Mọi đơn vị kinh tế, từ khi mới được thành lập đã luôn gắn với một lượng tài sản và nguồn vốn nhất định. Nhưng để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp phải làm cho khối tài sản và nguồn vốn đó ngày càng lớn mạnh. Do vậy, các đối tượng tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng kể cả về mặt hình thái vật chất lẫn lượng giá trị của các đối tượng đó.
Để thực hiện chức năng phản ánh giá trị của tài sản vào công tác Hạch toán - Kế toán, bộ phận kế toán của Doanh nghiệp phải sử dụng phương pháp tính giá các đối tượng kế toán làm cơ sở cho việc ghi nhận giá trị của tài sản vào chứng từ, sổ sách, báo cáo và cung cấp các thông tin liên quan cho các đối tượng có yêu cầu. Tính giá là một phương pháp kế toán để quy đổi hình thức biểu hiện của các đối tượng kế toán từ các thước đo khác nhau về một thước đo chung là sử dụng thước đo tiền tệ để xác định giá trị ghi sổ của các đối tượng cần tính giá theo những nguyên tắc nhất định.
Tính giá là một phương pháp trong hệ thống bốn phương pháp kế toán bao gồm: Phương pháp chứng từ; phương pháp tài khoản và ghi kép; phương pháp tính giá đối tượng kế toán và phương pháp tổng hợp và cân đối kế toán. Là một thành tố của một hệ thống, phương pháp tính giá vừa có tính độc lập tương đối lại vừa có quan hệ chặt chẽ và tác động tương hỗ với các phương pháp khác. Vị trí của phương pháp tính giá và mối quan hệ của nó với các phương pháp khác được thể hiện rất rõ nét trong quá trình vận động của các đối tượng của hạch toán - kế toán.
Nhận thức được tầm quan trọng của phương pháp tính giá, cùng với sự giúp đỡ tận tình của Thạc sỹ: Nguyễn Thị Kim Hương trong việc học tập, nghiên cứu bộ môn Nguyên lý Kế toán 1 em mạnh dạn chọn đề tài: “Phương pháp tính giá các đối tượng kế toán trong mối quan hệ với các phương pháp hạch toán kế toán khác” làm bài tiểu luận môn học của mình.
Mục tiêu của bài tiểu luận là tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về phương pháp này trong mối quan hệ với các phương pháp khác trong cùng hệ thống. Mặt khác, rèn luyện những kỹ năng cần thiết trong việc tính giá các đối tượng kế toán chủ yếu, để sau này có thể vận dụng trong công tác chuyên ngành.
Bài tiểu luận môn học Nguyên lý kế toán của em gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận, nguyên tắc, yêu cầu và ý nghĩa của việc tính giá các đối tượng kế toán.
Chương II: Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá một số đối tượng kế toán cụ thể.
Chương III: Mối quan hệ giữa phương pháp tính giá với các phương pháp khác trong hệ thống các phương pháp hạch toán - kế toán.
Với kiến thức và trình độ có hạn, chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với tế nên bài tiểu luận môn học này sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Kính mong sự thông cảm và nhận được ý kiến đóng góp của thầy giáo, cô giáo trong Khoa Kế toán - Trường Đại học Duy Tân và các bạn trong lớp B15QTH2 để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn./.
26 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4983 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương pháp tính giá các đối tượng kế toán trong mối quan hệ với các phương pháp hạch toán kế toán khác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÔØI MÔÛ ÑAÀU
Mọi đơn vị kinh tế, từ khi mới được thành lập đã luôn gắn với một lượng tài sản và nguồn vốn nhất định. Nhưng để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp phải làm cho khối tài sản và nguồn vốn đó ngày càng lớn mạnh. Do vậy, các đối tượng tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng kể cả về mặt hình thái vật chất lẫn lượng giá trị của các đối tượng đó.
Để thực hiện chức năng phản ánh giá trị của tài sản vào công tác Hạch toán - Kế toán, bộ phận kế toán của Doanh nghiệp phải sử dụng phương pháp tính giá các đối tượng kế toán làm cơ sở cho việc ghi nhận giá trị của tài sản vào chứng từ, sổ sách, báo cáo và cung cấp các thông tin liên quan cho các đối tượng có yêu cầu. Tính giá là một phương pháp kế toán để quy đổi hình thức biểu hiện của các đối tượng kế toán từ các thước đo khác nhau về một thước đo chung là sử dụng thước đo tiền tệ để xác định giá trị ghi sổ của các đối tượng cần tính giá theo những nguyên tắc nhất định.
Tính giá là một phương pháp trong hệ thống bốn phương pháp kế toán bao gồm: Phương pháp chứng từ; phương pháp tài khoản và ghi kép; phương pháp tính giá đối tượng kế toán và phương pháp tổng hợp và cân đối kế toán. Là một thành tố của một hệ thống, phương pháp tính giá vừa có tính độc lập tương đối lại vừa có quan hệ chặt chẽ và tác động tương hỗ với các phương pháp khác. Vị trí của phương pháp tính giá và mối quan hệ của nó với các phương pháp khác được thể hiện rất rõ nét trong quá trình vận động của các đối tượng của hạch toán - kế toán.
Nhận thức được tầm quan trọng của phương pháp tính giá, cùng với sự giúp đỡ tận tình của Thạc sỹ: Nguyễn Thị Kim Hương trong việc học tập, nghiên cứu bộ môn Nguyên lý Kế toán 1 em mạnh dạn chọn đề tài: “Phương pháp tính giá các đối tượng kế toán trong mối quan hệ với các phương pháp hạch toán kế toán khác” làm bài tiểu luận môn học của mình.
Mục tiêu của bài tiểu luận là tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về phương pháp này trong mối quan hệ với các phương pháp khác trong cùng hệ thống. Mặt khác, rèn luyện những kỹ năng cần thiết trong việc tính giá các đối tượng kế toán chủ yếu, để sau này có thể vận dụng trong công tác chuyên ngành.
Bài tiểu luận môn học Nguyên lý kế toán của em gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận, nguyên tắc, yêu cầu và ý nghĩa của việc tính giá các đối tượng kế toán.
Chương II: Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá một số đối tượng kế toán cụ thể.
Chương III: Mối quan hệ giữa phương pháp tính giá với các phương pháp khác trong hệ thống các phương pháp hạch toán - kế toán.
Với kiến thức và trình độ có hạn, chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với tế nên bài tiểu luận môn học này sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Kính mong sự thông cảm và nhận được ý kiến đóng góp của thầy giáo, cô giáo trong Khoa Kế toán - Trường Đại học Duy Tân và các bạn trong lớp B15QTH2 để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn./.
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN, NGUYÊN TẮC, YÊU CẦU VÀ Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ CÁC ĐỐI TƯỢNG KẾ TOÁN
I- Sự cần thiết phải tính giá các đối tượng kế toán:
Tại bất cứ một đơn vị nào khi sử dụng tài sản để đạt được mục tiêu, đơn vị đều quan tâm đến các tài sản đó được hình thành từ đâu và tài sản đó được sử dụng như thế nào. Để đáp ứng yêu cầu này, kế toán có chức năng cung cấp thông tin về sự hình thành và sử dụng tài sản của đơn vị. Như vậy, đối tượng kế toán là các tài sản sử dụng trong đơn vị được kế toán nghiên cứu trong mối quan hệ với nguồn hình thành tài sản của đơn vị. Tài sản thể hiện nguồn lực kinh tế được sử dụng tại đơn vị và tình hình phân bổ các nguồn lực đó. Nguồn hình thành tài sản thể hiện nguồn gốc tài sản của đơn vị. Việc nghiên cứu tài sản không thể tách rời với nguồn hình thành tài sản đó.
