Đề tài Quá trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng XHCN của Đảng ta

CNXH có thể tiếp cận từ các góc độ khác nhau. Với tính cách là một học thuyết, là một phong trào quần chúng và một chế độ xã hội hiện thực, liên quan mật thiết đến lợi ích của mỗi con người Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin được Hồ Chí Minh đưa vào Việt Nam và đã được vận dụng cụ thể, sáng tạo và linh hoạt. Đối với thực tiễn đất nước, chúng ta chỉ có thể nhận thức ngày càng đúng hơn, sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn khi biết nắm vững phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đúng như Hồ Chí Minh đã nói: thực tiễn mà không được lý luận soi sáng là một thực tiễn mù quáng. Thực tiễn cuộc sống luôn luôn mở đường vận động theo quy luật của nó. Đó là quy luật vận động khách quan của xã hội. Nhìn nhận đúng bản chất của thực tiễn có nghĩa là phải tôn trọng quy luật vận động khách quan của xã hội ta, tôn trọng những yêu cầu của quy luật khách quan đó. Vi phạm quy luật khách quan, không nhìn nhận đúng bản chất của thực tiễn sẽ chịu sự trừng phạt của chính quy luậtt khách quan của cuộc sống. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bài học lịch sử phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan và cũng chỉ rõ chúng ta có nhiều thiếu sót trong đánh giá tình hình cụ thể nên đã vi phạm quy luật khách quan, mắc nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi. Kinh nghiệm quốc tế là nguồn bổ sung quan trọng không thể thiếu trong quá trình xây dựng đường lối. Nhưng những kinh nghiệm đó chỉ có tác dụng tích cực khi chúng ta có đủ trình độ để độc lập, tự chủ và sáng tạo trong quan điểm lý luận, trong phương pháp phân tích thực tiễn. Sự hạn chế về trình độ cũng như sự tự ti đều có thể dẫn tới bệnh giáo điều, không có trình độ lý luận, không đánh giá đúng tiềm năng trí tuệ Việt Nam, không lấy lợi ích dân tộc làm cái "bất biến", chúng ta khó lòng phân biệt đúng và sai, chính và phụ, cái cơ bản và cái không cơ bản, dòng chủ lưu và cái chi tiết, cái hiện tượng và cái bản chất, cái hình thức bên ngoài và cái nội dung bên trong.

pdf97 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1078 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng XHCN của Đảng ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong chỉ đạo thực tiễn. Thực tế cho thấy, văn hóa ảnh hƣởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển nền kinh tế dựa trên trình độ ngày càng hiện đại, phức tạp của kỹ thuật. Nếu không có tri thức khoa học thì không thể tạo ra đƣợc bƣớc phát triển, chứ chƣa nói đến sự phát triển nhảy vọt của lực lƣợng sản xuất. Trong điều kiện mở rộng hợp tác chỉ có sự cần cù, nhiệt tình mà thiếu tri thức sẽ dẫn đến những thua thiệt khó tránh khỏi. Mặt khác, văn hóa còn quy định, chi phối phƣơng cách kinh doanh, phát triển sản xuất. Những phƣơng cách ngoại nhập không phù hợp truyền thống khó nói đến thành công. Nhƣ vậy, rõ ràng để có sự phát triển, nhất là sự phát triển rút ngắn đi lên CNXH, cần có môi trƣờng văn hóa mà ở đó các giá trị truyền thống tốt đẹp đƣợc phát huy, các giá trị tiến bộ mang tính nhân văn của thế giới đƣợc tiếp nhận, đó cũng là môi trƣờng văn hóa bảo đảm sự kết hợp, chứ không phải sự xung đột giữa các giá trị văn hóa phƣơng Đông với các giá trị văn hóa phƣơng Tây. Vậy có những nhân tố gì cấu thành môi trƣờng văn hóa nói trên - một môi trƣờng văn hóa cần có, nó đƣợc sản sinh trong tiến trình phát triển kinh tế (tức là mục tiêu của phát triển), gắn với tiến trình phát triển kinh tế, nó lại đóng vai trò là động lực, là hệ điều tiết cua sự phát triển. Những nhân tố chủ yếu cấu thành môi trường văn hóa đó bao gồm: Thứ nhất, đó là tri thức, là sự hiểu biết sâu, rộng của con ngƣời. Điều này đƣợc hình thành, tích lũy trong quá trình học tập, lao động sản xuất nhằm bảo tồn, phát triển sự sống. Sự hiểu biết của con ngƣời về tự nhiên, xã hội luôn là điều kiện quan trọng cho việc tổ chức, thực hiện quá trình sản xuất. Sự thất bại, sụp đổ của CNXH ở một số nƣớc vừa qua có nhân tố gắn liền với trình độ hiểu biết của con ngƣời, nhất là những ngƣời trong bộ máy lãnh đạo. Sự yếu kém này một phần thể hiện ở năng lực tổ chức kém, giáo điều chủ nghĩa sao chép nƣớc ngoài mà không tính đến điều kiện thực tế. Thứ hai, trong môi trƣờng văn hóa đó là thế ứng xử giữa con ngƣời với con ngƣời, giữa con ngƣời với xã hội, tự nhiên và với chính bản thân mình. Sự ứng xử này thể hiện ra ở đạo lý, lối sống, tâm hồn, hành vi của con ngƣời. Một môi trƣờng văn hóa cần cho sự phát triển rút ngắn lên CNXH, rõ ràng đòi hỏi thế ứng xử của con ngƣời phải luôn hƣớng tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Theo tinh thần Hội nghị Trung ƣơng năm (khóa VIN), phải thực sự chú ý, coi trọng vai trò văn hóa trong phát triển, phát triển kinh tế phải gắn với văn hóa. Nhà nƣớc cần có đầu tƣ thỏa đáng cho lĩnh 69 vực văn hóa. Cần xem đó chính là đầu tƣ cho phát triển kinh tế, cho sự tạo lập cơ sở bền vững cho phát triển trong tƣơng lai. Cũng nhƣ trong phát triển kinh tế, để phát triển văn hóa với tính cách là sự nghiệp của quần chúng, cần có chính sách huy động các nguồn vốn, tạo lập các quỹ của cá nhân, tập thể, các thành phần kinh tế Trong xây dựng phát triển không chỉ chú ý các loại hình văn hóa mới mà đòi hỏi phải đầu tƣ thích đáng cho bảo tồn di sản văn hóa truyền thống. Thông qua đổi mới nội dung và phƣơng thức giáo dục, đào tạo cán bộ, hình thành cho đƣợc thế giới quan, nhân sinh quan và năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ lãnh đạo, quản lý đáp ứng với đòi hỏi thực tế. Đây là giải pháp lớn nhất để có một bộ máy làm việc có hiệu quả, có một lực lƣợng xã hội tiên tiến gắn bó với dân. Phải có thái độ rõ ràng trong việc chống tƣ tƣởng phản tiến bộ trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài ngƣời, trái với xu thế đi lên CNXH. Đấu tranh chống lại sự xâm nhập của các loại văn hóa phẩm độc hại, những khuynh hƣớng sùng ngoại, lai căng, mất gốc. Cần tổ chức và có cơ chế phù hợp để đƣa các nhân tố văn hóa, tinh thần, nhân văn, thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ ứng xử trong gia đình, trƣờng học, đến các hoạt động sản xuất kinh doanh, giao tiếp, xã hội, chính trị Đây chính là bộ lọc văn hóa rất quan trọng trƣớc những tác động mặt trái của hội nhập, của kinh tế thị trƣờng thế giới. Chuẩn bị tốt về điều kiện văn hóa cho quá trình phát triển rút ngắn ở nƣớc ta có ý nghĩa quan trọng ngang với xây dựng kinh tế. Khi