MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử nhân loại, giáo dục đã không ngừng phát triển và là động lực để phát triển kinh tế xã hội; giáo dục đã phục vụ đắc lực cho xã hội, kịp thời điều chỉnh quy mô, thích ứng nhanh với những yêu cầu của biến đổi nguồn nhân lực. Ngược lại, sự phát triển nhanh của kinh tế xã hội, của khoa học kỹ thuật cũng đã tác động trở lại để phát triển giáo dục. Hiện nay, các nước phát triển, cũng như các nước đang phát triển đều quan tâm cải cách giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập hoá, quốc tế hoá. Đây là thời cơ và cũng là thách thức đối với các quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt nam). Một mặt nó tạo ra cơ hội cho giáo dục phát triển do nhu cầu về nguồn nhân lực có trí tuệ ngày càng tăng. Mặt khác, kinh tế đòi hỏi giáo dục đáp ứng nhu cầu trước mắt và đón đầu, định hướng đúng cho tương lai.
Nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá. Ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước, tại Đại hội lần thứ VII, Đảng ta đã khẳng định “ Phát triển giáo dục và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu”, chủ trương đó được tiếp tục nhấn mạnh trong những Nghị quyết Đại hội Đảng của các nhiệm kỳ tiếp theo, và cho đến Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và lần thứ XI đều khẳng định một trong những nhiệm vụ trọng tâm để phát triển kinh tế- xã hội của đất nước là phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Như vậy, nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước ta là con người, là nguồn nhân lực Việt Nam được phát triển cả về số lượng và chất lượng
Trong sự nghiệp phát triển giáo dục, quản lý giáo dục chính là khâu then chốt, có vai trò đòn bẩy, thúc đẩy sự phát triển của giáo dục.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo được diễn ra chủ yếu ở các đơn vị nhà trường. Hoạt động chủ yếu trong các nhà trường là hoạt động dạy học, hoạt động dạy học cùng với hoạt động giáo dục tạo nên quá trình sư phạm tổng thể của nhà trường. Do đó, quản lý hoạt động dạy học là khâu then chốt trong quá trình quản lý giáo dục .
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục tiểu học có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Giáo dục tiểu học là cấp học đầu tiên, nền tảng của giáo dục phổ thông, đặt cơ sở ban đầu cho sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người, đặt nền móng vững chắc cho GDPT và cho toàn bộ hệ thống GDQD. Vì vậy, giáo dục tiểu học phải đảm bảo chất lượng như mục tiêu GDTH đề ra: “Hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kỹ năng cơ bản ”. [32]
Trong giáo dục tiểu học, Toán và Tiếng Việt là hai bộ môn công cụ cơ bản. Nhưng, nếu như Toán là một môn học đòi hỏi sự chính xác, rõ ràng, cụ thể với từng công thức, phép tính, thì Tiếng Việt lại còn đòi hỏi thêm về sự tìm tòi, chau chuốt ngôn ngữ, vốn liếng từ vựng và khả năng cảm thụ ngôn ngữ văn học của cả giáo viên và học sinh. Tiếng Việt ta giàu và đẹp, đa dạng, rất phong phú nhưng cũng rất phức tạp. Vì vậy, không chỉ học sinh, mà cả trong một bộ phận giáo viên vẫn còn tồn tại tâm lý ngại học tập, tìm tòi, đào sâu Tiếng Việt. Một bộ phận cán bộ quản lý cấp cơ sở chưa thực sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học sinh học tập, nghiên cứu để nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn tiếng Việt.
Bảo Yên là một huyện của tỉnh Lào Cai- một tỉnh miền núi biên giới phía phía bắc của Tổ quốc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 74,2% dân số của huyện. Điều kiện kinh tế của đồng bào DTTS nơi đây còn rất thấp, nhiều người dân thường xuyên phải đối mặt với cái đói, cái rét, với hậu quả của thiên tai nên khó có thể quan tâm nhiều đến việc học hành của con em mình. Do đó, điều kiện học tập của trẻ em vùng DTTS còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Điều này đã gây thêm nhiều khó khăn, thách thức cho công tác phát triển giáo dục tại địa phương. Hơn thế nữa, đối với vùng đồng bào DTTS, học sinh tiểu học giao tiếp hàng ngày bằng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Khi đến trường, các em được giảng dạy bằng tiếng Việt, trong khi vốn tiếng Việt của các em hết sức ít ỏi, thậm chí có em chưa biết tiếng Việt trước khi đến trường, các em phải làm quen với cách phát âm cùng nhiều khái niệm, từ ngữ còn khá xa lạ, phức tạp. Trong khi đó, hầu hết giáo viên lại không am hiểu về ngôn ngữ riêng của học sinh DTTS. Do vậy, việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh DTTS vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho giáo dục miền núi nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tiểu học DTTS đồng nghĩa với việc đảm bảo cho các em một điều kiện tiên quyết để có thể nắm bắt, tiếp thu các môn học khác đạt hiệu quả cao nhất, giúp các em phát triển nhân cách một cách toàn diện. Tuy nhiên, thực tế công tác dạy học và quản lý dạy học bộ môn Tiếng Việt, đặc biệt là Tiếng Việt cho học sinh DTTS tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai mặc dù đã được quan tâm và đã đạt được một số kết quả, nhưng còn có nhiều hạn chế, hiệu quả chưa thực sự cao.