Kế toán không chỉ nghiên cứu tài sản của đơn vị ở trạng thái tĩnh mà còn nghiên cứu tài sản ở trạng thái động. Tài sản của đơn vị vận động thông qua các hoạt động sử dụng tài sản để đạt được mục tiêu đã định. Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động biến đổi. Trong kế toán, điều này thể hiện rõ ở đối tượng kế toán. Trong quá trình hoạt động, tài sản và nguồn vốn của đơn vị không đứng im mà nó luôn vận động, chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác trong quá trình tái sản xuất, kết thúc một chu kì nó lại được bắt đầu bởi một chu kì với sự gia tăng quy mô, số lượng giúp doanh nghiệp không những tồn tại mà còn phát triển mạnh. Do đó, để nghiên cứu sự vận động của tài sản trong đơn vị, kế toán phải phản ánh kịp thời sự thay đổi về mặt hình thái vật chất và giá trị của tài sản trong quá trình sử dụng tài sản cho hoạt động của đơn vị. Mặt khác, kế toán cần phải thu thập, đo lường, phản ánh và cung cấp thông tin về chi phí và doanh thu phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị để giúp người sử dụng thông tin kế toán đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực kinh tế tại đơn vị.
Tuy nhiên, tài sản ở đơn vị bao gồm nhiều loại khác nhau và được thể hiện dưới các dạng khác nhau, có thể là tiền, máy móc thiết bị hay nguyên vật liệu… Để đo lường, ghi nhận sự hình thành và vận động của từng tài sản ta có thể sử dụng thước đo hiện vật như: ki-lô-gam, lít, mét... hoặc thước đo thời gian lao động như: giờ, ngày, tháng,… hoặc thước đo giá trị. Việc sử dụng thước đo hiện vật phải căn cứ vào các đặc tính tự nhiên của từng đối tượng cụ thể để lựa chọn thước đo phù hợp. Thước đo hiện vật có thể giúp đơn vị theo dõi số lượng hiện có và tình hình biến động của từng loại tài sản nhưng không thể cho biết một cách tổng quát quy mô toàn bộ tài sản của đơn vị.
Trong hoạt động của đơn vị còn phát sinh các quan hệ kinh tế ngoài tài sản của đơn vị. Thuộc về các quan hệ này gồm: các quan hệ kinh tế phát sinh do hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng, các quan hệ nghĩa vụ của đơn vị trong việc sử dụng của cải xã hội…các quan hệ kinh tế này cũng được đặt ra nhu cầu phải thuộc đối tượng nghiên cứu của kế toán.
Trong nền kinh tế hàng hóa, các mối quan hệ kinh tế này được phản ánh thông qua giá cả, biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Như vậy, xuất phát từ tính đa dạng về mặt biểu hiện vật chất của các đối tượng kế toán cũng như xuất phát từ chức năng cung cấp thông tin của kế toán về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh và các dòng lưu chuyển tiền trong doanh nghiệp cần thiết phải sử dụng một loại thước đo chung - thước đo giá trị.
Để sử dụng thước đo giá trị, ghi nhận giá trị của tài sản vào chứng từ, sổ sách và báo cáo kế toán cần thiết phải sử dụng một phương pháp đó là phương pháp tính giá. Tính giá là một phương pháp kế toán để quy đổi hình thức biểu hiện của các đối tượng kế toán từ các thước đo khác nhau về một thước đo chung là sử dụng thước đo tiền tệ để xác định giá trị ghi sổ của các đối tượng cần tính giá theo những nguyên tắc nhất định.
Phương pháp này có vai trò rất lớn kể cả trong công tác kế toán và công tác quản lý. Trên phương diện kế toán, việc tính giá đối tượng kế toán là cơ sở để ghi nhận tài sản, vốn chủ sở hữu, nợ phải trả, doanh thu, chi phí và lợi nhuận của đơn vị. Chứng từ kế toán cùng với thông tin có được từ việc tính giá là cơ sở để ghi kép vào tài khoản kế toán, qua đó cung cấp thông tin hữu ích cho quản lý trong việc kiểm tra, giám sát tình trạng và sự vận động của tài sản, nguồn vốn trong quá trình kinh doanh của đơn vị. Đối với người ngoài đơn vị, thông tin từ tính giá là cơ sở để đánh giá tình hình tài chính của một tổ chức trong một kỳ kinh doanh.
II- Các yêu cầu và nguyên tắc trong vận dụng phương pháp tính giá các đối tượng kế toán.
1- Các yêu cầu trong tính giá.
1.1- Tính xác thực của tính giá.
Khả năng tính giá một cách đáng tin cậy là điều kiện cần để kế toán ghi nhận tài sản, nợ phải trả, doanh thu và chi phí trong quá trình xử lý thông tin kế toán. Có thể xem xét một vài trường hợp về tính tin cậy của tính giá các đối tượng kế toán như sau:
Trường hợp 1: Một doanh nghiệp mua nguyên vật liệu để chế tạo ra sản phẩm để bán. Doanh nghiệp đã nhận hóa đơn bán hàng từ nhà cung cấp, trên đó thể hiện đầy đủ thông tin về số lượng hàng hóa, giá cả. Trong trường hợp này, hóa đơn mua hàng là bằng chứng xác đáng về nghiệp vụ mua hàng đã xảy ra và doanh nghiệp có quyền sở hữu số nguyên vật liệu này. Thông tin về giá cả là cơ sở khách quan để kế toán bên mua xác định giá trị hàng mua vào là bao nhiêu.
Trường hợp 2: Nguồn nhân lực được các nhà quản trị xem là nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, kế toán thường không ghi nhận nguồn nhân lực là tài sản vì khả năng xác định giá trị của người lao động là rất khó. Một ví dụ khác như là uy tín, thương hiệu cũng không được ghi nhận là tài sản trên phương diện kế toán vì những tài sản vô hình này được hình thành trong quá trình kinh doanh nhưng không thể xác định được giá trị một cách tin cậy. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp đó sáp nhập hay được mua lại và giá trị của các tài sản này được xác định một cách đáng tin cậy thì thương hiệu hay uy tín lại là tài sản.
Như vậy, tính tin cậy của tính giá các đối tượng kế toán được hiểu là kế toán có những bằng chứng xác đáng, khách quan, trung thực và có thể kiểm tra được về những sự kiện đã xảy ra. Trong thực tế, tính tin cậy trong tính giá thể hiện ở việc phải có chứng từ kế toán hợp pháp, hợp lệ chứng minh sự hình thành các nghiệp vụ kinh tế. Đối với những tài sản là hiện vật, phải có hệ thống tính giá chuẩn xác liên quan đến hình thành tài sản. Tính xác thực trong phương pháp tính giá là tuân theo nguyên tắc giá phí của hạch toán kế toán.
1.2- Ước tính kế toán hợp lý.
