MỤC LỤC
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH 1
LỜI NÓI ĐẦU 2
Chương I. PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG
PHÁ SẢN 7
1. Phá sản và tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp .7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của phá sản .7
1.2. Những tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp .11
2. Sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản 16
2.1. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích tái tạo lại doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản 17
2.2. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của phá
sản đối với xã hội .18
2.3. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp góp phần làm thay đổi nhận thức về
phá sản .18
3. Pháp luật về phá sản và những quy định về phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp 20
3.1. Pháp luật về phá sản .20
3.2. Những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật phá sản 22
Chương II. NHỮNG QUY ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT CỦA PHÁP VỀ
PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG
PHÁ SẢN 24
1. Giới thiệu tổng quan về pháp luật phá sản của Pháp 24
1.1. Sự hình thành và phát triển 24
1.2. Vị trí vấn đề phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật về doanh nghiệp lâm
vào tình trạng khó khăn của Pháp 29
2. Những quy định trong luật của Pháp về thủ tục phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp 32
2.1. Đối tượng áp dụng .32
2.2. Điều kiện để mở Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp 33
2.3. Các bước tiến hành thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản 37
3. Những quy định trong pháp luật phá sản của Pháp về phương án phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp 47
3.1. Vấn đề tài chính .47
3.2. Vấn đề quản lý doanh nghiệp 48
3.3. Vấn đề xã hội .49
4. Nhận xét về các quy định trong luật phá sản của Pháp về phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp 50
Chương III. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA
VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP THÁO GỠ TRÊN CƠ SỞ
VẬN DỤNG KINH NGHIỆM TỪ PHÁP .52
1. Dự báo về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới 52
1.1. Cơ sở để dự báo .52
1.2. Các con số dự báo 54
2. Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam .56
2.1. Những bất cập trong các quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp .56
2.2. Việc thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp theo quy định của Luật Phá
sản năm 2004 trong thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn .64
3. Đề xuất các giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp 69
3.1. Khẳng định rõ mục tiêu của luật phá sản Việt Nam là phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp Error! Bookmark not defined.
3.2. Các giải pháp sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật Phá sản năm 2004 về
phục hồi doanh nghiệp .69
3.3. Các giải pháp tăng cường thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp trong
Luật Phá sản năm 2004 71
KẾT LUẬN .76
TÀI LIỆU THAM KHẢO .78
PHỤ LỤC I
Phụ lục 1 I
89 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4192 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo luật của pháp và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày thì
chẳng những doanh nghiệp không thể phục hồi được mà có thể còn vấp phải những
khó khăn ngày càng trầm trọng hơn. Điều này đòi hỏi phải có thời gian. Vì vậy
giai đoạn quan sát là rất cần thiết. Một điều đáng tiếc là Luật Phá sản năm 2004 lại
không quy định về giai đoạn quan sát.
62
2.1.5. Chưa có quy định về chủ nợ mới phát sinh trong quá trình phục
hồi hoạt động của doanh nghiệp
Như đã phân tích ở trên, khi quá trình phục hồi doanh nghiệp diễn ra, về
bản chất, doanh nghiệp vẫn thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Vì vậy,
những giao dịch mới, những quan hệ vay nợ mới phát sinh là điều đương nhiên và
dễ hiểu. Tuy nhiên, điểm bất cập trong Luật Phá sản năm 2004 thể hiện ở chỗ Luật
không có bất cứ quy định nào liên quan đến chủ nợ mới. Trong khi đó, theo Luật
phá sản của Pháp, các mối quan hệ với chủ nợ mới vẫn được pháp luật bảo vệ, theo
đó, chủ nợ mới sẽ được ưu tiên trả nợ đúng hạn hoặc ưu tiên trả nợ trước chủ nợ cũ
cho dù chủ nợ cũ là chủ nợ có đảm bảo hay không có đảm bảo. Bằng cách quy
định như vậy, các nhà làm luật của Pháp đã đảm bảo, bằng luật pháp, quyền lợi
cho các chủ nợ mới, giúp cho họ có thể yên tâm khi quyết định đặt quan hệ kinh
doanh với doanh nghiệp đang cần phục hồi. Thiếu những quy định như thế này
nghĩa là thiếu đi sự cam kết đối với các chủ nợ mới và làm cho quá trình phục hồi
doanh nghiệp không thể diễn ra một cách suôn sẻ bởi vì doanh nghiệp sẽ rất khó
khăn khi phải xoay xở với số vốn ít ỏi còn lại sau khi mở thủ tục phá sản. Ngược
lại, cách quy định trong Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam lại xây dựng quá
trình phục hồi doanh nghiệp theo hướng hầu như phụ thuộc quá nhiều vào các chủ
nợ cũ. Điều này sẽ khiến thủ tục phục hồi doanh nghiệp trở nên khó khăn vì các
chủ nợ cũ được quyền quyết định phương án phục hồi do doanh nghiệp đề xuất.
Trong thực tế, các chủ nợ cũ sẽ muốn cho doanh nghiệp này “sớm chết đi” để họ
còn vớt vát phần nào trong việc chia tài sản còn lại của doanh nghiệp đó, hơn là
phải tìm cách cho doanh nghiệp “sống lại” với nỗi lo âu tiếp diễn của các chủ nợ
cũ. Thủ tục phục hồi vì vậy sẽ không còn hiệu quả nếu không muốn nói là bất khả
thi.
2.1.6. Chưa có những quy định để giảm nhẹ khó khăn về tài chính cho
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Doanh nghiệp muốn hồi phục, ngoài ý chí chủ quan của các bên thể hiện
trong phương án phục hồi hoạt động, cần có những điều kiện cần thiết về khả năng
tài chính và cần có sự khuyến khích của Nhà nước. Một trong những chính sách
63
khuyến khích của Nhà nước có thể có ở đây là quy định không tính lãi đối với các
khoản nợ của doanh nghiệp khi họ đang ở giai đoạn phục hồi nhằm giảm nhẹ gánh
nặng tài chính cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên Luật Phá
sản năm 2004 không đưa ra quy định này ở thủ tục phục hồi mà lại áp dụng ở thủ
tục thanh lý (Điều 34). Điều này cho thấy Luật Phá sản năm 2004 chưa coi phục
hồi hoạt động kinh doanh là mục tiêu hướng tới. Và đây cũng là một trong những
nguyên nhân khiến cho việc thi hành các quy định về phục hồi hoạt động kinh
doanh trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn. Nói cách khác, nếu không có những
quy định hỗ trợ, khuyến khích của Luật để giảm nhẹ khó khăn về tài chính cho
doanh nghiệp thì thủ tục phục hồi rất khó thi hành. Đây là một điểm bất hợp lý của
Luật Phá sản Việt Nam. Trong khi đó, ở Pháp, việc phục hồi doanh nghiệp có
được rất nhiều sự hậu thuẫn từ những quy định của chính luật phá sản. Về vay nợ,
luật phá sản của Pháp không có bất cứ quy định nào giới hạn khả năng vay nợ của
các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như Luật Phá sản năm 2004 của Việt
Nam. Bên cạnh đó, luật phá sản của Pháp còn cho phép Thẩm phán được quyền
giãn nợ cho con nợ trong mọi trường hợp. Thẩm phán chỉ không có quyền xóa nợ
mà thôi. Đây là quy định có thể làm thay đổi toàn bộ tình hình phục hồi doanh
nghiệp. Với Luật Phá sản 2004 của Việt Nam, mọi quyết định đều phải dựa vào sự
thông qua của Hội nghị chủ nợ nên sự lệ thuộc của con nợ vào chủ nợ là rất lớn.