Từ các lý do trên, vấn đề “ Quản lý dạy học môn tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng dân tộc thiểu số huyện Bảo yên, tỉnh lào Cai” được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn này để góp phần thực hiện tốt hơn công tác phát triển giáo dục miền núi, đặc biệt là giáo dục vùng DTTS, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của địa phương.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng, đề xuất các biện pháp quản lý dạy học môn Tiếng Việt nhằm tăng cường tiếng Việt cho học sinh các trường tiểu học vùng dân tộc thiểu số huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quản lý dạy học tại các trường tiểu học vùng DTTS.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Nội dung nghiên cứu: Biện pháp quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai của Phòng GD&ĐT huyện Bảo Yên.
4.2. Địa bàn nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu tại 17 trường tiểu học thuộc 9 xã vùng DTTS của huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.
4.3. Đối tượng khảo sát: Cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh thuộc 17 trường tiểu học vùng DTTS của huyện Bảo yên, tỉnh Lào Cai.
5. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS thuộc huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai tuy đã được quan tâm và có những kết quả nhất định nhưng vẫn chưa đáp ứng những yêu cầu đặt ra của mục tiêu tăng cường tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng DTTS. Nếu có những biện pháp quản lý mới nhằm tăng cường tính đồng bộ của các chức năng quản lý, đáp ứng yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt thì sẽ tăng cường được tiếng Việt cho học sinh các trường tiểu học vùng DTTS huyện Bảo yên, tỉnh Lào Cai.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý dạy học môn Tiếng Việt nhằm tăng cường tiếng Việt cho học sinh tiểu học DTTS.
6.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng dạy học và quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.
6.3. Đề xuất các biện pháp quản lý dạy học môn Tiếng Việt nhằm tăng cường tiếng Việt cho học sinh các trường tiểu học vùng DTTS huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai; khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp đề xuất.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin khoa học, các tài liệu về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý giáo dục, quản lý dạy học với đối tượng học sinh DTTS. Ở đề tài này sử dụng các phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Nhằm phân tích và tổng hợp các tài liệu khoa học phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp phân loại, hệ thống hoá lý thuyết: Nhằm sắp xếp các tài liệu khoa học, văn bản chỉ đạo thành hệ thống lý luận logic chặt chẽ theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa học.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng phương pháp này nhằm điều tra thực trạng công tác quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường vùng DTTS huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Đề tài sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
- Phương pháp phỏng vấn: Trưng cầu ý kiến của các nhà quản lý về các biện pháp quản lý dạy học môn Tiếng Việt vùng DTTS.
- Phương pháp quan sát: Quan sát trực tiếp công tác quản lý dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng DTTS.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Đề tài sử dụng các công thức thống kê toán học (các công thức thống kê toán học như: trị số chi bình phương, trung bình cộng, hệ số tương quan .) để xử lý số liệu thu được, để định lượng kết quả nghiên cứu nhằm rút ra các kết luận khoa học.
8. Những đóng góp mới của đề tài
Phát hiện thực trạng quản lý dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh DTTS huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai; đề xuất các biện pháp quản lý nhằm tăng cường Tiếng Việt, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học vùng DTTS tại địa phương.
105 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2943 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý dạy học môn tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng dân tộc thiểu số huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiểm tra có biện pháp điều chỉnh khiếm khuyết của đối tượng được kiểm tra và kịp thời tuyên dương khen thưởng những cá nhân, tập thể làm tốt để động viên phong trào.
Đẩy mạnh sinh hoạt chuyên môn, phối hợp các lực lượng giáo dục
Phòng GD&ĐT chỉ đạo các nhà trường thực hiện tốt các nội dung sau:
- Tổ chức đổi mới hình thức và nội dung sinh hoạt chuyên môn để tìm ra phương pháp dạy học tốt nhất, phù hợp với đối tượng cho từng bài học; xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ một cách cụ thể; Tổ chức nghiên cứu dạy giãn tiết các bài học môn Tiếng Việt một cách phù hợp.
- Khuyến khích tổ chức các cuộc giao lưu chuyên môn giữa các nhà trường để tăng cường học hỏi, hỗ trợ lẫn nhau nhằm nâng cao năng lực giảng dạy cho đội ngũ giáo viên đồng thời xây dựng được tình đoàn kết, gắn bó, môi trường giáo dục thân thiện, tích cực giữa các trường tiểu học trong toàn huyện.
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và phát huy hiệu quả hoạt động của đội ngũ “cốt cán chuyên môn” của ngành, đặc biệt ưu tiên hỗ trợ chuyên môn cho các trường học vùng DTTS.
- Tăng cường chỉ đạo nâng cao số lượng và chất lượng dạy học 2 buổi/ ngày và dạy học bán trú, trong đó đề cao tầm quan trọng của sự phối hợp hiệu quả giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.
c/ Điều kiện để thực hiện biện pháp
- Phòng GD&ĐT có quy hoạch đội ngũ CBQL và cán bộ kế cận được các cấp có thẩm quyền phê duyệt; Có kế hoạch, nội dung, chương trình để thực hiện.
- Nâng cao nhận thức của các cấp quản lý về công tác đào tạo, bồi dưỡng CBQL, giáo viên. Từ đó tạo điều kiện về vật chất và tinh thần cho đội ngũ khi thực hiện công tác này.
- Bản thân mỗi CBQL và giáo viên phải có tinh thần khắc phục khó khăn, vừa đảm bảo hoàn thành tốt công tác của nhà trường, vừa tích cực phấn đấu tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực công tác.
- Gắn liền công tác đào tạo, bồi dưỡng với sử dụng, đãi ngộ; thực hiện nghiêm túc các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác này, đặc biệt là các chính sách ưu tiên phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục vùng đồng bào DTTS.