Ước tính kế toán là một quá trình xét đoán dựa trên những thông tin tin cậy nhất và mới nhất tại thời điểm ước tính. Vấn đề ước tính kế toán được đặt ra vì việc xác định giá trị của một số đối tượng kế toán trong nhiều trường hợp không thể thực hiện được do thiếu những bằng chứng đáng tin cậy. Chẳng hạn, máy móc thiết bị tham gia vao nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và giá trị của những tài sản này giảm dần trong quá trình sử dụng. Việc xác định giá trị hao mòn của máy móc thiết bị là cơ sở để xác định chi phí sử dụng máy móc thiết bị và tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Đây là một yêu cầu khách quan nhưng kế toán không thể xác định chính xác được giá trị hao mòn của tài sản. Trong trường hợp này, yêu cầu về ước tính kế toán được đặt ra để phân bổ giá trị máy móc thiết bị một cách hợp lý. Có thể đưa ra một số trường hợp ước tính kế toán điển hình khi tính giá đối tượng kế toán như sau:
+ Ước tính thời gian sử dụng hữu ích của tài sản cố định nhằm phân bổ giá trị tài sản cố định vào chi phí kinh doanh trong từng thời kỳ một cách có hệ thống. Việc phân bổ này thể hiện qua công tác trích khấu hao tài sản cố định ở các doanh nghiệp.
+ Ước tính về thuế thu nhập phải nộp theo từng quý. Công việc này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn quản lý nguồn thu của Ngân sách nhà nước. Vì khoản thuế thu nhập chỉ được xác định vào cuối năm tài chính, nếu việc nộp thuế xảy ra sau khi xác định thuế thu nhập phải nộp thì ngân sách nhà nước dễ bị mất cân đối thu chi. Vì thế, các doanh nghiệp phải ước tính lợi nhuận hàng năm để ước tính thuế thu nhập phải nộp từng quý.
+ Ước tính các khoản nợ phải thu không thu được từ khách hàng để lập dự phòng đối với các khoản nợ phải thu khách hàng. Công việc này tuân thủ nguyên tắc thận trọng trong kế toán.
Có thể nói, sử dụng ước tính kế toán là một phần không thể thiếu trong thực tiễn công tác kế toán. Ước tính kế toán cung cấp cho người sử dụng những thông tin mang tính trọng yếu về tình hình tài chính của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin có cơ sở hợp lý để đưa ra các quyết định tài chính phù hợp hơn.
1.3- Tính thống nhất.
Việc tính giá một đối tượng kế toán không chỉ được thực hiện bằng một phương pháp mà có thể sử dụng nhiều phương pháp. Chẳng hạn như việc trích khấu hao tài sản cố định có thể được thực hiện với mức trích bằng nhau qua các thời kỳ (phương pháp khấu hao đường thẳng) hoặc mức trích giảm dần (phương pháp khấu hao nhanh). Lựa chọn phương pháp khấu hao nào phụ thuộc vào yêu cầu của nhà quản lý trong việc thu hồi vốn, đổi mới công nghệ. Chuẩn mực kế toán đặt ra một số phương pháp để tính giá một đối tượng kế toán nhằm bảo đảm kế toán được ứng dụng phù hợp với đặc điểm của từng loại đối tượng, khả năng và yêu cầu quản lý của từng đơn vị. Tuy nhiên, chuẩn mực kế toán cũng đặt ra yêu cầu về tính thống nhất, đó chính là sự nhất quán về phương pháp tính giá được sử dụng ở các kỳ kế toán. Yêu cầu về tính thống nhất ở đây không chỉ trong một đơn vị mà còn thống nhất về nguyên tắc trong các tổ chức ở mỗi quốc gia. Yêu cầu về tính thống nhất trong tính giá đối tượng kế toán nhằm bảo đảm kế toán cung cấp thông tin có tính so sánh cho người sử dụng. Xuất phát từ yêu cầu này mà việc tính giá thường tuân thủ theo những nguyên tắc kế toán nhất định, thể hiện qua các chuẩn mực kế toán ở các nước.
2. Các nguyên tắc trong tính giá:
Trong công tác kế toán, khi tính giá các đối tượng kế toán thực hiện tốt các nguyên tắc sau:
2.1- Nguyên tắc giá gốc:
Nguyên tắc này yêu cầu khi tính giá các tài sản phải căn cứ vào số tiền hoặc tương đương tiền mà đơn vị đã trả, phải trả. Vận dụng nguyên tắc này đòi hỏi khi mua sắm hoặc tạo lập tài sản dưới nhiều hình thức khác nhau thì phải ghi sổ theo toàn bộ chi phí thực tế phát sinh tại thời điểm xảy ra việc mua sắm hoặc tạo lập đó. Giá trị ghi sổ đó sẽ không thay đổi khi giá trên thị trường thay đổi trừ trường hợp đánh giá lại tài sản theo quy định Nhà Nước hoặc yêu cầu chung của công tác quản lý và quản trị tại doanh nghiệp.
Ví dụ: Nếu một Doanh nghiệp chi ra 100 triệu đồng để mua một lô đất để chuẩn bị xây dựng trụ sở cho Doanh nghiệp, khi đó kế toán phải ghi nhận giá trị của lô đất này là 100 triệu. Giả sử sau đó sáu tháng, giá lô đất đó tăng lên là 150 triệu, kế toán không được điều chỉnh thay đổi giá trị của lô đất trong sổ sánh kế toán của công ty.
2.2- Nguyên tắc khách quan:
Thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan đúng với thực trạng, bản chất nội dung và giá trị nghiệp vụ kinh tế phát sinh; đúng với thực tế, không bị xuyên tạc và bóp méo. Do vậy, nguyên tắc này đòi hỏi các số liệu chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng kiểm tra được. Vì vậy, trong trường hợp tài sản có được do biếu tặng hoặc do trao đổi trực tiếp lấy một tài sản khác thì giá trị ghi sổ của tài sản phải dựa trên cơ sở giá trị thực tế trên thị trường tại thời điểm phát sinh.
Có thể xem nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc giá phí là do tài sản phải được ghi chép theo chi phí chứ không phải theo một lượng giá trị như giá trị thị trường dự kiến.
2.3- Nguyên tắc nhất quán:
Theo phương pháp này, các chính sách và phương pháp tính giá các đối tượng kế toán phải sử dụng thống nhất giữa các kỳ kế toán. Trong thực tế, đơn vị vẫn có thể thay đổi chính sách và phương pháp tính giá nhưng phải nêu rõ trong phần thuyết minh để người đọc có thể nhìn nhận và đánh giá chính xác về tình hình tài sản cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của đơn vị.
2.4- Nguyên tắc thận trọng:
Nguyên tắc này xuất hiện khi doanh nghiệp cân nhắc và phán đoán trong điều kiện không chắc chắn. Với nguyên tắc thận trọng, khi tính giá nếu phương pháp nào tạo ra thu nhập nhỏ hơn hay giá trị tài sản nhỏ hơn sẽ là phương pháp được lựa chọn. Vì như vậy, việc đảm bảo một khoản thu nhập hoặc tài sản sẽ chắc chắn.
Ngoài bốn nguyên tắc kế toán nêu trên có ảnh hưởng đến việc tính giá các đối tượng kế toán, khi mức giá chung thay đổi hoặc tuỳ theo yêu cầu quản lý trong nội bộ đơn vị cũng có thể dẫn đến những ảnh hưởng nhất định trong đo lường giá trị các tài sản của đơn vị. Bởi vì, mặc dù nguyên tắc giá gốc yêu cầu tài sản của đơn vị phải được kế toán ghi nhận theo chi phí thực tế, tuy nhiên trong những tình huống phát triển kinh tế nào đó có thể làm cho mức giá chung tăng hoặc giảm mạnh (lạm phát hoặc giảm phát lớn) thì cần thiết phải điều chỉnh giá gốc của tài sản đã được ghi nhận trước đây cho phù hợp với sự biến động của mức giá chung.
