻ rải rác
trong Thành phố, lượng nước sản xuất tùy theo khả năng khai thác nước ngầm và
tình hình sử dụng nước của khách hàng.
- Chi nhánh Cấp nước Tân Hoà: Phân phối nước sạch đã qua xử lý tại các nhà máy
nước, trên địa bàn quận 12, Gò Vấp và huyện Hóc Môn.
2. Các doanh nghiệp nhà nước chuyển sang Công ty TNHH một thành viên do Tổng
Công ty Cấp nước Sài Gòn (Công ty mẹ) đầu tư 100% vốn điều lệ :
- Công ty TNHH Một thành viên Nước ngầm Sài Gòn: Nhà máy chính đặt tại
quận Tân Phú, xử lý nước sạch từ nguồn nước ngầm được khai thác từ các giếng
vệ tinh chung quanh, lượng nước sản xuất dao động từ 50.000m3 đến 80.000m3
nước sạch/ngày đêm
- Công ty Công trình Giao thông Công chính: thực hiện công tác tổng thầu xây
dựng các công trình cấp nước, thoát nước, các công trình duy tu, sửa chữa và xây
dựng cầu, đường bộ, bến bãi, cảng sông, cảng biển, bờ kè, san lấp mặt bằng, nạo
vét sông- kênh rạch, các công trình chiếu sáng công cộng; tái lập mặt đường đối
với các công trình chuyên ngành cấp nước và công trình khác.
3. Các đơn vị kinh tế hạch toán phụ thuộc Công ty Cấp nước TP chuyển sang Công ty
Cổ phần, trong đó Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn (Công ty mẹ) giữ cổ phần chi
phối trên 50% vốn điều lệ, gồm:
- Công ty Cổ phần Cấp nước Thủ Đức: Phân phối nước sạch đã qua xử lý tại các
nhà máy nước, trên địa bàn quận 2, 9 và Thủ Đức.
- Công ty Cổ phần Cấp nước Nhà Bè: Phân phối nước sạch đã qua xử lý tại các
nhà máy nước, trên địa bàn quận 4, 7, huyện Nhà Bè.
- 12 -
- Công ty Cổ phần Cấp nước Gia Định: Phân phối nước sạch đã qua xử lý tại các
nhà máy nước, trên địa bàn quận Bình Thạnh, Phú Nhuận, P1 quận Gò Vấp và P
12,13,14 quận 3.
- Công ty Cổ phần Cấp nước Bến Thành: Phân phối nước sạch đã qua xử lý tại các
nhà máy nước, trên địa bàn quận 1, quận 3.
- Công ty Cổ phần Cấp nước Chợ Lớn: Phân phối nước sạch đã qua xử lý tại các
nhà máy nước, trên địa bàn quận 5, 6, 8, Bình Tân và Huyện Bình Chánh.
- Công ty Cổ phần Cấp nước Phú Hoà Tân: Phân phối nước sạch đã qua xử lý tại
các nhà máy nước, trên địa bàn quận 10,11 và phường Phú Trung quận Tân Phú.
- Công ty Cổ phần Cơ khí Công trình Cấp nước: Sản xuất - kinh doanh vật tư, phụ
tùng ngành cấp nước, thoát nước và các loại vật liệu xây dựng khác
- Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng Cấp nước: Khảo sát, thiết kế, lập dự án, thẩm
định thiết kế và giám sát thi công các công trình cấp nước, thoát nước, dân dụng
- công nghiệp.
4. Doanh nghiệp nhà nước chuyển thành Công ty Cổ phần, trong đó Tổng Công ty
Cấp nước Sài Gòn (Công ty mẹ) có vốn góp không chi phối:
- Công ty Tư vấn xây dựng Công trình giao thông công chính: Khảo sát, thiết kế,
lập dự án, thẩm định thiết kế và giám sát thi công các công trình cấp nước, thoát
nước, dân dụng - công nghiệp.
Ngoài nguồn nước từ các đơn vị trong Tổng Công ty nêu trên, Tổng Công
ty còn mua thêm từ các đơn vị sản xuất nước bên ngoài khác như:
- Nhà máy nước BOT Bình An:
Nhà máy đặt tại tỉnh Bình Dương, xử lý nước từ nguồn nước thô lấy ở sông
Đồng Nai. Lượng nước Tổng Công ty mua là 100.000m3 nước sạch/ngày đêm,
bơm trực tiếp về Nhà máy nước Thủ Đức.
- Công ty TNHH Hiệp Ân:
Trạm xử lý nước ngầm đặt tại phường 5 quận 8, khai thác và xử lý nước cung
cấp cho khu vực chung quanh. Lượng nước Tổng Công ty mua khoảng
1.000m3 nước sạch/ngày đêm.
- Doanh nghiệp tư nhân Hằng Hải:
Trạm xử lý nước ngầm đặt tại phường 5 quận 8, khai thác và xử lý nước cung
cấp cho khu vực chung quanh. Lượng nước Tổng Công ty mua khoảng
2.000m3 nước sạch/ngày đêm.
- Nhà máy nước BOO Thủ Đức:
Nhà máy đặt tại huyện Thủ Đức, xử lý nước từ nguồn nước thô lấy ở sông
Đồng Nai, dự kiến phát nước vào năm 2009 với công suất 300.000 m3 /ngày
đêm.
- Nhà máy nước Kênh Đông:
- 13 -
Nhà máy đặt tại huyện Củ Chi, xử lý nước từ nguồn nước thô lấy ở sông Đồng
Nai lấy nguồn nước thô từ Kênh Đông, dự kiến phát nước vào năm 2009 với
công suất 150.000 m3 /ngày đêm.
2.1.2. Lịch sử phát triển :
– Năm 1874, cơ sở cấp nước đầu tiên tại Sài Gòn bắt đầu được khỏi công xây
dựng bởi người Pháp. Đến năm 1945 tổng sản lượng nước cấp đạt đến công
suất 120.000 m3/ngày, chủ yếu là nước ngầm để cung ứng cho khỏang
450.000 người.
– Năm 1959, Sài Gòn Thủy Cục được thành lập với nhịêm vụ cung cấp nước
máy trong lành cho dân cư Sài Gòn và các vùng phụ cận. Đến năm 1966,
Nhà máy nước Thủ Đức bắt đầu đi vào hoạt động với công suất ban đầàu
450.000 m3/ngày, khai thác nước sông Đồng Nai.
– Năm 1975, Sài Gòn Thủy Cục đổi tên thành Công ty Cấp nước và vẫn duy trì
mức công suất 450.000-480.000 m3/ngày.
– Năm 2005: Công ty Cấp nước TP.HCM được đổi tên thành Tổng Công ty
Cấp nước Sài Gòn (SAWACO) và đến nay công suất thực tế là 1.236.000
m3/ngày.