kinh tế và văn hóa phát triển đi đôi với nhau, bổ sung hoàn thiện cho nhau thì càng sớm nhìn thấy nội dung hiện thực về định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong đời sống nhân dân. Trái lại, kinh tế và văn hóa không đi đôi với nhau thì sẽ gây ra những tổn thất to lớn và không còn ý nghĩa của quá trình phát triển rút ngắn nữa. 3.2.3. Điều kiện về mặt xã hội. Cơ sở xã hội của một chế độ cao hơn CNTB phải là kết quả của sự phát triển lực lƣợng sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong thời đại ngày nay - thời đại tin học hóa, phân công lao động sẽ tạo ra cơ cấu xã hội - dân cƣ hoàn toàn khác với cơ cấu - xã hội dân cƣ trong CNTB. Đó là lực lượng xã hội gắn liền với cơ sở công nghệ mới - những người lao động tri thức hóa. Họ là những ngƣời có học vấn, có đời sống vật chất và văn hóa cao do thời gian lao động càng rút ngắn, thời gian nhàn rỗi tăng lên. Nếu trong 70 CNTB, con ngƣời chỉ là phƣơng tiện tạo ra lợi nhuận, thì trong CNXH, con ngƣời lao động trở thành chủ thể sáng tạo trong kinh tế, văn hóa, khoa học, xã hội và chính trị. Với công nghệ mới và tổ chức lao động mới, con ngƣời với tƣ cách là mỗi cá nhân sẽ có điều kiện phát triển toàn diện - điều kiện hàng đầu cho một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Các khả năng để con ngƣời Việt Nam phát triển toàn diện đã xuất hiện. Vấn đề quan trọng nhất là biến khả năng thành hiện thực. Do vậy, ở đây vai trò văn hóa, giáo dục và năng lực quản lý xã hội của Nhà nƣớc là rất quan trọng. Một lực lƣợng lao động tri thức hóa vừa là sản phẩm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời nó lại là điều kiện, động lực của quá trình phát triển kinh tế ấy. Nếu trong quá trình phát triển không chú ý đào tạo nguồn nhân lực tri thức hóa, thì khó có thể có đƣợc sự phát triển ổn định, bền vững. Do vậy, chính sách về nguồn nhân lực, chính sách xã hội cần phải được gắn chặt với chính sách phát triển kinh tế. Điều cần chú ý là kinh tế không thể phát triển nếu thiếu nguồn nhân lực. Song, nếu dân số tăng quá nhanh sẽ trở thành gánh nặng cho xã hội, triệt tiêu thành quả của tăng trƣởng. Vì vậy, muốn đẩy mạnh tốc độ phát triển lực lượng sản xuất phải có chính sách dân số hợp lý. Chính sách đó không chỉ chú ý đến ổn định quy mô dân số, đến cơ cấu dân số mà cả đến sự phân bố dân số giữa các vùng. Chúng ta bƣớc vào xây dựng CNXH từ xuất phát điểm thấp, vì vậy có nhiều vấn đề xã hội đặt ra cần phải giải quyết trong đó đáng chú ý là sự chênh lệch giữa các vùng, tình trạng đói nghèo ở nhiều vùng nông thôn độc canh, vùng sâu, vùng xa.... Giải quyết những vấn đề này chính là nhiệm vụ của quá trình xây dựng xã hội mới ở nƣớc ta. Vì vậy, cần chú ý xây dựng chính sách hợp lý nhằm xóa đói giảm nghèo, tạo điều kiện cho vùng sâu, xa phát triển. Các chính sách này cần hỗ trợ trực tiếp cuộc sống, nhƣng về lâu dài phải tạo ra những cơ hội, định hƣớng phát triển sản xuất theo kinh tế thị trƣờng, gắn các vùng này vào quá trình phân công lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hóa và hiện đại hóa của cả nƣớc. Có làm nhƣ vậy, mới huy động đƣợc tiềm năng đa dạng của các vùng, gia tăng nội lực quốc gia cho giải quyết đói nghèo, tạo lập cuộc sống văn minh, giàu có. Đặc điểm quan trọng khác của quá trình xây dựng CNXH ở nƣớc ta là chúng ta vừa xây dựng vừa phải tiến hành kháng chiến bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, các nguồn lực quốc gia nói chung, nguồn nhân lực nói riêng phải đầu tƣ rất nhiều cho chiến tranh. Khi chiến 71 tranh kết thúc, chúng ta tập trung xây dựng kinh tế, đồng thời cũng phải giải quyết hàng loạt vấn đề xã hội do hậu quả chiến tranh để lại nhƣ ô nhiễm chất độc, vấn đề thực hiện chính sách đối với ngƣời có công với cách mạng, những gia đình thƣơng binh, liệt sĩ... Quan tâm giải quyết những vấn đề này không chỉ thể hiện truyền thống đạo lý "uống nƣớc nhớ nguồn" của dân tộc mà còn là nghĩa vụ, là cần thiết để bảo đảm cuộc sống cho những ngƣời bị mất mát trong chiến tranh, tạo điều kiện cho họ đƣợc tiếp tục cống hiến, đƣợc hòa đồng cùng xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế, cơ cấu dân cƣ cũng luôn biến động. Đáng quan tâm là gắn liền với công nghiệp hóa sẽ tạo ra luồng di dân từ nông thôn vào đô thị gây nên những hậu quả sự trống rỗng khu vực nông nghiệp, tình trạng quá tải ở đô thị, và kết cục ảnh hƣởng tới tăng trƣởng. Để có sự phát triển rút ngắn, bền vững rõ ràng phải bảo đảm cơ cấu dân cư - lao động hợp lý, giảm thiểu những hiệu ứng trên. Muốn vậy, Việt Nam đề là phải chú ý phát triển vùng ven, khu vực nông thôn, thông qua công nghiệp hóa nông thôn, từ đó tạo ra sự chuyển biến cơ cấu dân cƣ lao động, nghề nghiệp, bảo đảm cho sự ly nông nhƣng bất ly hƣơng, thông qua đó giảm bớt dần sự chênh lệch giữa các vùng. Trong nền kinh tế thị trƣờng ở giai đoạn đầu của tăng trƣởng, thì tăng trƣởng sẽ kéo theo sự gia tăng của phân hóa giàu - nghèo, đây là hiện tƣợng phổ biến với nhiều quốc gia. Thực tế phát triển hơn 15 năm đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta, mặc dù đã có sự chú ý đến xóa đói giảm nghèo, chú ý điều tiết thu nhập, song vấn đề giàu - nghèo cũng đã bộc lộ khá gay gắt(1). Chúng ta cần thấy là phân hóa giàu - nghèo có hai mặt, tích cực và tiêu cực. Không nên cứ thấy cổ phần hóa là sợ sệt. Là phê phán. Sự giàu lên chính đáng của ngƣời dân chính là cơ sở cho một quốc gia hùng mạnh. Đƣơng nhiên cũng không nên để sự cách biệt quá lớn. Theo các chuyên gia kinh tế, mức chênh lệch thu nhập giữa 20% của bộ phận ngọn và đáy của hình tháp dân cƣ khoảng 4 lần là hợp lý. Nếu thấp hơn sẽ giảm động lực làm giàu, còn cao hơn thƣờng đẻ ra các vấn đề xã hội, các tệ nạn Vì vậy, đối với chúng ta một mặt cần có sự nhận thức rõ tính tất yếu của vấn đề phân hóa giàu - nghèo, chấp nhận nó, khuyến khích làm giàu chính đáng, chấp nhận sẽ có ngƣời, có bộ phận dân cƣ giàu lên trƣớc, sẽ (1) Dƣơng Phú Hiệp - Vũ Văn Hà (chủ biên). Phân hóa giàu - nghèo ở một số quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng, NXB Khoa học xã hội, HN, 1998. 