Nếu chủ nợ không có thiện chí thì sẽ rất khó khăn khi Tòa án muốn can thiệp tích
cực hơn vào quá trình phục hồi doanh nghiệp.
2.1.7. Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp còn quá lệ thuộc vào
chủ nợ và thời hạn để thực hiện phương án phục hồi quá ngắn
Một điều rất dễ nhận biết khi nghiên cứu những quy định trong Luật Phá sản
năm 2004 là thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc quá nhiều vào
chủ nợ. Ví dụ, điều 68 quy định rằng Thẩm phán ra quyết định áp dùng thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh “sau khi Hội nghị lần thứ nhất thông qua Nghị
quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh” (xem phụ lục 1). Sau khi có phương án phục hồi, Thẩm
phán phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét, thảo luận về phương án đó và
64
phương án đó “chỉ được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có đảm bảo có
mặt đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có đảm bảo trở lên biểu quyết
tán thành”.41
Quy định này cho thấy chỉ cần số chủ nợ không có đảm bảo đến dự họp
không đủ thì phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ
không thể thông qua được. Việc đề cao vai trò của Hội nghị chủ nợ khi thi hành
thủ tục phục hồi doanh nghiệp đã giải thích vì sao trong cả quãng thời gian từ khi
Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực đến nay, hầu như không một trường hợp nào
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được phục hồi, được tái tạo. Đây là điểm
khác biệt của Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam so với Luật phá sản hiện hành
của Pháp. Luật phá sản của Pháp trao quyền ra quyết định các bước, các giai đoạn
trong quá trình phục hồi cho Tòa án với tư cách là cơ quan có thẩm quyền. Điều
này cho thấy thủ tục phục hồi hoạt động tại Pháp được thúc đẩy nhanh chóng và
hiệu quả hơn.
Ngoài ra, Luật Phá sản năm 2004 quy định thời hạn tối đa để thực hiện
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh chỉ có 3 năm (điều 74), trong khi đó,
theo luật của Pháp là 10 năm. Để thực hiện phương án phục hồi 1 doanh nghiệp đã
lâm vào khó khăn thì 3 năm là khoảng thời gian quá ngắn và không hợp lý.
2.2. Việc thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp theo quy định
của Luật Phá sản năm 2004 trong thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn
Ngoài những bất cập trong quy định về phục hồi doanh nghiệp, một vấn đề
nổi cộm đặt ra khi nghiên cứu pháp luật phá sản của Việt Nam là việc thi hành các
quy định của luật về phục hồi doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn. Những
khó khăn đó là:
2.2.1. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn xa lạ với vấn đề phục hồi
doanh nghiệp
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập năm 1945. Cho đến tận
năm 1993, Việt Nam mới ban hành Luật phá sản Doanh nghiệp. Nghĩa là trong
suốt 27 năm trước đó, hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam hầu như không
41
Khoản 2, Điều 71, Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam
65
chịu sự tác động của luật phá sản. Những doanh nghiệp làm ăn kém, lúc này, chủ
yếu là doanh nghiệp nhà nước, chỉ bị sát nhập hoặc giải thể. So với phá sản, biện
pháp giải thể đơn giản hơn nhiều về mặt thủ tục. Doanh nghiệp chỉ cần phải gửi
quyết định giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong đó có cam kết chịu trách
nhiệm trước pháp luật về những tranh chấp phát sinh liên quan đến các khoản nợ
được kê khai trong quyết định giải thể là sẽ được giải quyết. Các tranh chấp liên
quan đến giải thể là tranh chấp dân sự và được Bộ luật Dân sự điều chỉnh. Bên
cạnh đó, ngay sau khi giải thể, chủ doanh nghiệp vẫn có thể tiếp tục thành lập một
doanh nghiệp mới hoặc điều hành một công ty khác còn phá sản thì không được
phép như vậy. Giải thể là một giải pháp đơn giản và tiết kiệm hơn so với thủ tục
phá sản. Vì vậy, phá sản và pháp luật về phá sản đã rất xa lạ với doanh nghiệp Việt
Nam nói chung và doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nói riêng trong nhiều năm.
Trong quan niệm của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khối doanh
nghiệp nhà nước, phá sản vẫn là một hình phạt nặng nề mang tính răn đe nhiều hơn
là mang tính tích cực; với nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, phá sản và bị tuyên bố
phá sản là xấu, là tiêu cực. Chính sự thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết chưa đầy đủ về
mục tiêu của luật phá sản cùng những lợi ích có phần không rõ ràng cho doanh
nghiệp trong những quy định về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
theo Luật Phá sản năm 2004 đã khiến doanh nghiệp thường tìm mọi cách để né
tránh việc áp dụng Luật. Thực tế này đã làm cho các doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản luôn bị động và thụ động trong việc nắm bắt và thực thi pháp luật về
phá sản.
Ngoài ra, như đã nói ở trên, Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993 lại không
quy định về phục hồi doanh nghiệp, do vậy, trong nhận thức của doanh nghiệp
Việt Nam, phá sản đồng nghĩa với “cái chết” của doanh nghiệp mà ít ai quan tâm
đến khả năng “sống” của nó để tìm cách phục hồi khả năng kinh doanh của các
doanh nghiệp này. Vì vậy, khi Luật Phá sản năm 2004 được ban hành, những quy
định về phục hồi doanh nghiệp và thủ tục phải tuân thủ khi muốn phục hồi doanh
nghiệp vẫn thật sự xa lạ đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, đối với các
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đối với các chủ nợ và thậm chí đối với các cơ quan
66
quản lý của Nhà nước, trong đó có Tòa án và Thẩm phán cùng tổ quản lý, thanh lý
tài sản nói riêng.
Tình trạng này tất yếu làm giảm hiệu quả thực thi Luật Phá sản năm 2004
nói chung và những quy định về phục hồi doanh nghiệp nói riêng. Trong Báo cáo
rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004 do Bộ Tư pháp trình
Thủ tướng Chính phủ ngày 29/12/2008 gồm 55 trang với nhiều nội dung đánh giá
nhưng lại không có một trang nào, đoạn nào, dòng nào phân tích về thực trạng thi
hành các quy định (ở chương VI) của Luật về phục hồi doanh nghiệp 42. Điều này
cho thấy những quy định về phục hồi doanh nghiệp vẫn còn rất xa lạ với doanh
nghiệp Việt Nam, kể cả với Bộ Tư pháp Việt Nam.