2.1.3. Các đặc điểm nổi bật chi phối quyết định quản trị:
- Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn là một doanh nghiệp nhà nước, trước đây chỉ
là một công ty chuyên sản xuất và cung cấp nước sạch. Từ tháng 5 năm 2005,
cơ cấu thêm các công ty thuộc các ngành nghề khác ( xây dựng và tư vấn xây
dựng), được phép kinh doanh đa ngành, đa nghề, chuyển đổi sang mô hình
Công ty mẹ - Công ty con. Từ năm 2007 tiến hành cổ phần hóa các chi nhánh,
các công ty thành viên (công ty con), dự kiến đến cuối năm 2009 thực hiện cổ
phần hóa toàn Tổng Công ty.
- Nước sạch, sản phẩm chủ lực của Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn là một loại
hàng hóa đặc biệt, do đó việc kinh doanh sản phẩm nước sạch có nét đặc thù
riêng. Nước sạch là một trong những sản phẩm thiết yếu đối với cộng đồng,
đây là một dòng sản phẩm hàng hóa đặc biệt quan trọng mà mọi người dân
đều có quyền được thụ hưởng. Nước sạch là một loại sản phẩm được sản
xuất và phân phối ngay cho người tiêu dùng, không có giai đoạn tồn kho.
Người tiêu dùng sử dụng sản phẩm trước và trả tiền sau. Vì nước sạch mang
tính xã hội rất cao, kinh doanh nước sạch không đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên
hết. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường, không thể phủ nhận rằng nước sạch là
một loại hàng hóa có thể kinh doanh. Việc kinh doanh nước sạch chính là
phương thức để nâng cao và phát triển khả năng cung cấp nước sạch cho xã hội
- 14 -
đồng thời là biện pháp để thúc đẩy việc quản lý vận hành cấp nước một cách
tốt hơn. Có thể nói, kinh doanh nước sạch là một lĩnh vực vừa mang tính
sản xuất kinh doanh hàng hóa vừa mang tính phục vụ xã hội. Do mang tính
phục vụ xã hội, giá bán nước sạch cho khách hàng không do doanh nghiệp
cấp nước quyết định mà phải được sự phê duyệt của cấp có thẩm quyền.
Ngoài yêu cầu quản lý chất lượng chung một cách nghiêm ngặt, một số doanh
nghiệp cấp nước còn chịu sự chi phối bởi cơ quan quản lý Nhà nước về một số
chỉ tiêu quan trọng như : Tỉ lệ cung cấp nước sạch cho dân, tỉ lệ thất thoát
nước,….
- Kinh doanh sản phẩm nước sạch mang tính độc quyền tự nhiên. Đây là nói
kinh doanh sản phẩm nước sạch qua hệ thống đường ống phân phối với khối
lượng lớn, các trường hợp mua bán, sang, đổi nước bằng các phương tiện vận
chuyển, chứa đựng trong các vật chứa là không đáng kể, không đề cập trong
bài viết này. Qua nghiên cứu ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác, thế độc
quyền tự nhiên của các doanh nghiệp cấp nước cũng được xác lập, bất kể loại
hình sở hữu, bất kể thành phần kinh tế. Ở một số nước, Nhà nước tổ chức đấu
thầu dịch vụ cấp nước cho một khu vực cụ thể, cơ sở để xét thầu là chất lượng
dịch vụ và giá cả nước cung cấp cho người dân khu vực đó. Tuy nhiên sau khi
trúng thầu, doanh nghiệp cấp nước trở thành một đơn vị độc quyền vì sau khi
xây dựng nhà máy xử lý nước và thiết lập hệ thống phân phối đến tận nhà
khách hàng, ngoài họ ra không ai có thể chen chân vào được một cách hiệu
quả. Có một hình thức kinh doanh khác để phá thế độc quyền là nhà nước xây
dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng về cấp nước sau đó đấu thầu chọn thuê đơn vị
vận hành, tuy nhiên hình thức này là mô hình rất mới, chỉ áp dụng ở một số
nước tiên tiến và thật sự còn nhiều bất cập, trong đó nổi lên vấn đề quan trọng
nhất là nhà nước vẫn nắm độc quyền về hạ tầng cấp nước, chiếm tài sản lớn
quyết định giá cả và chất lượng dịch vụ.
- Kinh doanh một sản phẩm thiết yếu, khách hàng ổn định cộng với tính độc
quyền tự nhiên như đề cập ở trên, dần dần hình thành văn hóa tổ chức có đặc
trưng riêng, bộ máy tổ chức, thái độ làm việc của nhân viên trì trệ, có xu hướng
khép kín. Từ thời còn là Sài Gòn Thủ Cục, Tổng Công ty đã có xu hướng tuyển
dụng con em trong ngành, xu hướng này đến nay đã phai nhạt dần nhưng vẫn
còn ảnh hưởng đáng kể.
2.2. Các giai đoạn phát triển:
2.2.1. Giai đoạn còn là Công ty Cấp nước :
Giai đoạn này kéo dài từ năm 1975 đến năm 2003, chia làm 2 giai đoạn nhỏ.
Giai đoạn là một đơn vị công ích, hành chánh hạch toán báo sổ trực thuộc Sở Giao
- 15 -
thông Công chính từ năm 1975 đến năm 1983. Giai đoạn này công tác quản trị gần
như gói gọn trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ được cấp trên giao là sản xuất và
cung cấp nước sạch cho nhân dân Thành phố, không cần xem xét nhiều đến hiệu quả
sản xuất- kinh doanh, hoạt động trong cơ chế bao cấp không có nhiều vấn đề phải
phân tích. Giai đoạn 2, từ năm 1983 đến 2003 trở thành doanh nghiệp nhà nước hạch
toán độc lập, bắt đầu phải tính đến hiệu quả sản xuất- kinh doanh. Nhằm đảm bảo
cung cấp sản phẩm nước sạch cho khách hàng hiện hữu, nhanh chóng đầu tư phát
triển để mở rộng mạng lưới, phát triển thêm khách hàng đang rất thiếu nước tại thời
điểm lúc bấy giờ. Môi trường hoạt động của công ty trong giai đoạn này có những đặc
điểm :
Môi trường bên ngoài:
- Đây là giai đoạn kinh tế Thành phố phát triển rất nhanh sau thời kỳ đóng cửa
trước đó. Nhu cầu sử dụng sản phẩm nước sạch tăng rất nhanh do tốc độ phát
triển cao của sản xuất và dịch vụ. Thêm vào đó là nhu cầu sử dụng nước tăng
do khách hàng tăng tiêu dùng khi đời sống được cải thiện và tăng dân số cơ
học. Sản phẩm nước sạch luôn trong tình trạng thiếu.
- Về chính trị: Chính phủ xác định hoạt động sản xuất- kinh doanh nước sạch
là hoạt động kinh doanh có sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước về chất
lượng và giá cả. Ủy ban nhân dân Thành phố được giao quyết định giá bán
sản phẩm nước sạch. Trên cơ sở hướng dẫn xây dựng giá bán sản phẩm nước
sạch bằng chi phí cộng một khoản lãi định mức (3% chi phí). Giá bán thường
chậm được điều chỉnh cộng với tốc độ trượt giá và yêu cầu của cấp trên phải
mở rộng mạng lưới cung cấp dẫn đến tình trạng luôn thiếu vốn hoạt động.
