Trong đời sống kinh tế xã hội hiện nay, CTCP là một loại hình công ty phổ biến,
đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, từ thực trạng các quy
định của pháp luật cũng như thực tiễn về quản lý CTCP ở Việt Nam hiện nay cho
thấy, vấn đề quản lý CTCP ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập cần sửa đổi, bổ sung và
sớm hoàn thiện. Mặc dù trong nội bộ CTCP, người quản lý, người lao động và các
cổ đông đều mong muốn công ty kinh doanh có hiệu quả và phát triển bền vững,
nhưng do có sự khác biệt về lợi ích giữa các cổ đông, sự tách biệt giữa người quản
lý và người sở hữu nên đã tạo nên những xung đột, mâu thuẫn về lợi ích trong nội
bộ công ty như xung đột về lợi ích giữa cổ đông nhỏ và những cổ đông lớn (cổ đông
chi phối), xung đột giữa cổ đông với những người quản lý doanh nghiệp.
103 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 8554 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng đối nhỏ thì ngoài
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 73
các văn kiện công ty kể trên, các cổ đông của công ty có thể tự xây dựng cho mình
những thỏa thuận riêng với nhau và tồn tại song song với các văn kiện công ty. Các
thỏa thuận này được gọi là thỏa thuận cổ đông, chúng có thể bổ sung vào các điều
khoản của văn kiện công ty hoặc thậm chí quy định khác đi (trái với) văn kiện công
ty và khác (trái) với các quy định của pháp luật doanh nghiệp. Chẳng hạn một thỏa
thuận cổ đông có thể như sau: Vì giá cổ phiếu của doanh nghiệp liên tục đi xuống,
các thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) của một công ty niêm yết (Công ty A)
thỏa thuận với nhau rằng, để hạn chế tình trạng xả hàng khiến giá cổ phiếu càng
xuống thấp, họ sẽ cùng nhau không bán số cổ phiếu mà mình nắm giữ trong thời
hạn, ví dụ, 06 tháng. Thỏa thuận cổ đông nêu tại tình huống này có thể vi phạm các
quy định tại điểm d khoản 1 Điều 77 và khoản 5 Điều 77 của LDN năm 2005.
Rõ ràng, pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam chưa sẵn sàng cho những tình
huống thế này. Không có điều luật nào của LDN và các văn bản dưới luật điều
chỉnh vấn đề khi có sự khác biệt giữa thỏa thuận cổ đông và điều lệ/LDN thì cái nào
sẽ chi phối. Trên thực tế, cũng chưa thấy có phán quyết nào của tòa án đối với các
vụ việc loại này. Vì vậy, câu trả lời cho câu hỏi về tính hợp pháp và có thể thi hành
của thỏa thuận cổ đông tại Việt Nam là chưa có. Nói cách khác, nếu một trong các
loại tranh chấp nêu trên được đem ra phân xử trước tòa án, không ai có thể biết
phán quyết của tòa sẽ bảo vệ thỏa thuận cổ đông hay điều lệ /quy định của LDNVN.
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 74
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN
I. Nhận xét chung về thực trạng quản lý CTCP tại Việt Nam hiện nay
1. Những thành công
Xét về khía cạnh quản lý doanh nghiệp, LDN năm 2005 đã xác định nền tảng
cho cơ chế quản lý công ty nhìn chung là thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc
tế. So với LDN năm 1999, LDN năm 2005 quy định đầy đủ hơn, toàn diện hơn, có
nhiều quy định tương đối rõ, phù hợp, góp phần tạo lập khung pháp lý để hình thành
một cơ chế quản lý có hiệu quả cho các doanh nghiệp, nhất là CTCP. Cụ thể, trong
Luật có các quy định bảo vệ và tạo điều kiện cho việc thực hiện các quyền hạn
chính đáng của các cổ đông; công khai thông tin và minh bạch hóa cơ chế quản lý
công ty; các quyền của HĐQT và cơ chế giám sát HĐQT của chủ sở hữu trong cơ
chế quản lý công ty. Đó là cơ sở pháp lý quan trọng và cụ thể nhất cho hoạt động
quản lý doanh nghiệp hiện nay, đồng thời quy định cụ thể về quyền hạn, nghĩa vụ
và trách nhiệm của các bên liên quan như cổ đông, HĐQT, giám đốc điều hành
trong đó đã chú ý bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số hơn.
Đi đôi với quyền lợi thì LDN cũng xác định rõ hơn các nghĩa vụ của người quản
lý CTCP, nhất là đối với thành viên HĐQT và Giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung
thành, trung thực và cẩn trọng; thiết lập chế độ thù lao, tiền lương gắn với kết quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; yêu cầu công khai và minh bạch hóa, nhất là
đối với những người quản lý.
2. Những khó khăn
Tuy LDN 2005 đã có những bước tiến quan trọng trong việc quản lý CTCP
nhưng do thiếu kiến thức về quản lý doanh nghiệp cũng như thực tế triển khai việc
quản lý doanh nghiệp vẫn còn rất mới mẻ nên nhiều quy định của LDN 2005 như
quy định về phương thức bầu dồn phiếu, quy định về trình tự và thủ tục họp
ĐHĐCĐ,… vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Phân tích thực trạng trong Chương II cho thấy trong thời gian qua đã xảy ra
không ít vụ vi phạm các quyền cơ bản của cổ đông đặc biệt là cổ đông thiểu số. Một
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 75
số công ty không niêm yết, vì một số lý do thực tiễn, có xu hướng hạn chế việc các
cổ đông nắm giữ một lượng nhỏ cổ phiếu tham gia vào ĐHĐCĐ thường niên, Việc
phần lớn cổ đông không tiếp cận được với thông tin của công ty hoặc không tiếp
cận được thông tin đầy đủ, chính xác và trung thực là hiện tượng phổ biến. Cổ đông
thiểu số hầu như không nhận được thông báo về các quyết định của ĐHĐCĐ, không
nhận được tóm tắt báo cáo tài chính hàng năm, không nhận được cả thông báo về
việc trả cổ tức, v.v. Bên cạnh các quyền cơ bản của cổ đông đang bị vi phạm, thì
còn hiện tượng lạm dụng quyền cổ đông của các cổ đông lớn đặc biệt là cổ đông
nhà nước. Một số cán bộ, cơ quan nhà nước có liên quan không phân biệt rạch ròi
quyền cổ đông và quyền quản lý hành chính, đã can thiệp trực tiếp vào các công
việc quản trị nội bộ của công ty như không cho phép triệu tập ĐHĐCĐ, hoặc chỉ
đạo triệu tập ĐHĐCĐ vi phạm trình tự, thủ tục họp ĐHĐCĐ, chỉ định bổ nhiệm,
thay thế thành viên HĐQT.
Thêm vào đó, HĐQT trong các công ty ở nước ta còn thiếu tầm nhìn chiến lược,
chưa phải là thể chế giám sát và cân bằng quyền lực giữa các bên trong công ty,
nhất là giữa chủ sở hữu và người điều hành. Trình độ năng lực của thành viên
HĐQT còn hạn chế, đa số họ chưa phải là những người quản lý chuyên nghiệp (vừa
là chủ sở hữu vừa là người quản lý), vẫn quen và thiên về cách làm việc trong chế
độ quản lý “thuận tiện”. Ngoài ra, BKS trong các CTCP ở nước ta còn mang tính
hình thức chứ chưa phải là một thể chế giám sát nội bộ, độc lập, chuyên môn và
chuyên nghiệp để cân bằng lại quyền lực của HĐQT và BGĐ, phục vụ cho lợi ích
tối đa của công ty và cổ đông của công ty.