Đây là những khó khăn rất đáng phải chú ý và phải có giải pháp tháo gỡ để
vấn đề phục hồi doanh nghiệp được quy định trong Luật Phá sản năm 2004 thật sự
có “đất sống” trong thời gian tới.
2.2.2. Chưa có sự tuyên truyền đầy đủ về mục tiêu tích cực trong các quy
định về phục hồi doanh nghiệp trong Luật Phá sản năm 2004
Luật Phá sản năm 2004 đã có hiệu lực 5 năm tính đến tháng 7/ 2009. Tuy
nhiên, việc tuyên truyền, giới thiệu về nội dung của Luật cũng như về mục tiêu của
vấn đề phục hồi doanh nghiệp còn chưa tích cực. Các quảng cáo trên các phương
tiện thông tin đại chúng chủ yếu mới chỉ là dành cho các chương trình phát triển
thương hiệu, giới thiệu sản phẩm, ca nhạc, cuộc thi hoa hậu…mà chưa có chương
trình giới thiệu về Luật Phá sản năm 2004 cũng như ý nghĩa của vấn đề phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thế giới ngày nay đang chứng kiến những vụ phá sản tầm cỡ của các doanh
nghiệp, ngân hàng Mỹ và những vụ phục hồi doanh nghiệp nối tiếp như vụ công ty
Kmart- một hãng bán lẻ giá rẻ của Mỹ, đã nộp đơn xin mở thủ tục phá sản vào
tháng 1 năm 2002 và đã phục hồi khi được sáp nhập với hãng bán lẻ Sears vào
năm 2004, dẫn đến kết quả là giá cổ phiếu của Kmart đã tăng đến 700% vào năm
2005
43
. Còn hãng KPMG, một hãng kế toàn tầm cỡ thế giới với 2000 chuyên gia
42
Bộ Tư pháp, “Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004” ngày 29/12/2008
43
Website:
67
chuyên làm nhiệm vụ phục hồi các công ty đã và đang rất tự hào về công việc của
mình
44
. Giá như Việt Nam tuyên truyền sâu rộng về những trường hợp này thì
chắc chắn sẽ có tác động tích cực đến việc thi hành Luật phá sản nói chung và thực
hiện các quy định về phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng.
Nếu việc tuyên truyền về Luật phá sản không được chú trọng, nếu như việc
thi hành thủ tục phục hồi doanh nghiệp được quy định trong Luật Phá sản năm
2004 không được nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan thì tình trạng xa lạ
này sẽ vẫn tiếp tục tái diễn và một lần nữa có thể nói rằng, các doanh nghiệp, hợp
tác xã lâm vào tình trạng phá sản của Việt Nam vẫn có nhiều lý do để “không
thích” Luật Phá sản năm 2004 và điều này sẽ là một trong những quyên nhân để
“Luật Phá sản năm 2004 tiếp tục bị phá sản”.
2.2.3. Các doanh nghiệp là chủ nợ không thiện chí, không muốn thi hành
Luật phá sản và các quy định về phục hồi doanh nghiệp
Bản thân các chủ nợ là người có quyền đòi nợ cũng không mặn mà với việc
áp dụng luật Phá sản như một công cụ để tự bảo vệ lợi ích của mình. Nguyên nhân
là do theo quy định thì một doanh nghiệp khi mở thủ tục phá sản bắt buộc phải
thông báo công khai cho các tất cả các chủ nợ biết. Các chủ nợ hiểu điều này và họ
cũng hiểu rằng nếu như tất cả các con nợ cùng đến đòi nợ và cùng xếp hàng theo
thứ tự ưu tiên thì chưa chắc đã đến lượt mình. Điều này giải thích tại sao các chủ
nợ thường tìm một con đường ngắn hơn và trực tiếp hơn để có thể đòi được toàn
bộ khoản nợ từ con nợ như việc phát đơn kiện ra tòa để con nợ bồi hoàn khoản nợ
theo sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự. Bằng cách này hay cách khác, chủ nợ cố
tình tránh việc áp dụng các quy định của Luật phá sản về phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Đây là một trong những khó khăn đối với việc thi hành
các quy định về phục hồi hoạt động trong Luật Phá sản năm 2004.
2.2.4. Vai trò của Tòa án còn mờ nhạt
Mặc dù Luật Phá sản năm 2004 quy định chức năng và nhiệm vụ của Tòa
án trong quá trình tiến hành phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, tuy nhiên,
44
Viện nghien cứu Khoa học thị trường và giá cả, “Luật phá sản của Trung Quốc và một số nước Tây Âu”,
Hà Nội năm 1990, tr.104
68
những chức năng, nhiệm vụ này lại cho thấy vai trò của Tòa án là rất mờ nhạt so
với vai trò của Hội nghị chủ nợ. Hầu như Toàn án chỉ giữ vai trò thụ động trong
việc thi hành thủ tục này. Ví dụ, điều 68 quy định rằng Tòa án (Thẩm phán) ra
quyết định phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi Hội nghị chủ nợ đã thông qua
Nghị quyết đồng ý với giải pháp phục hồi của doanh nghiệp .Tuy nhiên, Luật lại
không quy định cách xử lý hay vai trò của Tòa án trong trường hợp Hội nghị chủ
nợ không thông qua phương án phục hồi của doanh nghiệp. Hoặc, điều 70 quy
định trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được phương án phục hồi, Tòa án
(Thẩm phán) phải xem xét để ra một trong hai quyết định: hoặc đưa phương án ra
Hội nghị chủ nợ xem xét để quyết định, hoặc cho sửa đổi, bổ sung phương án. Như
vậy, hầu như các ý kiến quyết định cuối cùng là Hội nghị chủ nợ chứ không phải là
Tòa án. Cách quy định như trên đã làm giảm vai trò của Tòa án trong quá trình
phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.
Một điểm nữa cho thấy vai trò mờ nhạt của Tòa án trong quá trình phục
hồi hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến vai trò của Tòa án đối với hội nghị
chủ nợ đó là : Hội nghị chủ nợ được quy định là do Thẩm phán triệu tập. Đây là
quy định làm giảm vai trò quyết định của Tòa án và làm cho các quyết định đưa ra
có thể bị chậm trễ. Theo quy định tại khoản 2 và 3, điều 73 Luật Phá sản năm
2004, chủ nợ có nghĩa vụ giám sát thực hiện phương án phục hồi còn Tòa án chỉ
nhận được bản báo cáo về tình hình thực hiện phương án phục hồi 6 tháng một lần.
Có nghĩa là 6 tháng một lần, Tòa án hay chính xác hơn là Thẩm phán, người có
tiếng nói quyết định trong việc triệu tập hội nghị chủ nợ mới có được thông tin về
tình hình thực hiện phục hồi doanh nghiệp. Trong vòng 6 tháng đó, có thể có
những lần mà đáng ra hội nghị chủ nợ cần phải họp để ra quyết định thì lại bị bỏ
qua và Tòa án phải chờ đợi một cách thụ động. Điều này dẫn tới việc chậm trễ
trong thay đổi phương án phục hồi hoạt động và có thể trở thành nguyên nhân trực
tiếp ảnh hưởng đến chất lượng cũng như hiệu quả của thủ tục phục hồi doanh
nghiệp.