- Về mặt văn hóa xã hội: Người dân luôn đòi hỏi được cung cấp nước với chất
lượng và sự phục vụ ngày càng cao trong khi lại không chấp nhận trả thêm
tiền. Có nhiều người vẫn xem nước sạch là một loại hàng hóa công ích, được
Nhà nước bao cấp. Mỗi lần xin được điều chỉnh giá nước, doanh nghiệp
ngành cấp nước luôn nhận được ý kiến đại loại như: “Hãy giảm thất thoát
nước đi rồi hãy tăng giá nước” hay “Tại sao lại để mỗi một đơn vị cấp nước
độc quyền, hãy để nhiều đơn vị cạnh tranh, giá nước sẽ giảm chứ không
tăng”… Trong khi như trên đã đề cập, việc cung cấp sản phẩm nước sạch
mang tính độc quyền tự nhiên và nếu không tăng giá nước thì lấy tiền ở đâu
mà cải tạo hệ thống cấp nước đã quá cũ mục (có nhiều tuyến ống có từ thời
Pháp- tỷ lệ thất thoát rất cao).
- Về mặt tự nhiên: Nguồn nước thô để sản xuất nước sạch chủ yếu lấy từ nước
sông Đồng Nai bắt đầu bị ô nhiễm do các đô thị và khu công nghiệp phát
triển mạnh ở thượng lưu. Một phần nước thô được lấy từ các giếng khoan
- 16 -
công nghiệp bắt đầu đối mặt với hiện tượng suy kiệt và nhiễm mặn vì bị khai
thác quá mức.
- Về kỹ thuật -công nghệ: Sau mở cửa, Việt Nam có điều kiện tiếp nhận công
nghệ mới. Ngành nước có điều kiện thay đổi công nghệ đã lạc hậu, có điều
kiện thay thế các máy móc, thiết bị đã hư hỏng hoặc vận hành trong điều kiện
không an toàn mà trong thời gian cấm vận không thể nào mua được. Vấn đề
là không có tiền để thực hiện điều đó.
- Về khách hàng: Vì nước sạch là loại sản phẩm thiết yếu và luôn trong tình
trạng cung không đủ cầu nên khách hàng luôn phải gắn bó với công ty. Việc
phát triển khách hàng mới rất khó khăn, đến mức đôi khi có hiện tượng tiêu
cực, khách hàng phải chi thêm tiền hơn mức quy định cho một số nhân viên
biến chất để được gắn đồng hồ nước.
- Về đối thủ cạnh tranh và sản phẩm thay thế: Nhìn chung kinh doanh sản
phẩm nước sạch có tính độc quyền tự nhiên. Một khi doanh nghiệp cấp nước
đã sở hữu một hệ thống cấp nước thì một doanh nghiệp khác khó có thể nhảy
vào kinh doanh tương tự vì phải thiết lập một hệ thống cấp nước khác, điều
này không hiệu quả và cơ sở hạ tầng cũng không cho phép. Công ty chỉ phải
đối mặt với sản phẩm thay thế là nước giếng do khách hàng tự khoan. Tuy
nhiên do nước giếng này ngày càng suy kiệt và chất lượng không đảm bảo
nên sản phẩm cạnh tranh này tác động nhỏ đến hoạt động kinh doanh của
công ty.
Môi trường bên trong:
- Văn hóa của tổ chức: Công ty có truyền thống tuyển dụng con em cán bộ
công nhân viên trong ngành. Truyền thống này duy trì từ trước giải phóng
nên nhìn chung quan hệ gắn bó nhưng chậm đổi mới, khó có đột phá. Có
những quy tắc ứng xử bất thành văn được nhiều người chia sẻ và tuân thủ.
Mọi người thường chấp nhận cùng chia nhỏ miếng bánh ít ỏi hơn là có miếng
to hơn để người khác phải nhịn.
- Các lãnh đạo cao nhất là những nhà kỹ thuật, có trình độ chuyên môn sâu về
ngành nhưng ít tìm hiểu và điều hành theo phong cách nhà quản trị.
- Các máy móc, thiết bị, nhà xưởng dần xuống cấp, chậm được đổi mới, luôn
đối mặt với nguy cơ gặp sự cố, cần được khẩn trương thay thế.
- Người lao động đoàn kết, đa phần có chuyên môn và nhiệt tình. Có một thực
tế là trước giải phóng, lương của nhân viên Sài Gòn Thủy Cục rất cao, chế độ
đãi ngộ rất tốt ( có cư xá riêng), nên quy tụ được nhiều người giỏi. Chế độ
tuyển dụng chủ yếu cho con em nhân viên nên sau giải phóng đội ngũ nhân
- 17 -
viên giỏi và có nhiệt huyết. Chính nhờ đội ngũ lao động này mà các vấn đề
khó khăn ở trên được khắc phục hoặc có thể duy trì ở tình trạng hoạt động
được.
Trong giai đoạn này, quản trị vẫn còn chủ yếu tập trung vào công tác tổ chức
và điều hành. Cụ thể như sau:
Về việc hoạch định- ra quyết định quản trị:
Việc hoạch định thường giới hạn ở mức lập kế hoạch hàng năm, năm sau cao
hơn năm trước là được. Các quyết định quản trị thường tập trung vào các tác nghiệp
hằng ngày, hằng tháng. Việc ra quyết định tuy có dựa trên cơ sở tham mưu của bộ
phận chuyên môn, nhưng thường là có định hướng bởi quy định, bởi kế hoạch, chủ
trương ở cấp trên, đôi khi là từ các cơ quan quản lý nhà nước. Các quyết định thường
được thực thi nghiêm chỉnh nhưng ít khi được phân tích, đánh giá hiệu quả và rút kinh
nghiệm.
Về tổ chức:
Giai đoạn này về tổ chức. Công ty theo mô hình hỗn hợp quy trình và chức
năng:
Phân cấp quản trị theo hình tháp:
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
NHÀ
MÁY
PHÒNG
PHÒNG
CHI
NHÁNH
PHÓ GIÁM ĐỐC
CHI
NHÁNH
NHÀ
MÁY
…
…
CAO
CẤP
- 18 -
Tuy nhiên trên thực tế có sự lẫn lộn giữa các cấp bậc và ra quyết định. Các nhà
lãnh đạo đều có trình độ chuyên môn và thường làm việc hoặc ra quyết định trực tiếp
cho cấp cơ sở hoặc người thừa hành. Đôi khi, trong trường hợp khẩn cấp có sự cố thì
cách làm việc này có hiệu quả, nhưng quá lạm dụng dẫn đến phá vỡ cấu trúc tổ chức,
lãnh đạo ôm đồm, nhiều việc vụn vặt, không có thời gian suy nghĩ giải quyết việc lớn,
nhân viên người thì nhiều việc, người thì ít việc.