72 có mức sống cao hơn hẳn mức trung bình của xã hội. Mặt khác, cũng phải chú ý xóa đói giảm nghèo trên cơ sở phối hợp sức lực, sự cố gắng của Nhà nước, địa phương, gia đình để thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc và giữa các tầng lớp dân cƣ trong xã hội. Để giải quyết các vấn đề xã hội, điều cơ bản nhất và triệt để nhất là phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm. Cùng với sự gia tăng đầu tƣ của mình, Nhà nƣớc cần có chính sách rõ ràng, cụ thể khuyến khích và tạo sự yên tâm cho đầu tƣ của mọi ngƣời dân, tạo môi trƣờng thuận lợi để thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài. Không có gia tăng đầu tƣ không thể nói đến sự tăng trƣởng mạnh mẽ của nền kinh tế. Điều cần nhấn mạnh là, muốn có sự phát triển vƣợc bậc cần tạo ra đƣợc sự đồng thuận xã hội vì mục tiêu chung. Trong xây dựng kinh tế, thì đồng thuận xã hội sẽ là cơ sở bảo đảm cho khai thác tối đa các nguồn lực. Muốn có đồng thuận xã hội thì một trong những điều kiện quan trọng là phải có cơ chế bảo đảm sự công bằng, bình đẳng. Công bằng không chỉ là nhân tố kích thích phát triển sản xuất mà còn là yếu tố bảo đảm sự ổn định xã hội. Vì vậy, có thể nói công bằng xã hội chính là điều kiện quan trọng bảo đảm cơ sở bền vững cho phát triển. CNXH ra đời trên cơ sở kế thừa thành tựu của CNTB với việc xóa bỏ sự thống trị của sở hữu tƣ nhân TBCN đã đƣa lại khả năng thực hiện sự công bằng. Nhƣng công bằng chỉ có ý nghĩa trên cơ sở kinh tế phát triển, nếu không, công bằng sẽ rơi vào tình trạng cào bằng, bình quân, đƣa đến sự nghèo khổ, làm triệt tiêu động lực xã hội của tăng trƣởng. Điều cần chú ý là công bằng không chỉ trong sự phân phối lợi ích dựa trên sự đóng góp lao động và các yếu tố khác của quá trình sản xuất, mà còn trong việc tạo lập các cơ hội ngang nhau trong đời sống kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế đa thành phần, với các chủ thể sở hữu khác nhau đang vận động đi lên theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, rất cần có sự công bằng, bình đẳng để khuyến khích họ phát triển sản xuất. Chính điều này tạo ra sự cạnh tranh - hợp tác lành mạnh giữa các thành phần, giữa các giai tầng tham gia kinh doanh trong nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Đối với các thành viên trong xã hội thì việc đảm bảo lợi ích công bằng trong phân phối cũng nhƣ trong tạo lập những cơ hội đi lên là rất cần thiết. Nó không chỉ là việc thể hiện bản chất tốt đẹp của xã hội ta mà còn là yếu tố tạo ra sự đồng thuận xã hội. Việc chú ý đến lợi ích, 73 cả vật chất lẫn tinh thần, cả việc cung cấp cơ hội đƣa lại lợi ích luôn là động lực của phát triển xã hội. Vấn đề đặt ra hiện nay là phát triển kinh tế phải gắn liền với công bằng xã hội. Chúng ta đang trong quá trình đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng đa hình thức sở hữu theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trên thực tế chƣa thể có công bằng hoàn toàn do chƣa thể hiện đƣợc sự công bằng về phƣơng diện kinh tế. Nhƣng chúng ta có thể và cần phải giảm bớt bất công trong kinh tế, và đồng thời chúng ta có thể thực hiện sự công bằng trong một số lĩnh vực nhƣ giáo dục, y tế... Chủ trƣơng phát triển kinh tế phải gắn liền với việc giải quyết từng bƣớc các vấn đề xã hội là hoàn toàn hợp lý và cần thiết. Thực tiễn của hơn 15 năm đổi mới vừa qua cho ta những kinh nghiệm bƣớc đầu trong việc kết hợp giữa tăng trƣởng với giải quyết vần đề xã hội nói chung, công bằng nói riêng. Nếu không kết hợp giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm sự công bằng thì sự tăng trƣởng sẽ mất đi ý nghĩa của nó vì con ngƣời - mục tiêu của CNXH. Đƣơng nhiên, việc giải quyết các vấn đề xã hội không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nƣớc, không chỉ dựa vào sức lực của Nhà nƣớc, mà đó là nhiệm vụ chung của mỗi ngƣời, mỗi doanh nghiệp, của toàn xã hội, trong đó Nhà nƣớc là nòng cốt. Cần chú ý huy động cả nội lực lẫn ngoại lực để tạo lập cơ hội, điều kiện giải quyết vấn đề xã hội. 3.2.4. Điều kiện về mặt chính trị. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, tuy nhiên chính trị có tính độc lập tƣơng đối của nó, nó luôn tác động, ảnh hƣởng trở lại sự phát tirển kinh tế và trong nhiều hoàn cảnh nó có tầm quan trọng quyết định. Vì vậy, một nền chính trị ổn định, theo một khuynh hƣớng nhất quán luôn là môi trƣờng cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Để có thể phát triển rút ngắn đi lên CNXH, rõ ràng cần có một nền chính trị hƣớng tới sự phát triển toàn diện của các cá nhân. Một nền chính trị nhƣ vậy đòi hỏi ở đó một hệ thống chính trị có chất lƣợng và trình độ dân trí ngày càng cao. Nói cách khác, vai trò chính trị trong quá trình phát triển rút ngắn thể hiện ra ở hai nhân tố dân trí và chất lƣợng hệ thống chính trị. hai nhân tố này có quan hệ gắn bó với nhau, thậm chí có quan hệ nhân quả. Một xã hội dân trí thấp không thể có hệ thống chính trị chất lƣợng cao. Trong xã hội nông nghiệp lạc hậu và xã hội thi hành chính sách bao cấp, chủ nghĩa bình quân trong phân phối thì dân trí dù có học hành nhiều, dân trí cũng thấp vì họ không ý thức rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm công dân, kém ý thức chính trị trong các vấn đề cộng đồng, quốc gia. 74 Dân trí thấp sẽ sinh ra một hệ thống chính trị yếu kém, quan liêu và tham nhũng. Hệ thống đó tồn tại vì bản thân nó chứ không phải vì nhân dân; nó duy trì có ý thức ảnh hƣởng của chế độ đẳng cấp, thần dân của xã hội phong kiến. Chính vì vậy, nó không còn khả năng tiếp nhận thông tin từ dƣới lên, không có khả năng tự đổi mới. Một hệ thống chính trị yếu kém, thoái hóa thƣờng duy trì tình trạng dân trí thấp. Ngƣợc lại, trong xã hội có trình độ dân trí cao, ngƣời dân có khả năng nắm bắt và xử lý thông tin liên quan đến cuộc sống của mình, họ sẽ tự ý thức đƣợc trách nhiệm và quyền lợi. Vì vậy, dân trí cao sẽ là cơ sở cho một xã hội dân chủ. Đồng thời trong một xã hội dân chủ, con ngƣời có điều kiện để học tập, cống hiến, giao lƣu, qua đó trình độ dân trí ngày càng đƣợc nâng cao. Muốn phát triển phải có hệ thống chính trị có chất lƣợng cao. Việt Nam thực hiện sự rút ngắn, mà đó là sự rút ngắn chƣa từng có tiền lệ trong lịch sử, vì vậy yêu cầu đặt ra càng cao về chất lƣợng của hệ thống chính trị. Một hệ thống chính trị chất lƣợng sẽ định hƣớng và thúc đẩy sự phát triển đi lên của xã hội Việt Nam. Trong thời gian qua, Việt Nam đã có bƣớc tiến to lớn trong đổi mới hệ thống chính trị, và chính điều đó đã có tác động tích cực tới đời sống kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng "năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý điều hành của Nhà nƣớc, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị, xã hội chƣa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình”(1). Nhƣ vậy, vấn đề đặt ra là để có điều kiện cho phát triển phải nâng cao chất lƣợng của hệ thống chính trị. Trong hệ thống chính trị Việt Nam, nhân tố có vị trí hàng đầu là Đảng. Đảng muốn hoàn thành đƣợc vai trò lãnh đạo của mình thông qua việc xác định mục tiêu chính trị, định hƣớng sự phát triển xã hội bằng cƣơng lĩnh, đƣờng lối chiến lƣợc, bằng những nguyên tắc, chủ trƣơng lớn trong đối nội, đối ngoại và thông qua công tác tổ chức cán bộ trƣớc hết đòi hỏi Đảng có năng lực tư duy lý luận cao, nếu thiếu điều này, Đảng sẽ trở nên bảo thủ, trì trệ, không dám làm, hoặc sẽ vấp phải những sai lầm gây tổn hại cho Đảng, cho dân tộc. Bên cạnh vai trò của Đảng trong tiến trình phát triển đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cũng là yếu tố quan trọng. Để rút ngắn con đƣờng đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, Nhà nƣớc phải đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một nhà (1) Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIN, NXB Chính trị quốc gia, HN, 1996, tr.66. 