Biện pháp 2: Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt cho phù hợp với đặc điểm học sinh tiểu học DTTS
a/ Mục tiêu của biện pháp
Thông qua việc chỉ đạo thực hiện đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh tiểu học DTTS để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS, thực hiện thật tốt mục tiêu chung của môn học Tiếng Việt ở trường tiểu học.
b/ Nội dung và cách thức thực hiện
Chỉ đạo thực hiện các nguyên tắc dạy Tiếng Việt theo định hướng đổi mới
Thông qua các hoạt động chuyên môn như: Hội thảo chuyên đề, tập huấn, kiểm tra... phòng GD&ĐT chỉ đạo và kiểm tra, đánh giá các nhà trường và giáo viên thực hiện các nguyên tắc dạy Tiếng Việt theo định hướng đổi mới:
- Nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp: Nguyên tắc này sẽ chi phối trực tiếp việc chọn và sắp xếp nội dung kiến thức cần dạy. Kiến thức về Tiếng Việt chỉ có ý nghĩa khi chúng góp phần hình thành các kỹ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết).
- Nguyên tắc chú ý đến trình độ tiếng Việt vốn có của học sinh: Đối với học sinh DTTS thì vốn tiếng Việt trước khi vào lớp 1 là rất ít, thậm chí có em còn chưa biết. Do đó giáo viên không thể dạy tiếng Việt cho học sinh DTTS giống như dạy cho học sinh người Kinh, mà phải có một phương pháp phù hợp, vừa giúp các em hiểu bài, vừa phát huy tính chủ động, tích cực của các em trong giờ học tiếng Việt- một yêu cầu cấp bách trong lý luận và thực tiễn dạy học hiện nay.
- Nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy: Chuẩn bị đầy đủ, tạo mọi điều kiện cho các em nắm được nội dung các vấn đề cần viết hoặc nói (đặc biệt là nội dung sự kiện cho các đề bài tập làm văn). Muốn vậy, đề tài của các bài tập làm văn phải gần gũi với cuộc sống thực tế của các em, với đời sống sinh hoạt của đổng bào DTTS. Giáo viên phải tổ chức cho học sinh tìm hiểu, quan sát, ghi chép đầy đủ và phong phú các tư liệu cần thiết trước khi viết hoặc nói.
- Nguyên tắc kết hợp rèn luyện cả 4 kỹ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết): Học sinh tiểu học khi mới đến trường, các em chỉ mới biết nói chứ chưa biết đọc, biết viết. Do đó, trong quá trình dạy tiếng Việt cho học sinh, bên cạnh việc dạy đọc và viết, giáo viên cần lưu ý luyện cho các em kỹ năng nói và nghe. Đặc biệt, đối với học sinh DTTS thì việc kết hợp rèn luyện cả 4 kỹ năng ngôn ngữ càng trở nên quan trọng, giúp các em tiếp thu kiến thức một cách toàn diện và hiệu quả hơn.
Tóm lại, các nguyên tắc dạy tiếng Việt chỉ trở thành cơ sở cho việc dạy tiếng khi chúng được đúc kết từ thực tiễn dạy học tiếng Việt trên những quy luật chung của nó. Bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của việc dạy tiếng là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để đạt mục đích dạy và học tiếng Việt.
Chỉ đạo thực hiện các phương pháp dạy học tích cực sao cho phù hợp với đối tượng học sinh tiểu học DTTS
Phòng GD&ĐT tổ chức bồi dưỡng, cung cấp cho CBQL trường học và giáo viên về mặt lý luận cũng như thực tế nhằm xác định, phân biệt được phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học tích cực, từ đó lựa chọn áp dụng những PPDH tích cực phù hợp với đối tượng học sinh.
Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ đề cập đến những PPDH tích cực sau đây mà Phòng GD&ĐT cần chỉ đạo thực hiện bởi tính đổi mới và phù hợp của nó trong việc giảng dạy Tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng DTTS của huyện:
- Dạy học Tiếng Việt theo định hướng giao tiếp: Một trong những mục tiêu hàng đầu của môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học là rèn luyện các kỹ năng sử dụng tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Chính vì thế, chương trình tiểu học mới đã quan tâm đến việc dạy tiếng Việt thông qua hoạt động giao tiếp.
Bản chất của tính giao tiếp là dùng mọi biện pháp làm cho quá trình dạy tiếng Việt giống hoặc gần giống với giao tiếp tự nhiên. Nói cách khác, phương pháp giao tiếp được xây dựng trên cơ sở quá trình dạy và học tiếng là mô hình của giao tiếp tự nhiên. Quá trình dạy học theo phương pháp giao tiếp phải tạo điều kiện cho học sinh nảy sinh các nhu cầu giao tiếp, hứng thú giao tiếp, nghĩa là dạy và học trong giao tiếp. Đặc biệt, đối với học sinh tiểu học DTTS, với bản tính e dè, nhút nhát, ngại giao tiếp, phương pháp dạy học này càng trở nên quan trọng và cần thiết, giúp các em dần làm quen và tự tin hơn trong giao tiếp hàng ngày.
- Tổ chức trò chơi học tập tiếng Việt: Cùng với các PPDH hiện đại theo xu thế đổi mới, trò chơi học tập là một phương pháp tổ chức dạy học có nhiều tác dụng trong việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức. Xuất phát từ tâm lý học lứa tuổi, có thể khẳng định phương pháp tổ chức trò chơi học tập là phương pháp dạy học rất phù hợp với học sinh tiểu học, đặc biệt là trong việc tiếp thu và vận dụng kiến thức Tiếng Việt, môn học gần gũi với thực tế cuộc sống hàng ngày.