II. Những yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện các quy định về quản lý CTCP
Hệ thống luật pháp Việt Nam đang phát triển theo hướng hoàn thiện thể chế thị
trường, phù hợp với các cam kết và luật pháp, thông lệ quốc tế. Hệ thống này chỉ
phát huy hiệu lực và hiệu quả khi thói quen hành xử của bộ máy nhà nước và doanh
nghiệp dựa vào quan hệ phải được thay thế bằng thói quen hành xử và tuân thủ theo
pháp luật. Về phương diện lý luận, sự hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quản lý công ty luôn có tính tương đối, thích ứng với từng giai đoạn phát triển của
nền kinh tế. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 76
lý công ty phải được xác định là một quá trình liên tục, lâu dài với những bước đi và
giải pháp thích hợp. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, việc hoàn thiện các quy định
của pháp luật về quản lý CTCP cần được thực hiện theo những định hướng sau:
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý CTCP phải căn cứ vào
những đặc điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam, qua đó góp phần tạo ra
một sân chơi chung bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế.
Các quy định của pháp luật về quản lý CTCP phải phù hợp với đặc điểm văn
hóa kinh doanh của người Việt Nam.
Các quy định về quản lý công ty CTCP phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý công ty, tăng cường
tính cạnh tranh của công ty, nâng cao khả năng thích ứng với tiến trình hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Việc hoàn thiện các quy định về quản lý CTCP cần được đặt trong giải pháp
tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế.
III. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý CTCP ở
Việt Nam
1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về cổ đông
1.1. Về quyền thành lập CTCP một cổ đông
Cần thiết phải xem xét lại quy định số lượng cổ đông tối thiểu để thành lập và
duy trì hoạt động của CTCP. Để tránh tình trạng lách luật cũng như để quy định của
pháp luật phù hợp với nhu cầu thực tế của nhiều nhà đầu tư, LDN nên có quy định
cho phép thành lập CTCP một cổ đông bởi vì CTCP một cổ đông không có sự khác
biệt với CTCP nhiều cổ đông về bản chất, mà chỉ có sự khác biệt về trình tự, thủ tục
thành lập. Sự hình thành và hoạt động của loại hình công ty này không ảnh hưởng
đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội và lợi ích của bất kỳ người thứ ba nào khác.
Điều này đã được kiểm chứng ở một số nước thừa nhận mô hình công ty một cổ
đông kể cả CTCP như ở Anh và ở Đức.
Bên cạnh đó, mô hình CTCP một cổ đông có thể góp phần quan trọng thực hiện
chính sách cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước. Cụ thể, khi tiến hành cổ phần hoá,
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 77
cơ quan thẩm quyền ra quyết định cổ phần hoá, doanh nghiệp chốt thời điểm và tiến
hành định giá bình thường, hoạt động sản xuất kinh doanh không bị ảnh hưởng. Vấn
đề quan trọng nhất của việc cổ phần hoá là bán cổ phần sẽ được tiến hành một cách
chủ động hơn, linh hoạt hơn, và hiệu quả hơn sau khi công ty đã là CTCP. Số lượng
cổ phần chào bán có thể được điều chỉnh theo thị trường, không nhất thiết phải đấu
giá tất cả trong một đợt. Kinh nghiệm cho thấy, Bộ luật Thương mại của Cộng hoà
Séc đã có tác dụng rất lớn trong việc chuyển đổi các DNNN thành các CTCP do
việc tiếp nhận hình thức CTCP một cổ đông.
Thêm vào đó, chấp nhận hình thức CTCP một cổ đông sẽ giúp cho LDN thực
hiện tốt chức năng tạo lập ra hình thức công ty đa dạng và phong phú cho các nhà
đầu tư lựa chọn và phù hợp các nhu cầu thực tế của xã hội. Thực tế cho thấy, sự
phát triển kinh tế ở Việt Nam đã có sự đóng góp rất lớn từ chính sách mở rộng các
hình thức công ty thể hiện qua Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp
năm 2005.
Và tiếp nhận hình thức CTCP một cổ đông không chỉ là một hệ quả tất yếu của
việc thực hiện nguyên tắc tự do ý chí và quyền tự do kinh doanh, mà còn tạo điều
kiện dễ dàng cho nhà đầu tư trong việc chuyển đổi hình thức công ty do sức ép của
thị trường, do năng lực kinh doanh, cũng như do các rủi ro của đời sống, đồng thời
hợp tác, liên kết với những người khác.
1.2. Về quyền dự họp ĐHĐCĐ
Quyền dự họp ĐHĐCĐ là một trong những quyền quan trọng nhất của cổ đông,
là phương thức chủ yếu để thể hiện tư cách cổ đông. Thêm vào đó, cuộc họp
ĐHĐCĐ là nơi quan trọng nhất để tất cả các cổ đông thể hiện mong muốn của
mình. Chính vì vậy, các quy định của LDN cần tạo mọi khả năng mở cửa cho tất cả
các cổ đông, không nên có quy định hạn chế quyền dự họp ĐHĐCĐ như quy định
những cổ đông không có quyền biểu quyết (gồm cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đông
ưu đãi hoàn lại) không có quyền dự họp ĐHĐCĐ tại khoản 3 điều 82 và điều 83
LDN 2005.
Để đảm bảo các cổ đông thực sự thực hiện quyền dự họp ĐHĐCĐ một cách hữu
hiệu, bên cạnh việc quy định rõ ràng và kỹ lưỡng trình tự và thủ tục triệu tập và dự
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 78
họp ĐHĐCĐ, LDN cần chú ý tới thời hạn gửi giấy mời họp ĐHĐCĐ. Khoản 1 điều
100, LDN 2005 quy định “Người triệu tập họp ĐHĐCĐ phải gửi thông báo mời
họp đến tất cả cổ đông có quyền dự họp chậm nhất 7 ngày làm việc trước ngày khai
mạc nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn”. Cần xem xét lại thời hạn 7 ngày
có đầy đủ hay không? Thời gian này cần đủ để các cổ đông có thể xem xét chương
trình họp, nghiên cứu những vấn đề sẽ đưa ra thảo luận và biểu quyết tại cuộc họp,
suy nghĩ và chuẩn bị đề án đưa vào chương trình họp.
1.3. Về quyền ưu đãi biểu quyết
Việc quy định chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập
được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết tại khoản 3, điều 78, LDN 2005 như
ở Chương II đã phân tích là có thể tạo nên sự bất bình đẳng giữa các cổ đông (đặc
biệt là sự bất bình đẳng giữa cổ đông nhà nước và các cổ đông khác trong công ty),
tạo cơ hội cho cơ quan hành chính Nhà nước can thiệp vào sự tự chủ kinh doanh
của công ty, trái với mục đích cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Hậu quả của
quy định như trên là những trở ngại lớn trong việc xây dựng một cơ cấu quản lý
công ty lành mạnh và hiệu quả. Vì vậy, cần thiết phải xem xét lại quy định này
trong LDN 2005 để xây dựng một quy định mới tạo sự bình đẳng hơn giữa các cổ
đông, góp phần xây dựng một cơ cấu quản lý CTCP lành mạnh và hiệu quả hơn.