75 nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật nhằm đem lại và bảo vệ quyền lợi cho ngƣời dân, đó phải là nhà nƣớc hoạt động có hiệu quả. Do xuất phát điểm đi lên của chúng ta còn thấp, lại bị nhiều cuộc chiến tranh tàn phá, hệ thống pháp luật của ta chƣa hoàn chỉnh, vì vậy trong hoạt động của Nhà nƣớc còn nhiều hạn chế, thiếu tính hiệu quả, nhất là trong bƣớc chuyển sang kinh tế thị trƣờng hiện nay. Những hạn chế đó là vai trò của Nhà nƣớc, ngƣời đại biểu quyền lực nhân dân chƣa đƣợc đặt đúng mức; quyền lực Nhà nƣớc chƣa đảm bảo tính tập trung thống nhất; Nhà nƣớc chƣa giữ đúng vai trò, vị trí chức năng của mình, chƣa sử dụng đầy đủ và có hiệu lực các công cụ riêng của quản lý nhà nƣớc là pháp luật và quản lý nhà nƣớc chủ yếu bằng pháp luật. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nƣớc chƣa hợp lý; chƣa có sự phân công rõ ràng, hợp lý giữa quyển lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Tình trạng tham nhũng đang trở thành quốc nạn. Hệ thống Đảng và Nhà nƣớc chồng chéo... Những điều đó nếu không giải quyết khó có thể nói đến một sự phát triển, chứ chƣa nói là phát triển rút ngắn. Trong những vấn đề cần giải quyết thì trước hết và quan trọng nhất phải xây dựng được một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tức là phải tạo lập một nhà nước tiến hành quản lý xã hội bằng luật pháp và bản thân sự vận động của Nhà nước cũng phải tuân thủ pháp luật, nằm trong khuôn khổ luật pháp. Và các luật này chính là sự thể chế hòa quyền hạn và lợi ích của người dân. Nói cách khác, nhà nước pháp quyền mà ta cần có là nhà nước thực sự của dân, do dân vì dân. Một thành tố trong hệ thống chính trị không kém phần quan trọng trong việc huy động các nguồn lực cho phát triển là Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội khác của nhân dân. Có thể nói, các tổ chức này chính là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là nơi phối hợp thống nhất hành động của các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng phát triển đất nƣớc. Đáng tiếc là trong những năm qua phƣơng thức tổ chức cũng nhƣ phong cách hoạt động của một số tổ chức chính trị - xã hội vẫn nặng tính quan liêu, hình thức, chƣa thực sự tập hợp đƣợc sức lực tiềm tàng trong dân cƣ đóng góp cho sự phát triển của đất nƣớc. Để có sự phát triển rút ngắn bền vững huy động đƣợc sự tham gia của quần chúng nhân dân, bởi lẽ cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Chính vì vậy cần đánh giá đúng vai trò của các tổ chức đoàn thể chính trị. Việc soạn thảo chủ trƣơng lớn cần bàn bạc, tham khảo 76 ý kiến của các tổ chức này và đƣơng nhiên nó phải bảo đảm lợi ích của các tầng lớp để giữ ổn định xã hội, tăng cƣờng đoàn kết dân tộc. 77 KẾT LUẬN Việc hình thành những quan niệm về CNXH và con đƣờng tiến lên CNXH là việc rất khó khăn, phải trải qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu lâu dài. Điều này không chỉ vì chế độ xã hội chủ nghĩa ra đời là một bƣớc nhảy vọt trong lịch sử, mà còn vì sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa có nhiều điểm khác với các chế độ cũ. Chế độ nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tƣ bản tuy khác nhau nhƣng đều là chế độ chiếm hữu tƣ nhân. Ngay trong lòng chế độ phong kiến đã xuất hiện các cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tƣ bản. Tuy thế, từ khi ra đời cho đến nay, những nhà trí thức của giai cấp tƣ sản vẫn không ngừng nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tƣ bản, nghiên cứu những thành công và thất bại, những khó khăn của chủ nghĩa tƣ bản để tìm cách hoàn chỉnh lý luận của họ và điều chỉnh sự vận hành của chế độ tƣ bản. Trong công cuộc nghiên cứu này tuy có những thành công nhƣng cũng có thất bại. Chế độ xã hội chủ nghĩa ra đời, tuy đã có học thuyết về CNXH khoa học làm kim chỉ nam cho công cuộc xây dựng CNXH, định hƣớng cho hành động là điều rất quan trọng, nhƣng học thuyết về CNXH cũng mới nêu lên một số nguyên tắc, một số định hƣớng. Việc xác định con đƣờng xây dựng CNXH là việc làm rất mới, phải trải qua thực tiễn tìm tòi kiểm nghiệm. Không trải qua thực tiễn thì không thể đánh giá đƣợc những dự định ban đầu đã đề ra là đúng hay sai. Không có thực tiễn thì cũng không có điều kiện để tƣ duy trừu tƣợng rút ra đƣợc những quan niệm về CNXH một cách cụ thể. Nguồn gốc để hình thành quan niệm về CNXH và con đƣờng đi lên CNXH của Đảng ta là từ chủ nghĩa Mác-Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn Việt Nam, và kinh nghiệm quốc tế. Tuy nhiên, đối với ba nguồn gốc này, đều có thể có các cách nhận thức nông sâu và các cách lý giải khác nhau. CNXH có thể tiếp cận từ các góc độ khác nhau. Với tính cách là một học thuyết, là một phong trào quần chúng và một chế độ xã hội hiện thực, liên quan mật thiết đến lợi ích của mỗi con ngƣời Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin đƣợc Hồ Chí Minh đƣa vào Việt Nam và đã đƣợc vận dụng cụ thể, sáng tạo và linh hoạt. Đối với thực tiễn đất nƣớc, chúng ta chỉ có thể nhận thức ngày càng đúng hơn, sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn khi biết nắm vững phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đúng nhƣ Hồ Chí Minh đã nói: thực tiễn mà không đƣợc lý luận soi sáng là một thực tiễn mù quáng. Thực tiễn cuộc sống luôn luôn mở đƣờng vận động theo quy luật của nó. Đó là quy luật vận động khách quan của xã hội. Nhìn nhận đúng bản chất của thực tiễn có nghĩa là phải tôn trọng quy luật vận động khách quan của xã hội ta, tôn trọng những yêu cầu của quy luật khách quan đó. Vi phạm quy luật 78 khách quan, không nhìn nhận đúng bản chất của thực tiễn sẽ chịu sự trừng phạt của chính quy luật khách quan của cuộc sống. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bài học lịch sử phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan và cũng chỉ rõ chúng ta có nhiều thiếu sót trong đánh giá tình hình cụ thể nên đã vi phạm quy luật khách quan, mắc nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bƣớc đi. Kinh nghiệm quốc tế là nguồn bổ sung quan trọng không thể thiếu trong quá trình xây dựng đƣờng lối. Nhƣng những kinh nghiệm đó chỉ có tác dụng tích cực khi chúng ta có đủ trình độ để độc lập, tự chủ và sáng tạo trong quan điểm lý luận, trong phƣơng pháp phân tích thực tiễn. Sự hạn chế về trình độ cũng nhƣ sự tự ti đều có thể dẫn tới bệnh giáo điều, không có trình độ lý luận, không đánh giá đúng tiềm năng trí tuệ Việt Nam, không lấy lợi ích dân tộc làm cái "bất biến", chúng ta khó lòng phân biệt đúng và sai, chính và phụ, cái cơ bản và cái không cơ bản, dòng chủ lƣu và cái chi tiết, cái hiện tƣợng và cái bản chất, cái hình thức bên ngoài và cái nội dung bên trong. 3. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về CNXH và con đƣờng đi lên CNXH có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc hình thành những quan điểm lý luận của Đảng ta. Trong quá khứ cũng nhƣ trong hiện tại, những quan điểm đó luôn luôn giữ nguyên giá trị. Công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay tiếp tục quán triệt những tƣ tƣởng lớn đó của Hồ Chí Minh với thái độ vừa kế thừa, vừa phát triển. Cƣơng lĩnh của Đảng khẳng định vai trò của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, tức là đã khẳng định giá trị tƣ tƣởng lớn của dân tộc. Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đã kết hợp hài hòa độc lập dân tộc và CNXH, dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, lịch sử và hiện đại, phƣơng Đông và phƣơng Tây. Và nó chính là cái cần thiết cho công cuộc đổi mới ngày nay, nó phải trở thành cái dẫn đƣờng cho quá trình đổi mới, bảo đảm cho công cuộc đổi mới đi đến thành công, làm cho đất nƣớc có thể cất cánh, tiến nhanh theo hƣớng đi đến mục tiêu đã xác định. DANH MỤC SÁCH THAM KHẢO 1. V.I.Lênin: Toàn tập, tập 37, 42, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1977. 2. C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN 2001. 3. Hồ Chí Minh: Về Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993. 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. 5. Lê Duẫn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, NXB Sự thật, HN 1975. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Báo cáo Chỉnh trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Sự thật, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoa VII (lƣu hành nội bộ). 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VUI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 18. Ban Dân vận TW: Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất, NQ của Bộ Chính trị. NXB Chính trị quốc gia, HN, 1993. 19. Dƣơng Phú Hiệp - Vũ văn Hà (chủ biên). Phân hóa giàu - nghèo ở một số quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình dương, NXB Khoa học xã hội, HN, 1998. 20. Đào Duy Tùng: Quá trình hình thành con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, HN, 1994. 21. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sĩ Quí: Những quan điểm cơ bản của C.Mác - Ph. Ăngghen - V.I.Lênin về CNXH và thời kỳ quá độ, NXB Chính trị quốc gia, HN, 1997. 22. Nguyễn Duy Quý (chủ biên): Những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, HN, 1998. 23. Nguyễn Đức Bách, Lê Văn Yên, Nhị Lê: Một số vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Lao động, HN, 2001. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH MÃ SỐ: CNCS 2002 . 23 . 24. TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG XHCN CỦA ĐẢNG TA Chủ nhiệm đề tài: TS Lương Văn Tám Năm 2003 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta là vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu, liên quan trực tiếp đến đƣờng lối cách mạng của Đảng, phƣơng hƣớng phát triển của đất nuớc. Tuy nhiên, vấn đề này rất rộng lớn và phức tạp với nhiều cách tiếp cận khác nhau và hiện nay còn không ít những vấn đề thuộc về lý luận cần đƣợc làm sáng tỏ. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã chỉ rõ: với trí tuệ đóng góp của toàn Đảng, toàn dân, quan niệm về CNXH và con đƣờng đi lên CNXH ờ nƣớc ta đã có thể hình thành trên những đƣờng nét chủ yếu. Vấn dề đƣợc đặt ra là, quan niệm về CNXH và con đƣờng đi lên CNXH ở nƣớc ta trên những nét chủ yếu dƣợc xác định nhƣ thế nào trong quá trình cách mạng nƣớc ta? Và từ Đại hội VII đến nay, Nghị quyết của Đại hội đã đƣợc cụ thể hóa và phát triển ở những điểm nào? Đây là vấn đề lớn đòi hỏi sự nghiên cứu một cách khoa học. * Vì lý do trên, tác giả xin đi vào nghiên cứu đề tài "Quá trình hình thành và phát triển đƣờng lối cách mạng XHCN của Đảng ta", nhằm góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về CNXH và con đƣờng đi lên CNXH ở nƣớc ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu về CNXH ở Việt Nam của các tác giả nhƣ: - Đào Duy Tùng: Quá trình hình thành con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994. - Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sĩ Quí: Những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin về CNXH và thời kỳ quá độ, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. - Nguyễn Đức Bách, Lê Văn Yên, Nhị Lê: Một số vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội, 2001. Trên cơ sở nghiên cứu, kế thừa những thành quả khoa học trên của các nhà nghiên cứu, và trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX vừa qua, tác giả công trình đã đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình hình thành và phát triển lý luận đƣờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta nhằm phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc trong giai đoạn hiện nay, mà trƣớc mắt là làm giáo trình giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị. 3. Mục tiêu đề tài. Làm sáng tỏ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về CNXH , từ đó khẳng định tính chất cách mạng, khoa học của những quan điểm trên và hiện nay vẫn dùng, vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn đóng vai trò nền tảng, hƣớng dẫn con đƣờng xây dựng CNXH ở nƣớc ta hiện nay. 2 Hệ thống và lý giải một cách khoa học quá trình hình thành, phát triển đƣờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta từ Cƣơng lĩnh chính trị đầu tiên cho đến nay. Đặc biệt đề tài tập trung giải quyết vấn đề về con đƣờng quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Một số vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu một cách đầy đủ cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. 