Đề tài Quản lý chi Ngân sách Nhà nước Việt Nam trong hội nhập kinh tế toàn cầu

Mục lục Danh mục các ký hiêu, chữ viết tắt Danh mục các bảng, biểu Danh mục các hình vẽ, đồ thị Mở đầu Chương 1  Lý luận tổng quan về Ngân sách Nhà nước (NSNN) và quản lý chi NSNN Việt Nam trong hội nhập kinh tế 1 1.1. Quan niệm NSNN và quản lý NSNN trong nền kinh tế thị trường 1 1.1.1. Quan niệm NSNN trong nền kinh tế thị trường 1 1.1.2. Quản lý NSNN trong nền kinh tế thị trường 3 1.2. Thu và quản lý thu NSNN 5 1.2.1. Nội dung thu NSNN 5 1.2.2. Nguyên tắc quản lý thu NSNN 5 1.3. Chi và quản lý chi NSNN 5 1.3.1. Nội dung chi NSNN 5 1.3.2. Nguyên tắc quản lý chi NSNN 6 1.4. Phân cấp quản lý NSNN 8 1.5. Mục lục NSNN 8 1.6. Chu trình và quản lý chu trình NSNN 9 Kết luận chương 1 11 Chương 2  Thực trạng quản lý chi NSNN Việt Nam 12 2.1. Thực trạng quản lý chi NSNN Việt Nam giai đoạn 1986 – 2000 12 2.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội 12 2.1.2. Thực trạng quản lý NSNN giai đoạn này 13 2.2. Thực trạng quản lý chi NSNN từ năm 2000 đến nay 16 2.2.1. Đặc điểm kinh tế xã hội 16 2.2.2. Những thành tựu trong quản lý NSNN nói chung và quản lý chi ngân sách nhà nước nói riêng 19 2.2.3. Những tồn tại trong quản lý chi NSNN 22 2.2.3.1. Những khó khăn khách quan 22 2.2.3.2. Những tồn tại mang tính chất chủ quan 24 2.2.3.2.1. Trong việc phân cấp quản lý NSNN 24 Quản lý chi Ngân sách Nhà nước Việt Nam tro ng hội nhập kinh tế toàn cầu 2 2.2.3.2.2. Trong việc lập dự toán NSNN 26 2.2.3.2.3. Trong Hệ thống định mức phân bổ NSNN 29 2.2.3.2.4. Trong việc kiểm toán, quyết toán NSNN 30 2.2.3.2.5. Trong nội dung chi thường xuyên 32 2.2.3.2.6. Trong nội dung chi đầu tư phát triển cho xây dựng cơ bản 38 2.2.3.2.7. Trong việc xử lý bội chi NSNN 47 2.2.3.2.8. Trong việc thực hiện các nội dung khác 48 Kết luận chương 2 49 Chương 3 - Quản lý chi NSNN - Những giải pháp trong thời kỳ hội nhập .50 3.1. Phương hướng và mục tiêu của Nhà nước về quản lý ngân sách 50 3.2. Những giải pháp về quản lý chi NSNN thời kỳ hội nhập 51 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến NSNN và phát huy quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội đối với NSNN 51 3.2.2. Đổi mới công tác kế hoạch hóa kết hợp với phát huy hiệu quả quản lý chi NSNN thông qua kết hợp lập dự toán NSNN giữa phương pháp lập ngân sách theo khoản mục, theo chương trình và theo kết quả đầu ra 53 3.2.3. Đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ công 60 3.2.4. Bội chi NSNN, mục tiêu và phương hướng thực hiện 64 3.2.5. Nâng cao tính minh bạch, tăng cường giám sát và có chế tài rõ ràng trong điều hành NSNN 65 3.2.5.1. Nâng cao tính minh bạch và quy định chế tài rõ ràng 65 3.2.5.2. Tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan có thẩm quyền 67 3.2.5.3. Tận dụng và nâng cao hiệu quả giám sát từ công chúng 68 3.2.6. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý NSNN 70 Kết luận chương 3 71 Kết luận Tài liệu tham khão

doc72 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3043 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý chi Ngân sách Nhà nước Việt Nam trong hội nhập kinh tế toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i công trình hoàn thành đưa vào sử dụng chủ đầu tư mới nhận thấy công trình không phát huy hiệu quả. Ví dụ: tại một số địa phương như Hà nội đã đầu tư hàng trăm tỉ đồng để cải thiện và xây mới một loạt chợ đầu mối nhưng hiệu quả khai thác sử dụng thấp. Đồng thời, thời gian gần đây, báo đài cũng tốn rất nhiều “giấy mực” về chất lượng của các khu tái định cư. Một là chất lượng các công trình yếu kém, hai là việc xây dựng chỉ dừng lại ở các khu nhà chung cư mà không xây dựng tiếp các công trình bệnh viện, trường học, công viên như đã cam kết. Đây sẽ là những khó khăn dai dẳng phải khắc phục, gây thiệt hại về mặt kinh tế và cả những ảnh hưởng xấu về những khía cạnh xã hội. Đồng thời, tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản cũng đang là một trong những nhân tố chính cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của chính các địa phương, nhât là khi nợ vượt quá khả năng cân đối ngân sách, gây mất cân đối trong bố trí kế hoạch vốn đầu tư phát triển. Qua rà soát, tính đến cuối 2005, nợ đọng vốn xây dựng cơ bản lớn nhất và khó giải quyết nhất thuộc về ngân sách địa phương, với tổng số nợ gần 7.000 tỷ đồng. Trong đó, các địa phương vùng miền núi phía Bắc nợ nhiều nhất, chiếm gần một phần ba trong số này. Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng lãng phí, thất thoát Có thể nói một phần do hệ thống văn bản pháp luật từ qui hoạch, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đến đấu thầu, giải phóng mặt bằng, nghiệm thu, quyết toán... chưa đầy đủ, nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế, thiếu cụ thể, không đồng bộ, hay thay đổi và thiếu chế tài nghiêm minh. Ví dụ cơ chế phân định trách nhiệm tuy có nhưng chưa rõ ràng. Nghĩa là văn bản pháp quy của Chính phủ có ghi rõ: Thiết kế sai thì đơn vị thiết kế phải chịu trách nhiệm, thi công xảy ra sai phạm thì đơn vị thi công phải chịu trách nhiệm, nhưng ở đây lại thiếu cơ chế ràng buộc trách nhiệm cá nhân. Nói cách khác, kỷ cương chưa nghiêm, cơ chế chế tài chưa quy định cụ thể. Vai trò của cơ quan chủ quản trong việc tuân thủ pháp luật, và trách nhiệm cũng như đạo đức nghề nghiệp của những người làm công tác xây dựng. Năng lực của tổ chức tư vấn, của nhà thầu xây dựng và của cán bộ quản lý dự án còn hạn chế dẫn đến tính toán đầu tư, xây dựng chưa hợp lý. Cuối cùng, chính công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán chưa thường xuyên, diện còn rất hẹp, chưa sâu, chất lượng còn nhiều hạn chế và việc xử lý trách nhiệm của tổ chức, cá nhân vi phạm không nghiêm, chưa triệt để và còn kéo dài sau kiểm tra, thanh tra cũng chưa góp phần tích cực trong việc ngăn chặn những lãng phí và thất thoát này. WorldBank đã kết luận tham nhũng có thể nảy sinh ở bất cứ khâu nào trong vòng đời của một dự án. Mức độ tham nhũng tỷ lệ nghịch với mức độ công khai, minh bạch mọi vấn đề liên quan đến dự án. Chính sự nhập nhằng, khép kín trong vấn đề quản lý là một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản trong thời gian qua. Việc không tách bạch được quản lý ra khỏi kinh doanh trong cơ chế cơ quan chủ quản thực sự là mảnh đất màu mỡ để tham nhũng sinh sôi. Bộ hoặc ngành, địa phương vừa là chủ đầu tư, vừa có quyền chọn nhà thầu, đơn vị tư vấn, thiết kế, giám sát thì thực chất vẫn là “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Phá vỡ sự khép kín trong quy trình đầu tư là một giải pháp chống thất thoát được nêu ra. Như vậy, “những căn bệnh” thì đã “bắt” đúng, “thuốc chữa” cũng đã có, nhưng việc có dám dùng không và dùng với liều lượng như thế nào mới thực sự là vấn đề cần được đặt ra. 2.2.3.2.7. Trong việc xử lý bội chi ngân sách nhà nước Cách xác định