69
3. Đề xuất các giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp
3.1. Khẳng định rõ mục tiêu của luật phá sản Việt Nam là phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp
Bài học đầu tiên rút ra từ kinh nghiệp của Pháp là cần khẳng định rõ mục
tiêu của luật phá sản là phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên
cứu lịch sử luật phá sản của Pháp cho thấy, bản thân pháp luật của Pháp đã từng có
quan điểm rất bảo thủ khi ban hành luật phá sản thời kỳ trước đây, theo đó, mục
tiêu của luật phá sản thời kỳ này là bảo vệ chủ nợ và trừng phạt con nợ. Cùng với
năm tháng, tư duy này đã thay đổi và trong vòng 20 năm trở lại đây, Pháp đã xác
định rõ mục tiêu của luật phá sản ngày nay của Pháp là phục hồi và tái tạo doanh
nghiệp. Những vụ phá sản trở nên ít hơn nhờ hàng loạt các quy định mới về thủ tục
cứu doanh nghiệp, về bảo hộ doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán… Đây chính là kinh nghiệm mà Việt Nam cần tham khảo.
Nếu như Luật phá sản đầu tiên của Việt Nam không quy định về phục hồi
doanh nghiệp thì Luật Phá sản năm 2004 tiến bộ hơn khi đưa vào 10 điều khoản cụ
thể về thủ tục phục hồi. Tuy nhiên, nghiên cứu 10 điều khoản này có thể thấy
chúng vẫn chỉ là những thủ tục pháp lý đơn lẻ, chưa phải là mục tiêu chính mà
Luật Phá sản năm 2004 hướng tới. Vì vậy, đề tài cho rằng, các nhà làm luật của
Việt Nam phải đổi mới tư duy, phải thay đổi cách tiếp cận khi xây dựng, sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện luật phá sản Việt Nam. Phải coi việc phục hồi hoạt động
kinh doanh nhằm tái tạo doanh nghiệp là mục tiêu quan trọng nhất của luật phá
sản. Chỉ có như vậy, luật phá sản hiện hành của Việt Nam mới không tiếp tục “phá
sản”.
3.2. Các giải pháp sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật Phá sản năm
2004 về phục hồi doanh nghiệp
Bài học thứ hai từ Pháp là cần tiếp tục sửa đổi các quy định của Luật Phá
sản năm 2004 về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Từ việc nghiên cứu kinh
nghiệm của Pháp trong việc hoàn thiện các quy định về phục hồi doanh nghiệp và
cũng để Luật Phá sản năm 2004 mang tính thực tiễn cao hơn, đề tài đề xuất các
giải pháp cụ thể sau đây:
70
3.2.1. Mở rộng đối tượng áp dụng tại điều 2 của Luật Phá sản năm 2004
Vận dụng kinh nghiệm từ Pháp, để mở rộng đối tượng tại điều 2 này, cần bổ
sung những quy định mới về phục hồi doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Đề tài cho
rằng, cần phải bổ sung đối tượng áp dụng của Luật thêm 2 đối tượng là cá nhân và
hộ kinh doanh cá thể. Theo Luật Phá sản năm 2004, đối tượng áp dụng là doanh
nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhưng không
có cá nhân và hộ kinh doanh cá thể. Từ kinh nghiệm của Pháp, đề tài cho rằng cần
bổ sung hai đối tượng này vào Luật. Đưa thêm 2 đối tượng này vào Luật phá sản
thì sau này, trong quá trình hoạt động, nếu bị phá sản, họ cũng sẽ được áp dụng các
quy định về phục hồi hoạt động kinh doanh của mình. Việc bổ sung hai đối tượng
này sẽ làm cho Luật phá sản Việt Nam năm 2004 phù hợp với thực tiễn hoạt động
kinh doanh của Việt Nam cũng như tương thích với luật của Pháp và luật của các
nước khác.
3.2.2. Bổ sung những quy định tại chương VI, mục 1 của Luật Phá sản
năm 2004 về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
Như đã phân tích ở phần trên, với 10 điều từ điều 68 đến điều 77, những
quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh trong Luật Phá sản năm 2004
là quá sơ sài và thiếu tính khả thi. Vì vậy, từ kinh nghiệm của Pháp, đề tài cho rằng
cần có sự bổ sung, sửa đổi để những quy định này mang tính thực tiễn cao hơn. Cụ
thể, cần bổ sung những quy định dưới đây vào chương VI, mục 1 của Luật Phá sản
năm 2004:
Thứ nhất, Bổ sung các quy định tăng cường vai trò của Tòa án trong quá
trình phục hồi doanh nghiệp. Có thể nói, Luật phá sản của Việt Nam cần thay đổi
tư duy nhìn nhận về vai trò của Tòa án trong cả quá trình phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp. Là một nước phát triển ở Châu Âu, các doanh nghiệp của Pháp là
các doanh nghiệp có thế mạnh về vốn, về công nghệ, về năng lực quản lý…Tuy
vậy, khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, để được phục hồi hoạt động,
các doanh nghiệp này vẫn cần sự hỗ trợ rất nhiều của Tòa án thông qua Chánh án,
Thẩm phán, ủy viên (xem thêm sơ đồ 3) với rất nhiều quyền lực. Vì vậy, đề tài cho
rằng cần tăng cường hơn nữa vai trò của Tòa án Việt Nam trong quá trình thực
71
hiện thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp: Tòa án phải là người kiểm tra,
giám sát và toàn quyền ra quyết định. Hội nghị chủ nợ chỉ nên có ý kiến đề xuất.
Thứ hai, bổ sung giai đoạn giám sát và cơ quan giám sát vào quá tình thực
hiện thủ tục phục hồi. Kinh nghiệm của Pháp cho thấy, giai đoạn giám sát có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Vì
vậy, đề tài cho rằng cần học tập kinh nghiệm của Pháp về vấn đề này. Nghĩa là cần
bổ sung giai đoạn giám sát vào thủ tục phục hồi doanh nghiệp, như Luật phá sản
của Pháp quy định. Để giai đoạn giám sát có thể được thực hiện hiệu quả, cần đưa
vào chương VI những quy định cho phép thành lập cơ quan giám sát. Đó là các
chủ nợ nhưng bên cạnh các chủ nợ này còn có Viện Kiểm sát và Đại diện người
lao động (như sơ đồ 3 đã trình bày). Đây là kinh nghiệm rất hay trong Luật của
Pháp và nó cũng dễ dàng thực thi ở Việt Nam. Chỉ có điều là cần phải bổ sung vào
chương VI, mục 1 của Luật Phá sản năm 2004 về chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan này trong giai đoạn giám sát.