- Phương pháp học tập hợp tác (theo nhóm): Hình thức tổ chức dạy học theo phương pháp học tập hợp tác có ý nghĩa và tác dụng tích cực. Tất cả học sinh đều được làm việc và thực hành luyện tập, biết giúp đỡ lẫn nhau, giải quyết được những vấn đề khó và tìm ra cái mới trong bài học, tạo thái độ học tập tích cực, đặc biệt bước đầu giúp các em làm quen với phong cách làm việc hợp tác.
Đối với học sinh tiểu học DTTS, phương pháp học tập này càng trở nên quan trọng, các hoạt động nhóm giúp các em khắc phục những hạn chế vốn có về ngôn ngữ tiếng Việt cũng như thói quen rụt rè trong giao tiếp; giúp các em biết cách diễn đạt ý kiến của mình trước đám đông, tự tin hơn, chủ động hơn trong việc tiếp thu kiến thức và sáng tạo, tìm tòi cái mới
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy môn Tiếng Việt: Trong xu thế phát triển của xã hội hiện nay, việc đưa thành tựu khoa học công nghệ phục vụ dạy học là xu thế tất yếu của xã hội hiện đại, của nền kinh tế tri thức;
Ưu điểm lớn nhất của bài giảng điện tử là nội dung bài học được minh hoạ bằng những âm thanh, hình ảnh sống động, làm cho học sinh thích thú và tiếp thu bài nhẹ nhàng hơn; Ứng dụng CNTT đảm bảo nâng cao khả năng tự học, phát triển tư duy tích cực của người học; đồng thời tạo điều kiện cho người dạy tự hoàn thiện, tự cập nhật thông tin nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục nói chung và đối với bộ môn Tiếng Việt bậc tiểu học nói riêng.
Tuy nhiên, việc ứng dụng CNTT vào dạy học môn Tiếng Việt khá khó khăn, phức tạp, cần đầu tư rất nhiều thời gian, kinh phí, công sức và trí tuệ của cả người dạy và nhà quản lý để đảm bảo các điều kiện cho việc thực hiện phương pháp này. Đối với các trường tiểu học vùng DTTS thì những khó khăn, trở ngại trong việc sử dụng phương pháp này càng tăng lên gấp bội phần (thiếu phòng học, máy móc, phương tiện dạy học hiện đại, trình độ tin học của GV còn rất hạn chế...) nhưng hiệu quả mang lại cũng lớn hơn gấp bội phần bởi các em học sinh nơi đây sẽ cảm nhận sự mới lạ và hiện đại của phương pháp này nhiều hơn các em học sinh vùng phát triển, do đó sẽ hấp dẫn các em nhiều hơn, khiến các em say mê học tập hơn.
Trước những khó khăn, trở ngại đó, để thực hiện tốt hình thức dạy học này, nhà quản lý cần phải quan tâm chỉ đạo:
- Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại, cần thiết cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc giảng dạy.
- Tổ chức bồi dưỡng cho đội ngũ CBQL và giáo viên kiến thức về tin học và việc sử dụng các phần mềm để soạn và giảng một bài giảng điện tử.
- Chỉ đạo các trường tổ chức những chuyên đề giảng dạy Tiếng Việt có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin để giáo viên học hỏi, rút kinh nghiệm về kỹ năng thực hiện một giáo án điện tử. Tránh làm cho bài giảng thiên về trình diễn thông tin và lạm dụng các hiệu ứng hoạt hình vì những bài giảng ấy chỉ thu hút học sinh lúc ban đầu, do các em tò mò, thích thú với cái mới lạ, cái sống động. Nhưng chính nó sẽ triệt tiêu các hoạt động tích cực của học sinh, đi lệch trọng tâm yêu cầu một tiết dạy theo phương pháp mới.
- Bài giảng điện tử không thể thay thế việc biên soạn giáo án và thực hành giảng dạy bằng phương pháp truyền thống, mà nên quan niệm đó là một trong những hình thức tổ chức bài lên lớp trong đó toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học đều được chương trình hoá do giáo viên điều khiển thông qua phương tiện công nghệ thông thông tin.
Tóm lại, mỗi phương pháp, hình thức dạy học có mặt mạnh và hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài riêng, từng khâu riêng của quá trình dạy học. Vì vậy, không nên quá lạm dụng hoặc phủ định hoàn toàn một phương pháp, hình thức dạy học nào. Điều quan trọng là cần căn cứ vào nội dung, tính chất từng bài; căn cứ vào trình độ học sinh và năng lực, sở trường của giáo viên; căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh của từng trường, từng lớp mà lực chọn và sử dụng kết hợp các phương pháp, hình thức dạy học một cách hợp lý, đúng mức, tiến tới mục đích cuối cùng là đạt hiệu quả giảng dạy tốt.
c/ Điều kiện thực hiện biện pháp
- Tiếp tục đổi mới công tác quản lý giáo dục từ phòng GD&ĐT đến các nhà trường theo hướng kỷ cương, dân chủ và công khai. Thực hiện dân chủ hoá trường học, xã hội hoá giáo dục, huy động mọi lực lượng xã hội tham gia công tác giáo dục, huy động mọi nguồn kinh phí có thể để đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng các điều kiện để thực hiện các phương pháp giáo dục tích cực, hiện đại đạt hiệu quả cao.
- Các trường tiểu học phát huy những hình thức tổ chức dạy học tích cực, giáo dục theo hướng phát huy tài năng của cả người dạy và người học. Kiên quyết loại trừ các phương pháp dạy học trái với mục tiêu giáo dục, dạy học theo kiểu đọc- chép, dạy học chạy theo thành tích dẫn đến áp đặt, nhồi sọ học sinh, đánh mắng, xúc phạm học sinh….