bội chi NSNN hiện nay của VN bao gồm toàn bộ các khoản vay để bù đắp, có nghĩa là chi NSNN đối với các khoản vay này được thực hiện 2 lần: Lần thứ nhất sử dụng nguồn vay cho các mục tiêu, nhiệm vụ của NSNN; lần thứ 2 bố trí chi NSNN để trả nợ (gốc và lãi) khi các khoản vay đến hạn trả. Do đó, mức bội chi NSNN của Việt Nam thường cao hơn so với phương pháp tính bội chi theo thông lệ quốc tế và trùng lặp khi bố trí chi NSNN hai lần đối với các khoản vay bù đắp bội chi. Theo thông lệ quốc tế, việc xác định bội chi chỉ bao gồm trả nợ lãi trong và ngoài nước, không bao gồm trả nợ gốc, nhưng bao gồm cả các khoản vay về cho vay lại. Bảng 2.5 - Cách xác định bội chi theo thông lệ quốc tế Đơn vị: tỷ đồng 2003 2004 2005uth 2006uth dt 2007 Tổng thu và viện trợ 158,056 198,614 217,080 261,100 281,900 Thu kết chuyển 3,820 26,162 7,030 8,510 19,000 Tổng chi NSNN (không bao gồm trả nợ gốc) 139,925 221,792 237,410 286,823 320,721 Chi trả nợ gốc 18,095 26,822 27,450 31,287 36,679 Bội chi theo thông lệ quốc tế (12,405) (7,881) (13,300) (17,213) (19,821) Bù đắp bội chi 12,405 7,881 13,300 17,213 19,821 Vay trong nước 7,548 4,671 9,865 11,743 12,913 Vay nước ngoài 4,857 3,210 3,435 5,470 6,908 Bội chi NS theo phân loại của VN (30,500) (34,703) (40,750) (48,500) (56,500) Nguồn: Bộ tài chính Mặc dù ở Việt Nam cân đối NSNN được thực hiện theo nguyên tắc thận trọng. Khi cân đối NSNN quán triệt nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên; nếu bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển. Nhưng qua kết quả kiểm toán cho thấy một số khoản thu phí, lệ phí, học phí, viện phí không được tính toán cân đối NSNN mà để lại đơn vị chi tiêu; khi quyết toán sẽ thực hiện ghi thu, ghi chi vào NSNN. Kết quả kiểm toán cho thấy khoản phí, lệ phí là con số không nhỏ (ước tính hàng ngàn tỷ đồng) và đây là nguồn thu NSNN cần phải được đưa vào cân đối, bố trí trong dự toán hàng năm. Đồng thời, về các khoản nợ vay nước ngoài, theo số liệu của Bộ Tài chính, tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005 vào khoảng 35,6% (tổng số nợ hiện vào khoảng 13 - 14 tỷ USD). Đến cuối năm 2006, tỷ lệ này chiếm khoảng 35% GDP. Dự tính sẽ tăng lên 38% vào năm 2008 và vào khoảng 37% vào năm 2010. Trong giai đoạn phát triển hiện nay, Việt Nam có nhu cầu rất lớn về vốn, khoảng 140 tỷ USD cho giai đoạn 2006 - 2010. Và đi vay nợ là nhu cầu tất yếu đối với bất kỳ nền kinh tế đang phát triển nào. Vấn đề đặt ra ở đây là, chúng ta sử dụng khoản vay đó như thế nào, có hiệu quả, sinh lãi để trả nợ. Không phải cứ vay nợ là xấu, có khi nợ chính là đòn bẩy. Nếu xét theo tập quán quốc tế thì tỷ lệ nợ nước ngoài của Việt Nam là an toàn và có thể kiểm soát được, vì theo tập quán quốc tế, tỷ lệ nợ nước ngoài từ 50% GDP trở lên mới nằm trong tình trạng mất an toàn; còn chỉ số nợ nước ngoài/GDP từ 30 - 50% thì thì quốc gia đó đang gặp khó khăn. Đây là điểm mà chúng ta phải chú ý khi mà nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, cả GDP và xuất khẩu của Việt Nam còn thấp, dự trữ ngoại hối thấp. Và trong những năm qua, số trả nợ của chúng ta còn thấp do hầu hết là những khoản vay mới chưa đến kỳ hạn trả nợ, nhưng trong những năm tới, áp lực trả nợ sẽ tăng lên mạnh hơn 2.2.3.2.8. Trong việc thực hiện các nội dung khác (chi trợ giá, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính Nhà nước, chi bổ sung cho Ngân sách cấp dưới) Chi trợ giá cho xăng dầu: khoản chi NSNN dùng để bù lỗ những năm qua rất lớn kinh phí bù lỗ này hiện chiếm 1,5-2% GDP, bằng khoảng 5,2% chi NSNN. Nguy cơ tiềm ẩn hiện nay là sự không bình đẳng trên thị trường khi giá xăng dầu lên, nhưng một số sản phẩm khác cho dù bị ảnh hưởng nhưng không được tăng giá (sản xuất than). Một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp lại đang có chỗ dựa về giá để cạnh tranh không cùng một mặt bằng trên thị trường. Ba thành phố lớn Hà Nội, TP.HCM và Vũng Tàu sử dụng 47,5% xăng dầu. Như vậy tầng lớp dân cư ở thành phố, đô thị, “những người giàu” dùng nhiều được hưởng bù lỗ nhiều. Ngoài ra còn là buôn lậu xăng dầu qua biên giới… Tình hình này nếu không được cải thiện sẽ là cản trở lớn trong hội nhập kinh tế. Kết luận chương 2 Trong giai đoạn 2006 - 2010, Việt Nam phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân từ 7,5-8%/năm, GDP bình quân đầu người năm 2010 sẽ đạt khoảng 1.050 - 1.100 USD. Đây mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong 05 năm tới. Để đạt được những mục tiêu này, dự kiến tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2006-2010 cần khoảng 140 tỉ USD. Và chắc hẳn rằng việc thực hiện những chương trình cải cch tồn diện cũng như việc hoạch định chính sách tài khóa, quản lý chi ngân sách để khắc phục hàng loạt những vấn đề còn tồn tại hiện nay, từng bước mang lại hiệu quả tích cực thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững là vấn đề rất cần được quan tâm. Chương 3 - quản lý chi ngân sách nhà nước - những giải pháp trong thời kỳ hội nhập 3.1. Phương hướng và mục tiêu của Nhà nước về quản lý ngân sách Trước thực tiễn về tình hình quản lý chi NSNN ta trong thời gian qua, cùng những yêu cầu đổi mới về phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ hội nhập, Nhà nước ta đã đưa ra những phương hướng để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý, điều hành ngân sách phục vụ công cuộc đổi mới và hướng đến những mục tiêu nhất định, đó là Việt Nam cần thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào trước năm 2010, tạo đà phát triển để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này thì một trong những nhiệm vụ quan trọng là Việt Nam cần phải xây dựng được một nền tài chính quốc gia đủ mạnh để điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh về bền vững, giải quyết các vấn đề xã hội. Cụ thể về chính sách tài khoá, tập trung cải cách cơ chế xây dựng dự toán NSNN, trong đó chú trọng đến kế hoạch ngân sách trung và ngắn hạn mang tính khả thi gắn với việc quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, nhằm phục vụ tốt cho việc thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập. Đồng thời, tiến hành rà soát tổng thể các cơ chế, chính sách hiện hành để bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc của WTO và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm cơ chế chính sách tài chính liên quan trợ cấp từ NSNN. Đối với các hình thức trợ cấp từ ngân sách cho nền kinh tế, cần chuyển hướng từ chính sách hỗ trợ theo kiểu cấp phát trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp Nâng cao vai trò định hướng phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính của Nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, trong đó vốn đầu tư của NSNN tập trung chủ yếu cho xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, và bảo đảm vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia và các mục tiêu, nhiệm vụ ưu tiên của chiến lược như đầu tư phát triển con người nhằm tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, điều chỉnh cơ cấu đầu tư để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách tài chính cho tăng trưởng bền vững, xoá đói, giảm nghèo. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp, vừa bảo đảm tập trung thống nhất, vai trò chủ đạo và điều phối của ngân sách trung ương, vừa phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm và tính chủ động trong quản lý ngân sách của các bộ, ngành địa phương và đơn vị thụ hưởng kinh phí ngân sách. Đồng thời, thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, đồng bộ hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và cải cách thủ tục hành chính về tài chính; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý tài chính - ngân sách; tiêu chuẩn hoá cán bộ tài chính, xây dựng đội ngũ công chức tài chính đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý và có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Hiện đại hoá quản lý tài chính - ngân sách, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý trước hết là lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc; tiến tới thực hiện thống nhất các quy trình nghiệp vụ quản lý, điều hành công tác tài chính theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế. 3.2. Những giải pháp về quản lý chi ngân sách nhà nước thời kỳ hội nhập 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến ngân sách nhà nước và phát huy quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội đối với ngân sách nhà nước Một trong những thách thức lớn nhất khi gia nhập WTO là sự thử thách về chất lượng pháp luật và năng lực thể chế. Việc hoàn thiện về hệ thống pháp luật cũng như cải cách về hành chính là điều kiện thiết yếu để chúng ta tối đa hoá các lợi ích của quá trình hội nhập và cũng là công cụ để thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội, các mục tiêu phát triển của nước ta. Do NSNN có phạm vi điều chỉnh rộng lớn, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến NSNN có thể nói là tương đối đồ sộ. Đó không chỉ trực tiếp là Luật Ngân sách Nhà nước và các văn bản dưới luật trực tiếp liên quan, mà đó còn là yêu cầu hoàn thiện về khung pháp lý đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác. Trước hết là việc nỗ lực hoàn thiện môi trường pháp lý tài chính, mà quan trọng nhất là hoàn thiện chính sách thuế vì thuế ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo lập nguồn lực cho NSNN; và vì để điều hành NSNN hiệu quả, minh bạch đòi hỏi không chỉ riêng lĩnh vực chi mà còn cả lĩnh vực thu. Hiện nay, phương thức quản lý thuế vẫn còn mang nặng tính khép kín, hệ thống văn bản pháp quy được sửa đổi, bổ sung thường xuyên nhưng vẫn chưa hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, khâu hướng dẫn cũng chưa được thực hiện đầy đủ tạo nên sự không đồng bộ, nhất quán trong thực hiện Đây là những vấn đề cần khắc phục trong việc hoàn thiện thể chế về kinh tế, phù hợp với những yêu cầu đổi mới. Cụ thể: - Ban hành mới hoặc nâng cấp từ pháp lệnh để hoàn chỉnh các luật thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử, thuế bảo vệ môi trường, thuế tài sản, thuế sử dụng đất, thuế tài nguyên. - Sửa đổi, bổ sung các sắc thuế hiện hành theo hướng tăng dần tỷ trọng các nguồn thu trong nước, mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ trọng thuế trực thu trong tổng số thu về thuế. Ví dụ như hoàn thiện chính sách thuế Thu nhập Cá nhân, thuế Thu nhập Doanh nghiệp,… - Rà soát, bãi bỏ hoặc sửa đổi các loại phí, lệ phí không hợp lý, gây phiền hà cho sản xuất và đời sống. Các loại phí thu do cung cấp dịch vụ công sẽ chuyển dần sang giá dịch vụ, các loại phí mang tính chất thuế chuyển thành thuế. Về lĩnh vực Ngân sách, cần hoàn thiện cơ chế quản lý Ngân sách và hoàn thiện hệ thống các định mức chi. Cụ thể: - Về cơ chế quản lý Ngân sách: NSNN cần được quản lý công khai hơn nữa trong quá trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách. Cần tập trung nhanh, đầy đủ và kịp thời hơn nữa các khoản thu NSNN, hướng tới thu tập trung qua Kho bạc Nhà nước. - Về hoàn thiện Hệ thống định mức chi: trước hết Hệ thống định mức chi cần hướng tới sự phù hợp với mục tiêu quản lý NSNN theo kết quả đầu ra. Đồng thời, hệ thống các định mức này cần đảm bảo tính phù hợp với thực tiễn. Và chú trọng bổ sung những điểm còn tồn tại hiện nay để làm căn cứ rõ ràng cho việc thực hiện, ví dụ như cần xây dựng định mức chi tiêu tại các cơ quan hành chính Nhà nước (các Bộ, UBND các tỉnh, thành phố) đối với các lĩnh vực trang bị phương tiện, đồ đạc dụng cụ; xây mới, thuê mướn trụ sở… Phát huy hơn nữa quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội đối với NSNN: Đối với nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI, việc thảo luận, thông qua dự toán và phân bổ NSNN còn hình thức. Quốc hội vẫn chưa sử dụng đầy đủ quyền hạn của mình trong vấn đề này. Đến ngày 24/04/2007, ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội mới bắt đầu phiên họp toàn thể để thẩm tra báo cáo của Chính phủ về quyết toán NSNN năm 2005, chuẩn bị trình Quốc hội khóa XII, tại kỳ họp thứ nhất. NSNN là một vấn đề hết sức quan trọng đối với một quốc gia. Như vậy, vấn đề này cần được rút kinh nghiệm sâu sắc để trao lại nhiệm vụ cho Quốc hội khoá mới. Và tin tưởng là Quốc hội khoá XII, qua kinh nghiệm của Quốc hội các khoá trước sẽ tổ chức thực hiện nhiệm vụ này kỹ lưỡng hơn, chu đáo hơn, chặt chẽ hơn. Từ đó, có thể phát huy được nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại Điều 84 của Hiến pháp. 3.2.2. Đổi mới công tác kế hoạch hóa kết hợp với phát huy hiệu quả quản lý chi NSNN thông qua kết hợp lập dự toán NSNN giữa phương pháp lập ngân sách theo khoản mục, theo chương trình và theo kết quả đầu ra. Có thể nói, kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường là một trong những nội dung vô cùng quan trọng, đóng vai trò là “kịch bản” phát triển đất nước. Kế hoạch hóa là tổng hợp những mục tiêu, phương hướng, biện pháp phát triển mang tính chất chiến lược, các cách đi tối ưu hướng tới công cuộc xóa đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế đất nước. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Thực tế đã cho thấy, trong sự phát triển của kinh tế thị trường ở nước ta, công tác kế hoạch hóa chưa trở thành công cụ hiệu quả để góp phần quản lý và phát triển kinh tế - xã hội. Công tác này đã tỏ ra thiếu tính hệ thống và khó bao quát được hầu hết tất cả các yêu cầu đa dạng và luôn biến động của nền kinh tế; sự điều chỉnh của kế hoạch chưa được nhanh nhạy, đôi khi chưa theo kịp những thay đổi của thị trường. Hiện nay, nước ta đang sử dụng kết hợp phương thức lập ngân sách theo chương trình (như lập ngân sách theo các chương trình mục tiêu quốc gia), trong đó phương thức đầu tiên là phương thức cơ bản. Mục lục NSNN luôn được bổ sung, sửa đổi thường xuyên để đáp ứng yêu cầu quản lý tài chính và quản lý NSNN. Điểm mạnh của phương thức này là đơn giản và có thể kiểm soát chi tiêu dễ dàng bằng cách so sánh với các yếu tố đầu vào của các năm trước. Tuy vậy, phương thức soạn lập NSNN theo khoản mục bộc lộ nhiều nhược điểm: chỉ nhấn mạnh đến khâu lập dự toán NSNN với các khoản chi tiêu có tính tuân thủ; không trả lời được câu hỏi tại sao phải chi tiêu? tại sao không chi nhều/ít hơn? Hơn nữa, NSNN chỉ được lập trong ngắn hạn - thường là một năm; không chú trọng đúng mức đến tính hiệu quả phân bổ nguồn lực và hiệu quả trong cung ứng hàng hóa công; việc phân bổ NSNN cho các mục tiêu còn nhiều yếu tố định tính. Ví dụ như, bố trí “đủ vốn” cho các công trình, dự án phát triển hạ tầng kinh tế trọng điểm quốc gia; “ưu tiên vốn” thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; “đảm bảo kinh phí” đối với quốc phòng, an ninh; “đẩy mạnh xã hội hoá” các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao... Điều đó làm cho tính kỷ luật trong việc chấp hành NSNN thiếu chặt chẽ, vì thiếu các chỉ tiêu định lượng để kiểm tra. Tuy nhiên, với đặc điểm kinh tế - xã hội cũng như trình độ quản lý hiện nay của Việt Nam, phương pháp lập NSNN theo khoản mục cũng đã phát huy được những ưu điểm nhất định và có thể khẳng định, cho đến hiện nay, phương pháp này vẫn còn phù hợp. Tuy nhiên, việc kết hợp phương pháp này với phương pháp lập ngân sách theo kết quả đầu ra là một bước đi thích hợp để dần dần bắt kịp với tiến trình phát triển chung, cũng như yêu cầu đổi mới trong quá trình hội nhập. Hơn nữa, đây là một trong những phương thức cần được tích cực triển khai để khắc phục một vấn đề còn rất nhiều tồn tại ở nước ta trong thời gian qua - đó là những hạn chế về khả năng phân tích trong công tác kế hoạch hóa nói chung, cũng như trong việc phân bổ ngân sách nói riêng. Đặc điểm của phương thức này là nhấn mạnh đến tính hiệu quả trong phân bổ các nguồn lực tài chính. Phân bổ thu NSNN “đúng nơi, đúng lúc và đúng chỗ”, phân tích được tính hiệu quả trong việc sử dụng chúng được đặt lên hàng đầu là chìa khóa của sự thành công. Trình tự lập dự toán NSNN: Việc lập dự toán NSNN hiện nay còn bao gồm nhiều yếu tố mất cân đối, nhất là ở việc nhiều chỉ tiêu còn mang nặng tính “nguyện vọng” hơn là được xây dựng đảm bảo các tính khả thi và hiệu quả. Các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội mặc dù được lập cho mỗi thời kỳ 5 năm, và được chia ra từng năm, nhưng còn đơn giản. Việc điều chỉnh kế hoạch hàng năm còn ít tính đến các tác động mới xuất hiện trong từng năm, chưa đảm bảo các cân đối chung, mà thường chỉ dùng phương pháp ngoại suy đơn giản. Các quy hoạch lớn được xây dựng và thực hiện xé lẻ, chia cắt, không đảm bảo tính tương đồng giữa các ngành, các địa phương và các vùng lãnh thổ. Trong bối cảnh đó, NSNN cũng được lập ngắn hạn từng năm. Sơ đồ 3.1 - Hướng tới lập NSNN trung và dài hạn NềN TảNG: THựC HIệN TốT công tác Kế HOạCH XáC ĐịNH NHữNG LĩNH VựC ĐảM NHậN CủA NSNN KếT QUả MONG ĐợI: NHữNG MụC tiêu KINH Tế & xã HộI LậP Kế HOạCH ngân sách TRUNG - dài hạn (trên cơ sở phân tích giới hạn các nguồn lực) XáC ĐịNH CáC MụC TIU CầN THựC HIệN TRONG TừNG NĂM NGÂN SáCH Xây DựNG dự toán các cấp ngân sách (Cụ thể hóa qua Mục lục Ngân sách để khai thác tính rõ ràng, cụ thể) ĐáNH GIá KếT QUả THựC Tế: Những tác động đến xã hội / Đánh giá hiệu quả / Mức độ thực hiện các chỉ tiêu Tổ CHứC THựC HIệN - Đề CAO TíNH giám sát NGAY TRONG quá trình thực hiện Việc thực hiện theo phương pháp này hướng tới việc xác định nguồn lực tài chính theo thời kỳ trung dài hạn. Đồng thời, phương pháp này cũng chú trọng tới việc xác định và đánh giá hiệu quả hoạt động của các Bộ, ngành, các cơ quan nhà nước và các địa phương trong việc hoàn thành các mục tiêu đã đề ra. Việc đánh giá sẽ căn cứ trên các tiêu chí được xây dựng một cách phù hợp để đánh giá việc chi tiêu ngân sách, cụ thể qua các kết quả về tốc độ tăng trưởng kinh tế, số lượng và chất lượng dịch vụ cung cấp; chứ không chỉ đơn thuần dựa vào mức độ chi tiêu đầu vào theo các nhóm, các mục chi như hiện nay. Từ đó, hướng các cấp ngân sách tới việc đáp ứng các yêu cầu của quản lý chi tiêu xu hướng hiện đại, nâng cao trình độ quản lý và quan trọng nhất là gắn kết kết quả công việc thực hiện với trách nhiệm của từng cấp một cách cụ thể. Các bước xây dựng dự toán NSNN gắn liền với kế hoạch kinh tế - xã hội • Phân tích và đánh giá các điều kiện trong nước và quốc tế có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội - Nâng cao chất lượng công tác dự báo qua việc tổ chức lại hoặc thành lập mới các đơn vị, nâng cao trình độ đội ngũ nhân sự và tăng cường trang thiết bị phân tích và xử lý thông tin phù hợp với yêu cầu đổi mới. Hình thành các trung tâm tích hợp dữ liệu ở cấp Trung ương, các Bộ ngành, địa phương và thậm chí là cơ sở với những chức năng và nhiệm vụ rõ ràng. - Đổi mới hệ thống thu thập, xử lý và sử dụng thông tin với mục tiêu hướng đến một hệ thống thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác, phục vụ tốt cho công tác dự báo và phân tích. - Tổ chức và phát huy hiệu quả thu thập thông tin từ các cuộc điều tra tại các vùng, các địa phương để nắm bắt kịp thời về các thông tin liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống kinh tế xã hội, để nắm bắt nguyện vọng của nhân dân. Bên cạnh đó, kết hợp với các thông tin, số liệu của các tổ chức quốc tế để có những nguồn số liệu tham khảo phục vụ công tác dự báo và phân tích. • Dự báo kinh tế và các mục tiêu xã hội: thực hiện công tác dự báo trên cơ sở mô tả về các xu hướng phát triển của thế giới, của khu vực; những ảnh hưởng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và những giả định - hay những mục tiêu chủ chốt để phục vụ cho việc dự báo. • Lập và lựa chọn các tổ hợp mục tiêu cho kế hoạch - Lập những tổ hợp mục tiêu khác nhau. Trong đó, mỗi tổ hợp sẽ gồm những mục tiêu muốn hướng đến và mức độ ưu tiên thực hiện của những mục tiêu đó. - Việc lựa chọn tổ hợp mục tiêu nào cần được xem xét trong điều kiện được phân tích và đảm bảo đầy đủ những yêu cầu về tính hệ thống, về tầm nhìn, về quan điểm thị trường, về tính hiệu quả và bền vững. • Hướng tới công tác lập dự toán NSNN theo kết quả đầu ra: tận dụng những dự báo, phân tích từ công tác kế hoạch và xác định các nguồn lực - Dự báo kinh tế cấp quốc gia: tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ trung hạn. Những thay đổi của quá trình hội nhập ảnh hưởng cụ thể như thế nào đối với kế hoạch thu và chi ngân sách trung ương? ở đây, chỉ dừng lại ở bước xác định yếu tố nào làm tăng, giảm thu, chi ngân sách; chưa xây dựng dự toán ngân sách. - Dự báo kinh tế cấp địa phương: tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ trung hạn. Tốc độ này tăng nhanh hay chậm so với tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước. Nguyên nhân tại sao? Trong điều kiện những chiến lược phát triển, những quy hoạch phát triển của vùng lãnh thổ, của địa phương thì tốc độ tăng trưởng GDP được đưa ra là phù hợp hay không? Những thay đổi cụ thể từ những sắc thuế, từ yếu tố giá cả đầu vào theo lộ trình hội nhập sâu ảnh hưởng như thế nào đến kế hoạch thu và chi ngân sách của địa phương? - Dự báo về số thu của Trung ương và địa phương, mục tiêu về thu ngân sách trong từng thời kỳ, mức thâm hụt ngân sách, mức nợ. Dựa trên cơ sở những phân tích để có những căn cứ vững chắc cho việc tổng hợp các nguồn lực. • Xác định lĩnh vực đảm nhận của NSNN: - Xác định rõ “đầu ra” mong muốn là cái gì? và kết quả đó tác động đến xã hội như thế nào? Từ đó, lên kế hoạch về quá trình tổ chức hoạt động và tính toán chi phí và xác định thứ tự ưu tiên các hoạt động trong vòng 3 - 5 năm, xác định những ngành có liên quan để dự toán và tổng hợp chi phí, sắp xếp thứ tự ưu tiên các hoạt động cho phù hợp với trần kinh phí ngành và xác định những hoạt động cần được tiếp tục, những hoạt động cần được thu hẹp hay chấm dứt. Đồng thời, thảo luận chính sách và xem xét lại hạn mức kinh phí ngành. Sau khi tiến hành rà soát ở cấp Bộ, ngành tại Trung ương và địa phương, các thông tin sẽ được tổng hợp và phân tích để xác định hạn mức kinh phí ngành phù hợp cho thời kỳ trung hạn. - Để đảm bảo được tính minh bạch, trên cơ sở dự báo và hướng dẫn lập ngân sách, các Bộ, ngành, địa phương phải tổng hợp và giải trình về các hoạt động trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội thời kỳ trung hạn. - Đồng thời, việc phân bổ NSNN cũng cần đảm bảo giữ vững các kỷ luật tài chính tổng thể và các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường, ví dụ như việc giảm trợ cấp xăng dầu gần đây là một bước đi phù hợp. Việc quản lý ngân sách cũng cần nỗ lực giảm bội chi trong điều kiện cải thiện chất lượng đầu tư, chống thất thoát và lãng phí. • Xây dựng dự toán ngân sách cho từng năm cụ thể: - Trên cơ sở các kế hoạch và mục tiêu trung dài hạn, cụ thể dự toán cho từng năm ngân sách, xác định tiến độ thực hiện các mục tiêu chiến lược. - Đồng thời, xác lập hệ thống các chỉ tiêu thực hiện then chốt để có thể dễ dàng trong việc kiểm tra, đánh giá và xác định hiệu quả của việc phân bổ các nguồn lực từ NSNN. Có thể nói, với ưu điểm của việc lập NSNN theo kết quả đầu ra, tận dụng các ưu điểm của phương pháp lập NSNN hiện nay, hy vọng sự kết hợp này có thể khai thác những lợi thế hiện có, tận dụng những yếu tố mới để hướng tới việc phân bổ các nguồn lực NSNN một cách khoa học hơn, tạo cơ sở rõ ràng trong việc thực hiện, từ đó có thể quản lý chi ngân sách hiệu quả, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội. 3.2.3. Đẩy mạnh xã hội hóa cung ứng dịch vụ công Hiện nay, 5 loại dịch vụ công đóng vai trò rất quan trọng, có ảnh hưởng nhiều đến đời sống kinh tế xã hội là giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học công nghệ và thể dục thể thao. Đây là các hoạt động thuộc dịch vụ sự nghiệp công, tức là các hoạt động cung cáp phúc lợi xã hội thiết yếu cho người dân. Nhà nước ta cũng đã có chủ trương thực hiện đổi mới cơ chế cung ứng dịch vụ công theo hướng khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể trong xã hội cùng tham gia vào hoạt động này, hay còn gọi là “xã hội hóa” cung ứng dịch vụ công. Điều này được thể hiện qua hàng loạt các văn bản pháp luật như Nghị quyết 90/CP ngày 21/8/1007 của Chính phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa; Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với cac hoạt động trong lĩnh vcj y tế, giáo dục, văn hóa và thể thao; Nghị định 31/2005/NĐ-CP này 11/3/2005 của Chính phủ về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích; Nghị định số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao… Chủ trương này đã bước đầu khuyến khích và thu hút được các tiềm năng và nguồn lực xã hội cho việc phát triển cung ứng các dịch vụ công, tạo công ăn việc làm ổn định cho hàng trăm nghìn người. Tuy nhiên, cũng có thể nói, việc xã hội hóa việc cung ứng các dịch vụ công chưa tiến được bước dài, cũng chính trong việc thực hiện cơ chế này đã làm nảy sinh nhiều vấn đề như quá trình xã hội hóa các lĩnh vực còn diễn ra chậm so với tiềm năng; tình trạng hoạt động lộn xộn, tự phát, cạnh tranh thiếu lành mạnh, chất lượng dịch vụ không đảm bảo có xu hướng tăng cao; mức độ phát triển xã hội hóa cung ứng dịch vụ công không đồng đều giữa các vùng, miền và các lĩnh vực cụ thể. Đồng thời, chính việc cung ứng dịch vụ công của khu vực Nhà nước cũng còn rất nhiều tồn tại và hạn chế chưa được cải thiện. Như vậy, mặc dù vấn đề đặt ra thì có vẻ đã rõ ràng, nhưng việc thực hiện vấn đề đó như thế nào để mang lại hiệu quả thì lại là một câu hỏi cần có sự giải đáp một cách cặn kẽ. Nếu theo cách phân loại các dịch vụ công thành dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ công ích, thì có thể thực hiện xã hội hóa đối với phần lớn dịch vụ sự nghiệp công. Đây cũng là bước đi để có thể kịp thời đáp ứng các nhu cầu thiết yếu nhất về dịch vụ công. Và để thực hiện được mục tiêu này, Nhà nước cần có cơ chế và chính sách quản lý phù hợp, tạo sự công bằng và minh bạch trong hoạt động. - Đơn giản hóa các thủ tục thành lập và hoạt động là một trong những vấn đề cần được rà soát lại và có quy định thống nhất. Cần có quy định rõ ràng và có căn cứ thực tiễn về cấp quản lý, về thời hạn xét duyệt, cấp phép để tạo tính đồng bộ và hạn chế những bất tiện về mặt thời gian, thủ tục trong khâu cấp phép. Những tiêu chuẩn và điều kiện cụ thể để thành lập từng loại hình cung ứng dịch vụ công cũng cần được quy định rõ ràng, cụ thể. Nếu đáp ứng được các điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất, trang thiết bị, cũng như chuyên môn, tổ chức nhân sự thì các tổ chức, cá nhân muốn cung ứng dịch vụ công sẽ được cấp phép. Điều này cần được thực hiện nhằm tránh những trễ nải, hay cơ chế “xin cho”. - Nhà nước cũng có thể thực hiện những chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư đối với các cơ sở được cấp phép cung ứng dịch vụ công như hỗ trợ về mặt bằng xây dựng và kết cấu hạ tầng, về tín dụng đầu tư hay hỗ trợ về các lĩnh vực khác như miễn giảm thuế, cung cấp thông tin cần thiết liên quan đến lĩnh vực hoạt động, hỗ trợ về nhân lực và đào tạo. Về lĩnh vực giáo dục và đào tạo: - Tập trung ngân sách nhà nước cho các hướng trọng điểm, then chốt, ví dụ cho việc nghiên cứu chương trình, giáo trình của các cấp học; đầu tư đổi mới về phương pháp giảng dạy; hay ưu tiên cho các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn, đầu tư có trọng điểm nhằm xây dựng các trường, cơ sở giáo dục và đào tạo có uy tín trong nước, khu vực và thế giới. - Tạo được mối liên hệ mật thiết giữa đào tạo lý thuyết và thực hành nghề nghiệp, giữa nghiên cứu khoa học và hoạt