Cần lưu ý rằng việc điều chỉnh này đơn vị không được tự ý thực hiện mà phải tuân thủ những qui định của Nhà nước về mặt thời gian, đối tượng được điều chỉnh và mức độ điều chỉnh. Trong một số đơn vị, đối với một số đối tượng kế toán giá gốc của nó biến động thường xuyên và phức tạp. Để khắc phục tình trạng này, kế toán có thể dùng giá hách toán, tức là giá cố định để cung cấp cấp thông tin kịp thời cho quản lý, nhưng sau đó phải điều chỉnh theo giá thực tế của tài sản này. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc sử dụng giá hạch toán chỉ mang tính chất tạm thời trong kỳ kế toán, đến cuối kỳ kế toán phải tiến hành điều chỉnh theo giá gốc, bởi vì giá hạch toán không phải là giá gốc, nó không thêt thay thế cho giá gốc của tài sản. Giá hạch toán chỉ được sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nội bộ đơn vị. Bản thân việc điều chỉnh giá hạch toán theo giá thực tế chính là biểu hiện tuân thủ của nguyên tắc giá gốc.
III. Ý nghĩa của việc tính giá:
Phương pháp tính giá có ý nghĩa quan trọng trong hạch toán và trong công tác quản lý, cụ thể:
Phương pháp tính giá giúp kế toán xác định được giá trị thực tế của tài sản hình thành trong đơn vị, giúp phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào chứng từ, sổ sách và tổng hợp lên báo cáo kế toán và kiểm tra được các đối tượng hạch toán kế toán bằng thước đo tiền tệ.
Phương pháp tính giá giúp kế toán tính toán được hao phí và kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ và tổng hợp được giá trị của toàn bộ tài sản trong đơn vị giúp công tác quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp có hiệu quả.
Phương pháp tính giá giúp cho kế toán tính toán và xác định được toàn bộ chi phí bỏ ra có liên quan đến việc thu mua, sản xuất, chế tạo và tiêu thụ từng loại vật tư, sản phẩm. Từ đó, so với kết quả thu được để đánh giá hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả kinh doanh từng mặt hàng, từng loại sản phẩm, dịch vụ và từng hoạt động kinh doanh nói riêng.
CHƯƠNG II
TÍNH GIÁ MỘT SỐ ĐỐI TƯỢNG KẾ TOÁN CHỦ YẾU
Đối tượng của kế toán chính là vốn kinh doanh với hai mặt đối lập nhưng cân bằng nhau về lượng tài sản và nguồn hình thành tài sản. Trong phạm vi bài tiểu luận này chỉ tính giá tài sản của đơn vị, tức là biểu hiện hiện hữu vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Về mặt giá trị, khi đã xác định được mặt hiện hữu tài sản thì đó cũng chính là giá trị của nguồn hình thành nên tài sản của doanh nghiệp.
Tài sản trong một đơn vị có qui mô dù lớn hay nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực nào của nền kinh tế cũng đều rất đa dạng, bao gồm nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên, tài sản thành bao giờ cũng được phân chia thành tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Tuy nhiên, trong phạm vi của bộ môn Nguyên lý kế toán 1, em xin được làm rõ phương pháp tính giá các đối tượng bao gồm: Tài sản cố định, Nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá và thành phẩm.
I- Về nguyên tắc và trình tự tính giá:
1. Nguyên tắc tính giá:
- Nguyên tắc 1: Xác định đối tượng tính giá.
Tính giá là việc xác định giá trị thực tế của tài sản, làm căn cứ để ghi sổ tài sản. Việc xác định giá trị của tài sản phải tuân theo nguyên tắc giá phí. Giá phí của một đối tượng tính giá là toàn bộ chi phí thực tế đã chi ra liên quan đến đối tượng tính giá. Có như vậy, thông tin về giá trị của đối tượng tính giá mới đảm bảo đúng thực tế, làm cơ sở cho việc tổng hợp tài sản của đơn vị cũng như việc xác định kết quả kinh doanh được đíng đắn. Do mỗi loại tài sản có đặc điểm hình thành khác nhau nên việc xác định giá của chúng cũng khác nhau.
Đối với nguyên vật liệu, hàng hóa: Đây là các tài sản được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như mua ngoài, sản xuất, gia công chế biến,... Giá của nguyên vật liệu, hàng hóa nhập kho tính theo trị giá thực tế. Tùy theo từng nguồn hình thành mà giá của nguyên vật liệu, hàng hóa được tính bởi các chi phí cấu thành.
Đối với tài sản cố định: Tài sản cố định là loại tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, quá trình hình thành có thể diễn ra trong một thời gian ngắn hoặc qua một quá trình đầu tư khá dài. Việc xác định giá trị thực tế của tài sản cố định khi hình thành chính là xác định nguyên giá của tài sản cố định.
Đối với thành phẩm: Là loại sản phẩm được nhập kho từ quá trình sản xuất ở doanh nghiệp, giá của thành phẩm được tính theo giá thành sản xuất thực tế, bao gồm toàn bộ chi phí thực tế đã chi ra để sản xuất ra thành phẩm
- Nguyên tắc 2: Phân loại chi phí: Do tài sản trong doanh nghiệp hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, nên chi phí phát sinh có liên quan đến nhiều loại chi phí, nên cần phải được phân loại cụ thể để tránh trường hợp tập hợp chi phí không đúng, dẫn đến việc tính giá cho các đối tượng kế toán bị sai lệch. Chi phí liên quan đến việc tính giá bao gồm các loại sau:
Chi phí thu mua: Bao gồm toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc thu mua vât tư, tài sản, hàng hóa như chi phí vạn chuyển, bốc dỡ, bảo quản...
Chi phí sản xuất: Là những chi phí phát sinh liên quan đến quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện dịch vụ trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất. Bao gồm:
+ Chi phí bán hàng: Là chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ như : chi phí nhân viên bán hàng ; chi phí vật liệu, bao gói; chi phí dụng cụ bán hàng...
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm toàn bộ các khoản chi phí liên quan đến việc tổ chức, điều hành, quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh
- Nguyên tắc 3: Lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí hợp lý
Trong thực tế, có một số khoản chi phí có liên quan trực tiếp đến nhiều đối tượng tính giá nhưng không thể tách riêng được. Vì thế, cần phải lựa chọn tiêu thức phân bổ thích hợp sao cho sát với chi phí thực tế phát sinh.
Chi phí phát sinh trong quá trình tính giá đối tượng kế toán thường được chia thành hai loại là chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí trực tiếp là chi phí chỉ liên quan đến một loại tài sản cụ thể. Chẳng hạn, giá mua ghi trên hóa đơn của một loại vật liệu mua vào. Chi phí gián tiếp là chi phí liên quan đến nhiều loại tài sản cần đo lường. Chẳng hạn, chi phí vận chuyển nhiều loại hàng hóa mua về, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí nhân viên quản lý phân xưởng... liên quan đến nhiều loại sản phẩm sản xuất.