1.4. Về quyền tiếp cận thông tin
Như đã phân tích ở Chương II, đối với một số loại thông tin, LDNVN 2005 có
sự hạn chế cả về tỷ lệ số cổ phần tối thiểu và thời hạn nắm giữ cổ phần của cổ đông
có quyền được thông tin (cổ đông phải nắm >10% tổng số cổ phần phổ thông hoặc
1 tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty, thời hạn liên tục ít nhất là 6 tháng
– tức là các cổ đông lớn). Đối tượng của quyền tìm đọc và được thông tin của các
cổ đông lớn trên nằm trong phạm vi “xem xét và trích lục số biên bản và các nghị
quyết của HĐQT, Báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm theo mẫu của hệ thống
kế toán Việt Nam và các báo cáo của BKS”. Như vậy, những cổ đông nhỏ nắm giữ
≤10% tổng số cổ phần phổ thông của công ty trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng
hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty không được quyền tiếp cận
những thông tin trên mà chỉ được tiếp cận thông tin trong phạm vi danh sách cổ
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 79
đông có quyền biểu quyết; Điều lệ công ty, sổ biên bản họp ĐHĐCĐ và các nghị
quyết của ĐHĐCĐ. Rõ ràng quyền tiếp cận thông tin của tất cả các cổ đông theo
LDN 2005 còn rất hạn chế, LDN nên có quy định mở rộng hơn nữa các đối tượng
thông tin mà tất cả các cổ đông được quyền tiếp cận để đảm bảo sự minh bạch và
công khai thông tin, tạo điều kiện cho tất cả các nhà đầu tư có thể đánh giá hoạt
động của doanh nghiệp. Theo đó, ngoài các đối tượng thông tin theo LDN 2005 quy
định như trên nên mở rộng thêm quyền tiếp cận Báo cáo tài chính, quyền yêu cầu
cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ sơ kế toán của công ty cho các cổ đông đặc biệt là
các cổ đông nhỏ để họ có thể đánh giá được hoạt động của doanh nghiệp một cách
hữu hiệu và kịp thời hơn.
1.5. Về quyền khởi kiện của cổ đông
Theo phân tích thực trạng ở Chương II, LDNVN 2005 không có quy định về
quyền của cổ đông trực tiếp khởi kiện HĐQT, quyền của cổ đông yêu cầu cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc tòa án hủy bỏ quyết định của HĐQT trong
trường hợp khẩn cấp để bảo vệ lợi ích của công ty, của cổ đông và của các bên có
liên quan khác, cũng không quy định quyền của cổ đông yêu cầu toàn án xem xét
miễn nhiệm thành viên HĐQT hoặc BKS trong trường hợp cần thiết. Vì vậy, cần
thiết phải xem xét bổ sung quyền khởi kiện của cổ đông vào LDN nhằm bảo vệ lợi
ích của các cổ đông đặc biệt là các cổ đông nhỏ, tránh sự lạm dụng của các các cổ
đông nắm quyền kiểm soát một cách trực tiếp.
Ngoài ra, cần phải chỉnh sửa và bổ sung cụ thể hơn quyền yêu cầu Tòa án hủy
bỏ quyết định của ĐHĐCĐ của cổ đông trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận
được biên bản họp ĐHĐCĐ như quy định tại điều 107 LDN 2005 để đảm bảo khả
năng thực thi của pháp luật. Ngoài ra, cần phải lưu ý xem xét một vấn đề đáng quan
tâm là: nếu ĐHĐCĐ đã thông qua một nghị quyết vi phạm pháp luật nghiêm trọng
và đã trải qua 90 ngày theo quy định tại điều 107 LDN 2005 mà chưa có người khởi
kiện để yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết này thì nên chăng nghị quyết đó có hiệu
lực pháp luật hay không? Nếu theo quy định trên thì nghị quyết đó vẫn có hiệu lực
pháp luật, tuy nhiên về nguyên tắc, một quyết định mà nội dung của nó trái với pháp
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 80
luật không thể nào có hiệu lực pháp luật, cho dù đã được thông qua trước một thời
gian khá lâu.
1.6. Về cơ cấu cổ đông trong CTCP
Cần thiết phải xem xét lại quy định về cơ cấu cổ đông trong một CTCP. Theo
quy định của LDN 2005, cơ cấu cổ đông của CTCP có sự tham gia của cô đông nhà
nước. Cổ đông nhà nước có thể sở hữu đa số cổ phần để giữ vai trò cổ đông chi phối
trong CTCP. Tuy nhiên, như phân tích thực trạng ở Chương II, trong các công ty cổ
phần hóa từ DNNN, cổ đông nhà nước (thường là các đại diện của họ) hay lạm
dụng quyền lực cũng như thực hiện quyền của công ty theo tư duy và phương thức
cũ, trái với quy định của pháp luật về quyền của cổ đông. Cho nên, vấn đề đặt ra là
liệu nhà nước có cần phải nắm giữ cổ phần chi phối trong một CTCP hay không?
Thực trạng trên cho thấy việc quy định cơ quan nhà nước phải rút ra khỏi thị trường
và hạn chế phạm vi hoạt động của các cơ quan nhà nước (như chỉ quản lý công cộng
và cung cấp dịch vụ công cộng) là một điều kiện tiên quyết trong công cuộc lành
mạnh hóa quản lý CTCP. Chính quyền nhà nước cần phải rút lui khỏi việc trực tiếp
tham gia quản lý nội bộ của các CTCP. Tuy nhiên, ở Việt Nam mục tiêu này không
dễ đạt được trong thời gian ngắn.
1.7. Về việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số
Việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số là một bài toán hết sức quan
trọng trong việc quản lý CTCP. Như đã phân tích ở Chương II, so với LDN 1999,
mặc dù LDN 2005 đã bảo vệ mạnh hơn quyền và lợi ích của các cổ đông thiểu số
nhưng vẫn còn một số khiếm khuyết vì Luật chưa có những quy định cụ thể để bảo
vệ cổ đông thiểu số, dẫn đến thực trạng quyền và lợi ích của họ không thực sự được
bảo vệ trong thực tế. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện các chế độ pháp lý
để các cổ đông thiểu số có thể thực hiện thiết thực các quyền quản lý công ty và bảo
vệ lợi ích của mình hơn nữa.
Để bảo vệ được lợi ích của các cổ đông thiểu số, trước hết phải dựa vào số lượng
thông tin mà họ tiếp cận được, chất lượng của các thông tin, thời điểm, tính kịp thời
của thông tin. Về quyền tiếp cận thông tin, như đã phân tích ở trên, LDN 2005
không quy định cổ đông nhỏ được quyền yêu cầu cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 81
sơ kế toán của công ty, báo cáo tài chính của công ty. Ngoài ra, xem xét những
thông tin phải công bố theo quy định, LDN 2005 mới chủ yếu đề cập đến thông tin
quá khứ, những thông tin công bố định kỳ về báo cáo tài chính hàng quý, những
thông tin đột xuất mà công ty phải công bố. Riêng những thông tin đánh giá về
tương lai của công ty như nhóm thông tin về HĐQT và nhóm thông tin về đánh giá
của HĐQT về tương lai quản lý của công ty, thì hiện nay còn thiếu và các quy định
của pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhóm thông tin đánh giá của HĐQT bao
gồm thông tin về thay đổi thị trường sản phẩm, thị trường đầu ra của công ty, những
tác động của thị trường vốn và những yếu tố khác. Nhóm thông tin về HĐQT gồm
các thông tin như: thành viên HĐQT sở hữu bao nhiêu phần trăm cổ phần trong
công ty, năng lực kinh nghiệm của HĐQT, ai giới thiệu họ vào HĐQT. Những
thông tin này rất quan trọng, không những giúp nhà đầu tư đánh giá được năng lực
của đội ngũ HĐQT, mà còn đánh giá được tính khách quan, công bằng, vô tư không
thiên vị trong hoạt động kinh doanh. Đối với các nhà đầu tư thiểu số, hai nhóm
thông tin về tương lai rất quan trọng. Bởi có những thông tin như vậy thì mọi giao
dịch của công ty kể cả giao dịch chuyển nhượng cổ phần của thành viên HĐQT mới
có thể được đánh giá một cách minh bạch và công bằng. Trong khi đó trong giới
đầu tư hiện nay năng lực phân tích chưa đáp ứng được nhu cầu như kỳ vọng. Họ có
thể còn thiếu hiểu biết về cách thức, công cụ cơ chế để có thể tự bảo vệ lấy lợi ích
của mình.