động sản xuất - kinh doanh của nền kinh tế. - Đảm bảo sự bình đẳng giữa các cơ sở giáo dục công lập và các cơ sở ngoài công lập trong hoạt động quản lý nhà nước. Đồng thời, cần có cơ chế chính sách quản lý phù hợp, dần dần khắc phục được những vấn đề còn tồn tại, bất cập hiện nay. - Xây dựng và ban hành các chuẩn đánh giá về chất lượng, hệ thống kiểm tra, đánh giá và cấp văn bằng chứng chỉ nghề. Nhà nước cần có chính sách tuyên truyền, có biện pháp hỗ trợ và khuyến khích để huy động giáo viên là các nghệ nhân, các thợ lành nghề từ các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp, các làng nghề vào giảng dạy tại các cơ sở dạy nghề; xây dựng hệ thống trường sư phạm kỹ thuật đào tạo giáo viên dạy nghề. - Thúc đẩy hợp tác hiệu quả với các hãng, tập đoàn sản xuất - kinh doanh có khoa học và công nghệ hiện đại và các tổ chức phát triển khoa học và công nghệ trên thế giới. - Nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động nước ta trên phương diện thế lực, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, kỷ luật công nghệ, khả năng thích ứng và các phẩm chất khác của lao động quốc tế thông qua môi trường giáo dục huấn luyện, đào tạo và tạo ra các quy trình, tiêu chuẩn hoạt động tại các cơ sở. Về lĩnh vực y tế: - Xóa bỏ độc quyền trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, sản xuất, cung ứng thuốc chữa bệnh và trang thiết bị y tế. - Khuyến khích thành lập mới các bệnh viện, các cơ sở y tế ngoài công lập trong điều kiện đáp ứng được các điều kiện về trang thiết bị và phương tiện vật chất, nguồn lực. - Đảm bảo sự bình đẳng giữa các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập trong hoạt động quản lý nhà nước, hỗ trợ cho các cơ sở ngoài công lập về thông tin, kỹ thuật, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và chuyển giao công nghệ kỹ thuật y tế. - Đảm bảo quyền lợi cho mọi người dân qua việc củng cố và mở rộng bảo hiểm y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh theo bảo hiểm y tế. Về khoa học công nghệ: - Nhà nước thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập, cấp ngân sách dựa theo kết quả đầu ra. - Có hướng đi trong việc thể chế hóa thành lập các tổ chức nghiên cứu không thuộc sở hữu nhà nước trong một số lĩnh vực mà pháp luật không hạn chế sự tham gia của các thành phần ngoài nhà nước. - Tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư phát triển khoa học công nghệ tại Việt Nam. Tất cả cần được phối hợp thực hiện, nhằm tạo mọi cơ hội để từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch công nghệ giữa Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới. 3.2.4. Bội chi ngân sách nhà nước, mục tiêu và phương hướng thực hiện Cân đối NSNN đã được bảo đảm bằng các quy định mang tính nguyên tắc. Tuy nhiên, việc thực hiện Luật NSNN đã xuất hiện một số vướng mắc, tồn tại, trong đó vấn đề về phạm vi cân đối và cách tính bội chi NSNN còn có một số điểm chưa rõ ràng, chưa đúng với Luật NSNN, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Vấn đề này cần được khắc phục: - Có những biện pháp để hạn chế tỷ lệ bội chi, đồng nghĩa với việc quản lý NSNN tốt hơn qua các việc thực hiện đồng bộ: phân định rõ chức năng nhà nước - thị trường trong quá trình vận hành, điều hành nền kinh tế và quản lý xã hội; tạo dựng hành lang pháp lý rõ ràng tạo cơ sở cho việc thực hiện, hướng tới chi NSNN gắn với kết quả đầu ra; hướng tới cách xác định bội chi theo thông lệ quốc tế; có những biện pháp hạn chế thất thoát và lãng phí; hạn chế thất thu NSNN; hạn chế tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hạch toán không đúng chi phí thu nhập...vốn đã và đang diễn ra khá phổ biến và nghiêm trọng. - Có cách tiếp cận tổng thể - hệ thống đến vấn đề cân đối NSNN ở nước ta hiện nay để nỗ lực khắc phục sự mất cân đối trong từng khoản mục thu - chi cụ thể riêng biệt. Ví dụ ngân sách có thể cân đối được nguồn thu để trả lương theo các quy định pháp luật hiện hành; song sự mất cân đối ẩn phía sau lại là ở chỗ tiền lương có thể lại không phải là tiền lương đúng nghĩa. Mặc dù phần chi trả lương chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi thường xuyên của NSNN (khoảng 60-65%), song tiền lương của mỗi người lại tương đối thấp. Hoặc sự mất cân đối khác như, nguồn thu NSNN hạn hẹp nhưng lại có hàng trăm ngàn dự án “đi không đến nơi về không đến chốn”; hay thu NSNN dựa quá nhiều vào dầu thô, và thời gian tới thì hàng loạt dòng thuế lại bị cắt giảm theo những cam kết hội nhập. - Đồng thời, lâu nay, hoạt động thu chi NSNN của ta căn cứ chủ yếu vào "thu" (thu đủ - chi đủ; lấy thu bù chi). Đây là hạt nhân của hệ thống NSNN "cứng". Nó tạo thành cơ sở của tình trạng chi tràn lan, chi bình quân, nhà nước không kiểm soát được chi. Trong điều kiện kinh tế thị trường, phải dứt khoát từ bỏ cách tư duy này để chuyển sang nguyên tắc xuất phát từ "chi" để điều chỉnh hoạt động NSNN. Xuất phát từ "chi", về thực chất là dựa vào công việc, vào chức năng đảm nhiệm để “trả tiền”. Nhờ đó, kiểm soát được chi. Đây là bản chất của cái gọi là "hệ thống NSNN mềm". Nếu triệt để với cách đặt vấn đề này thì có cơ sở để xác định đúng những giải pháp căn bản để giải quyết vấn đề cân đối và bội chi NSNN. 3.2.5. Nâng cao tính minh bạch, tăng cường giám sát và có chế tài rõ ràng trong điều hành ngân sách nhà nước 3.2.5.1. Nâng cao tính minh bạch và quy định chế tài rõ ràng Hiện nay, chỉ số quan niệm về tham nhũng - CPI (Corruption Perceptions Index) của tổ chức Tổ chức Minh bạch Quốc tế - IT TI có thang điểm từ 0 tới 10, trong đó nước nào đạt 10 điểm có nghĩa là minh bạch hay “ trong sạch” trong khi nước nào bị xếp càng thấp trong thang điểm này thì bị coi là có mức độ tham nhũng càng cao. Năm 2006, Việt Nam đạt 2,6 điểm tăng 0,2 điểm so với 2005 nhưng lại bị xếp hàng thứ 111 trong tổng số 163 nước được khảo sát. Tức là trong vùng Đông Nam á, Việt Nam chỉ “trong sạch” bằng Lào(2,6 điểm), hơn Indonesia (2,4 điểm) và Campuchia (2,1 điểm), Myanmar(1,9 điểm). Ngân hàng thế giới, trên cơ sở nhiều nguồn tài liệu khảo sát, đưa ra đánh giá thường kỳ chỉ số chất lượng thiết chế vĩ mô của mỗi nước trong so sánh toàn cầu. Theo đó, một số chỉ số chủ yếu của chất lượng thiết chế vĩ mô là “ổn định chính trị”, “Chất lượng chính sách”, “Hiệu lực Chính quyền”, và “Kiểm soát tham nhũng”. Việt Nam có vị trí khá cao và lợi thế quan trọng về “ổn định chính trị” song chúng ta còn ở vị thế rất yếu trong các tiêu chí khác, đặc biệt là các tiêu chí “ chất lượng chính sách” và “kiểm soát tham nhũng.” Như vậy, những yêu cầu đổi mới đặt ra là cấp thiết: - Cần nâng cao hơn nữa cơ chế giám sát và quy định chế tài, xử lý nghiêm khắc những vụ việc tiêu cực. Đó là việc xem xét rà soát bổ sung chương trình hành động, phân công rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể trong chỉ đạo thực hiện. Tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm là: quản lý việc sử dụng ngân sách trong các lĩnh vực: Mua sắm tài sản công; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý đất đai... Thực hiện chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan đơn vị trong việc sử dụng ngân sách. Đồng thời, chính trong từng ngành, từng cấp, từng tổ chức cũng cần có cơ chế giám sát thích hợp. Điều này có thể thực hiện thông qua những hoạt động như triển khai qui chế kê khai tài sản công chức và của cả các thành viên gia đình công chức. - Ban hành các văn bản pháp quy, rà soát điều chỉnh các định mức cho phù hợp, có cơ chế khuyến khích, khen thưởng kịp thời, thoả đáng với các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có thành tích thực hành tiết kiệm; thí điểm ngay mô hình mua sắm tài sản công ví dụ như: mua xe ôtô từ vốn ngân sách, hạn chế dùng tiền mặt trong mua sắm tài sản công... - Học tập kinh nghiệm ở ngay các nước Đông Nam á trong việc quản lý theo hướng minh bạch, đó là việc đề cao bản lĩnh và trách nhiệm của công chức nhà nước thông qua 3 trọng tâm: tôn vinh đạo đức công việc; khuyến khích tinh thần dám nghĩ dám làm; tăng cường ràng buộc giữa trách nhiệm và quyền lợi của công chức nhà nước, xây dựng chính phủ mạnh với “3T” đặc trưng cơ bản là tâm sáng, tầm nhìn rộng và tư duy chiến lược trong hoạch định chính sách. - Cải cách bộ máy hành chính nhà nước theo hướng hiệu quả, gọn nhẹ và chi phí thấp sẽ là cơ hội cải thiện mức lương thỏa đáng cho đội ngũ công chức trong bộ máy nhà nước. 3.2.5.2. Tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan có thẩm quyền - Quốc hội đã ban hành Luật về hoạt động giám sát (năm 2003), nhưng còn nhiều vấn đề cần được hướng dẫn cụ thể vì hiện nay, lĩnh vực giám sát của Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách rất rộng, liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều cơ quan nhà nước, trong khi biên chế và tổ chức bộ máy chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy: cần có những người am hiểu sâu về lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực tài chính - ngân sách được đề cử vào ủy ban. Đồng thời, tăng cường bộ máy tham mưu, giúp việc có hiệu quả hơn, tăng số lượng chuyên gia về tài chính - ngân sách, có kinh nghiệm công tác tại các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; đồng thời đổi mới phương thức làm việc nhằm phát huy tối đa năng lực của từng thành viên. - Cần nâng cao hơn nữa vai trò giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân qua các hình thức giám sát khác nhau. ẻ Một là, tăng cường và nâng cao chất lượng công tác giám sát chung: Đây là hình thức xem xét các báo cáo và chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội và cuộc họp các Uỷ ban của Quốc hội. ẻ Hai là, tăng cường và nâng cao chất lượng công tác giám sát theo chuyên đề: Đây là hình thức giám sát chuyên sâu về những chuyên đề cụ thể, giúp Quốc hội có nhận xét, đánh giá sâu hơn về những chủ đề mà nhiều cử tri trong cả nước quan tâm. Thời gian qua, Quốc hội đã thực hiện giám sát một số chuyên đề như “Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp, lãng phí, thất thoát”; chuyên đề “ Việc thực hiện Luật NSNN từ khi Luật có hiệu lực đến trước khi lập dự toán NSNN năm 2006”; chuyên đề “Kết quả thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn từ năm 2001 đến nay” Phương thức giám sát này đã mang lại những kết quả tích cực bước đầu. Tuy nhiên, cần đẩy mạnh hơn nữa việc đưa ra những giải pháp cụ thể để có thể khắc phục những tồn tại một cách triệt để hơn nữa. ẻ Ba là tăng cường giám sát đột xuất: Đây là hình thức giám sát khi công tác quản lý và điều hành NSNN có dấu hiệu trái với quy định của Luật NSNN và vi phạm các chế độ, tiêu chuẩn, định mức. Khi đó, Quốc hội và Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát để chấn chỉnh các sai phạm, các vi phạm nhằm bảo đảm kỷ luật tài chính, chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả. Phương thức giám sát này bảo đảm tính hợp pháp trong quản lý và điều hành NSNN theo quy định của pháp luật. Các cơ quan của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, từng đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cần thực hiện tốt hình thức giám sát này và có các đề nghị kịp thời tại kỳ họp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. - Phát huy hơn nữa hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước qua việc kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động của các đơn vị thụ hưởng NSNN; thực hiện kiểm tra và giám sát tài chính công. Thực hiện chế độ kiểm toán và công bố thông tin bắt buộc đối với các cấp ngân sách, các đơn vị sử dụng ngân sách và các công ty nhà nước. Phân định trách nhiệm và tăng cường phối hợp giữa cơ quan kiểm toán nhà nước, thanh tra tài chính, kiểm soát nội bộ, mở rộng sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập đối với các đơn vị thu, chi tài chính, ngân sách. 3.2.5.3. Tận dụng và nâng cao hiệu quả giám sát từ công chúng Vừa qua, ngày 10/4/2007,Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Nghị định về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan Nhà nước. Đây là lần đầu tiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin và đưa thông tin lên mạng của các cơ quan Nhà nước đã được quy định một cách cụ thể, rõ ràng. Đây được xem là một trong những quy định quan trọng nhằm giúp minh bạch hóa việc đưa thông tin lên mạng của các cơ quan công quyền, tạo thuận lợi cho người dân trong việc tìm hiểu thông tin và nắm rõ các thủ tục hành chính. Theo Nghị định này, cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp công khai, minh bạch, kịp thời, đầy đủ và chính xác trên môi trường mạng những thông tin theo quy định của khoản 2 Điều 28 của Luật Công nghệ thông tin; pháp luật về phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các quy định khác của pháp luật về công khai, minh bạch thông tin. Những quy định này áp dụng với các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp và các đơn vị sự nghiệp sử dụng NSNN. Cơ quan nhà nước cũng có trách nhiệm tạo thuận lợi cho các hoạt động trên môi trường mạng bao gồm: tiếp nhận ý kiến góp ý, khiếu nại, tố cáo, yêu cầu cung cấp thông tin của tổ chức, cá nhân; lưu trữ, xử lý, cập nhật, cung cấp thông tin, trả lời các yêu cầu; chuyển yêu cầu cung cấp thông tin đến đúng cơ quan có liên quan nếu nội dung yêu cầu cung cấp thông tin vượt quá chức năng, nhiệm vụ hoặc quyền hạn của cơ quan mình. Quy định đã có, việc phấn đấu để thực hiện được nội dung này mặc dù không dễ dàng, nhưng đây là việc làm hết sức cần thiết. Và để hỗ trợ cho việc tiếp xúc của người dân với các cơ quan công quyền qua mạng, những việc cần thực hiện là: - Uỷ ban nhân dân các tỉnh có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân triển khai rộng khắp các điểm truy nhập Internet công cộng đồng thời tăng cường hướng dẫn phương pháp truy nhập và sử dụng thông tin, dịch vụ hành chính công trên môi trường mạng. - Các cơ quan Nhà nước phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng thông tin và có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân dễ dàng truy nhập thông tin và dịch vụ hành chính công trên môi trường mạng. - Ngoài ra, báo chí cũng có vai trò rất lớn giúp loại bỏ tham nhũng qua việc phản ánh những việc làm, thậm chí là lối sống không phù hợp của cán bộ công chức. Đây chính là một trong những bước đi quan trọng, vừa góp phần đảm bảo việc coi trọng và nâng cao trình độ dân trí, vừa đáp ứng được sự quan tâm của toàn xã hội, và đây cũng chính là nền tảng cho việc dân chủ hóa xã hội không ngừng, đưa đất nước càng tiến lên, bắt kịp những bước tiến của khu vực và thế giới. 3.2.6. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý NSNN Từ đầu năm 2006, một hệ thống kế toán máy tính có tên gọi là Hệ thống thông tin quản lý kho bạc và ngân sách (TABMIS) được chính thức triển khai từng bước trong các đơn vị sử dụng NSNN. Đây là hệ thống được xây dựng và lắp đặt trong khuôn khổ của của phần một Dự án Cải cách quản lý tài chính công (PFMRP) và là phần cốt lõi của Hệ thống thông tin quản lý tài chính thích hợp (IFMIS). TABMIS được ứng dụng nhằm cung cấp một bức tranh đầy đủ, kịp thời, chính xác về tình hình sử dụng ngân sách Nhà nước ở bất kỳ thời điểm nào. Theo Ban quản lý Dự án cải cách quản lý tài chính công (PFMRP), để TABMIS được ứng dụng rộng rãi sẽ phải mất 4 năm nữa cho các công đoạn như viết phần mềm, đào tạo nguồn nhân lực... Như vậy giai đoạn đầu của TABMIS được tiến hành trong ba năm, toàn bộ các đơn vị sử dụng NSNN tạm thời chưa kết nối vào TABMIS (trừ một số đơn vị được kết nối có tính chất thí điểm). Sau khi Bộ Tài chính làm chủ được hệ thống trong giai đoạn này thì sẽ xây dựng kế hoạch triển khai mở rộng dần đến các đơn vị sử dụng NSNN trong toàn quốc. Việc cho các đơn vị sử dụng NSNN được kết nối vào TABMIS sẽ thông qua 2 hình thức. Kết nối trực tiếp bằng các tên truy cập và mật khẩu được đăng ký hợp pháp. Hình thức thứ hai là kết nối gián tiếp thông qua cổng giao diện. Giai đoạn tiếp theo của dự án sẽ bao gồm việc kết hợp những cải cách và cải tiến chủ yếu trong quản lý tài chính vào chức năng hiện tại. Điều này sẽ bao gồm cả việc quản lý sổ cái tổng hợp và một tài khoản kho bạc thống nhất. Trong giai đoạn hai TABMIS cũng sẽ được triển khai diện rộng tới tất cả các đơn vị sử dụng ngân sách thuộc Chính phủ. Trong quá trình triển khai thực hiện ban đầu, các cơ quan tài chính sẽ lo toàn bộ việc nhập và xử lý dữ liệu dựa trên thông tin được cung cấp bởi các đơn vị sử dụng ngân sách. Và mục tiêu hướng đến là cung cấp sự hỗ trợ về thông tin quản lý cốt yếu cho các cơ quan Tài chính, cũng như cho các đơn vị sử dụng ngân sách. Đặc biệt, các đơn vị sử dụng ngân sách thuộc các Bộ, ngành Trung ương, các chính quyền/UBND địa phương và các DNNN. Như vậy, có thể nói việc triển khai và tận dụng được những ưu điểm của TABMIS nói riêng hay tăng cường tận dụng những thành tựu công nghệ vào hoạt động ngân sách nói chung là vấn đề đóng vai trò rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Việc xây dựng, triển khai và đảm bảo tiến độ thực hiện sẽ cần được thực hiện qua một chương trình hành động khoa học để mang lại hiệu quả như mong đợi. Và sự thành công trong việc áp dụng công nghệ thông tin một cách toàn diện và có hệ thống sẽ nâng cao tính tiện ích, hiệu quả trong việc tổ chức, quản lý NSNN cũng như sẽ tạo tiền đề tốt cho chúng ta trong việc ngày càng mở rộng những nghiên cứu và ứng dụng tiên tiến phục vụ quá trình phát triển và đổi mới toàn diện. Kết luận chương 3 Hiện nay, các tổ chức trên thế giới và khu vực như Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Phát triển Liên Hiệp quốc, Ngân hàng Phát triển Châu á…. cũng như Chính phủ một số nước đều có những chương trình, dự án hay tư vấn với tính chất hỗ trợ Việt Nam trong vấn đề cải cách khu vực tài chính công nói chung. Nhà nước ta cũng đã xác định những mục tiêu và nhiệm vụ cần hướng đến trong thời gian tới. Đối với Học viên, đây thực sự là một lĩnh vực mà Học viên rất tâm huyết, hy vọng những giải pháp trên đây có thể thể hiện được sự quan tâm đó cũng như những gì mà Học viên đã đúc kết được trong quá trình nghiên cứu Đề tài. Kết luận Với tình hình hiện nay, sau gần 11 năm nỗ lực, chúng ta đã đạt được thành công trong việc gia nhập WTO, Việt Nam được chính thức kết nạp làm thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu này vào ngày 11/01/2007 vừa qua. Việt Nam cũng đã ký thỏa thuận thực hiện nhiều cam kết song phương và đa phương trong quá trình hội nhập, đó là các cam kết về minh bạch hóa, về việc mở cửa thị trường đối với hầu hết các lĩnh vực Như vậy, để mang lại những thành công to lớn, điều này cần có sự cố gắng nỗ lực của chúng ta trong rất nhiều lĩnh vực, việc thực hiện chính sách minh bạch hóa là một trong số đó. Đồng thời, chúng ta cũng cần có nhiều cải cách, việc cải cách hiệu quả vấn đề quản lý tài chính Nhà nước nói chung hay quản lý chi Ngân sách Nhà nước nói riêng có thể nói cũng là một trong những thước đo để đánh giá những bước đổi mới của Việt Nam trong thời kỳ mới. Từ đó, hướng đến việc đáp ứng được những mong mỏi của Nhà nước, của toàn dân, và cũng khẳng định về quyết tâm đổi mới của chúng ta, nâng cao diện mạo của Việt Nam trên trường quốc tế. Tài liệu tham khảo 1. GS.TS Nguyễn Thị Cành (2006), Tài chính Công, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh. 2. PGS.TS Vũ Văn Hiền, TS. Đinh Xuân Lý (2004), Đổi mới ở Việt Nam - tiến trình, thành tựu và kinh nghiệm, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. TS Vũ Minh Khương, Đột phá từ triết lý phát triển, www.vnn.vn 4. GS.TS Đỗ Hoài Nam (2004), Một số vấn đề về Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, TP.HCM. 5. GS.TS. Hồ Xuân Phương; PGS.TS. Lê Văn ái (2000), Quản lý Tài chính Nhà nước, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. 6. PGS.TS. Sử Đình Thành (2006), Lý thuyết Tài chính Công, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh. 7. PGS.TS. Trần Ngọc Thơ (2005), Kinh tế Việt Nam trên đường hội nhập, Nhà xuất bản Thống Kê. 8. Số liệu về Ngân sách Nhà nước, về tốc độ tăng trường kinh tế, về chỉ số phát triển con người trên các trang web của Bộ Tài chính www.mof.gov.vn; trang web của Tổng Cục thống kê www.gso.gov.vn; trang web Bộ Kế hoạch Đầu tư www.mpi.gov.vn và các trang www.imf.org; www.wikipedia.org. 9. Số liệu về kết quả kiểm toán ngân sách trên các trang web www.cpv.org.vn; www.caicachhanhchinh.gov.vn; www.mof.gov.vn; www.kiemtoan.com.vn. 10. Báo cáo phát triển Việt Nam 2005, Quản lý để phát triển 2007 trên trang web www.worldbank.org,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý chi Ngân sách Nhà nước Việt Nam trong hội nhập kinh tế toàn cầu.doc