Do vậy, vấn đề phân bổ chi phí cần được quan tâm trong quá trình tính giá đối tượng kế toán. Về nguyên tắc, để giá trị tài sản của tài sản một cách chính xác và đầy đủ, kế toán tập hợp tối đa các chi phí có thể tập hợp trực tiếp được cho từng đối tượng chịu chi phí. Tuy nhiên, có nhiều chi phí rất khó tập hợp riêng rẽ trực tiếp cho từng đối tượng, khi đó cần phải áp dụng phương pháp phân bổ chi phí phù hợp nhất có thể.
Phương pháp phân bổ hợp lý là phương pháp phản ánh gần đúng nhất chi phí thực tế của tài sản cần được tính giá. Để có phương pháp phân bổ hợp lý, cần phải lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp đó là tiêu thức thể hiện mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí với các loại tài sản cần được đo lường... Do mỗi doanh nghiệp có đặc thù riêng về các chi phí chung nên chuẩn mực kế toán không quy định tiêu thức phân bổ nào được vận dụng mà tiêu thức phân bổ chi phí cho từng đối tượng tính giá phụ thuộc vào quan hệ của chi phí với đối tượng tính giá.Thông thường, các tiêu thức được lựa chọn là tiêu thức phân bổ theo hệ số, theo định mức, theo giờ máy chạy, theo tiền lương công nhân sản xuất, theo chi phí vật liệu chính, theo số lượng, trọng lượng vật tư, sản phẩm... Công thức phân bổ như sau:
Mức phân bổ cho từng đối tượng
=
Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
Tổng chi phí từng loại cần phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
Trong thực tế, có nhiều loại chi phí gián tiếp mang tính chất khác nhau. Ví dụ, chi phí sản xuất chung trong Doanh nghiệp sản xuất như chi phí nhân viên quản lý phân xưởng, chi phí khấu hao máy móc và thiết bị tham gia vào quá trình sản xuất... chi phí bán hàng bao gồm chi phí quảng cáo, tiền lương của nhân viên bán hàng, chi phí khấu hao TSCĐ phục vụ cho hoạt động bán hàng… Do vậy, đối với từng loại chi phí, kế toán cần lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp để tài sản được tính giá một cách hợp lý nhất.
2. Trình tự tính giá.
Việc tính giá của các đối tượng kế toán thông thường có hai bước được trình bày như sau:
Bước 1: Tập hợp và phân bổ chi phí:
Tập hợp các chi phí thực tế liên quan đến tài sản theo đúng nội dung chi phí, theo công dụng của các khoản chi và theo đúng yêu cầu của tính giá. Chi phí nào liên quan trực tiếp đến một đối tượng thì tập hợp trực tiếp cho đối tượng đó. Chi phí nào liên quan đến nhiều đối tượng tính giá thì phải tiến hành phân bổ theo tiêu thức hợp lý.
Sau khi đã tập hợp được chi phí, đối với các chi phí liên quan đến nhiều đối tượng tính giá phải tiến hành phân bổ theo công thức phân bổ tổng quát sau:
Chi phí cần phân bổ cho đối tượng i
=
Tổng chi chí cần phân bổ
Số tiêu thức phân bổ của đối tượng i
Tổng tiêu thức phân bổ của các tài sản
Bước 2: Tổng hợp và xác định giá trị ghi sổ:
Tổng hợp các chi phí đã tập hợp được cho đối tượng tính giá, tính toán, xác định giá thực tế của tài sản hình thành.
Giá trị ghi sổ của đối tượng tính giá
=
Chi Phí tập hợp trực tiếp
+
Chi phí phân bổ cho đối tượng đó
II. Tính giá một số đối tượng kế toán chủ yếu.
1. Tính giá tài sản cố định.
Về mặt lý luận, tài sản cố định là loại tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài. Việc xác định giá trị của tài sản cố định khi hình thành chính là xác định nguyên giá của tài sản cố định. Nguyên giá của tài sản cố định bao gồm toàn bộ chi phí doanh nghiệp chi ra để có được tài sản cố định tính đến thời điểm đưa tài sản cố định vào sử dụng.
Tài sản cố định được hình thành trong các trường hợp như mua sắm, tự xây dựng, chế tạo, được biếu tặng hoặc do góp vốn liên doanh... Trong từng trường hợp cụ thể thì việc tính giá cho tài sản cố định có sự khác nhau.
a) Trường hợp tài sản cố định hữu hình hình thành do mua sắm:
Nguyên giá tài sản cố định mua sắm bao gồm giá mua trừ (-) các khoản được chiết khấu thương mại hoặc giảm giá, các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng, như: chi phí chuẩn bị mặt bằng; chi phí vận chuyển và bốc xếp ban đầu; chi phí lắp đặt, chạy thử (trừ (-) các khoản thu hồi về sản phẩm, phế liệu do chạy thử); chi phí chuyên gia và các chi phí liên quan trực tiếp khác. Nếu các chi phí không liên quan trực tiếp đến việc mua sắm và đưa tài sản cố định vào trạng thái sẵn sàng sử dụng thì không được đưa vào nguyên giá tài sản cố định.
Có thể mô hình hoá công thức tính nguyên giá tài sản cố định hình thành từ mua sắm như sau:
Nguyên giá TSCĐ
Giá mua thực tế trên hoá đơn
=
+
-
Các khoản thuế không được hoàn lại
Chi phí trước khi sử dụng
Cần lưu ý rằng, nguyên giá của tài sản cố định được xác định tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế giá trị gia tăng (VAT). Ở nước ta, tài sản cố định lưu thông, mua bán trên thị trường thường có thuế giá trị gia tăng. Đây là loại thuế gián thu thường được hoàn lại nên khi doanh nghiệp tiếp nhận những tài sản có loại thuế này thì về nguyên tắc, khoản thuế giá trị gia tăng sẽ được loại trừ khi tính giá thực tế của của tài sản cố định mua vào. Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp mà hoạt động kinh doanh không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, hoặc đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp thì khoản thuế giá trị gia tăng phát sinh khi mua tài sản cố định sẽ không được hoàn lại. Khi đó, khoản thuế giá trị gia tăng này lại được tính vào nguyên giá của tài sản cố định mua vào. Do vậy, việc xác định nguyên giá của tài sản cố định mua vào cần quan tâm đến những quy định về thuế.
b) Tài sản cố định hình thành do doanh nghiệp tự xây dựng, chế tạo:
Nguyên giá TSCĐ tự xây dựng hoặc tự chế là giá thành thực tế của TSCĐ tự xây dựng, hoặc tự chế cộng (+) chi phí lắp đặt, chạy thử. Trường hợp doanh nghiệp dùng sản phẩm do mình sản xuất ra để chuyển thành TSCĐ thì nguyên giá là chi phí sản xuất sản phẩm đó cộng (+) các chi phí trực tiếp liên quan đến việc đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Trong các trường hợp trên, mọi khoản lãi nội bộ không được tính vào nguyên giá của các tài sản đó. Các chi phí không hợp lý, như nguyên liệu, vật liệu lãng phí, lao động hoặc các khoản chi phí khác sử dụng vượt quá mức bình thường trong quá trình tự xây dựng hoặc tự chế không được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình.