Từ thực trạng trên, LDN cần thiết phải bổ sung cụ thể quyền yêu cầu cung cấp
thông tin về giấy tờ, hồ sơ kế toán, báo cáo tài chính của công ty cho các cổ đông
nhằm đảm bảo các thông tin trong quá khứ được cung cấp đầy đủ. Đồng thời, các
quy định trong LDN nên hướng theo những thông lệ quốc tế tốt nhất nhằm cung cấp
cho các cổ đông nhỏ những thông tin trong tương lai về HĐQT và các đánh giá của
HĐQT. Tuy nhiên việc sửa đổi luật như vậy chắc chắn sẽ mất một thời gian dài, nên
để sớm bảo vệ các cổ đông thiểu số, cần thiết phải tập hợp họ lại thành Câu lạc bộ
của nhà đầu tư thiểu số. Các câu lạc bộ này sẽ giúp họ có cơ hội trao đổi, học hỏi
kinh nhiệm lẫn nhau, cùng nhau góp tiếng nói chung, nâng cao sức mạnh của mình.
Hiện ý tưởng thành lập Câu lạc bộ các cổ đông thiểu số đang được Hiệp hội các nhà
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 82
đầu tư tài chính (VAFI) nghiên cứu và xây dựng. Theo định hướng thì Câu lạc bộ sẽ
là nơi tập hợp các cổ đông thiểu số, cùng nhau trao đổi thông tin, kiến thức, cùng
nhau khởi kiện nếu bị vi phạm quyền lợi. Ý tưởng này có thể dần dần tìm kiếm
thêm nhiều người, tăng thêm lực lượng, nhưng cách làm này vẫn mang tính chất tự
phát, tự nguyện không chính thức. Để hoạt động của các câu lạc bộ này có hiệu quả
hơn, cần phải có sự hỗ trợ, giúp sức của các cơ quan chức năng, thông qua xây dựng
các chế tài phù hợp, khuyến khích các thành viên liên kết để bảo vệ lợi ích chính
đáng của mình
Ngoài vấn đề cung cấp thông tin, để bảo đảm hơn nữa quyền lợi của các cổ
đông thiểu số, LDN cần thiết phải bổ sung quyền của cổ đông yêu cầu tòa án xem
xét, miễn nhiệm thành viên HĐQT hoặc BKS trong trường hợp cần thiết; quyền của
cổ đông yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc tòa án hủy bỏ quyết
định của HĐQT trong trường hợp khẩn cấp để bảo vệ lợi ích của công ty, của cổ
đông và của các bên liên quan khác; tăng cường chế độ giám sát chặt chẽ các giao
dịch liên kết giữa cổ đông chi phối với công ty; v.v.
2. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về cuộc họp ĐHĐCĐ
Để ĐHĐCĐ thực sự là công cụ quyền lực của cổ đông trong công ty đồng thời
đóng góp vào sự vận hành chung của công ty, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các
quy định liên quan đến cuộc họp ĐHĐCĐ. Chẳng hạn như cần sửa đổi, làm rõ để
thống nhất quy định về điều kiện tỷ lệ triệu tập họp ĐHĐCĐ giữa LDN năm 2005
và Nghị Quyết 71/2006/QH11 của Quốc Hội ngày 29/11/2006 về việc phê chuẩn
Nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập WTO của Việt Nam (Nghị quyết 71).
Như Chương II đã phân tích, trong thực tế hiện nay, rất nhiều công ty niêm yết triệu
tập ĐHĐCĐ lần đầu thường không đạt tỷ lệ tối thiểu 65% số cổ phần có quyền biểu
quyết theo quy định của LDN và Điều lệ mẫu để tiến hành ĐHĐCĐ nên buộc phải
triệu tập ĐHĐCĐ lần hai. Chính điều này đã gây lãng phí của cải xã hội và một lần
nữa khẳng định sự cần thiết và hợp lý của việc cho phép các CTCP được quyền quy
định trong Điều lệ số đại diện cần thiết để tiến hành họp ĐHĐCĐ như quy định tại
Nghị Quyết 71. Như vậy, cần thống nhất lại một số quy định trong LDN 2005 (cụ
thể là điều 102, điều 104) với Nghị Quyết 71 nhằm tránh sự không nhất quán trong
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 83
hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời để việc quản lý các cuộc họp ĐHĐCĐ của
các CTCP được thống nhất hơn.
3. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về HĐQT
Để tăng cường chức năng giám sát của HĐQT, đảm bảo sự cân bằng về quyền
lực, nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cá nhân trong quản lý, điều hành công ty cần
thiết phải phân tách rõ ràng vai trò, nhiệm vụ của Chủ tịch HĐQT và GĐ/TGĐ để
không một ai trong hai người trên bị hạn chế quyền ra quyết định. Cần nắm rõ rằng
TGĐ là người có quyền và nhiệm vụ điều hành nghiệp vụ kinh doanh hàng ngày
của công ty, và là cán bộ cao cấp do HĐQT bổ nhiệm và ủy quyền nên GĐ/TGĐ
phải chịu sự lãnh đạo và kiểm soát của HĐQT. Vì vậy, địa vị và quyền hạn của
GĐ/TGĐ chủ yếu phải do điều lệ công ty và HĐQT quyết định. Việc Chủ tịch
HĐQT kiêm nhiệm luôn chức vụ GĐ/TGĐ có phần không hợp lý. Bởi nhiệm vụ
của HĐQT chủ yếu là thực hiện giám sát và khống chế một cách vĩ mô các hoạt
động quản lý điều hành của những người quản lý kinh doanh, trong khi phạm vi
quyền lực của GĐ/TGĐ được quy định một cách rõ ràng trong điều lệ công ty và
trong nội bộ HĐQT. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển của CTCP hiện nay, vai
trò và quyền hạn của TGĐ có xu hướng gia tăng, vấn đề làm sao để hạn chế và kiểm
soát quyền lực của TGĐ là điều trọng yếu của công việc quản lý công ty.
4. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về GĐ/TGĐ
LDN cần thiết phải hoàn thiện hơn nữa chế độ tuyển dụng và đánh giá TGĐ của
CTCP, thực hiện dân chủ để đảm bảo có thể lựa chọn những người có tài năng, giỏi
về kinh doanh lên cương vị TGĐ. Có thể ủy thác tổ chức chuyên nghiệp tìm người
thực sự giỏi chuyên môn để tuyển dụng làm TGĐ. Đồng thời, thực hiện mức tiền
lương cho TGĐ có tính hấp dẫn và có sự liên kết với thành quả kinh doanh của họ.