4. Phương pháp nghiên cứu. Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm hệ thống, quan điểm thực tiễn và quan điểm biện chứng trong nghiên cứu, tác giả đã phân tích những quan điểm cơ bản về CNXH của các nhà kinh điển Mác-Lênin - tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, phân tích thực tiễn cách mạng Việt Nam, và kinh nghiệm quốc tế để từ đó làm sáng tỏ việc hình thành và phát triển đƣờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều phƣơng pháp khác nhƣ phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp lôgic, phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản, phân tích tƣ liệu... để thực hiện công trình nghiên cứu. 5. Ý nghĩa của công trình. Bằng những luận cứ khoa học xác đáng, tác giả khẳng định lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là nền tảng cho lý luận đúng đắn của đƣờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta. Và chỉ có thể tập trung phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin - tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, chúng ta mới có thể xác định dƣợc một mô hình xã hội chủ nghĩa và con đƣờng đi lên CNXH phù hợp với điều kiện, đặc điểm của đất nƣớc ta. Công trình hoàn thành có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu giảng dạy nhằm giáo dục nhận thức chủ nghĩa Mác-Lênin - Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đƣờng lối chủ trƣơng của Đảng cho sinh viên; qua đó giúp họ tin tƣởng vào sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của đảng ta. 3 CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA C. MÁC, PH. AWNGHEN, V.I. LEENIN VÀ HỒ CHÍ MINH VỀ CNXH 1.1. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin. 1.1.1. Về sự phát triển của lực lƣợng sản xuất trong CNXH. Mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tƣơng ứng, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của nó. Đó là lực lƣợng sản xuất bao gồm tƣ liệu sản xuất và sức lao động của con ngƣời. Trong CNXH cơ sở vật chất - kỹ thuật đó chính là nền đại công nghiệp cơ khí phát triển hiện đại với khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. 1.1.2. CNXH xoá bỏ chế độ tƣ hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất. Không phải xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ sở hữu TBCN, vi nó là nguồn gốc của mọi sự áp bức bóc lột và bất bình đẳng trong xã hội nhƣ Thomas More (thế kỷ XVI) từng tuyên bố. Còn việc thiết lập chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất sẽ mang lại cho xã hội một loạt hệ quả mà trƣớc hết là tạo ra cho nó khả năng điều tiết một cách có kế hoạch nền sản xuất xã hội và tạo điều kiện xóa bỏ sản xuất hàng hoá, xóa bỏ ách áp bức bóc lột và bất công trong xã hội. 1.1.3. CNXH tạo ra cách tổ chức lao dộng và kỷ luật lao động mới. Chỉ có tổ chức lao động chặt chẽ và kỷ luật lao động nghiêm ngặt mới có thể xây dựng CNXH. Tổ chức lao động xã hội phải cao hơn CNTB, kỷ luật lao động của CNXH là kỷ luật tự giác. 1.1.4. CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao dộng. Trong CNXH, mỗi ngƣời sản xuất sẽ đƣợc nhận trở lại từ xã hội một số lƣợng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lƣợng lao động mà họ bỏ ra. Nhƣng điều đó không có nghĩa là mỗi ngƣời làm đƣợc bao nhiêu hƣởng bấy nhiêu. Tổng sản phẩm do lao động xã hội tạo ra ngoài việc phân phối cho tiêu dùng cá nhân của ngƣời lao động còn phải tích lũy tái sản xuất mở rộng và cả tiêu dùng công cộng của xã hội. Và tất cả những ngƣời lao động vẫn đƣợc hƣởng những phần tiêu dùng cho xã hội. 1.1.5. CNXH giải phóng con ngƣời khỏi ách áp bức bóc lột, tạo điều kiện cho con ngƣời phát triển toàn diện. Đây đƣợc coi là mục tiêu cao nhất của CNXH, việc xóa bỏ chế độ tƣ hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu tƣ liệu sản xuất là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện mục tiêu trên. Việc xóa bỏ tình trạng ngƣời bóc lột ngƣời sẽ còn dẫn đến xóa bỏ tình trạng dân tộc này thống trị, bóc lột dân tộc khác; con ngƣời phát triển toàn diện trong CNXH sẽ tiếp tục tác động trở lại xã hội và càng làm cho xã hội phát triển cao hơn. 4 1.1.6. CNXH thực hiện sự bình đẳng xã hội. Bình đẳng xã hội vừa là mục tiêu vừa là bản chất của CNXH. Tuy nhiên, trong CNXH bình đẳng không có nghĩa là ngang bằng nhau về mọi phƣơng diện, vì con ngƣời trong CNXH không có điều kiện nhƣ nhau do đó sự đóng góp của mỗi ngƣời cho xã hội sẽ khác nhau và nhu cầu cũng khác nhau. Cho nên sự bình đẳng nêu ra ở đây là bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội của con ngƣời. 1.1.7. CNXH là sự nghiệp của quần chúng. Các nhà kinh điển đã luận chứng một cách khoa học luận điểm: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Cách mạng xã hội chủ nghĩa không những là một cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc nhất, mà còn là một cuộc cách mạng thật sự mang tính quần chúng, vì nó thu hút sự tham gia của tuyệt đại đa số dân cƣ trong xã hội, trong đó có giai cấp công nhân ở vị trí tiên phong lãnh đạo. 1.1.8. Nhà nuớc xã hội chủ nghĩa là nhà nƣớc kiểu mới, nhà nƣớc của nhân dân lao động, nhà nƣớc mang bản chất giai cấp - giai cấp công nhân. Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa khác về nguyên tắc, bản chất so với tất cả những nhà nƣớc đã có trong lịch sử, nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa hƣớng tới việc xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn. Nhà nƣớc này là nhà nƣớc của nhân dân lao động chứ không phải là nhà nƣớc của một thiểu số bóc lột và đặc biệt do giai cấp công nhân lãnh đạo. 1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh. 1.2.1. Quan niệm về CNXH. * do nhân dân lao dộng làm chủ. * là một xã hội dân giàu, nƣớc mạnh. * có kỷ cƣơng, đạo đúc, có lối sống lành mạnh. * các dân tộc trong nƣớc bình đẳng. * có quan hệ hữu nghị, bình đẳng với các quốc gia dân tộc trên thế giới. 1.2.2. Về con đƣờng đi lên CNXH. * sự nghiệp xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân. * nêu lên những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. * bản chất và tính chất của thời kỳ quá độ. * những nội dung cơ bản của công cuộc xây dựng CNXH. 5 CHƢƠNG 2: QUAN NIỆM VỀ CNXH VA CON ĐƢỜNG ĐI LÊN CNXH CỦA ĐẢNG TA 2.1 Sự ra đời của Đảng CSVN và Cƣơng lĩnh chính trị thứ nhất của Đảng. Sự ra đời của Đảng CSVN đánh dấu sự chuyển biến về chất của cách mạng Việt Nam, khẳng định mục tiêu, lý tƣởng của con đƣờng phát triển của Việt Nam là đi lên CNXH và CNCS. Mục tiêu lý tƣởng của cách mạng Việt Nam đƣợc khẳng định ngay trong Cƣơng lĩnh đầu tiên của Đảng: làm cách mạng tƣ sản dân quyền sau đó tiến lên xã hội cộng sản. Sau này trong Luận cƣơng chính trị tháng 10, Đảng ta bổ sung và hoàn chỉnh thêm về đƣờng lối cách mạng Việt Nam: sau khi làm cách mạng tƣ sản dân quyền thì tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. 