Thứ ba, bổ sung những quy định về chủ nợ mới, trong đó phải quy định
quyền được ưu tiên thanh toán trước các khoản nợ của chủ nợ mới so với các chủ
nợ cũ. Kinh nghiệm của Pháp cho thấy việc quy định cho phép chủ nợ mới được
xuất hiện trong giai đoạn phục hồi sẽ làm cho việc phục hồi có tính khả thi cao
hơn. Chính vì vậy, Luật phá sản Việt Nam nên có những quy định về vị trí, vai trò,
quyền của chủ nợ mới trong quá trình phục hồi hoạt động doanh nghiệp .
Thứ tư, bổ sung vào Chương VI, mục 1 những quy định về các biện pháp
giảm nhẹ về tài chính cho doanh nghiệp đã mở thủ tục phá sản. Kinh nghiệm từ
Pháp cho thấy luật phá sản của Pháp trao quyền cho Thẩm phán được giãn nợ cho
con nợ đã được mở thủ tục phá sản. Đây là kinh nghiệm rất hay, vì vậy, đề tài kiến
nghị bổ sung những quy định này vào Luật Phá sản năm 2004.
3.3. Các giải pháp tăng cƣờng thi hành các quy định về phục hồi doanh
nghiệp trong Luật Phá sản năm 2004
3.3.1. Nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của Luật phá sản
Như đã nói, thủ tục phục hồi khiến cho pháp luật phá sản trở nên hợp lý
hơn, không đơn giản chỉ dừng ở chỗ là cỗ “máy chém” các doanh nghiệp làm ăn
72
kém hiệu quả như trước nữa. Thực tế cho thấy “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, ở các
nước phát triển như Mỹ, Pháp, quá trình “cứu chữa” cho doanh nghiệp được bắt
đầu từ trước thời điểm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Nói cách khác thực
chất đó là quá trình “phòng bệnh” cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế. Để làm được
như vậy, cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò của pháp luật phá sản
và ý nghĩa của thủ tục phục hồi haotj động của doanh nghiệp trong Luật Phá sản
năm 2004. Đây không thể là việc làm một sớm một chiều mà nó phải bao gồm
nhiều hoạt động tuyên truyền, giáo dục.
Để nâng cao nhận thức của toàn xã hội, cần phải làm cho mọi công dân,
doanh nghiệp hiểu biết rõ về mục tiêu của luật phá sản. Ngày nay, mục tiêu của
luật phá sản không chỉ là bảo vệ quyền lợi cảu chủ nợ mà quan trọng hơn là bảo vệ
cả quyền lợi cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh, là phục hồi và tái
tạo doanh nghiệp. Một khi hiểu rõ được mục tiêu tích cực của luật phá sản, các
doanh nghiệp cũng như mọi cá nhân, mọi tổ chức, mọi cơ quan dễ dàng tự giác thi
hành luật phá sản.
3.3.2. Tăng cường giới thiệu và tuyên truyền về pháp luật phá sản và lợi
ích của việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp
Như đã phân tích ở trên, một thực tế đáng buồn là ở Việt Nam, một trong
những đạo luật không có đất sống trong thực tiễn chính là Luật phá sản. Nguyên
nhân khách quan là do cơ chế nhưng nguyên nhân chủ quan là do sự thiếu hiểu biết
về Luật này. Vì vậy, việc tăng cường giới thiệu và tuyên truyền về pháp luật phá
sản nói chung và về phục hồi doanh nghiệp nói riêng là việc cần phải làm ngay,
đặc biệt là khi tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã bước sang giai
đoạn sâu, rộng. Cạnh tranh sẽ khốc liệt và tình trạng phá sản sẽ là hiển nhiên. Việc
tăng cường giới thiệu và tuyên truyền này có thể được thực hiện thông qua các
biện pháp như:
Trước mắt, phải phát động một cuộc thi tìm hiểu về Luật phá sản và các quy
định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại
chúng như truyền hình, đài phát thanh, giải thưởng doanh nghiệp, giải thưởng sinh
viên… Ngoài ra, phải đưa vào chương trình giảng dạy của các cơ sở đào tạo những
73
nội dung cơ bản về Luật phá sản thay vì nó chỉ được giảng dạy ở một vài cơ sở đào
tạo luật của Việt Nam.
Trong dài hạn, cần phải đưa một phần pháp luật phá sản vào trong chương
trình đào tạo cử nhân kinh tế, cử nhân quản trị kinh doanh, cử nhân ngành tài
chính, ngân hàng … hoặc đưa vào chương trình đào tạo thạc sỹ chuyên ngành luật
kinh doanh hoặc quản trị doanh nghiệp những vấn đề chuyên sâu hơn về pháp luật
phá sản Việt Nam và của các nước để thế hệ tương lai có thể nắm bắt được mọi
kiến thức cần thiết. Có như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam mới ý thức được vấn
đề phá sản để có biện pháp phòng ngừa. Và trong trường hợp bị phá sản, họ sẽ có
thể linh hoạt sử dụng Luật phá sản cũng như thủ tục phục hồi doanh nghiệp khi cần
thiết để biến phá sản và phục hồi doanh nghiệp trở thành một công cụ trợ giúp trực
tiếp và đắc lực cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế mở cửa, hội nhập với cạnh
tranh khốc liệt và đầy rủi ro này.
3.3.3. Thay đổi quan niệm của xã hội về thủ tục phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp
Cho đến bây giờ, ở Việt Nam, thủ tục phục hồi vẫn chưa được coi là một
thủ tục độc lập trong quá trình phá sản. Đối với quan niệm chung, phục hồi doanh
nghiệp vẫn chỉ là một bước đệm mang tính chất hành chính cần phải vượt qua
trước khi tiến hành thủ tục thanh lý. Đây là một quan niệm hết sức sai lầm và cần
phải được thay đổi. Quan niệm trên dẫn tới sự hời hợt của các nhà làm luật đồng
thời là sự hời hợt của những người thực thi luật pháp. Tầm quan trọng của thủ tục
phục hồi và những ích lợi mà nó mang lại phải được nhấn mạnh và quan tâm hàng
đầu trước cả quá trình thanh lý tài sản. Khi Luật Phá sản năm 2004 ra đời, quan
niệm về thủ tục phá sản đã có thay đổi. Các nhà làm luật đã nhìn nhận thủ tục phục
hồi trong thủ tục phá sản là một giai đoạn độc lập. Tuy nhiên, những quy định về
phục hồi doanh nghiệp trong Luật vẫn còn quá sơ sài. Các nhà làm luật cần phải
thay đổi nhận thức. Họ phải hiểu chính xác rằng quá trình phục hồi là một quá
trình đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Trong thực tế, quá trình phục hồi phát
sinh theo nó rất nhiều các tình huống khác nhau cho nên cần phải có những quy
định cụ thể hơn cho từng trường hợp riêng biệt. Bằng việc bổ sung thêm các quy
74
định dựa theo kinh nghiệm của Pháp, như đã đề xuất ở trên, về phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp vào Luật Phá sản năm 2004, nhận thức của xã hội về vấn đề này
chắc chắn sẽ có sự thay đổi theo hướng tích cực và điều này chính là động lực
quan trọng để thi hành hiệu quả Luật Phá sản trong thời gian tới.