Công ty cũng đã thực hiện phân quyền với mức độ hạn chế. Các phó giám đốc
được giao giải quyết, quyết định, ký một số nội dung, văn bản hoặc phục trách đôn
đốc một hoặc vài phòng ban. Các giám đốc chi nhánh, nhà máy được ủy quyền giải
quyết một số lĩnh vực, công việc được quy định trước.
Về điều hành:
Việc điều hành chủ yếu tập trung vào các công việc đã xác định trước, lập đi
lập lại (do thực hiện theo kế hoạch ít thay đổi). Tuyển dụng nhân viên theo quy chế đã
được xác định trước, theo nhu cầu công việc có xét ưu tiên con em cán bộ công nhân
viên trong ngành. Tuy nhiên việc đào tạo và đào tạo lại chưa được chú trọng, chủ yếu
là bồi dưỡng, thi tay nghề cho công nhân.
Việc động viên tinh thần làm việc của nhân viên được thực hiện qua các đợt
bình xét lao động hằng năm, tuy nhiên còn mang tính bình quân, dễ dãi, tính khuyến
khích tạo động lực không cao. Việc động viên bằng hình thức đề bạt, nâng lương ít
được áp dụng.
Phong cách lãnh đạo dân chủ, các quy định thường trải qua bàn bạc, tham khảo
ý kiến cấp dưới. Tuy nhiên, tính dân chủ cũng có hạn chế do các chỉ tiêu kế hoạch và
cách thực hiện thường chịu chi phối bởi cấp trên.
Về kiểm tra:
Trưởng phòng,
Giám đốc chi nhánh
Ban Giám đốc Công
ty
Đội trưởng
Trưởng ban
Tổ trưởng
- 19 -
Việc kiểm tra chưa được thực hiện có hệ thống và có nhiều bộ phận thực hiện
với nhiều nguyên tắc, góc nhìn khác nhau nên có việc dẫm chân lên nhau, có những
kết quả mâu thuẫn nhau.
Về nguyên tắc, Công ty có một phòng Thanh tra- Pháp chế để theo dõi và tham
mưu công tác kiểm tra nhưng bộ phận này lại xa đà vào công tác kiểm tra khách hàng
mà ít chú trọng đến công tác kiểm tra nội bộ. Công việc đôn đốc kết quả thực hiện
quy định, lãnh đạo Công ty giao cho phòng Tổ chức -Lao động- Tiền lương và phòng
Kế hoạch, nhưng hai phòng này chỉ thực hiện mảng công việc của mình. Phòng Tổ
chức -Lao động- Tiền lương thì lo về công tác nhân sự, kiểm tra giờ giấc làm việc,
phòng Kế hoạch thì chỉ lo theo dõi sản lượng sản xuất, kết quả kinh doanh mà không
theo dõi đánh giá được hiệu quả công việc.
Ở từng bộ phận, việc kiểm tra công việc tùy thuộc vào tâm huyết và trình độ
của lãnh đạo bộ phận đó. Có thể bộ phận này làm tốt, bộ phận kia làm không tốt,
không đồng bộ kéo theo kết quả chung rất hạn chế.
Việc đánh giá, phân tích kết quả dừng lại ở các báo cáo cuối năm, trong đó ít
phân tích tính hiệu quả, không đưa ra bài học kinh nghiệm do đó không thấy sai và
đưa ra biện pháp sửa sai.
Hậu quả của cách quản trị trong giai đoạn này:
- Hoạt động sản xuất kinh doanh hết sức khó khăn, tuy duy trì được hoạt động
nhưng không phát triển được.
- Bộ mày trì trệ và xuất hiện tâm lý lo âu đến tương lai, cảm giác bất an bắt đầu
xuất hiện. Và việc gì đến đã đến, giữa năm 2003, xuất hiện sự cố tài chính. Lãnh
đạo cao nhất của Công ty bị cách chức, kế toán trưởng bị bắt, hàng loạt cán bộ
khác phải kiểm điểm, Công ty bị thanh tra. Thành phố điều cán bộ khác nguyên
là Giám đốc Sở về làm Giám đốc Công ty. Việc thay đổi lãnh đạo kéo theo sự
thay đổi về phong cách quản trị.
2.2.2. Giai đoạn hình thành Tổng Công ty (2003 - 2005):
Vị lãnh đạo mới về là một nhà kỹ thuật có chuyên môn sâu về ngành nước (học
vị tiến sĩ), đã từng làm Giám đốc một Sở ở Thành phố, có nhiệt huyết, uy tín và mội
quan hệ tốt với các cơ quan quản lý Nhà nước, với các địa phương và trung ương.
Trước hiện trạng của Công ty, với nhiệt huyết của mình, ông đã làm cuộc cải tổ toàn
diện Công ty trong thời gian ngắn, thể hiện cụ thể:
Về hoạch định:
- 20 -
Công ty thuê tư vấn thực hiện quy hoạch cấp nước đến năm 2025, làm cơ sở
cho các chiến lược, kế hoạch lâu dài. Song song, đó tự xây dựng kế hoạch 5 năm một.
Công ty lập chiến lược chính sách kinh doanh, định hướng xáp nhập thêm một số
công ty chuyên về tư vấn và xây dựng, chuẩn bị hình thành Tổng Công ty, mở đường
cho việc hoạt động đa ngành đa nghề, phá vỡ thế phụ thuộc vào duy nhất sản phẩm
nước sạch, tìm lợi nhuận từ những lĩnh vực khác bù đắp cho lĩnh vực sản xuất nước
sạch.
Các nghiên cứu, đánh giá về môi trường bên ngoài, nguồn lực bên trong được
thực hiện, ma trận kết hợp điểm yếu – điểm mạnh với cơ hội – nguy cơ (SWOT) được
thiết lập, tuy nhiên còn sơ sài và phiến diện. Chính từ cách đặt vấn đề và phân tích
còn sơ sài, phiến diện nên các chiến lược được xây dựng mang nặng yếu tố kỹ thuật.
Có 2 chiến lược được xây dựng và tập trung thực hiện:
- Chiến lược phát triển sản phẩm: Tập trung đẩy mạnh sản xuất, phân phối,
đáp ứng nhu cầu nước sạch đang rất cấp thiết. Khẩn trương đưa vào vận hành
một nhà máy nước có công suất lớn (300.000m3/ngày) cùng hệ thống đường
ống phân phối phù hợp với công suất này (dự án đã bị trì trệ nhiều năm trước
đây).
- Chiến lược đa dạng hóa sản phẩm: Ngoài sản phẩm nước sạch, tập trung
thêm các sản phẩm về tư vấn xây dựng, tư vấn thiết kế, giám sát, xây dựng
công nghiệp, bước đầu tập trung chủ yếu trong lĩnh vực cấp thoát nước là thế
mạnh của Công ty.
Các hoạch định của Công ty trong thời gian này ảnh hưởng nhiều từ vị lãnh
đạo mới nên nặng về tính kỹ thuật và thể hiện nhiệt tình quá mức, có chỗ còn nôn
nóng, vội vàng tạo sức ép rất lớn lên bộ máy còn ảnh hưởng trì trệ, tạo căng thẳng liên
tục lên những người thừa hành.