2.2. Giai đoạn 1945 - 1954. Đại hội II của Đảng Lao động Việt Nam đã nêu lên nhiều quan điểm cơ bản về con đƣờng đi lên CNXH. * hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. * xóa bỏ những tàn tích phong kiến, thực hiện ngƣời cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân. * xây dựng cơ sở cho CNXH, tiến lên xây dựng CNXH. 2.3. Giai đoạn từ sau 1954 đến nay. 2.3.1. Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960). Với những quan điểm sau: * cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. * là một quá trình bao gồm 2 mặt: cải tạo và xây dựng CNXH. 2.3.2. Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976). * Đề ra đƣờng lối chung. * Đƣờng lối kinh tế. 2.3.3. Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng (1982). Với những quan điểm sau: * Vạch rõ những nguyên nhân của những khó khăn vừa qua trong quá trình thực hiện NQ ĐH IV. * Nêu ra chặng đƣờng đầu tiên cùa thời kỳ quá độ, xác định mục tiêu và nội dung cụ thể của chặng đƣờng đó. * Điều chỉnh việc xây dựng cơ cấu kinh tế theo hƣớng tập trung sức phát triển nông nghiệp. * Xác định trong một thời gian nhất định ở miền Nam còn tồn tại 5 thành phần kinh tế. 6 2.3.4. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986). Nêu lên đƣờng lối đổi mới toàn diện, nhƣng chủ yếu là đổi mới kinh tế với những nội dung sau: * Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tƣ. * Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. * Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. 2.3.5. Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991). Thông qua Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH, với những quan điểm nhƣ sau: * Đặc trƣng của CNXH: - Là xã hội do nhân dân lao động làm chủ. - Có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lƣợng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tƣ liệu sản chủ yếu. - Có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. - Con ngƣời đƣợc giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hƣởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. - Các dân tộc trong nƣớc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nƣớc trên thế giới. * Về con đƣờng đi lên CNXH ở nƣớc ta. - Xây dựng nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa, nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh công nông trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. - Phát triển lực lƣợng sản xuất, công nghiệp hóa đất nƣớc theo hƣớng hiện đại hóa gắn liền với sự phát triển nền nông nghiệp toàn diện - Phù hợp với sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, thiết lập từng bƣớc quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự da dạng vì hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc. - Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tƣ tƣởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh giữ vị trị chủ đạo trong đời sống tinh thần của CNXH. - Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lƣợng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nƣớc mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị 7 với tất cả các nƣớc, trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân ... - Xây dựng CNXH gắn liền với bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. - Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh vẽ chinh trị, tƣ tƣởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta. 2.3.6. Đại hội toàn quốc lần thú VIII của Đảng (1996). Tiếp tục hoàn chỉnh con đƣờng đi lên CNXH với những quan điểm sau: - Quan điểm về CNH, HĐH. - Quan điểm về một cơ cấu kinh tế mới, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hƣớng xã hội chủ nghĩa. - Quan điểm chăm lo phát triển nguồn lực con ngƣời, thực hiện công bằng xã hội. - Quan điểm về tăng trƣởng kinh tế gắn liền với phát triển xã hội. - Quan điểm về tăng cƣờng khối đại đoàn kết dân tộc. - Quan điểm về xây dựng và củng cố toàn diện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. 2.3.7. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001). * Về mục tiêu của cách mạng: - Mục tiêu chiến luợc: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. - Mục tiêu trong giai đoạn hiện nay: xây dựng nƣớc Việt Nam dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. * Về thời kỳ quá độ lên CNXH: - Tập trung sức phát triển lực lƣợng sản xuất, phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. - Quá độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thƣợng tầng TBCN, nhƣng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt đƣợc dƣới chế độ TBCN... * Về mô hình kinh tế tổng quát: kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. * Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế. 8 CHƢƠNG 3: CON ĐƢỜNG ĐI LÊN CNXH BỎ QUA CHẾ ĐỘ TBCN Ở NƢỚC TA 3.1. Sự lựa chọn con đường tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam. - Thực tế phát triển của xã hội loài ngƣời là sự chuyển tiếp của các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao theo quá trình lịch sử - tự nhiên. Tuy vậy, lịch sử phát triển của mỗi quốc gia không nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế xã hội mà thực tế có thể bỏ qua, rút ngắn sự phát triển của một hình thái kinh tế xã hội nào đó. - Sự ra đời của Đảng CSVN với Cƣơng lĩnh xác định chủ trƣơng làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để đi lên CNXH. - Sự sáng tạo trong lựa chọn con đƣờng tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN trong bối cảnh đất nƣớc chia làm hai miền. - Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc, cả nƣớc đi lên CNXH bỏ qua chế dộ TBCN. - Kiên trì con đƣờng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn trong điều kiện mới. 3.2. Những điều kiện chủ yếu của sự phát triển rút ngắn đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam. 3.2.1. Điều kiện kinh tế. Phải thực hiện thị trƣờng hóa và công nghiệp hóa. Đây là 2 quá trình, 2 bộ phận cấu thành cơ bản điều kiện kinh tế bảo đảm cho sự phát triển rút ngắn, hơn nữa hiện nay khi quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, để thực hiện tốt thị trƣờng hóa và công nghiệp hóa, chúng ta không thể không tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, nói cách khác là phải hội nhập quốc tế và khu vực. 3.2.2. Điều kiện văn hóa. Văn hóa hiện nay đƣợc xác định vừa là mục tiêu vừa là động lực, là điều kiện quan trọng của sự phát triển kinh tế xã hội. Văn hóa với tƣ cách là động lực của sự phát triển thì đó chính là trình độ trí thức của con ngƣời, là sự kết tinh sáng tạo của con ngƣời thể hiện ở những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. 