- Giáo viên chủ động, sáng tạo lựa chọn và phối hợp các phương pháp phù hợp với đặc điểm từng nội dung kiến thức, từng hoạt động dạy học, từng độ tuổi và tâm, sinh lý học sinh, chú ý đến yếu tố bản sắc dân tộc; Coi trọng tác động tình cảm, biết động viên, nêu gương đúng mức và kịp thời…tạo cho học sinh có niềm vui và hứng thú học tập, rèn luyện, biết tự giác thực hiện nghiêm túc những yêu cầu giáo dục.
- Thực hiện đổi mới PPDH phải được tiến hành đồng bộ với đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh, đổi mới nội dung, cách thức bồi dưỡng giáo viên để mỗi giáo viên có đủ năng lực, kỹ năng dạy học, đánh giá theo chuẩn quy định.
Biện pháp 3: Tăng cường quản lý việc học tập tiếng Việt của học sinh tiểu học DTTS
a/ Mục tiêu của biện pháp
Đẩy mạnh các biện pháp quản lý việc học tập tiếng Việt của học sinh DTTS để nâng cao khả năng tiếng Việt cho các em, tạo nền tảng để các em học tốt các môn học khác của chương trình giáo dục tiểu học.
b/ Nội dung và cách thức thực hiện
Phòng GD&ĐT có kế hoạch chỉ đạo cụ thể, sát thực về việc quản lý học tập tiếng Việt của học sinh DTTS tới các nhà trường; Ưu tiên tăng cường đội ngũ tổng phụ trách Đội giỏi cho các trường tiểu học vùng DTTS; Ưu tiên đầu tư sách, thiết bị dạy học và tài liệu tham khảo học tập tiếng Việt cho các nhà trường để tổ chức thực hiện tốt các nội dung sau:
Giáo dục tinh thần, thái độ, động cơ học tập cho học sinh.
Giáo dục và rèn luyện tinh thần, thái độ, động cơ học tập đúng đắn cho học sinh là công việc của cán bộ, giáo viên trong nhà trường. Ngay từ đầu các năm học, phòng GD&ĐT chỉ đạo các trường tổ chức các cuộc họp với giáo viên; với các đoàn thể trong nhà trường; với chính quyền địa phương; với cha mẹ học sinh để tuyên ttruyền làm cho mọi người nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc giáo dục tinh thần, thái độ, động cơ học tập cho học sinh. Bởi vì, thái độ, động cơ học tập của học sinh là một trong những khâu chủ yếu dẫn đến chất lượng và hiệu quả học tập.
Tổ chức tập huấn cho đội ngũ cán bộ phụ trách Đội trong nhà trường để làm phong phú hoá việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, thu hút nhiều học sinh tham gia, tổ chức các trò chơi nhằm bổ sung kiến thức Tiếng Việt, tạo ra sự ham thích học tập cho các em.
Hình thành nền nếp học tập cho học sinh
Hình thành nền nếp học tập cho học sinh tiểu học ngay từ những ngày đầu tiên đến trường sẽ tạo ra thói quen tốt, ảnh hưởng tốt đến việc phát triển nhân cách của học sinh. Phòng GD&ĐT chỉ đạo các trường yêu cầu từng giáo viên chủ nhiệm lớp tiến hành việc rèn nền nếp cho học sinh hàng ngày, theo từng lớp, từng tổ, nhóm học tập, và thông qua các cuộc thi đua trong trường. Giáo dục cho học sinh nền nếp đi học đúng giờ, học bài ở nhà, chuẩn bị đồ dùng học tập, bảo quản cơ sở vật chất nhà trường, tham gia các hoạt động tập thể…
Tăng cường chỉ đạo xây dựng nền nếp học nhóm, sinh hoạt tập thể… (nhóm học tập, đôi bạn học tập…) theo các mục tiêu dạy học khác nhau, gắn với những phương thức hoạt động học tập để kích thích học sinh tích cực học tập.
Khuyến khích đẩy mạnh phong trào thi đua giữa các các tổ, nhóm trong lớp, giữa các lớp trong trường, giữa các trường trong cụm, giữa các cụm trường trong toàn huyện. Các trường, các cụm trường tổ chức các cuộc thi kể chuyện theo sách, kể chuyện về Bác Hồ, thi viết chữ đẹp…để tăng cường học tập tiếng Việt cho học sinh.
Đối với những nơi chưa tổ chức dạy học 2 buổi/ngày, cần chỉ đạo vận động, tuyên truyền để phối hợp với phụ huynh tổ chức cho học sinh học tập tại nhà. Chỉ đạo các nhà trường làm tốt công tác tham mưu với chính quyền địa phương trong việc chỉ đạo, kiểm tra việc học bài, làm bài ở nhà của học sinh.
Tạo điều kiện để học sinh có nhiều cơ hội sử dụng tiếng Việt
Ngoài việc tích cực chỉ đạo giáo viên thường xuyên rèn luyện kỹ năng tiếng Việt thông qua các môn học, các hoạt động tập thể… cần tăng cường chỉ đạo các nhà trường phối hợp với các lực lượng xã hội tổ chức nhiều hoạt động ngoài nhà trường, sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt để tạo thêm nhiều cơ hội cho học sinh được rèn luyện và nâng cao khả năng tiếng Việt.