5. Gải pháp hoàn thiện các quy định về việc minh bạch hóa các thỏa thuận
giữa các cổ đông với nhau và giữa cổ đông với công ty
Như thực trạng phân tích ở Chương II, LDN 2005 chưa có quy định điều chỉnh
vấn đề khi có sự khác biệt giữa thỏa thuận cổ đông và Điều lệ công ty hoặc LDN.
Trên thế giới, một điều chắc chắn là, không có đáp án chung cho câu hỏi về tính
hiệu lực và có thể thi hành của thỏa thuận cổ đông khi nó trái với điều lệ hoặc pháp
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 84
luật về doanh nghiệp. Nói cách khác, đây là vấn đề khó khăn khi các nhà lập pháp
và tòa án mỗi nước phải quyết định xem pháp luật hợp đồng/luật dân sự (điều chỉnh
thỏa thuận cổ đông) và pháp luật công ty (quy định về quyền hạn của công ty, các
cổ đông, cơ quan quyền lực khác của công ty), cái nào sẽ chi phối /phủ quyết cái
nào. Thỏa thuận cổ đông vốn được điều chỉnh bởi luật hợp đồng có thể có hiệu lực
cao hơn các quy định của pháp luật công ty hay không?
Vì vậy, LDNVN nên có quy định tăng cường tính minh bạch trong các thỏa
thuận giữa các cổ đông với nhau và giữa cổ đông với công ty thông qua Điều lệ
công ty.
6. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về BKS
Cần thiết phải sắp xếp lại quyền hạn của BKS, tăng cường quyền lực thiết thực
để nó có thể thực hiện chức năng kiểm soát có hiệu quả. Cụ thể, hiện nay cần phải
tăng cường tính độc lập của các kiểm soát viên đối với HĐQT và đối với các cổ
đông chi phối, làm cho các kiểm soát viên chủ yếu là những người đại diện cho các
cổ đông thiểu số. Đồng thời tăng cường trách nhiệm của các kiểm soát viên, buộc
họ phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại trong trường hợp HĐQT,
TGĐ/GĐ vi phạm pháp luật và làm thiệt hại cho công ty.
7. Giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý CTCP qua tham khảo mô hình quản
lý CTCP của Nhật Bản
Với định hướng phát triển kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế như
hiện nay, Việt Nam cũng có thể tham khảo các mô hình quản lý công ty khác nhau
trên thế giới chẳng hạn như “Mô hình công ty có thiết lập ủy ban” ở Nhật Bản nhằm
giải quyết thực trạng HĐQT, BKS bị hình thức hóa, không phát huy được vai trò
giám sát công ty như hiện nay. Việc tham khảo kinh nghiệm lập pháp của nước
ngoài có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm xây dựng mô hình tổ chức nội bộ của
CTCP phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
Mô hình công ty có thiết lập ủy ban được du nhập vào Nhật Bản năm 2002 trong
hoàn cảnh HĐQT, BKS trong mô hình quản lý CTCP truyền thống của Nhật bị hình
thức hóa, không phát huy được vai trò giám sát phát hiện ra những gian lận về tài
chính trong công ty. Vì vậy, việc du nhập mô hình này là nhằm giải quyết những bất
cập phát sinh, đảm bảo hoạt động giám sát nội bộ có hiệu quả. Khác với CTCP có
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 85
thiết lập BKS, mô hình CTCP có thiết lập ủy ban bao gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, các ủy
ban, bên cạnh đó có người điều hành, giám sát viên kế toán.
Về cơ bản, quyền hạn của ĐHĐCĐ trong CTCP có thiết lập ủy ban giống như
trong CTCP có thiết lập BKS. HĐQT bao gồm các thành viên HĐQT, các thành
viên này được ĐHĐCĐ bầu ra, các thành viên đều có chức danh điều hành nhưng
mỗi người có chức trách khác nhau. Trong công ty có thiết lập ủy ban còn có chức
danh thành viên HĐQT bên ngoài. Vai trò của thành viên này không chỉ đảm bảo
cho hoạt động kinh doanh an toàn mà còn tiếp nhận tư vấn từ bên ngoài để nâng cao
kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Mục đích của việc du nhập chế độ thành
viên HĐQT bên ngoài là nhằm tăng cường sự giám sát đối với người điều hành
CTCP. Trong HĐQT có các ủy ban bao gồm: Ủy ban bổ nhiệm, Ủy ban quyết định
thù lao và Ủy ban giám sát.
Ủy ban bổ nhiệm đề xuất việc bổ nhiệm và bãi miễn thành viên HĐQT cho
ĐHĐCĐ. Trong Ủy ban này, số thành viên HĐQT bên ngoài chiếm một nửa nên
người có quyền lực cao nhất của công ty cho dù có định lạm dụng quyền hạn lựa
chọn người có lợi cho họ chăng nữa thì cũng không thể độc đoán quyết định. Ủy
ban bổ nhiệm có quyền đề nghị còn HĐQT là cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm và
bãi nhiệm người điều hành và người đại diện điều hành.
Ủy ban quyết định thù lao quyết định nội dung thù lao cho thành viên HĐQT, ở
đây, một nửa số thành viên là thành viên HĐQT bên ngoài. Với cơ chế này, các
thành viên HĐQT có thể quyết định thù lao của người quản lý điều hành một cách
khách quan.
Ủy ban giám sát chịu trách nhiệm giám sát toàn bộ hoạt động quản lý điều hành
của các thành viên HĐQT, người điều hành, chịu trách nhiệm soạn thảo báo cáo
giám sát, đề xuất bổ nhiệm và bãi miễn người quản lý điều hành được thuê. Ngoài
ra, Ủy ban có quyền yêu cầu đình chỉ hành vi vi phạm đối với người điều hành, có
quyền khởi kiện thành viên HĐQT ra trước pháp luật. Luật công ty Nhật Bản cấm
thành viên của Ủy ban giám sát kiêm nhiệm chức danh người sử dụng lao động.
Trong CTCP có thiết lập ủy ban, người điều hành và người đại diện điều hành
được đảm nhận công việc theo yêu cầu và độc lập với HĐQT. Những người điều
hành do HĐQT bầu ra, có thể là thành viên HĐQT nhưng không thể là thành viên
của Ủy ban giám sát. Khi lựa chọn mô hình công ty có ủy ban, quyền quản lý điều
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 86
hành công ty được chuyển từ đại diện HĐQT sang cho người điều hành. Tuy nhiên,
có những trường hợp do người điều hành kiêm nhiệm chức danh thành viên HĐQT
nên thực chất không hẳn quyền điều hành được chuyển giao cho người điều hành.
Với mô hình thiết lập ủy ban như trên, cổ đông có thể tin tưởng hơn vào sự minh
bạch trong hoạt động quản lý điều hành của CTCP thông qua thực hiện các quyền
năng riêng biệt của các ủy ban. Việc giám sát có hiệu quả hoạt động quản lý, điều
hành Ủy ban giám sát có ý nghĩa quan trọng để cổ đông tin tưởng vào sự phát hiện
và khởi kiện kịp thời các hành vi vi phạm của các thành viên HĐQT và người điều
hành gây thiệt hại cho công ty và cổ đông.