3.2.3. Điều kiện về mặt xã hội. Chính sách về nguồn nhân lực, chính sách xã hội, gắn chặt với chính sách phát triển kinh tế. - Chính sách dân số hợp lý. - Chính sách xóa đói giảm nghèo. - Đảm bảo cơ cấu dân cƣ - lao động hợp lý. - Khuyến khích làm giàu chính đáng, đồng thời chú ý xóa đói giảm nghèo tiến tới thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về 9 mức sống giữa các vùng, các dân tộc và các tầng lớp dân cƣ trong xã hội. - Chính sách công bằng xã hội. 3.2.4 Điều kiện vì mặt chính trị. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, tuy nhiên chính trị có tính độc lập tƣơng đối của nó, nó luôn tác động ảnh hƣởng trở lại sự phát triển kinh tế, và trong nhiều hoàn cảnh nó có tầm quan trọng quyết định. Vì vậy, một nền chính trị ổn định, theo một khuynh hƣớng nhất quán luôn là môi trƣờng cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Để có sự phát triển rút ngắn đi lên CNXH, rõ ràng cần phải có một nền chính trị hƣớng tới sự phát triển toàn diện của các cá nhân. Một nền chính trị nhƣ vậy đòi hỏi ở đó một hệ thống chính trị có chất lƣợng và trình độ dân trí ngày càng cao. Nói cách khác, vai trò chính trị trong quá trình phát triển rút ngắn thể hiện ra ở 2 nhân tố dân trí và chất lƣợng hệ thống chính trị, 2 nhân tố này gắn bó chặt chẽ với nhau. 10 KẾT LUẬN 1. Việc hình thành những quan niệm về CNXH và con đƣờng tiến lên CNXH là việc rất khó khăn, phải trải qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu lâu dài. Điều này không chỉ vì chế độ xã hội chủ nghĩa ra đời là một bƣớc nhảy vọt trong lịch sử, mà còn vì sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa có nhiều điểm khác với các chế độ cũ. Chế độ nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tƣ bản tuy khác nhau nhƣng đều là chế độ chiếm hữu tƣ nhân. Ngay trong lòng chế độ phong kiến đã xuất hiện các cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tƣ bản. Tuy thế, từ khi ra đời cho đến nay, những nhà tri thức của giai cấp tƣ sản vẫn không ngừng nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tƣ bản, nghiên cứu những thành công và thất bại, những khó khăn của chủ nghĩa tƣ bản để tìm cách hoàn chỉnh lý luận của họ và điều chỉnh sự vận hành của chế độ tƣ bản. Trong công cuộc nghiên cứu này tuy có những thành công nhƣng cũng có thất bại. Chế độ xã hội chủ nghĩa ra đời, tuy đã có học thuyết về CNXH khoa học làm kim chỉ nam cho công cuộc xây dựng CNXH, định hƣớng cho hành động là điều rất quan trọng, nhƣng học thuyết về CNXH cũng mới nêu lên một số nguyên tắc, một số định hƣớng. Việc xác định con đƣờng xây dựng CNXH là việc làm rất mới, phải trải qua thực tiễn tìm tòi kiểm nghiệm. Không trải qua thực tiễn thì không thể đánh giá đƣợc những dự định ban đầu đã đề ra là đúng hay sai. Không có thực tiễn thì cũng không có điều kiện để tƣ duy trừu tƣợng rút ra đƣợc những quan niệm về CNXH một cách cụ thể. 2. Nguồn gốc để hình thành quan niệm về CNXH và con đƣờng đi lên CNXH của Đảng ta là từ chủ nghĩa Mác-Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn Việt Nam, và kinh nghiệm quốc tế. Tuy nhiên, đối với ba nguồn gốc này, đều có thể có các cách nhận thức nông sâu và các cách lý giải khác nhau. CNXH có thể tiếp cận từ các góc độ khác nhau. Với tính cách là một học thuyết, là một phong trào quần chúng và một chế độ xã hội hiện thực, liên quan mật thiết đến lợi ích của mỗi con ngƣời Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin đƣợc Hồ Chí Minh đƣa vào Việt Nam và đã đƣợc vận dụng cụ thể, sáng tạo và linh hoạt. Đối với thực tiễn đất nƣớc, chúng ta chỉ có thể nhận thức ngày càng đúng hơn, sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn khi biết nắm vững phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đúng nhƣ Hồ Chí Minh đã nói: thực tiễn mà không đƣợc lý luận soi sáng là một thực tiễn mù quáng. Thực tiễn cuộc sống luôn luôn mở đƣờng vận động theo quy luật của nó. Đó là quy luật vận động khách quan của xã hội. Nhìn nhận đúng bản chất của thực tiễn có nghĩa là phải tôn trọng quy luật vận động khách quan của xã hội ta, tôn trọng những yêu cầu của quy luật khách quan đó. Vi phạm quy luật khách quan, không nhìn nhận đúng bản chất của thực tiễn sẽ chịu sự trừng phạt 11 của chính quy luậtt khách quan của cuộc sống. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bài học lịch sử phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan và cũng chỉ rõ chúng ta có nhiều thiếu sót trong đánh giá tình hình cụ thể nên đã vi phạm quy luật khách quan, mắc nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bƣớc đi. Kinh nghiệm quốc tế là nguồn bổ sung quan trọng không thể thiếu trong quá trình xây dựng đƣờng lối. Nhƣng những kinh nghiệm đó chỉ có tác dụng tích cực khi chúng ta có đủ trình độ để độc lập, tự chủ và sáng tạo trong quan điểm lý luận, trong phƣơng pháp phân tích thực tiễn. Sự hạn chế về trình độ cũng nhƣ sự tự ti đều có thể dẫn tới bệnh giáo điều, không có trình độ lý luận, không đánh giá đúng tiềm năng trí tuệ Việt Nam, không lấy lợi ích dân tộc làm cái "bất biến", chúng ta khó lòng phân biệt đúng và sai, chính và phụ, cái cơ bản và cái không cơ bản, dòng chủ lƣu và cái chi tiết, cái hiện tƣợng và cái bản chất, cái hình thức bên ngoài và cái nội dung bên trong. 3. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về CNXH và con đƣờng đi lên CNXH có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc hình thành những quan điểm lý luận của Đảng ta. Trong quá khứ cũng nhƣ trong hiện tại, những quan điểm đó luôn lôn giữ nguyên giá trị.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnkkh_qua_trinh_hinh_thanh_va_phat_trien_duong_loi_cach_mang_xhcn_cua_dang_ta_3561.pdf
Luận văn liên quan