3.3.4. Tăng cường tính chủ động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản
Đối với các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, bài toán khó là làm
sao để doanh nghiệp nhận thức được cơ hội có được từ thủ tục phục hồi doanh
nghiệp. Thực tế hiện nay, các doanh nghiệp này vẫn chưa thoát khỏi nỗi sợ hãi của
hai từ “phá sản”. Bởi phá sản, nếu không phải là một điểm kết thúc của một doanh
nghiệp, thì tâm lý chung vẫn cho phá sản là một vết đen trong lý lịch của công ty.
Một công ty, một khi bị “mang tiếng” phá sản thì sẽ rất khó để vươn lên trở lại
trong hoạt động kinh doanh. Thực ra nỗi sợ hãi này xuất phát từ sự thiếu hiểu biết
khi chưa bao giờ phải trải qua thời kỳ phá sản của các doanh nghiệp. Từ góc độ
tiếp cận luật pháp, điều cần làm là giúp cho các doanh nghiệp này hiểu ý nghĩa và
mục đích thật sự của thủ tục phá sản để giúp cho các doanh nghiệp này không còn
ngại ngần khi chủ động nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, từ đó mới tiến tới thủ
tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, tự bản thân các doanh nghiệp
này cũng phải chủ động và nỗ lực trong việc đề xuất phương án phục hồi doanh
nghiệp nếu họ thật sự muốn được tái tạo lại. Bản thân họ phải nắm vững yêu cầu
khi đưa ra các biện pháp được luật cho phép để phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp. Trên thực tế, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn xa lạ với 7 biện pháp
phục hồi doanh nghiệp được quy định tại điều 69 của Luật Phá sản năm 2004.
Chính vì vậy, sự chủ động của chính các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
3.3.5. Giảm thiểu sự quá tải của Thẩm phán
Các Thẩm phán phải làm việc quá tải không chỉ bởi số lượng các vụ phá sản
mà họ phải thụ lý mà còn bởi có quá nhiều công việc đòi hỏi tính chuyên môn
trong ngành kinh tế chứ không phải là luật. Khó khăn này có thể được giải quyết
theo hai biện pháp không mâu thuẫn nhau nhưng có thể phát triển độc lập.
75
Thứ nhất là giảm dần gánh nặng cho Thẩm phán bằng cách chia công việc
cho các chuyên viên. Học tập kinh nghiệm từ Pháp, Thẩm phán chỉ phải lo một bộ
phận chuyên trách về luật, còn các nghiệp vụ khác đã có cơ quan chuyên môn phụ
trách (xem thêm sơ đồ 3). Với hướng giải quyết này, các Thẩm phán sẽ đỡ vất vả
hơn rất nhiều, không mất công đào tạo lại hoặc đào tạo thêm. Tuy nhiên chi phí
cho một vụ phục hồi hoạt động của doanh nghiệp thành công sẽ không nhỏ. Bởi so
với hiện tại, lực lượng chuyên gia được huy động vào giải quyết thủ tục phục hồi
sẽ nhiều hơn rất nhiều. Trong đó bao gồm cả những lực lượng mới như chuyên gia
kinh tế, chuyên gia phân tích dự án hoặc các chuyên gia, cố vấn chuyên môn nhằm
tạo ra được phương án phục hồi hiệu quả cũng như theo sát được doanh nghiệp
trong quá trình phục hồi.
Thứ hai là giữ nguyên quy định hiện tại và tăng dần số lượng Thẩm phán.
Bằng cách này, đầu công việc sẽ được chia cho nhiều Thẩm phán hơn và làm cho
gánh nặng trên vai mỗi Thẩm phán sẽ bớt đi. Từ đó cũng làm tăng hiệu quả của xử
lý các thủ tục phục hồi doanh nghiệp. Tuy nhiên, đào tạo ra Thẩm phán có đủ tài
năng cũng như kinh nghiệm để đảm trách phục hồi các doanh nghiệp bị phá sản
không phải là điều đơn giản. Các Thẩm phán ngoài kiến thức về luật phá sản và
thủ tục phục hồi phá sản còn phải nắm rất vững các kiến thức kinh tế khác nhằm
đánh giá được doanh nghiệp nào có thể phục hồi và doanh nghiệp nào không thể
phục hồi. Nếu không đạt được như vậy, những vụ phục hồi không thành công sẽ là
những chi phí lãng phí rất lớn mà toàn xã hội phải gánh chịu.
76
KẾT LUẬN
Phá sản là hiện tượng kinh tế gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp và
xảy ra ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên pháp luật về phá
sản của các nước khác nhau lại có cách tiếp cận khác nhau về mục tiêu, đối tượng
điều chỉnh, nội dung và đặc biệt là về vấn đề phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Bằng phương pháp nghiên cứu so sánh luật học, đề tài đã lựa chọn
luật phá sản của Pháp để phân tích những quy định về phục hồi doanh nghiệp. Kết
quả nghiên cứu chỉ ra rằng phục hồi hoạt động nhằm tái tạo doanh nghiệp là mục
tiêu mà luật phá sản hiện đại của Pháp đã theo đuổi. Trải qua nhiều giai đoạn bổ
sung, sửa đổi, những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật
phá sản hiện hành của Pháp trở nên hoàn thiện hơn, mang tính khả thi hơn từ quy
trình, thủ tục đến chức năng, nhiệm vụ của Tòa án, của các chủ nợ cũng như của
các cơ quan hỗ trợ và của bản thân doanh nghiệp con nợ. Điều này đã làm thay đổi
những quan niệm cũ, bảo thủ về mục tiêu của luật phá sản. Điều này thật sự đã góp
phần làm cho mục tiêu tái tạo doanh nghiệp được thi hành ngày càng tốt hơn trong
thực tiễn xem xét các vụ phá sản ở Pháp. Tuy nhiên, để có những quy định phù
hợp, vấn đề thật không đơn giản. Nghiên cứu những quy định về phục hồi doanh
nghiệp theo luật phá sản của Pháp cho thấy đây là vấn đề khó ngay cả đối với một
nước phát triển như Cộng hòa Pháp. Tuy nhiên, những gì là mặt tích cực trong các
quy định của luật phá sản của Pháp sẽ là kinh nghiệm bổ ích đối với Việt Nam.
Là một nước đi sau, Việt Nam chỉ mới có trên dưới 10 năm kinh nghiệm, để
học hỏi từ luật phá sản nước ngoài và đặc biệt là từ luật phá sản của Pháp. Do đó,
những hạn chế trong quy định của luật phá sản Việt Nam là không thể tránh khỏi.
Hạn chế đó thể hiện ở chỗ Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993 – đạo luật đầu
tiên của Việt Nam về phá sản - đã không nhằm mục tiêu tái tạo doanh nghiệp. Luật
Phá sản năm 2004 tiến bộ hơn vì đã đưa 10 điều khoản cụ thể về phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, những quy định này vẫn tỏ ra bất
cập. Đứng từ góc độ của các sinh viên năm cuối chuyên ngành kinh tế, suy nghĩ và
77
hành động dựa trên sự lo lắng về “sức khỏe” của thị trường nói chung và của
doanh nghiệp Việt Nam nói riêng, nhóm nghiên cứu sau khi đưa một số cơ sở để
dự báo về khả năng phá sản của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới, đã làm
rõ có 2 vấn đề đặt ra cho luật phá sản Việt Nam. Đó là 7 bất cập của Luật Phá sản
năm 2004 và 4 khó khăn gặp phải trong quá trình thi hành Luật này. Từ đó, nhóm
nghiên cứu đề xuất một số giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp.