Về tổ chức:
Nhằm thực hiện chiến lược đã đề ra, bộ máy tổ chức của Công ty thay đổi hoàn
toàn. Công ty sáp nhập thêm 4 công ty nhà nước hình thành Tổng Công ty Cấp nước
Sài Gòn hoạt động theo mô hình Công ty mẹ – Công ty con với Khối văn phòng Tổng
Công ty bao gồm 12 phòng ban và 8 chi nhánh cấp nước, 2 nhà máy nước hạch toán
phụ thuộc Công ty mẹ và 3 công ty thành viên hạch toán độc lập.
Các đơn vị trong Tổng Công ty được phân cấp, giao quyền mạnh. Các chi
nhánh được ủy quyền ký hợp đồng với khách hàng, được tự quyết định trong giao
dịch đến một mức tiền ấn định trước và tăng dần, những giao dịch vượt mức vẫn được
thực hiện sau khi có sự phê duyệt của lãnh đạo Tổng Công ty.
- 21 -
Các phòng ban thuộc Công ty mẹ chủ yếu làm công tác tham mưu, được giao
cho các Phó Giám đốc Tổng Công ty phụ trách. Tuy nhiên Tổng Giám đốc thường
làm việc trực tiếp với các Trưởng, Phó phòng và giao việc trực tiếp cho họ. Vai trò
phụ trách của các Phó Tổng Giám đốc mờ nhạt, dần họ trở thành người tham mưu cho
Tổng Giám đốc trong từng lãnh vực mà họ có chuyên môn hoặc Tổng Giám đốc ủy
quyền giải quyết một số công việc có tính sự vụ.
Về điều khiển:
Do yêu cầu phát triển theo chiến lược đã định, Tổng Công ty tiến hành tuyển
dụng rất nhiều trong giai đoạn này. Việc tuyển dụng được căn cứ theo yêu cầu công
việc và theo quy chế tuyển dụng được xây dựng trong thời gian ngắn, chưa hoàn
thiện.
Việc đào tạo huấn luyện nhân viên được thực hiện khẩn trương. Một số cán bộ
kỹ thuật trẻ được gửi đi đào tạo chuyên sâu ở trong và ngoài nước. Các lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ ngắn ngày được tổ chức liên tục, chủ yếu về lĩnh vực kỹ thuật và quản lý
xây dựng cơ bản.
Việc luân chuyển cán bộ được thực hiện ráo riết và trên nhiều cấp độ: luân
chuyển vị trí giữa các lãnh đạo ngang cấp, hoán đổi các giám đốc và phó giám đốc các
đơn vị thành viên; đề bạt cán bộ trẻ lên thay các cán bộ về hưu hay không đủ năng lực
được bố trí làm công việc khác.
Kênh thông tin được thiết lập theo hướng đơn chiều. Tổng Giám đốc muốn biết
mọi việc, mọi việc đều xin ý kiến của Tổng Giám đốc. Với một đơn vị lớn, Tổng
Giám đốc lại có xu hướng lãnh đạo độc đoán, muốn nắm hết thông tin và quyết định
mọi việc dẫn đến có quá nhiều cuộc họp. Họp sáng, họp chiều, họp tối, họp trong
ngày làm việc không đủ, họp sang cả ngày thứ bảy và chủ nhật. Tất cả các lãnh đạo
phòng ban, đơn vị đều sợ họp vì vừa tốn thời gian họp, vừa tốn thời gian làm báo cáo
phục vụ cho các buổi họp và không có thời gian triển khai kết luận buổi họp. Họ sợ
nhất là họp vào chiều thứ sáu, sáng thứ hai lại phải họp để báo cáo kết quả triển khai
các quyến định vừa ban hành trong cuộc họp chiều thứ sáu. Cách làm việc này làm
cho chỉ trong vòng hai năm, không những bản thân Tổng Giám đốc suy sụp mà các
lãnh đạo còn lại cũng mệt mỏi, nhân viên chán nản, dẫn đến tình trạng báo cáo đối
phó, báo cáo cho qua việc.
Về kiểm tra:
Để đảm bảo điều hành một Tổng Công ty với quy mô phát triển rất nhanh chỉ
trong vòng hai năm, công tác kiểm tra được chú trong hơn so với trước đây. Tổng
Giám đốc đã chỉ đạo các bộ phận tự kiểm tra, đôn đốc kết quả thực hiện công việc của
mình. Riêng Tổng Giám đốc kiểm tra kết quả thực hiện công việc qua các buổi họp.
- 22 -
Việc kiểm tra tuy có tăng cường về tần suất và đối tượng nhưng cũng vấp phải
những sai lầm trước đây: thiếu hệ thống các tiêu chuẩn, tiêu chí để kiểm tra, đo lường
kết quả công việc. Việc kiểm tra chủ yếu tập trung vào kiểm tra tiến độ hoàn thành
công việc, ít chú ý đến hiệu quả hoàn thành công việc, không phân tích tìm ra sai lầm
trong quyết định, không rút ra bài học kinh nghiệm.
Đánh giá việc quản trị trong giai đoạn này:
- Quản trị của Tổng Công ty trong giai đoạn này mang đậm phong cách lãnh đạo
của Tổng Giám đốc, phong các độc đoán. Phải thấy rằng về làm lãnh đạo của
Tổng Công ty sau sự cố ở giai đoạn trên, đối mặt với sự trì trệ của bộ máy tổ chức
cũ, phong cách lãnh đạo độc đoán ở giai đoạn đầu là cần thiết nhưng không thể
duy trì lâu. Có lẽ sau một năm quyết liệt cải tổ, cần dần chuyển sang phong cách
dân chủ, tin dùng những cán bộ đã được xắp xếp, đề bạt đúng vị trí, trao quyền,
trao trách nhiệm cho họ thì hiệu quả giải quyết công việc sẽ tốt hơn rất nhiều.
- Các quyết định quản trị trong giai đoạn này là những quyết định chiến lược có tầm
ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của Tổng Công ty như: Phát triển nhanh sản
xuất; xáp nhập, hình thành Tổng Công ty, cổ phần hóa, … lại được thực hiện quá
vội vàng, tuy đã trải qua các bước chuẩn bị cần thiết nhưng chưa nghiên cứu sâu,
dẫn đến khi triển khai xuất hiện bất cập, không lường hết khó khăn.
- Hệ quả của cách quản trị như trên là Tổng Công ty nhanh chóng vượt qua sự cố cũ
nhưng lại tiềm ẩn sự cố mới. Cuối năm 2005 đầu năm 2006, xuất hiện sự cố nước
đục, khiếu kiện của khách hàng tăng cao, dư luận, báo chí tập trung công kích,
cùng lúc tiến trình cổ phần hóa các đơn vị trực thuộc đến giai đoạn quyết định,
Tổng Giám đốc không chịu nổi áp lực công việc đã suy sụp, tai biến mạch máu
não, mất trên bàn làm việc. Ông mất đi, nhiều người tiếc thương, nhưng cũng
thống nhất nhận định là làm việc như vậy việc suy sụp là điều tất yếu.