Nhìn chung, Nhật Bản du nhập mô hình CTCP có thiết lập ủy ban nhằm giải
quyết được những hạn chế liên quan đến giám sát không đầy đủ của HĐQT đối với
đại diện HĐQT theo mô hình truyền thống và chuyển giao nhiệm vụ giám sát của
HĐQT cho Ủy ban giám sát, với kỳ vọng hoạt động giám sát trong CTCP sẽ có hiệu
quả hơn. Tuy còn tồn tại những bất cập nhất định về vị trí của các thành viên HĐQT
bên ngoài do những nghi ngờ về khả năng giám sát của họ liên quan đến những hiểu
biết về nội bộ công ty nhưng nhìn chung việc du nhập mô hình trên là cần thiết đối
với Nhật Bản để tạo ra sự lựa chọn xây dựng mô hình tổ chức nội bộ hợp lý và phù
hợp với mục đích làm tối đa hóa lợi nhuận của cổ đông.
Như đã phân tích ở Chương I, LDN Việt Nam và Luật công ty Nhật Bản có
nhiều điểm tương đồng trong quy định về quyền của cổ đông và tổ chức nội bộ theo
mô hình truyền thống. Bên cạnh đó, hệ thống Luật của cả hai nước cùng có mục
đích chung là điều chỉnh lợi ích giữa các chủ thể trong CTCP và duy trì sự tồn tại
của nó. Vì vậy, việc tham khảo kinh nghiệm lập pháp của Nhật Bản có ý nghĩa vô
cùng quan trọng nhằm xây dựng mô hình tổ chức nội bộ của CTCP phù hợp với
thông lệ quốc tế và đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
8. Một số giải pháp khác
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật
về quản lý doanh nghiệp, cụ thể là quản lý CTCP để tăng cường nhận thức của
người dân, góp phần giảm thiểu những vi phạm và tranh chấp trong thực tiễn.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới công tác quản lý tại các công ty cổ phần hóa từ DNNN,
tăng cường công tác đào tạo, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ chuyên môn cho những
người quản lý. Đồng thời, cần thiết phải nhìn nhận rõ ràng rằng quá trình chuyển
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 87
đối DNNN không phải là chuyển đổi cơ học, hình thức mà phải chuyển đổi về chất
tức là phải thực hiện đúng quy định của LDN về quyền của chủ sở hữu, minh bạch
hóa thông tin, vai trò HĐQT, giám sát các giao dịch với các bên có liên quan.
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT 88
KẾT LUẬN
Trong đời sống kinh tế xã hội hiện nay, CTCP là một loại hình công ty phổ biến,
đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, từ thực trạng các quy
định của pháp luật cũng như thực tiễn về quản lý CTCP ở Việt Nam hiện nay cho
thấy, vấn đề quản lý CTCP ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập cần sửa đổi, bổ sung và
sớm hoàn thiện. Mặc dù trong nội bộ CTCP, người quản lý, người lao động và các
cổ đông đều mong muốn công ty kinh doanh có hiệu quả và phát triển bền vững,
nhưng do có sự khác biệt về lợi ích giữa các cổ đông, sự tách biệt giữa người quản
lý và người sở hữu nên đã tạo nên những xung đột, mâu thuẫn về lợi ích trong nội
bộ công ty như xung đột về lợi ích giữa cổ đông nhỏ và những cổ đông lớn (cổ đông
chi phối), xung đột giữa cổ đông với những người quản lý doanh nghiệp.
Để giải quyết những xung đột này, một trong những nhiệm vụ quan trọng của
các nhà lập pháp Việt Nam hiện nay đó là làm sao để thiết lập một cơ cấu quản lý
CTCP một mặt giao phó đủ quyền lực cho người quản lý điều hành, đảm bảo những
ưu đãi về lợi ích nhằm thúc đẩy và nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ, mặt khác
có cơ chế giám sát tích cực, hiệu quả để tránh việc họ gây thiệt hại cho công ty và
các cổ đông vì lợi ích cá nhân.
Một cơ cấu quản lý CTCP hoàn thiện và hợp lý có thể sẽ mang lại những mối
quan hệ xã hội tốt đẹp, một đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc và một nền quốc
phòng hùng mạnh. Khi đất nước Việt Nam chúng ta đang trên đà phát triển, xây
dựng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay, thì vấn đề làm sao để
xây dựng một cơ cấu quản lý CTCP có hiệu quả cao ngày càng có ý nghĩa then chốt
và có tính cấp bách. Vấn đề này đòi hỏi phải có sự nỗ lực và phối hợp chặt chẽ hơn
nữa giữa các Bộ, ban, ngành, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp từ Trung Ương
đến địa phương.
Trên đây là trình bày toàn bộ khóa luận tốt nghiệp của em. Qua đây, Em xin
chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Minh Hằng đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khóa
luận của mình. Đồng thời, em xin cảm ơn toàn bộ các giảng viên bộ môn Luật của
lớp Luật Kinh doanh quốc tế - K45 đã truyền tải cho em không chỉ những kiến thức
quý báu mà còn cả tình yêu về lĩnh vực này. Em xin chân thành cảm ơn!
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Luật Công ty năm 1990.
2. Luật Doanh nghiệp năm 1999.
3. Luật Doanh nghiệp năm 2005.
4. Luật Chứng khoán năm 2006.
VĂN BẢN DƢỚI LUẬT
5. Nghị định 139/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 9 năm 2007 về
việc hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp năm 2005.
6. Quyết định 15/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài Chính ngày 19 tháng 03 năm 2007
về việc ban hành Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên sở giao dịch
chứng khoán.
7. Nghị Quyết 71/2006/QH11 của Quốc Hội ngày 29 tháng 11 năm 2006 về
việc phê chuẩn nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập WTO của nước
CHXHCN Việt Nam.
TÀI LIỆU TRONG NƢỚC
8. Nguyễn Ngọc Bích & Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty vốn, quản lý &
tranh chấp, Nxb Tri Thức, Hà Nội.
9. Công ty Tài chính Quốc tế IFC, Ngân Hàng Thế Giới (WB) (2008), Biên bản
cuộc họp tổng kết đánh giá tình hình thi hành Luật Doanh nghiệp, Hà nội.
10. CIEM, GTZ, UNDP (11/2004), Thời điểm cho sự thay đổi – Đánh giá Luật
Doanh nghiệp và kiến nghị, Hà Nội.
11. Phạm Ngọc Côn (2002), Một số ý kiến nhằm hoàn thiện việc quản lý ở doanh
nghiệp sau cổ phần hóa, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 3/2002, tr.49.
12. Nguyễn Đình Cung (2009), Cơ sở khoa học hoàn thiện chế độ quản trị Công
ty Cổ phần thúc đẩy phát triển kinh tế ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư - Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội.
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT
13. Trần Ngọc Hiên (2007), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Thực trạng
và giải pháp, Tạp chí Cộng sản, số 6 /2007.
14. Nguyễn Hưng, Quản trị công ty - Tiến tới lành mạnh hóa môi trường hoạt
động và phát triển doanh nghiệp, Tạp chí chứng khoán, số 5,6/2006.
15. Nguyễn Thị Lan Hương, Một số so sánh về công ty cổ phần theo Luật Công
ty Nhật Bản và Luật Doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia
Hà Nội, số 25/2009, tr.87-93.
16. Cao Đình Lành, Minh bạch và công khai hóa thông tin trong công ty cổ phần
theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, Tạp chí Khoa học, số 2 (36)/2007, tr.115.
17. Cao Đình Lành, Xung đột các nhóm lợi ích trong công ty cổ phần, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, số 3/2007, tr.22.
18. Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2001), Luật Doanh nghiệp – Những điểm mới và
một số vấn đề đặt ra trong cơ chế thi hành, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Luật Nhật Bản, Tập II: 1997-1998 (2000), Nxb Thanh Niên.
20. Ngân hàng phát triển Châu Á, Bộ hướng dẫn thông lệ tốt nhất về quản trị
công ty ở Việt Nam, Bản trình lên Chính phủ Việt Nam ngày 19 tháng 10 năm 2001,
Dự án TA 3353-VIE.
21. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo về Luật Kinh tế, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
22. Phạm Duy Nghĩa (chủ biên), So sánh pháp luật về quản trị doanh nghiệp của
một số nước trên thế giới – Bài học kinh nghiệm và kiến nghị giải pháp hoàn thiện
pháp luật công ty ở Việt Nam, Đề tài đặc biệt cấp Quốc gia, Mã số: QG 04.23.
23. Ngô Viễn Phú (2004), Nghiên cứu so sánh quản lý công ty cổ phần theo
pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Mai Thận Thực (2001), Luận về sự vận hành của cơ cấu quản lý công ty hiện
đại, Nxb Pháp Chế, Trung Quốc.
25. Đậu Anh Tuấn (2004), Quản lý, điều hành trong công ty cổ phần ở Việt
Nam, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà Nội.
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT
26. Nguyễn Viết Tý, Luật so sánh và thực tiễn xây dựng Luật Doanh nghiệp Việt
Nam, Tạp chí Luật học, số 4/2007, tr.66.
TÀI LIỆU NƢỚC NGOÀI
27. Henry Hansmann and Reinier Kraakman (1999), The Essential Role of
Organization Law, Berkeley Program in Law and Economics.
28. Henry Hansmann, Reinier Kraakman (2001), The End of History for
Corporate Law, Georgetown Law Journal.
29. OECD (2004), OECD Principles of corporate governance.
30. George Shenoy and Pearlie Koh (2001), Corporate Governance in Asia:
Some Developments, Asia Business Law Review, No.31, January 2001.
CÁC TRANG WEB
31. Trang Web của tạp chí Cộng sản
32. Trang Web của Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam
rong.htm
33. Trang web của Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT
PHỤ LỤC
Vụ: Huỳnh Văn Quảng kiện CTCP Sản xuất Dịch vụ Xuất Nhập Khẩu Từ Liêm.
(Án kinh tế số 39 ngày 04/03/2005. Tòa Phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội) về việc
triệu tập họp ĐHĐCĐ không đúng trình tự theo quy định của pháp luật.
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án như sau:
Ngày 25/03/2004, Ông Huỳnh Văn Quảng và ông Nguyễn Huy Mạnh là hai cổ
đông CTCP Sản xuất Dịch vụ Xuất Nhập khẩu Từ Liêm (CTCP Từ Liêm) có đơn
khởi kiện đề nghị Tòa án hủy biên bản và nội dung cuộc họp ĐHĐCĐ công ty vào
ngày 30/12/2003 vì tiến hành họp không đúng trình tự, thủ tục luật định. Nội dung
cuộc họp có nhiều điểm vi phạm pháp luật.
Các nguyên đơn trình bày căn cứ đề nghị Tòa án giải quyết đơn khởi kiện
như sau:
- Về thủ tục triệu tập đại hội: (i) Không có cuộc họp của HĐQT về việc triệu tập
họp ĐHĐCĐ ngày 30/12/2003. Việc triệu tập đại hội không dựa trên bất cứ một
cơ sở pháp lý nào mà vẫn được tiến hành; (ii) Giấy mời họp gửi không đúng thời
gian theo quy định của pháp luật. Như ông Quảng và ông Mạnh nhận được giấy
vào ngày 27/12/2003, chỉ trước ba ngày diễn ra họp đại hội; (iii) Các tài liệu gửi
kèm theo giấy mời họp, như dự kiến các chỉ tiêu kinh tế và tài chính năm 2003,
không đúng với quy định. Nếu là báo cáo tài chính, phải gồm ba tài liệu kèm
theo là Báo cáo tài chính, Bảng cân đối tài khoản, Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh. Tại trang 10 bản dự thảo báo cáo có nhiều lời lẽ vu khống cổ đông
công ty là ông Huỳnh Văn Quảng. Đề nghị Tòa làm rõ hành vi vu khống này.
Một số người không phải là cổ đông công ty nhưng vẫn đến dự họp như bà Trần
Thị Thu, trú tại 158 Trấn Vũ, Hà Nội; Ông Huỳnh Văn Thắng, trú tại 24 Chùa
Vua, Hà Nội.
- Về quá trình đại hội: Nội dung cuộc họp có đưa ra nghị quyết công nhận Nghị
quyết cuộc họp ngày 08/09/2003 của Đại hội cổ đông là đúng pháp luật, trong
khi đó Đại hội này đang được Tòa án xem xét theo đơn khởi kiện của một số cổ
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT
đông. Trong thông báo số 05/TB-HĐQT ngày 07/01/2004 có nêu rằng, về dự
Đại hội còn có: đại diện ban đổi mới doanh nghiệp thành phố, đại diện Chi cục
tài chính doanh nghiệp,…những đại diện này đến dự là sai. Còn nếu không có
đại biểu mà lại ghi trong thông báo thì cũng sai. Một số vấn đề về biểu quyết, bỏ
phiếu HĐQT, BKS không theo quy định của pháp luật. Ví dụ, trong thông báo
có ghi ông Kim Ngọc Luân đạt tỷ lệ 78,26% vốn điều lệ là sai, mà phải ghi số
người biểu quyết tương ứng với số % vốn điều lệ. Đại hội tạm chia cổ tức năm
2003 không đúng với quy định. Luật không cho phép được tạm chia cổ tức. Đại
hội biểu quyết thông qua từng chương, điều của Điều lệ Công ty không đúng với
quy định của pháp luật. Trình tự, chương trình Đại hội bị đảo lộn, không đúng
với trình tự trong giấy mời họp đã gửi cho các cổ đông.
Phía bị đơn có ý kiến về lời trình bày của nguyên đơn như sau:
- Về thủ tục triệu tập đại hội: Ngày 18/12/2003, HĐQT công ty đã họp và quyết
định triệu tập ĐHĐCĐ vào ngày 30/12/2003. Đại hội có đầy đủ năm thành viên
của HĐQT tham dự. Ông Huỳnh Văn Quảng là thành viên của HĐQT nhưng đã
bị Đại hội cổ đông ngày 08/09/2003 bãi miễn. Do vậy ông Quảng không còn là
thành viên trong HĐQT nữa. Về giấy mời họp, công ty gửi cho ông Nguyễn Huy
Mạnh theo địa chỉ đã đăng ký tại công ty. Còn địa chỉ của ông Huỳnh Văn
Quảng ở 58 Trấn Vũ do ông Quảng có điện thoại cho cán bộ phòng hành chính
công ty (bà Thu) nói rằng giao dịch tại địa chỉ này cho tiện. Giấy mời được gửi
vào ngày 22/12/2003 bằng chuyển phát nhanh qua bưu điện. Do không có người
nhận, bưu điện đã hoàn lại vào ngày 22/12/2003. Sau đó công ty đã trực tiếp
chuyển cho ông Thắng (được ông Quảng đồng ý) nhận ngày 26/12/2003. Tài
liệu kèm theo giấy mời có dự kiến báo cáo các chỉ tiêu kinh tế và tài chính 2003.