Chỉ đạo các nhà trường tham mưu tốt với chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng tăng cường các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương bằng tiếng Việt để nhân dân và học sinh có thêm cơ hội tiếp xúc với tiếng Việt, tiếp nhận thêm nhiều thông tin kinh tế, văn hoá xã hội và chính trị…(tăng thời lượng phát sóng của đài truyền thanh, truyền hình, cung cấp thêm nhiều đầu báo, sách, tài liệu tham khảo…tại các điểm văn hoá xã, nhà văn hoá thôn bản, trung tâm học tập cộng đồng…).
Thường xuyên kiểm tra việc đánh giá kết quả học tập tiếng Việt của học sinh
Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh vừa phản ánh kết quả dạy của giáo viên, vừa đánh giá khả năng học tập của học sinh; qua đó các nhà trường tìm ra biện pháp phát huy sự nỗ lực của giáo viên và động viên tinh thần, thái độ học tập của học sinh.
Để có được đánh giá chính xác, cần chỉ đạo, tập huấn việc phối hợp nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá: kiểm tra hồ sơ, sổ sách của giáo viên, bài làm của học sinh; kiểm tra thông qua đối thoại trực tiếp với học sinh ở trong lớp, ngoài lớp học, ngoài nhà trường; thông qua trao đổi vớ phụ huynh học sinh, với chính quyền địa phương…
Cán bộ quản lý đánh giá kết quả học tập tiếng Việt của học sinh không chỉ trong phạm vi môn tiếng Việt mà có thể còn thông qua các môn học khác. Thông qua đánh giá kết quả học tập của học sinh để đánh giá khả năng giảng dạy của giáo viên, từ đó có những chỉ đạo về đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt tổ chuyên môn, đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học tiếng Việt cho học sinh.
c/ Điều kiện thực hiện biện pháp
Phòng GD&ĐT thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc các trường, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá và hỗ trợ các nhà trường trong quá trình thực hiện.
Cán bộ quản lý, giáo viên các nhà trường thực sự tâm huyết, yêu thương học sinh; biết cách làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục tại vùng đồng bào DTTS, xây dựng và thực hiện được cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa nhà trường, gia đình và địa phương trong việc quản lý học tập của học sinh.
Biện pháp 4: Tăng cường đầu tư và phát huy tác dụng của cơ sở vật chất, thiết bị trong dạy học môn Tiếng Việt
a/ Mục tiêu của biện pháp
Huy động các nguồn kinh phí tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học môn Tiếng Việt cho các trường tiểu học vùng DTTS; Quản lý việc cung cấp, bảo quản và sử dụng thiết bị dạy học môn Tiếng Việt một cách có hiệu quả.
b/ Nội dung và cách thức thực hiện
Ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học môn Tiếng Việt cho các trường tiểu học vùng DTTS của huyện.
Hiện nay, cơ sở vật chất các trường học trên địa bàn nói chung và các trường học vùng DTTS nói riêng còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Việc đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị trường học đòi hỏi phải sắp xếp theo thứ tự ưu tiên, trong đó các trường học thuộc vùng DTTS luôn được quan tâm hàng đầu, bởi đây cũng chính là nơi khó khăn, thiếu thốn nhất.
Kinh phí đầu tư cho giáo dục nói chung và cho giáo dục miền núi nói riêng còn rất hạn hẹp. Đặc biệt, ở vùng đồng bào DTTS, mặc dù đã có sự quan tâm đầu tư hơn, nhưng nguồn kinh phí được cấp so với nhu cầu thực tế cần đầu tư quả thực còn quá ít ỏi. Bởi vậy, việc huy động mọi lực lượng, mọi nguồn kinh phí có thể để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho thầy và trò nơi đây luôn là nhiệm vụ quan trọng và thiết thực.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, ngoài việc cân đối kinh phí, kêu gọi tài trợ từ các tổ chức trong nước và quốc tế để ưu tiên đầu tư cho các trường học vùng DTTS, Phòng GD&ĐT cần chỉ đạo các trường làm thật tốt công tác xã hội hoá giáo dục, huy động các nguồn lực từ các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm và nhân dân trên địa bàn để chung tay cùng nhà nước đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị cho các nhà trường.
Quản lý việc đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị dạy học đạt hiệu quả.
Việc đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị phải đảm bảo yêu cầu về tính thiết thực, hiệu quả sử dụng và phù hợp với điều kiện địa phương. Trước hết cần đầu tư những thiết bị tối thiểu, sau đó mới tiến tới đầu tư các thiết bị hiện đại.
Đầu tư CSVC có hiệu quả đảm bảo trường sở, phòng học, sân chơi, bãi tập, các phòng chức năng, bàn ghế…cho các trường đúng quy cách, tạo điều kiện tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục đa dạng, phong phú; sách tham khảo dùng cho học sinh DTTS cần gắn liền với đời sống hàng ngày, từ ngữ sử dụng đơn giản, phù hợp với khả năng tiếng Việt của các em (VD: tạp chí Thiếu nhi dân tộc…), đặc biệt là những tác phẩm văn học, các tài liệu do các tác giả người DTTS sáng tác. Chỉ đạo các trường trang bị các tủ sách dùng chung, thư viện lưu động để học sinh dễ tiếp cận.
Tăng cường các hoạt động kiểm tra, đánh giá việc quản lý và sử dụng sau đầu tư để kiểm định chất lượng sản phẩm, đồng thời tránh thất thoát, lãng phí.
Khuyến khích giáo viên tự làm đồ dùng dạy học.