2.2.3. Giai đoạn thành lập Tổng Công ty và tiến hành cổ phần hóa các đơn vị
trực thuộc (từ năm 2006 đến nay):
Tổng Giám đốc mất, cấp trên điều về một Tổng Giám đốc mới, là người đang
là Phó Giám đốc một Sở của Thành phố. Ông là người có chuyên môn về quản trị
kinh doanh. Ông đã nhanh chóng ổn định được hoạt động của Tổng Công ty, kế thừa
những thành quả tốt đẹp của người tiền nhiệm, dần khắc phục các bất cập và vạch ra
hướng phát triển mới cho Tổng Công ty.
Đến nay vẫn còn quá sớm để đánh giá một cách toàn diện hiệu quả của phong
cách lãnh đạo của vị Tổng Giám đốc mới, nhưng có thể nêu ra một số chuyển biến
tích cực trong thời gian ngắn vừa qua:
- 23 -
Về phong cách lãnh đạo và ra quyết định ở tầm Tổng Công ty:
Tổng Giám đốc mới từng là Phó Giám đốc Sở Giao thông Công chính, phụ
trách mảng cấp thoát nước nên có điều kiện nắm bắt được tường tận hoạt động của
Tổng Công ty trước đây, biết được người, nắm được việc, nên sớm ổn định tình hình
của Tổng Công ty và có thể áp dụng ngay phong cách lãnh đạo dân chủ. Các quyết
định thường được đưa ra sau khi bàn bạc, trao đổi và tham khảo ý kiến các Phó Tổng
Giám đốc và các phòng ban tham mưu. Ở tầm Tổng Công ty, các quyết định mang
tính chiến lược, chiến thuật được thực hiện bài bản theo quy trình sau:
Quy trình ra quyết định ở tầm Tổng Công ty được thiết lập và hoàn thiện dần.
Trừ những sự cố khẩn cấp, những vấn đề cần phải ra quyết định ngay, đa phần các
quyết định, dù việc nhận diện từ lãnh đạo cấp cao hay từ cấp dưới đề xuất đều có sự
nghiên cứu của bộ phận tham mưu. Tùy theo tính chất công việc, các quyết định được
ban hành bởi Tổng Giám đốc hoặc các Phó Tổng giám đốc phụ trách lĩnh vực. Khi
xây dựng các chiến lược, chương trình, kế hoạch thực hiện chung trong toàn Tổng
Công ty đều có các phòng ban được phân công cụ thể để tham mưu, giúp lãnh đạo ra
quyết định. Từng trường hợp, các vấn đề lớn, phức tạp, có tầm ảnh hưởng lâu dài, liên
quan đến nhiều lĩnh vực, một tổ công tác được thiết lập (làm việc theo nhóm) để tham
mưu, theo dõi, đánh giá, đề xuất với lãnh đạo trong suốt quá trình thực hiện.
Trong trường hợp có sự cố, các vấn đề cần ra quyết định ngay được dự kiến
trước trong phương án xử lý sự cố. Trong phương án, tùy theo từng lĩnh vực và tính
chất vụ việc, các Phó Tổng Giám đốc sẽ ra quyết định giải quyết với quyền hạn như
một tổng tư lệnh, có quyền điều phối mọi bộ phận, mọi nguồn lực trong Tổng Công
1
Nhận diện và xác
định vấn đề
2
Thiết lập các
mục tiêu
3
Tìm giải pháp
7
Đánh giá
Kiểm tra
6
Thực hiện giải
pháp đã chọn
5
Lựa chọn giải
pháp thích hợp
4
So sánh và đánh
giá các giải pháp
Bối cảnh môi trường
bên trong và bên ngoài
Công ty
- 24 -
ty. Sau khi giải quyết xong, có đánh giá, bổ sung vấn đề hoặc giải pháp vào phương
án xử lý sự cố.
Các chiến lược, chương trình lớn của Tổng Công ty như: Cổ phần hóa; phát
triển nguồn và mạng cấp nước đến 2025; nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng;
nâng cao năng lực quản lý;…. đều được xây dựng và triển khai theo quy trình như
trên.
Về việc xắp sếp lại tổ chức, phân công, phân cấp:
Để phù hợp với mô hình Tổng Công ty, thể hiện mối quan hệ giữa công ty mẹ
và các công ty con, đặc biệt là các công ty con đã cổ phần hóa, hệ thống mối quan hệ
đã được xác định lại, nổi bật lên 3 mối quan hệ chính: Quan hệ giữa công ty mẹ và
công ty con; quan hệ giữa các công ty con với nhau; quan hệ giữa công ty mẹ – công
ty con và khách hàng. Trong đó quan hệ giữa công ty mẹ – công ty con và khách hàng
có tầm quan trong đặc biệt do sự liên quan chi phối nhau trong sản xuất, phân phối và
tiêu thụ sản phẩm nước sạch đòi hỏi quan hệ tay ba này phải chặt chẽ, rõ ràng và
không chồng chéo nhau. Mô hình quan hệ với khách hàng tiêu thụ nước sạch được
xây dựng như sau:
2.2.4. Bài học kinh nghiệm rút ra sau giai đoạn bất ổn:
Qua việc nghiên cứu quá trình phát triển của Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn
với các kết quả như được trình bày ở trên, từ khía cạnh quản lý, rút ra được một số
bài học chính như sau :
- Muốn chuyển biến một tổ chức phải xuất phát từ yêu cầu của chính tổ chức đó và
kết hợp với nhân tố mới. Sự trì trệ của một tổ chức có thể có nguyên nhân từ cơ chế,
chủ trương, chính sách chung nhưng nguyên nhân cơ bản nằm ở chính trong tổ chức
đó. Muốn chuyển biến một tổ chức phải xuất phát từ yêu cầu của chính tổ chức đó
cùng với người điều hành công cuộc chuyển biến phải là tác nhân mới. Tuy nhiên
muốn tạo được sự chuyển biến phải nắm rõ nguyên nhân của tình trạng hiện tại, các
mối quan hệ ràng buộc phức tạp của tổ chức, phải biết thế và lực của mình. Nếu chưa
nắm rõ mà thực hiện cải cách thì có thể xuất hiện hai khả năng: một là dần chìm vào
trì trệ cũ, tác nhân mới bị cô lập, đào thải hoặc biến chất. Hai là xảy ra tình trạng đổ
vỡ của tổ chức do cách điều hành không phù hợp.
- Trong lãnh đạo không được nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Đây là bài học rút ra
được trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2005. Các thay đổi, cải cách đối với một
tổ chức đang trì trệ là cần thiết, tuy nhiên phải xuất phát từ thực tiễn, từ việc xem xét
một cách cẩn trọng hàng loạt yếu tố bên trong của tổ chức lẫn tìm hiểu các tác động
của môi trường bên ngoài lên tổ chức. Bước đầu khi cải cách một tổ chức đang trì trệ,
- 25 -
bất ổn thì việc áp dụng phong cách lãnh đạo độc đoán là đúng đắn. Tuy nhiên, khi tổ
chức đã ổn định thì việc chuyển sang phong cách lãnh đạo dân chủ là cần thiết.