Công thức tính nguyên giá tài sản cố định hình thành từ do Doanh nghiệp tự xây dựng, chế tạo như sau:
Nguyên giá TSCĐ
Giá
thực tế công
trình
=
+
Chi phí ra
trước khi đưa TSCĐ vào
sử dụng
Trên đây là những ứng dụng cụ thể của nguyên tắc giá gốc khi đo lường tài sản. Tuy nhiên, giá gốc không phải là loại giá duy nhất được sử dụng để đo lường tài sản. Trong một số trường hợp đặc biệt, kế toán có thể sử dụng các cơ sở đo lường khác để xác định giá trị tài sản.
2- Tính giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá:
a) Tính giá nhập kho:
Nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hóa của doanh nghiệp gồm nhiều loại và sử dụng cho những mục đích khác nhau theo đó việc tính giá cũng có sự khác biệt nhưng đều phải tuân thủ nguyên tắc chung là phản ánh được toàn bộ các chi phí đã chi ra để có được tài sản đó (nguyên tắc giá phí). Việc tính giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá phải tuân thủ quy trình tính giá các đối tượng kế toán và căn cứ nguồn gốc hình thành để có cơ sở tính giá đảm bảo đúng đắn nhất.
- Đối với nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá mua ngoài: Có thể khái quát trình tự tính giá nguyên vật liệu, hàng hoá mua vào theo 3 bước sau:
Bước 1: Xác định giá nhập kho của nguyên vật liệu, hàng hoá:
Giá
nhập kho
Giá mua thực tế trên hoá đơn
=
+
-
Các khoản thuế không được hoàn lại
Giá thu mua NVL, HH
-
Các khoản giảm trừ hàng mua
Cũng giống như tài sản cố định mua ngoài, giá mua nguyên vật liệu, hàng hoá được xác định tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế giá trị gia tăng. Có nghĩa là giá mua của nguyên vật liệu, hàng hoá có thể là giá mua không có thuế hoặc bao gồm cả thuế giá trị gia tăng.
Các khoản giảm trừ hàng mua bao gồm: Giảm giá hàng mua là khoản tiền mà người bán đồng ý giảm trên giá bán cho người mua trong trường hợp khi hàng đã mua không đủ chất lượng hoặc sai qui cách, phẩm chất theo yêu cầu của người mua đã đặt ra. Chiết khấu thương mại là khoản tiền giảm trừ mà người mua được hưởng khi mua hàng với số lượng lớn hoặc là những khách hàng thường xuyên và các khoản hàng mua trả lại.
- Bước 2: Tập hợp và phân bổ chi phí liên quan đến tài sản mua vào:
Những chi phí phát sinh trong khâu thu mua như chi phí vận chuyển, bốc dỡ, chi phí lưu kho bãi, chi phí giao dịch, chi phí môi giới, hao hụt trong định mức... Các chi phí này có thể đã có thuế GTGT hoặc chưa có thuế GTGT tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế GTGT của đơn vị và tài sản mua vào có chịu thuế GTGT không, dùng vào hoạt động gì...
Trường hợp các chi phí này có liên quan đến nhiều đối tượng tính giá thì phải phân bổ cho các đối tượng có liên quan theo tiêu thức hợp lý.
- Bước 3: Tổng hợp chi phí và tính giá thực tế cho từng tài sản cần tính giá:
Giá thực tế
của NVL, CCDC, HH i
=
Giá thực tế mua
NVL, CCDC,
HH i
+
Chi phí liên quan phân bổ cho NVL, CCDC, HH i
Để thuận lợi cho công việc tính giá, kế toán thường sử dụng bảng (thẻ) tính giá tài sản để phản ánh kết quả của quá trình tính giá.
- Đối với nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá do doanh nghiệp tự chế tạo thì việc tính giá nhập kho cũng giống như việc tính nguyên giá tài sản cố định do doanh nghiệp tự xây dựng.
b) Tính giá xuất kho:
Tính giá nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá sẽ rất đơn giản khi tất cả các đơn vị hàng mua đều được mua với cùng một đơn giá ổn định từ kỳ này sang kỳ khác. Tuy nhiên, khi các loại nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá giống nhau được mua với những giá khác nhau thì phát sinh vấn đề là sử dụng trị giá vốn nào cho nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá cuối kỳ và trị giá vốn nào cho nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá xuất ra.
Về nguyên tắc, nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá được đánh giá theo giá thực tế. Việc tính giá trị nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá được áp dụng theo một trong các phương pháp: Phương pháp tính theo giá đích danh; Phương pháp bình quân gia quyền; Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO); Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO).
- Phương pháp tính theo giá thực tế đích danh: Phương pháp này được áp dụng đối với doanh nghiệp có ít loại mặt hàng hoặc mặt hàng ổn định và nhận diện được, hơn nữa các doanh nghiệp phải có điều kiện bảo quản riêng từng lô hàng nhập kho, vì vậy mà khi xuất kho lô nào thì tính theo giá đích danh của lô đó khi nhập. Phương pháp này có thể được ủng hộ vì nó hoàn toàn làm phù hợp giữa chi phí và doanh thu.
Phương pháp tính giá này thích hợp cả với các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ và kê khai thường xuyên trong kế toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá.
Theo phương pháp kiểm kê định kỳ: Theo phương pháp này, kế toán không theo dõi thường xuyên, liên tục tình hình nhập, xuất, tồn của nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá, về bản chất nó chỉ theo dõi nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá tăng (nhập kho). Vào cuối mỗi kỳ kế toán, doanh nghiệp tiến hành kiểm kê số lượng nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá rồi lấy số lượng hàng tồn đó nhân (x) với đơn giá (Với mỗi phương pháp tính giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá khác nhau thì đơn giá của chúng cũng khác nhau) Khi biết đươc giá rị của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá cuối kỳ thì ta tính được giá trị của hàng xuất bán trong kỳ:
Giá trị NVL xuất kho
=
Giá trị NVL tồn đầu kỳ
+
Giá trị NVL nhập trong kỳ
-
Giá trị NVL tồn cuối kỳ
Khi doanh nghiệp tính giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá theo phương pháp giá thực tế đích danh thì khi kiểm kê cuối kỳ kế toán sẽ biết được số lượng của từng lô hàng với đơn giá thực tế của nó. Từ đó tính được giá trị hàng tồn cuối kỳ và suy ra được giá trị của hàng xuất bán.
Phương pháp Kê khai thường xuyên: Ngược với phương pháp kê khai định kỳ, phương pháp kê khai thường xuyên cập nhật nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá sau mỗi lần nghiệp vụ mua hoặc bán xảy ra. Ngay khi các bút toán đã được vào sổ là tài khoản cho biết số lượng hiện hành của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá có trong tay.
Khi phương pháp kê khai thường xuyên được sử dụng, nhà quản lý có khả năng giám sát nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá có trong tay một cách liên tục. Điều này giúp cho nhà quản lý lập kế hoạch thu mua trong tương lai.
Với phương pháp kế toán nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá này thì giá trị hàng xuất được tính bằng tổng của số lượng xuất của từng lô nhân với đơn giá thực tế đích danh của từng lô hàng đó.
- Phương pháp bình quân gia quyền.
Theo phương pháp này giá trị của từng loại nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được tính theo giá trị trung bình của từng loại nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá tương tự đầu kỳ và giá trị từng loại nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua hoặc sản xuất trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo thời kỳ hoặc vào mỗi khi nhập một lô hàngvề, phụ thuộc vào tình hình của doanh nghiệp.