Đây là những giải pháp đầu tiên nhằm sửa đổi, bổ sung để làm cho luật phá sản
của Việt Nam trở nên hoàn thiện hơn và có tính khả thi hơn. Tuy nhiên, nhóm
nghiên cứu hiểu rằng những giải pháp nêu trên là chưa thể hoàn hảo. Để có được
những giải pháp mang tính khả thi hơn nữa, cần phải có sự nghiên cứu tiếp tục về
cả 4 thủ tục phá sản theo quy định của Luật Phá sản năm 2004. Với cách tiếp cận
này, những kết quả nghiên cứu ở đề tài thuộc công trình dự thi lần này không phải
là điểm cuối. Ngược lại, nó là điểm khởi đầu cho một quá trình tiếp tục tìm tòi
phân tích tiếp theo.
Với sinh viên ngành kinh tế, việc nghiên cứu pháp luật đã rất khó khăn
nhưng việc phân tích và đánh giá những vấn đề cụ thể của Luật phá sản như vấn đề
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lại càng khó khăn hơn. Mặc dù
vậy, nhóm nghiên cứu sẽ vẫn tiếp tục theo đuổi những nghiên cứu này để góp phần
thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Không có việc gì khó” và lời dạy của V.I.Lênin:
“Học, học nữa, học mãi” để tăng cường sự hiểu biết nhiều hơn về pháp luật, một
lĩnh vực vốn rất mới mẻ và khó đối sinh viên ngành kinh tế, nhưng lại là lĩnh vực
đòi hỏi các nhà kinh tế, các doanh nghiệp phải có sự hiểu biết đầy đủ.
78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
Các công trình nghiên cứu, bài viết, báo cáo
1. TS. Trương Hồng Hải, Đại học luật Hà Nội, Luận án “Luật phá sản doanh
nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn thiện”
2. Dương Đăng Huệ, “Phá sản Việt Nam năm 2004 với việc cải thiện môi
trường kinh doanh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3/2005, tr26-31
3. Phạm Đăng Thịnh, “Xuất khẩu chưa hết khó khăn”, Thời báo kinh tế Sài
Gòn ngày 30/7/2009, tr.8
4. Phạm Xuân Thọ - Chánh tòa kinh tế Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh,“Giải quyết phá sản tại thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng, vướng mắc và
kiến nghị”- Bài phát biểu tại Hội thảo về Luật Phá sản năm 2004: những vướng
mắc và giải pháp khắc phục, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006
5. Vũ Thị Hồng Vân - Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “Đánh giá thực trạng thi
hành Luật phá sản doanh nghiệp năm 2004”
6. Viện nghiên cứu khoa học thị trường và giá cả, “Luật phá sản của Trung
Quốc và một số nước Tây Âu”, Hà Nội năm 1990
7. Vụ Công tác lập pháp, Những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm 2004,
NXB Tư pháp, Hà Nội năm 2005
8. Bộ Tư Pháp, Báo cáo “Rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật phá sản
năm 2004”, ngày 29/12/2008
Các văn bản luật và dưới luật
9. Luật Phá sản số 21/2004/QH11 của Quốc hội
10. Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản
11. Nghị định 94/2005/NĐ-CP của Chính phủ về giải quyết quyền lợi của người
lao động ở doanh nghiệp và hợp tác xã bị phá sản
12. Thông tư liên tịch 19/2008/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư
pháp về hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
13. Công văn 7050/BTC-TCT của Bộ Tài chính về việc Quyết toán thuế đối với
79
doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản
14. Công văn 1977/VPCP-XDPL của Văn phòng Chính phủ về việc thực hiện
Luật phá sản
15. Nghị định 67/2006/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn việc áp dụng Luật
Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh
lý tài sản
16. Nghị định 10/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo Luật phá sản doanh nghiệp
năm 1993
17. Nghị định số 114/CP ban hành ngày 3/11/2008 của Chính phủ về việc
Hướng dẫn chi tiết ban hành một số điều luật của Luật phá sản đối với doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính
khác
18. Nghị định số 189/1994/NĐ-CP ban hành ngày 23/12/1994 về việc Hướng
dẫn thi hành luật phá sản doanh nghiệp
19. Quyết định số 01/2005 của Toà án nhân dân Tối cao về Quy chế làm việc
của Tổ thẩm phán phụ trách tiến hành làm thủ tục phá sản
B. Tài liệu tiếng Pháp
Các công trình nghiên cứu, bài viết, báo cáo
20. Deloitte, “L’entreprise en difficulté en France – L’impact de la crise
éconimique et financière”, 3/2009
21. Yves Guyon, “Entreprise en difficultés - Redressement judiciaire - Faillite”,
édition Economica, 1991
22. J.Hilaire, “Introduction historique au droit commercial”, Édition PUF, Paris
1986
23. M.B. Salvado, “Droit des entreprises en difficulté”, Édition Breal 2007
24. R. Szramkiewicz, “Histoire du droit des affaires”, Édition LGDJ, Paris
Montchrétien 1989
Các văn bản luật và dưới luật
25. Code de Commerce 2009
26. Code de Commerce 2005
27. Loi de sauvegarde des enterprises, n° 2005-845 du 26 juillet 2005
80
28. Ordonnance n° 2008-1345 du 18 décembre 2008 portant réforme du droit des
entreprises en difficulté
29. Décret n° 2009-160 du 12 février 2009 pris pour l'application de
l'ordonnance n° 2008-1345 du 18 décembre 2008 portant réforme du droit des
entreprises en difficulté et modifiant les procédures de saisie immobilière et de
distribution du prix d'un immeuble
C. Website
30. Le service public de la diffusion de droit:
31. Faculté de droit, Université Lyon 3:
32. Les greffes des tribunaux de commerce:
33. Website của Ngân hàng Thế giới (World Bank):
34. Website của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI):
35. Website của Tổng cục Thống kê:
36. Website của hãng Continental Airlines:
37. Website của BBC:
shtml
38. Website của CNN Company:
39. Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
=412579&p_cateid=353555&item_id=2041211&article_details=1
40. Website Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia:
41. Báo điện tử Tin nhanh Việt Nam:
I
PHỤ LỤC 1
Một số quy định trong pháp luật Việt Nam
về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp bị phá sản
(Trích Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam)
Chƣơng VI
THỦ TỤC PHỤC HỒI THỦ TỤC THANH LÝ
Mục 1
THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
Điều 68. Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi Hội nghị chủ
nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh,
kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
2. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết,
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh của mình và nộp cho Toà án; nếu thấy cần phải có thời gian dài hơn thì phải có văn
bản đề nghị Thẩm phán gia hạn. Thời hạn gia hạn không quá ba mươi ngày.