- Phải có chiến lược phát triển của tổ chức trên cơ sở sứ mệnh và các mục tiêu của
chính tổ chức đó. Trong môi trường kinh doanh có nhiều biến động như hiện nay,
điều này càng đặc biệt cần thiết và được xen như là “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Tuy
nhiên muốn có được một chiến lược phát triển đúng đắn thì ngoài việc nghiên cứu,
phân tích, dự báo,…. sự nhạy bén, cái “duyên” của người lãnh đạo đôi khi đóng vai
trò quyết định.
- Phải biết “ Lượng sức mình, mượn sức người”. Không thể điều hành một tổ chức
lớn theo kiểu cái gì cũng muốn biết, việc gì cũng phải thông qua một người. Phải biết
phân công, phân cấp phù hợp. Khi tổ chức đã phát triển đến mức độ nào đó, hoặc khi
giải quyết các vấn đề mới, việc mời các chuyên gia cùng làm việc, thuê tư vấn, tìm
kiếm và tuyển dụng người giỏi là những việc nên làm, thậm chí cần để ý trước khi
xuất hiện nhu cầu.
- 26 -
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP
ĐỂ PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO ĐỘC ĐOÁN THÀNH CÔNG
TRONG MỘT TỔ CHỨC ĐANG BẤT ỔN
3.1. Mục tiêu:
Như đề cập trong ví dụ thực tiễn tại Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn ở trên,
giai đoạn bất ổn là giai đoạn đơn vị có sự trì trệ, lãnh đạo cũ bị kỷ luật, đơn vị mất
định hướng, lãnh đạo mới về cố gắng xắp xếp lại tổ chức, đưa đơn vị tiến lên nhưng
chưa hoàn toàn thành công. Cụ thể ở ví dụ này, phong cách lãnh đạo độc đoán là rất
cần thiết trong thời gian đầu, nó nhằm mục tiêu:
- Sớm ổn định lại tổ chức, tập trung nhân lực, nguồn lực thực hiện tốt sứ mệnh
của đơn vị là đảm bảo cung cấp nước sạch liên tục cho nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh.
- Tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững lâu dài, song song đó là chuyển đổi
phong cách lãnh đạo từ độc đoán sang dân chủ để đoàn kết mọi người, phát
huy trí tuệ và công sức tập thể, trên nền tảng các thành quả đã đạt được phát
triển hơn nữa.
3.2. Giải pháp:
3.2.1. Nhóm giải pháp phát huy ưu điểm:
- Trong việc xác lập sứ mệnh và mục tiêu: Người lãnh đạo phải nhanh chóng lựa chọn
các nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để thực hiện trong quỹ thời gian rất ngắn ban đầu,
nên tập trung vào việc xác lập sứ mệnh (để mọi người cùng hướng đến), xác lập các
mục tiêu ngắn hạn theo hướng sứ mệnh đã đặt ra. Việc này nên do người lãnh đạo
chủ động thực hiện bằng nỗ lực và năng lực cá nhân (tuyệt đối tránh bàn cãi, tranh
luận gây mất thời gian và mất đoàn kết thêm).
Cụ thể đối với Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn là xác lập lại sứ mệnh “Đảm
bảo cung cấp nước sạch chất lượng, liên tục cho nhân dân Thành phố” cùng mục
tiêu cụ thể về chất lượng, doanh thu, số khách hàng phục vụ cho từng tháng, quý,
năm.
- Trong việc cơ cấu lại tổ chức: Xây dựng bộ máy tổ chức nhằm đảm bảo việc thực
hiện được ngay các mục tiêu ngắn hạn đã đề ra. Cần thiết xây dựng một e kíp làm
việc hợp ý mình với những con người có trách nhiệm, có chuyên môn phù hợp. Tin
tưởng và giao trách nhiệm cụ thể, toàn diện cho cấp phó, đồng thời với việc thiết lập
kênh thông tin trực tiếp nhằm kiểm soát quá trình thực hiện quyết định.
- 27 -
Cụ thể đối với Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn, bố trí lại các vị trí Phó Tổng
giám đốc theo chuyên môn sâu của họ; giao việc đồng thời giao trách nhiệm cụ thể
cho các Phó Tổng giám đốc. Trong trường hợp có sự cố, các vấn đề cần ra quyết
định ngay được dự kiến trước trong phương án xử lý sự cố. Trong phương án, tùy
theo từng lĩnh vực và tính chất vụ việc, các Phó Tổng Giám đốc sẽ ra quyết định
giải quyết với quyền hạn như một tổng tư lệnh, có quyền điều phối mọi bộ phận,
mọi nguồn lực trong Tổng Công ty. Sau khi giải quyết xong, có đánh giá, bổ sung
vấn đề hoặc giải pháp vào phương án xử lý sự cố. Các lãnh đạo đơn vị thành viên,
các Trưởng, Phó phòng ban tham mưu trực tiếp làm việc và chịu trách nhiệm với
các Phó Tổng giám đốc trong lĩnh vực mà họ phụ trách. Tổng giám đốc nên tránh
tuyệt đối can thiệp trực tiếp vào các lãnh đạo cấp trung vì dễ gây rối thông tin,
không kiểm soát được thông tin và gây mất đoàn kết nội bộ. Nếu cần thì thay cấp
phó của mình chứ không nên làm việc trực tiếp với cấp dưới thay cấp phó. Tuy
nhiên, trong một tổ chức đang bất ổn, Tổng giám đốc nên giữ vai trò trực tiếp hoặc
can thiệp sâu trong 2 lãnh vực quan trọng là tổ chức-nhân sự và tài chính. Khi tổ
chức đã dần ổn định, có thể san sẻ dần công việc ở 2 lãnh vực này cho cấp phó.
- Trong việc động viên, khen thưởng: Vì việc thay đổi phong cách lãnh đạo, nhất là
chuyển sang phong cách lãnh đạo độc đoán rất dễ làm mất lòng nhân viên nên công
tác động viên, khen thưởng phải được quan tâm và rất cụ thể. Những hành động tích
cực, những đề xuất làm lợi càng phải được ghi nhận ngay, cùng hình thức khen
thưởng xứng đáng. Việc khen thưởng nên được thực hiện tại chỗ, ngay tại nơi và lúc
diễn ra hành động tốt, kết hợp với việc đúc kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng hằng
kỳ ngắn hạn như quý, năm.
3.2.2. Giải pháp hạn chế khuyết điểm:
Phải xác định từ đầu là phong cách lãnh đạo độc đoán chỉ phù hợp trong giai
đoạn bất ổn. Ngay sau khi các mục tiêu ngắn hạn đạt được, khi tổ chức đã dần ổn
định thì phải nhanh chóng chuyển sang phong cách lãnh đạo phù hợp hơn.