Giá trị NVL xuất kho
=
Khối lượng NVL xuất kho
Đơn giá bình quân gia quyền
Đơn giá bình quân gia quyền được tính theo hai phương pháp sau:
+ Phương pháp tính đơn giá bình quân cả kỳ:
Đơn giá bình quân gia quyền cả kỳ
=
Giá trị NVL tồn đầu kỳ + Giá trị NVL nhập trong kỳ
Số lượng NVL tồn đầu kỳ + Số lượng NVL nhập trong kỳ
+ Phương pháp tính đơn giá bình quân thời điểm:
Đơn giá bình quân gia quyền thời điểm
=
(SL tồn đầu kỳ Đơn giá tồn) + ∑ (SL đơn giá nhập đến thời điểm tính)
Số lượng tồn đầu kỳ + ∑ Số lượng nhập đến thời điểm tính)
- Phương pháp nhập trước, xuất trước FIFO:
Phương pháp này được áp dụng dựa trên giả định là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua trước hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, và nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá còn lại cuối kỳ là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua hoặc sản xuất gần thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
- Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO):
Phương pháp này được áp dụng dựa trên giả định là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước, và nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá còn lại cuối kỳ là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ còn tồn kho.
3. Tính giá thành sản phẩm hoàn thành.
Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp 3 yếu tố sản xuất cơ bản: Đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động để tạo ra các sản phẩm dịch vụ. Thực chất việc tính giá thành các sản phẩm dịch vụ là việc xác định lượng hao phí các yếu tố sản xuất để tạo ra sản phẩm dịch vụ đó theo thước đo giá trị. Để phục vụ cho việc tính giá của thành phẩm, các chi phí này cần được phân thành từng loại nhất định theo qui định hiện hành. Trên cơ sở trình tự và căn cứ để tính giá các đối tượng kế toán, có thể phân tích việc tính giá thành sản phẩm hoàn thành theo các bước sau:
- Bước 1 : Tập hợp chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ theo từng khoản mục:
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí chung.
- Chi phí trực tiếp bao gồm: chi chí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Loại chi phí này thường liên quan trực tiếp đến một loại sản phẩm sản xuất, do đó được tập hợp trực tiếp cho từng loại sản phẩm để tính giá, như chí phí nguyên liệu dùng sản xuất sản phẩm, chi phí tiền lương công nhân sản xuất.
+ Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp là những chi phí về về nguyên liệu, vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm, như sợi trong dệt vải, sắt thép trong chế tạo máy...
+ Chi phí nhân công trực tiếp: là những chi phí về lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm như tiền lương của công nhân sản xuất...
Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của quá trình sản xuất và đặc điểm của sản phẩm mà trong một số trường hợp, chi phí trực tiếp có thể liên quan đến nhiều loại sản phẩm. Trường hợp này cần phải có sự tính toán, phân bổ. Tiêu thức lựa chọn để phân bổ các chi phí trong trường hợp này thường là theo định mức, theo hệ số, theo trị giá vật liệu chính (đối với vật liệu phụ),... có thể ứng dụng công thức sau để phân bổ các chi phí trực tiếp.
Loại chi phí trực tiếp phân bổ cho SP i
=
Tổng chi phí trực tiếp thực tế cần phân bổ
Chi phí trực tiếp theo định mức của SP i
Tổng chi phí trực tiếp theo định mức của các loại SP
- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí liên quan đến hoạt động quản lý sản xuất hoặc phục vụ sản xuất ở phân xưởng (tổ, đội,...) như chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu phục vụ sản xuất, chi phí dụng cụ lao động, chi phí khấu hao TSCĐ ở phân xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác bằng tiền dùng cho sản xuất ở phân xưởng, tổ, đội sản xuất...
- Bước 2: Phân bổ những chi phí sản xuất chung cho các đối tượng có liên quan:
Do chi phí sản xuất chung liên quan đến nhiều loại thành phẩm cần tính giá nên phải căn cứ vào các tiêu thức hợp lý để phân bổ. Tiêu thức phân bổ có thể lựa chọn là: chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung dự toán, số giờ máy chạy, số lượng sản phẩm hoàn thành... Nếu dựa vào tiêu thức là tiền lương nhân công trực tiếp sản xuất thì có thể vận dụng công thức sau để phân bổ chi phí chung cho từng loại thành phẩm:
Loại chi phí chung phân bổ cho SP i
=
Tổng chi phí sản xuất
chung cần phân bổ
Tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất SP i
Tổng tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất SP
- Bước 3: Xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ: Việc xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ theo một trong lúc phương pháp:
+ Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (hoặc chi phí nguyên liệu, vật liệu hình trực tiếp).
+ Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng hoàn hành tương đương.
+ Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch.
- Bước 4: Tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm, dịch vụ hoàn thành.
Trên cơ sở tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ, xác định được giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ, dựa vào công thức dưới đây để tính tổng giá thành sản phẩm.
Tổng giá thành sản phẩm
=
∑ Giá trị SPDD
đầu kỳ
+
∑ CPSX phát sinh trong kỳ
-
∑ giá trị SPDD
cuối kỳ
Sau khi xác định được tổng giá thành sản phẩm, kế toán dựa vào công thức sau để tính giá thành đơn vị sản phẩm.
Giá thành đơn vị sản phẩm
=
Tổng giá thành sản phẩm
∑ số lượng sản phẩm hoàn thành
Trên thực tế, giá trị của thành phẩm nhập kho là giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm bao gồm 3 khoản mục chi phí: Nguyên vật liệu trựuc tiếp, Nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Kế toán giá thành sản phẩm có thể dựa vào mẫu bảng tính giá thành dưới đây để tính giá thành sản phẩm.
Đơn vị :
Bộ phận sản xuất
BẢNG (PHIẾU) TÍNH GIÁ THÀNH
Sản phẩm:...........................
Số luợng:............................. Đơn vị tính:.........
Khoản mục chi phí
CPSXDD đầu kì
CPSX phát sinh trong kì
CPSX dở dang cuối kì
Tổng giá thành sp
Giá thành đơnvị sp
1. Chi phí NVL trực tiếp
- Nguyên liệu, vật liệu chính
- Vật liệu phụ
2. Chi phí nhân công trực tiếp
- Tiền lương
- BHXH, BHYT, KPCĐ
3.CP sản xuất chung
Cộng
CHƯƠNG III
MỐI QUAN HỆ GIỮA PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ VỚI
CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁC TRONG HỆ THỐNG CÁC
PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN - KẾ TOÁN
Hạch toán - Kế toán là một khoa học độc lập, nên có đối tượng nghiên cứu độc lập, đó chính là tài sản, nguồn hình thành tài sản và quá trình vận động của nó. Để điều chỉnh đối tượng đó, Hạch toán - Kế toán cũng sử dụng một hệ thống các phương pháp để điều chỉnh. Hệ thống phương pháp hạch toán kế toán là tập hợp các phương pháp kế toán có mối quan hệ với nhau, thực hiện những chức năng riêng trong quá trình thu thập, xử lý dữ liệu nhằm thông tin và kiểm tra về qúa trình hình thành và sự vận động của tài sản trong các đơn vị.
Hệ thống các phương pháp hạch toán kế toán bao gồm: Phương pháp chứng từ; phương pháp tài khoản và ghi kép; phương pháp tính giá và phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán.