Đây là một nội dung rất quan trọng, đặc biệt đối với giáo dục miền núi khi điều kiện dạy và học còn thiếu thốn rất nhiều, đã và đang được các cấp quản lý giáo dục quan tâm chỉ đạo. Việc làm đồ dùng dạy học gắn liền với đối tượng là hết sức cần thiết, qua thực tế giảng dạy, nhà trường và giáo viên xác định cụ thể loại đồ dùng dạy học nào cần phải làm thêm để phục vụ giảng dạy từng bài cho học sinh DTTS địa phương.
Có chính sách khuyến khích giáo viên tự làm đồ dùng dạy học, gắn việc tự làm đồ dùng dạy học với công tác thi đua khen thưởng. Hàng năm tổ chức các cuộc thi “ Đồ dùng, đồ chơi dạy học tự tạo” tạo thành phong trào thi đua mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác dạy và học của các nhà trường.
Bảo quản và sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng dạy học một cách hiệu quả.
Chỉ đạo các trường thực hiện triệt để các yêu cầu về bảo quản, khai thác và sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng dạy học đảm bảo đạt hiệu quả cao. Trước hết, ưu tiên những phòng xây kiên cố dùng làm phòng thiết bị, đồ dùng dạy học để đảm bảo thiết bị được bảo quản tốt; người phụ trách thiết bị phải là người có tinh thần trách nhiệm cao, biết sắp xếp và bảo quản thiết bị một cách khoa học, hợp lý.
Yêu cầu mỗi giáo viên biết xác định từng loại thiết bị dạy học cần thiết cho từng bài dạy, biết cách khai thác triệt để các tính năng, tác dụng của từng loại thiết bị ĐDDH, từ đó sử dụng thiết bị dạy học vào bài giảng sao cho đạt hiệu quả, yêu cầu cao nhất; có hình thức xử lý thích đáng đối với những giáo viên cố tình không chịu sử dụng thiết bị, ĐDDH trong quá trình dạy học.
c/ Điều kiện thực hiện biện pháp
- Phòng GD&ĐT có quy hoạch, kế hoạch dài hạn và ngắn hạn (theo năm học) để đầu tư xây dựng trường lớp; mua sắm thiết bị, ĐDDH cho các nhà trường, trong đó có sắp xếp thứ tự ưu tiên cụ thể, hợp lý.
- Làm tốt công tác XHH giáo dục, tích cực vận động sự đóng góp nguồn lực của chính quyền, các tổ chức, đoàn thể, các lực lượng xã hội và nhân dân địa phương vào việc xây dựng trường lớp, CSVC trường học.
- Thường xuyên tổ chức tập huấn về công tác thiết bị trường học để nâng cao nhận thức và trình độ quản lý, sử dụng thiết bị ĐDDH cho CBQL và giáo viên các nhà trường.
Biện pháp 5: Đẩy mạnh phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động dạy học môn Tiếng Việt
a/ Mục tiêu của biện pháp
Thông qua sự phối hợp có hiệu quả giữa nhà trường, gia đình và xã hội tạo ra một chu trình học tập tốt nhất cho mỗi học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học nói chung và dạy học tiếng Việt nói riêng cho học sinh tiểu học DTTS.
b/ Nội dung và cách thức thực hiện
Nâng cao nhận thức, xác định vai trò, nhiệm vụ, nội dung của việc tổ chức phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội nhằm tăng cường hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học DTTS.
Chỉ đạo các trường tăng cường công tác vận động, tuyên truyền: Hàng năm tổ chức Hội nghị Hội đồng giáo dục cần mời thêm Đảng uỷ, chính quyền, các đoàn thể ở địa phương và Hội cha mẹ học sinh cùng dự. Nội dung hội nghị nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các lực lượng xã hội đối với sự nghiệp phát triển giáo dục tại địa phương; vai trò của từng lực lượng giáo dục và sự cần thiết phải phối hợp giữa các lực lượng đó.
Ngoài ra, tại các diễn đàn chung khác tại địa phương (giao ban định kỳ với chính quyền và các thôn bản, họp phụ huynh học sinh…), cần phải tuyên truyền sâu rộng về tầm quan trọng của việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội, phải chỉ rõ trách nhiệm của cộng đồng, của gia đình chăm lo cho giáo dục không có nghĩa là chỉ chăm lo xây dựng CSVC và vận động cho trẻ đến trường học, mà còn phải tổ chức kiểm tra, hướng dẫn, tạo mọi điều kiện cho trẻ học tập ở nhà; Các lực lượng giáo dục tổ chức các hoạt động tập thể ở cộng đồng cho trẻ, tạo môi trường cho trẻ hoạt động, qua đó trẻ được vận hành thường xuyên tiếng Việt, giúp trẻ phát triển vốn từ Tiếng Việt và phát triển các kỹ năng nghe, nói.
Chỉ đạo các trường làm tốt việc xây dựng cơ chế phối hợp giữa Nhà trường, gia đình và xã hội nhằm tăng cường hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh ở các trường tiểu học DTTS.
Phòng GD&ĐT chỉ đạo, hướng dẫn các trường căn cứ vào thực tế tình hình kinh tế - xã hội, những đặc thù văn hoá, đặc điểm dân cư... tại khu vực trường đóng để chủ động tham mưu với chính quyền địa phương, phối hợp với các lực lượng xã hội, cha mẹ học sinh... xây dựng được cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa nhà trường, gia đình và xã hội nhằm tăng cường hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt nói riêng và hiệu quả giáo dục nói chung.
Trong cơ chế này, Nhà trường giữ vai trò chủ đạo, hạt nhân của sự phối hợp, chủ động xác định mục đích, mục tiêu, nhiệm vụ; thảo luận với gia đình học sinh và các lực lượng xã hội để thống nhất về nội dung và hình thức thực hiện.