Trong thời hạn nói trên, bất kỳ chủ nợ hoặc người nào nhận nghĩa vụ phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã đều có quyền xây dựng dự thảo phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã và nộp cho Toà án.
Điều 69. Nội dung phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản phải nêu rõ các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh; các điều kiện, thời hạn
và kế hoạch thanh toán các khoản nợ.
2. Các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh gồm có:
a) Huy động vốn mới;
b) Thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh;
c) Đổi mới công nghệ sản xuất;
d) Tổ chức lại bộ máy quản lý; sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng
suất, chất lượng sản xuất;
đ) Bán lại cổ phần cho chủ nợ;
e) Bán hoặc cho thuê tài sản không cần thiết;
II
g) Các biện pháp khác không trái pháp luật.
3. Trước khi bắt đầu hoặc tại Hội nghị chủ nợ, phương án phục hồi hoạt động kinh doanh có thể
được sửa đổi, bổ sung theo sự thoả thuận của các bên.
Điều 70. Xem xét phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh trƣớc khi đƣa ra Hội nghị chủ
nợ
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh,
Thẩm phán phải xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh để ra một trong các quyết
định:
1. Đưa phương án ra Hội nghị chủ nợ xem xét, quyết định;
2. Đề nghị sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh nếu thấy phương án đó
chưa bảo đảm các nội dung quy định tại Điều 69 của Luật này.
Điều 71. Xem xét, thông qua phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày quyết định đưa phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ra Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán
phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phương án phục hồi.
2. Hội nghị chủ nợ xem xét, thoả luận phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã được
thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt đại diện cho từ hai phần ba tổng số
nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành.
Điều 72. Công nhận Nghị quyết về phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Nghị quyết này có
hiệu lực đối với tất c các bên có liên quan.
2. Toà án phải gửi quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ
trong thời hạn by ngày, kể từ ngày ra quyết định.
Điều 73. Giám sát thực hiện phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Sau khi Thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, Tổ quản
lý, thanh lý tài sản giải thể.
2. Sáu tháng một lần, doanh nghiệp, hợp tác xã phải gửi cho Toà án báo cáo về tình hình thực hiện
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp, hợp tác xã.
3. Chủ nợ có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã.
III
Điều 74. Thời hạn thực hiện phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh
Thời hạn tối đa để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản là ba năm, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định của Toà án
công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã.
Điều 75. Sửa đổi, bổ sung phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Trong quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, các chủ nợ và doanh
nghiệp, hợp tác xã có quyền thoả thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh.
2. Thoả thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã được chấp nhận khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ
hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên đồng ý.
3. Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên và gửi quyết định đó cho doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ trong thời hạn by ngày, kể từ ngày ra
quyết định.
Điều 76. Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản nếu có một trong các trường hợp sau đây:
a) Doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh;
b) Được quá nửa số phiếu của các chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số
nợ không có bảo đảm trở lên chưa thanh toán đồng ý đình chỉ.
2. Toà án phải gửi và thông báo công khai quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định tại Điều 29 của Luật này.
Điều 77. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Trường hợp Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã đó được coi
không còn lâm vào tình trạng phá sản.
2. Trường hợp việc thi hành án dân sự hoặc việc giải quyết vụ án bị đình chỉ theo quy định tại
Điều 57 của Luật này chưa được thi hành hoặc chưa được giải quyết thì ngay sau khi ra quyết
định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản, việc thi hành án dân sự hoặc việc giải quyết vụ án được tiếp tục. Toà án ra quyết
định đình chỉ thủ tục phục hồi phải gửi trả lại hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền để giải quyết
vụ án theo quy định của pháp luật.
IV
PHỤ LỤC 2
Một số quy định trong luật của Pháp
về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
(trích Quyển VI – Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009)
Trích điều L622-17
I.-Les créances nées régulièrement après le jugement d'ouverture pour les besoins du déroulement
de la procédure ou de la période d'observation, ou en contrepartie d'une prestation fournie au
débiteur pendant cette période, sont payées à leur échéance.
II.-Lorsqu'elles ne sont pas payées à l'échéance, ces créances sont payées par privilège avant
toutes les autres créances, assorties ou non de privilèges ou sûretés.
Trích điều L631-1
Il est institué une procédure de redressement judiciaire ouverte à tout débiteur mentionné aux
articles L. 631-2 ou L. 631-3 qui, dans l'impossibilité de faire face au passif exigible avec son
actif disponible, est en cessation des paiements. Le débiteur qui établit que les réserves de crédit
ou les moratoires dont il bénéficie de la part de ses créanciers lui permettent de faire face au passif
exigible avec son actif disponible n'est pas en cessation des paiements.
Trích điều L631-2
La procédure de redressement judiciaire est applicable à toute personne exerçant une activité
commerciale ou artisanale, à tout agriculteur, à toute autre personne physique exerçant une
activité professionnelle indépendante y compris une profession libérale soumise à un statut
législatif ou réglementaire ou dont le titre est protégé, ainsi qu'à toute personne morale de droit
privé
Trích điều L631-4
L'ouverture de cette procédure doit être demandée par le débiteur au plus tard dans les quarante-
cinq jours qui suivent la cessation des paiements s'il n'a pas, dans ce délai, demandé l'ouverture
d'une procédure de conciliation.
En cas d'échec de la procédure de conciliation, lorsqu'il ressort du rapport du conciliateur que le
débiteur est en cessation des paiements, le tribunal, d'office, se saisit afin de statuer sur l'ouverture
d'une procédure de redressement judiciaire.
Trích điều L631-5
Lorsqu'il n'y a pas de procédure de conciliation en cours, le tribunal peut également se saisir
d'office ou être saisi sur requête du ministère public aux fins d'ouverture de la procédure de
redressement judiciaire.
V
Sous cette même réserve, la procédure peut aussi être ouverte sur l'assignation d'un créancier,
quelle que soit la nature de sa créance.
Trích điều L631-8
Le tribunal fixe la date de cessation des paiements.A défaut de détermination de cette date, la
cessation des paiements est réputée être intervenue à la date du jugement d'ouverture de la
procédure.
Trích điều L631-10
A compter du jugement d'ouverture, les parts sociales, titres de capital ou valeurs mobilières
donnant accès au capital de la personne morale qui a fait l'objet du jugement d'ouverture et qui
sont détenus, directement ou indirectement par les dirigeants de droit ou de fait, rémunérés ou
non, ne peuvent être cédés, à peine de nullité, que dans les conditions fixées par le tribunal.
Trích điều L653-8
Dans les cas prévus aux articles L. 653-3 à L. 653-6, le tribunal peut prononcer, à la place de la
faillite personnelle, l'interdiction de diriger, gérer, administrer ou contrôler, directement ou
indirectement, soit toute entreprise commerciale ou artisanale, toute exploitation agricole et toute
personne morale, soit une ou plusieurs de celles-ci.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo luật của pháp và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của việt nam.pdf