Trong hệ thống phương pháp này, mỗi phương pháp đều có tính độc lập tương đối nằm trong một chỉnh thể nên có mối quan hệ chặt chẻ với nhau, là tiền đề cho nhau trong việc ghi nhận, phản ánh, thông tin các hoạt động của một đơn vị.
Phương pháp tính giá
Phương pháp chứng từ
Phương pháp TK&GK
Phương pháp TH-CĐKT
Tính giá là một phương pháp trong hệ thống bốn phương pháp của hạch toán kế toán. Là một thành tố của một hệ thống, phương pháp tính giá vừa có tính độc lập tương đối lại vừa có quan hệ chặt chẽ và tác động tương hỗ với các phương pháp khác. Vị trí của phương pháp tính giá và mối quan hệ của nó với các phương pháp khác được biểu diễn mối quan hệ đó theo sơ đồ dưới đây :
1- Mối quan hệ với phương pháp chứng từ:
Phương pháp chứng từ là phương pháp thông tin và kiểm tra sự hình thành các nghiệp vụ kinh tế, được thể hiện dưới hình thức là hệ thống bản chứng từ và kế hoạch luân chuyển chứng từ. Với chức năng thông tin và kiểm tra về tình hình kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, kế toán cần phải theo dõi, ghi chép và phản ảnh các đối tượng kế toán ngay từ khi tài sản mới được hình thành hay bắt đầu có sự vận động.
Chính vì vậy, phương pháp chứng từ là cơ sở đầu tiên của công việc kế toán, là công việc của kế toán phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và hoàn thành vào các chứng từ theo mẫu qui định, theo thời gian và địa điểm phát sinh của các nghiệp vụ đó. Chứng từ là cơ sở để ghi sổ kế toán, với nội dung qui định trong chứng từ, phương pháp lập chứng từ là cơ sở để kế toán phản ánh kịp thời, đầy đủ và chính xác mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Do hạch toán kế toán dùng thước đo giá trị là thước đo bắt buộc, nhưng các đối tượng kế toán thì đa dạng, có thể biểu hiện dưới góc độ giá trị, nhưng cũng có thể biểu hiện dưới góc độ là những hiện vật, thời gian... Để có cơ sở phản ảnh vào chứng từ kế toán, thông tin đến các chủ thể cần quan tâm phải sử dụng phương pháp tính giá. Khi đã xác định được giá của các đối tượng kế toán chưa được thể hiện bằng một lượng giá trị nhất định thành, trên cơ sở đó ghi nhận vào chứng từ kế toán.
2. Mối quan hệ với phương pháp tài khoản và ghi kép :
Phương pháp tài khoản và ghi kép là phương pháp thông tin và kiểm tra quá trình vận động của tài sản theo từng loại dựa trên các mối quan hệ vốn có của đối tượng hạch toán kế toán. Phương pháp tài khoản và ghi kép được thể hiện dưới hình thức là hệ thống tài khoản kế toán và ghi kép vào tài khoản.
Tài khoản kế toán dùng để phản ánh và giám đốc một cách thường xuyên, liên tục và có hệ thống các đối tượng kế toán riêng biệt trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi đối tượng kế toán có nội dung kinh tế khác nhau, có sự tồn tại và vận động khác nhau, có yêu cầu quản lý khác nhau nên mỗi đối tượng kế toán được mở một tài khoản tương ứng.
Ghi sổ kép là công việc của kế toán dùng ghi một nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào ít nhất hai tài khoản theo đúng nội dung kinh tế và mối quan hệ khách quan của các tài khoản. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có nội dung kinh tế nhất định được phản ánh vào tài khoản liên quan đã giúp cho việc giám đốc chặt chẽ các hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Qua khái lược phương pháp tài sản và ghi kép, có thể thấy được để phản ánh các đối tượng kế toán thường phải sử dụng ít nhất hai tài khoản và khi ghi sổ kế toán phải phản ánh công việc đó bằng cách ghi kép. Nhưng không thể ghi kép vào tài khoản kế toán bằng các loại thước đo khác nhau, mà phải quy về một thước đo để có thể đánh giá, thông tin đúng các đối tượng kế toán của một doanh nghiệp. Thước đo được sử dụng đó chính là thước đo giá trị. Để lượng hoá các đối tượng kế toán bằng thước đo tiền tệ và sử dụng phương pháp tài khoản và ghi kép thì bắt buộc phải sử dụng phương pháp tính giá.
3. Mối quan hệ với phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán:
Tổng hợp - cân đối kế toán là một phương pháp kế toán trong quy trình kế toán ở một đơn vị nhằm cung cấp thông tin cho người sử dụng thông tin qua các báo cáo kế toán.
Báo cáo kế toán được tổng hợp từ các số liệu kế toán theo các chỉ tiêu kinh tế về tài sản và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Số liệu trên báo cáo kế toán giúp cho doanh nghiệp đánh giá và phân tích được tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, từ đó có biện pháp bảo vệ và sử dụng tài sản mang lại hiệu quả cao nhất.
Thông thường phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán được sử dụng vào thời điểm cuối kỳ kế toán. Nhưng để có số liệu lên các biểu tổng hợp và các bảng cân đối kế toán, kế toán viên phải tổng hợp từ các sổ kế toán chi tiết, sổ kế toán tổng hợp và phải tính giá các đối tượng còn tồn cuối kỳ kế toán, tính hao mòn tài sản cố định... để đảm bảo cho các thông tin cuối kỳ kế toán chính xác.
Như vậy, có thể nói rằng phương pháp tính giá là phương pháp tiền đề, phương pháp nền tảng của các phương pháp khác trong hệ thống các phương pháp hạch toán kế toán. Là phương pháp khởi đầu và cũng là phương pháp kết thúc của một quy trình kế toán.
Keát luaän
Phương pháp tính giá các đối tượng kế toán là một trong bốn phương pháp của hệ thống phương pháp hạch toán kế toán. Là một phương pháp kế toán dùng để quy đổi hình thức biểu hiện của các đối tượng kế toán từ các loại thước đo khác nhau về một thước đo chung là sử dụng thước đo tiền tệ để xác định giá trị ghi sổ của các đối tượng cần tính giá theo những nguyên tắc nhất định nên phương pháp tính giá các đối tượng kế toán là một phương pháp bắt buộc mọi kế toán viên phải sử dụng để tính giá các đối tượng kế toán làm cơ sở cho việc ghi nhận giá trị của tài sản vào chứng từ, sổ sách, báo cáo và cung cấp các thông tin liên quan cho các đối tượng có yêu cầu.
Để hiểu rõ và có thể vận dụng phương pháp tính giá các đối tượng kế toán vào thực tế, điều bắt buộc đối với các sinh viên chuyên ngành kinh tế phải nghiên cứu nắm vững các nguyên tắc, yêu cầu và các phương pháp tính giá những đối tượng cụ thể trong mối liên hệ với các phương pháp khác trong hệ thống phương pháp hạch toán kế toán.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Hương - Giảng viên môn Nguyên lý kế toán 1 đã truyền đạt, hướng dẫn để em có thể nắm bắt những nội dung cơ bản của phương pháp tính giá, tạo cơ sở nền tảng cần thiết về mặt lý luận để có thể vận dụng vào thực tế trong quá trình công tác sau./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phương pháp tính giá các đối tượng kế toán trong mối quan hệ với các phương pháp hạch toán kế toán khác.doc