Đây mới chỉ là dự kiến vì năm 2003 chưa kết thúc niên độ nên chưa được duyệt
quyết toán của cơ quan thuế. Việc công ty nêu trong báo cáo tại trang 10 là hoàn
toàn đúng sự thật vì hiện nay ông Quảng còn nợ công ty hơn 500 triệu đồng.
Trước khi họp Đại hội, bà Trần Thị Thu (vợ ông Quảng) có xuất trình hợp đồng
chuyển nhượng cổ phiếu của ông Hoài Nam. Còn ông Huỳnh Văn Thắng (em
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT
ruột ông Quảng) có xuất trình giấy ủy quyền của bà Diệu Phương. Do vậy, công
ty chấp nhận để bà Thu, ông Thắng vào dự Đại hội.
- Về nội dung Đại hội: Trong Đại hội ngày 30/12/2003 có đưa lại nội dung cuộc
họp cổ đông ngày 08/09/2003, do có một số cổ đông khiếu kiện nên Đại hội lần
này đã biểu quyết lại để khẳng định nội dung cuộc họp ngày 08/09/2003 là ý chí
của Đại hội đồng cổ đông. Đại hội ngày 30/12/2003 là Đại hội hết nhiệm kỳ nên
việc mời các cơ quan ban ngành là cần thiết và không trái với các quy định của
pháp luật. Việc thay đổi chương trình cuộc họp đã được ĐHĐCĐ biểu quyết
thông qua với đa số phiếu tán thành. Đại hội tiến hành công việc bầu HĐQT và
BKS là hoàn toàn đúng với các quy định của LDN. Về vấn đề chia cổ tức, theo
báo cáo tài chính thì công ty kinh doanh có lãi, nên đã thông qua Đại hội để biểu
quyết chia cổ tức cho các cổ đông. Như vậy, CTCP Từ Liêm tiến hành ĐHĐCĐ
là hoàn toàn hợp pháp. Tại bản án kinh tế số 45.KTST ngày 06/09/2004 của Tòa
án Nhân dân thành phố Hà Nội đã căn cứ Điều 53, 67, 70, 71, 72, 74, 75, 76, 79,
93 LDN, Nghị định 03/2000/NĐ-CP, Điều 12, 49 khoản 2 Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế, Nghị định 70/CP ngày 12/06/1997 của Chính phủ
về án phí, quyết định:
Chấp nhận một phần đơn kiện của ông Huỳnh Văn Quảng và ông Nguyễn Huy
Mạnh do ông Phạm Đăng Cao đại diện;
Xác nhận trình tự, thủ tục triệu tập họp Đại hội cổ đông ngày 30/12/2003 của
CTCP Từ Liêm, Hà Nội là hợp pháp.
Hủy một phần nội dung Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông ngày 30/12/2003 của
CTCP Từ Liêm về việc tạm chia cổ tức năm 2003. HĐQT của Công ty phải
thông báo vấn đề trả cổ tức trong Đại hội cổ đông gần nhất để Đại hội quyết
định.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý án phí và tuyên quyền kháng cáo đối
với các đương sự.
………
Sau khi nghe các bên đương sự trình bày và tranh luận tại phiên tòa.
………
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT
NHẬN ĐỊNH
Về nội dung kháng cáo của các bên đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy: ngày
30/12/2003, CTCP Từ Liêm có tiến hành họp ĐHĐCĐ nhiệm kỳ 2 (2004 – 2007).
Nhưng ngay sau Đại hội, một số cổ đông của công ty đã làm đơn khởi kiện yêu cầu
hủy nghị quyết của Đại hội, với lý do cuộc họp đại hội này đã vi phạm về trình tự
thủ tục tiến hành Đại hội, với lý do cuộc Đại hội này đã vi phạm về trình tự thủ tục
tiến hành đại hội như không có cuộc họp HĐQT ngày 18/12/2003 để quyết định họp
ĐHĐCĐ vào ngày 30/12/2003 và một số vấn đề vi phạm khác.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của CTCP Từ Liêm, là bị đơn của
vụ án, cho rằng HĐQT của công ty họp ngày 18/12/2003 để quyết định triệu tập
ĐHĐCĐ ngày 30/12/2003 không triệu tập ông Huỳnh Văn Quảng bởi vì tại Đại hội
cổ đông bất thường ngày 08/09/2003 của công ty đã có Nghị quyết bãi miễn chức
danh HĐQT đối với ông Huỳnh Văn Quảng khỏi thành viên HĐQT. Nhưng thực tế
ngay sau khi có Nghị quyết ngày 08/09/2003 của công ty, ông Huỳnh Văn Quảng
và một số cổ đông của công ty đã có đơn khởi kiện đến Tòa án đề nghị hủy bỏ biên
bản và nội dung nghị quyết cuộc họp Đại hội cổ đông bất thường ngày 08/09/2003
này; đơn kiện của ông Quảng và một số cổ đông đã được Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm đang xem xét, giải quyết. Vì vậy đương nhiên ông Huỳnh
Văn Quảng vẫn là một thành viên trong HĐQT của công ty, nên ông Quảng lẽ ra
phải được tham dự cuộc họp HĐQT vào ngày 18/12/2003 để quyết định triệu tập
ĐHĐCĐ vào ngày 30/12/2003 của công ty. Nhưng HĐQT nhiệm kỳ 1 lại không
triệu tập ông Quảng để tham dự họp HĐQT vào ngày 18/12/2003. để quyết định
ĐHĐCĐ vào ngày 30/12/2003 là làm mất quyền lợi của ông Quảng và vi phạm
điểm a khoản 2 Điều 71 LDN, dẫn đến việc triệu tập ĐHĐCĐ của công ty cũng bị
vi phạm LDN. Việc Tòa án cấp sơ thẩm nhận định rằng: cuộc họp HĐQT ngày
18/12/2003 có 5 thành viên HĐQT tham gia và 5 thành viên đã biểu quyết 100%
thông qua nên việc ĐHĐCĐ ngày 30/12/2003 của công ty được làm theo đúng trình
tự, thủ tục triệu tập họp theo pháp luật là không chính xác. Vì vậy Tòa án cấp phúc
thẩm thấy rằng cần căn cứ vào Điều 276 Bộ luật tố tụng dân sự để sửa toàn bộ bản
án sơ thẩm, hủy biên bản họp ngày 18/12/2003 của HĐQT của công ty và Nghị
Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Thành Hiền Lương – Anh 3 – K45 - Luật KDQT
quyết ĐHĐCĐ ngày 30/12/2003 để CTCP Từ Liêm triệu tập họp ĐHĐCĐ theo
đúng quy định của pháp luật và Luật Doanh Nghiệp. Trong trường hợp Đại hội
được triệu tập theo yêu cầu của HĐQT thì ông Huỳnh Văn Quảng phải được tham
dự họp theo quy định tại khoản 2 Điều 82 LDN và theo tinh thần của Điều 26 Điều
lệ của công ty.
Từ những phân tích và nhận định trên, Quyết định:
Căn cứ vào Điều 276 Bộ Luật tố tụng dân sự:
Chấp nhận một phần kháng cáo của các nguyên đơn; không chấp nhận kháng
cáo của bị đơn.
Tuyên bố: Sửa bản án kinh tế sơ thẩm.
Hủy Nghị quyết cuộc họp HĐQT ngày 18/12/2003 và Nghị quyết ĐHĐCĐ ngày
30/12/2003 của CTCP Từ Liêm để công ty tiến hành lại ĐHĐCĐ theo đúng quy
định của LDN
Bản án này là chung thẩm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5502_9707.pdf