Cụ thể ở Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn các quyết định thường được đưa ra
sau khi bàn bạc, trao đổi và tham khảo ý kiến các Phó Tổng Giám đốc và các phòng
ban tham mưu. Ở tầm Tổng Công ty, các quyết định mang tính chiến lược, chiến
thuật được thực hiện bài bản theo quy trình. Quy trình ra quyết định ở tầm Tổng
Công ty được thiết lập và hoàn thiện dần. Trừ những sự cố khẩn cấp, những vấn đề
cần phải ra quyết định ngay, đa phần các quyết định, dù việc nhận diện từ lãnh đạo
cấp cao hay từ cấp dưới đề xuất đều có sự nghiên cứu của bộ phận tham mưu. Tùy
theo tính chất công việc, các quyết định được ban hành bởi Tổng Giám đốc hoặc các
Phó Tổng giám đốc phụ trách lĩnh vực. Khi xây dựng các chiến lược, chương trình,
- 28 -
kế hoạch thực hiện chung trong toàn Tổng Công ty đều có các phòng ban được phân
công cụ thể để tham mưu, giúp lãnh đạo ra quyết định.
3.2.3. Các kiến nghị song song với việc thực hiện các giải pháp :
- Lãnh đạo cấp trên phải tin tưởng tuyệt đối vào người được chỉ định lãnh đạo một
tổ chức đang bất ổn. Tin tưởng thì hãy chỉ định. Tránh tuyệt đối việc chưa tin
tưởng nhưng đã giao nhiệm vụ, giao rồi lại tìm cách can thiệp trực tiếp vào việc đã
giao.
- Khi lãnh đạo cấp trên đã tin tưởng giao nhiệm vụ thì cần tạo điều kiện, hậu thuẫn
người lãnh đạo tổ chức đang bất ổn vì phong cách lãnh đạo độc đoán phù hợp với
tổ chức trong giai đoạn này nhưng nó có thể gặp sự phản ứng từ nhiều phía.
3.3. Các vấn đề ảnh hưởng đến phong cách lãnh đạo trong giai đoạn mới cần tiếp
tục nghiên cứu.
Về văn hóa của Tổng Công ty:
Có nhiều định nghĩa về văn hóa của tổ chức khác nhau xuất phát từ những khía
cạnh tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên có thể hiểu văn hóa tổ chức là tính cách, cách
thức suy nghĩ và hành động trong tổ chức đó và được chia sẻ bởi hầu hết các thành
viên và được các thành viên mới học tập nếu họ muốn tồn tại và phát triển trong tổ
chức đó. Văn hóa tổ chức bao gồm: những giá trị cốt lõi, những chuẩn mực, những
niềm tin, những huyền thoại, những nghi thức tập thể, những điều cấm kỵ.
Nếu hiểu như vậy thì văn hóa tổ chức của Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn
như thế nào?. Khác gì so với trước đây? Duy trì, phát huy văn hóa tổ chức của Tổng
Công ty Cấp nước Sài Gòn như thế nào trong mô hình Công ty mẹ – Công ty con sao
cho có tính nhất quán nhưng phải đảm bảo nét riêng, sự chủ động của mỗi công ty
thành viên là vất đề khó cần tiếp tục nghiên cứu.
Về phong cách lãnh đạo:
Phong cách lãnh đạo như thế nào để phù hợp với mô hình hiện nay và tương lai
của Tổng Công ty? Làm sao điều khiển được một tổ chức lớn với nhiều công ty hoạt
động trong nhiều lĩnh vực mà đôi khi các quyền lợi là xung đột với nhau? Đây cũng
là những câu hỏi mà để trả lời đòi hỏi năng lực thực sự của nhà quản trị.
Về cách thức ra quyết định và triển khai các quyết định:
Ra quyết định như thế nào? Triển khai các quyết định ra sao? trong điều kiện
vừa đảm bảo sự nhất quán, sự tập trung nguồn lực chung trong toàn Tổng Công ty,
nhưng cũng phải đảm bảo sự sáng tạo, chủ động của các đơn vị thành viên. Điều này
đặc biệt khó đối với các Công ty Cổ phần khi các quyết định chiến lược gặp phải bất
đồng của các nhà đầu tư bên ngoài.
- 29 -
Về tổ chức, điều khiển, kiểm tra:
Việc tổ chức, phân quyền, ủy quyền, được thực hiện như thế nào nhằm một
mặt tránh sự quá tải của Khối văn phòng Tổng Công ty, dành cho bộ phận này nhiệm
vụ xây dựng chiến lược, chương trình lớn có thể áp dụng chung trong toàn Tổng Công
ty. Mặt khác các công ty thành viên chủ động thực hiện có hiệu quả chiến lược,
chương trình chung đó. Việc điều khiển, kiểm tra được thực hiện như thế nào khi
quan hệ giữa Tổng Công ty mang tư cách công ty mẹ với các công ty thành viên là
độc lập theo luật Doanh nghiệp. Tổng Công ty chỉ chi phối hoạt động của các công ty
cổ phần thành viên thông qua vốn góp của mình với người đại diện vốn góp.
Làm sao để hoạt động của toàn hệ thống hướng về sứ mệnh và mục tiêu chung.
Làm sao thực hiện sứ mệnh đảm bảo nguồn nước liên tục, chất lượng cho nhân dân
Thành phố, mục tiêu hơn 3 triệu m3/ngày cho khoảng 12,5 triệu dân vào năm 2025
trong điều kiện giá nước không do mình quyết định, không còn sự bao cấp của Nhà
nước, tự xoay sở kinh doanh sản phẩm chủ lực mang tính công ích cao với mô hình
hoạt động rất mới,…. là bài toán hết sức khó , đòi hỏi người lãnh đạo Tổng Công ty
phải có phong cách phù hợp nhằm đoàn kết mọi người trăn trở tìm cách giải quyết.
- 30 -
LỜI KẾT
Kính thưa Giảng viên hướng dẫn,
Như chúng em đã nói ở Lời mở đầu, bài tiểu luận này được thực hiện trong thời
gian ngắn, bởi những người không phải là lãnh đạo hoặc có tầm ảnh hưởng đến quyết
định quản trị của tổ chức nên không khỏi có yếu tố chủ quan và những thiếu sót . Sau
khi viết xong đọc lại, chúng em nhận thấy còn hơn thế nữa. Có nhiều vấn đề sau khi
đã thảo luận xong, đã thống nhất ý kiến, khi trình bày lại chưa vừa ý. Có một số vấn
đề dường như không đủ thời gian và thông tin để làm rõ, bản thân chúng em cũng
nhận thấy cần tiếp tục có nghiên cứu sâu hơn. Đó là không kể những hạn chế hoặc
thiếu sót mà chúng em chưa nhận ra được. Với thái độ trân trọng và thật sự cầu thị, rất
mong Thầy thông cảm, chia sẻ, phát hiện và chỉ giúp.
Nếu có vấn đề cần trao đổi, xin Thầy liên hệ với chúng em qua địa chỉ email:
quanghuule@yahoo.com.vn hoặc số điện thoại: 0903 301 048.
Xin chân thành cảm ơn Thầy.
Nhóm thực hiện tiểu luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tl_nhom_9_phong_cach_lanh_dao_3844.pdf