* Một số biện pháp chủ yếu phối hợp giữa nhà trường và gia đình:
- Thăm gia đình học sinh: Đây là một hình thức phổ biến được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả tới từng học sinh, để giáo viên hiểu được hoàn cảnh gia đình học sinh, cùng gia đình có những phương pháp và hình thức tác động phù hợp nhằm tăng cường hiệu quả dạy học Tiếng Việt cho học sinh DTTS.
- Mời cha mẹ học sinh đến trường: Hình thức này thường được sử dụng để phụ huynh học sinh vừa được biết về môi trường học tập của con em mình, vừa được giáo viên thông báo về kết quả học tập cũng như việc thực hiện nền nếp, quy định của nhà trường của các em, giúp hai bên có thêm nhiều thông tin, tìm được tiếng nói chung trong phương pháp giáo dục và dạy học cho học sinh.
- Sử dụng sổ liên lạc giữa nhà trường và gia đình: Giúp giáo viên chủ nhiệm nắm được tình hình học tập ở nhà của tất cả học sinh trong lớp.
- Tổ chức Hội nghị phụ huynh: Ngoài hội nghị đầu năm và cuối năm, cần tổ chức hội nghị chuyên đề tập huấn cho cha mẹ học sinh những kiến thức đơn giản về phương pháp dạy Tiếng Việt để gia đình có điều kiện thuận lợi hơn trong việc giúp đỡ con em học tập Tiếng Việt ở nhà.
* Một số biện pháp cơ bản phối hợp giữa nhà trường và xã hội:
- Tham mưu với các cấp Uỷ Đảng, chính quyền xã có các chủ trương, nghị quyết chuyên đề về công tác giáo dục tại địa phương. Trong đó cụ thể hoá nhiệm vụ, vai trò của từng tổ chức, ban ngành, đoàn thể trong việc phối hợp cùng ngành Giáo dục thực hiện các mục tiêu phát triển giáo dục trên địa bàn; Tham mưu tổ chức các hội nghị chuyên đề về công tác giáo dục như: Hội nghị về công tác phổ cập giáo dục, hội nghị về công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia…Thông qua những hoạt động này nâng cao nhận thức về ý nghĩa và trách nhiệm của các lực lượng xã hội trong việc phối hợp với các nhà trường để thực hiện công tác giáo dục tại địa phương.
- Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể ( Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội khuyến học...) để kết hợp giáo dục học sinh; tổ chức các hoạt động ngoại khóa giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng tiếng Việt; tăng cường bổ sung các nguồn quỹ ủng hộ giáo dục... góp phần nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục, thúc đẩy chất lượng giáo dục đi lên.
Tăng cường xây dựng môi trường tiếng Việt cho học sinh DTTS
Môi trường tiếng Việt được hiểu là các các điều kiện tự nhiên, xã hội, các phương tiện hoạt động trong và ngoài nhà trường có tác động đến quá trình học tập, rèn luyện và sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt. Vì vậy phòng GD&ĐT cần chỉ đạo, hướng dẫn các trường thực hiện tốt các nội dung sau:
* Xây dựng môi trường tiếng Việt trong nhà trường:
- Tạo cảnh quan tiếng Việt trong và ngoài lớp học: Quang cảnh trường lớp sạch đẹp, được trang trí bằng những khẩu hiệu tiếng Việt ấn tượng, phù hợp với lứa tuổi và đặc điểm tâm lý học sinh DTTS sẽ thu hút sự chú ý của các em, làm cho các em thêm yêu thích trường lớp, thêm cơ hội rèn luyện tiếng Việt. Đặc biệt là trong quá trình dạy học giáo viên cần cho học sinh tham gia vào các hoạt động như: làm các sản phẩm, trao đổi về các sản phẩm có gắn với tiếng Việt, lựa chọn để để trưng bày, trang trí trường lớp (báo tường, tranh vẽ, bài kiểm tra đạt điểm cao...) vừa tạo được môi trường học tập thân thiện, vừa hướng đến mục đích rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt cho học sinh DTTS.
- Tăng cường hoạt động giao tiếp: tận dụng tối đa các tình huống thực để vận dụng kiến thức tiếng Việt của các em vào các hoạt động giao tiếp hàng ngày; đồng thời, tạo điều kiện cho học sinh “giao tiếp” với công cụ dạy học và tài liệu bổ trợ như sách đọc thêm, truyện, tranh ảnh…; tổ chức các trò chơi học tập tiếng Việt...
* Xây dựng môi trường tiếng Việt ở gia đình:
Cùng với sự phát triển chung của xã hội, đời sống đồng bào DTTS huyện Bảo Yên cũng từng bước được cải thiện. Các phương tiện nghe nhìn như tivi, rađiô đã có trong nhiều gia đình. Hơn nữa, lớp phụ huynh trẻ biết tiếng Việt ngày càng gia tăng. Đây là những tín hiệu tốt làm cơ sở cho việc xây dựng môi trường tiếng Việt ở gia đình học sinh. Tuy nhiên, nhiều phụ huynh chưa có ý thức cũng như chưa biết giúp con học tập ở nhà. Do đó cần chỉ đạo các trường và giáo viên: hướng dẫn phụ huynh giao tiếp, kiểm tra việc học tập của con em bằng tiếng Việt (theo khả năng tiếng Việt của họ); yêu cầu bố mẹ phải bố trí góc học tập và nhắc nhở con nghe đài, xem tivi, đọc bài và trao đổi nội dung nghe, đọc được cho người thân trong gia đình hoặc bạn bè, thầy cô giáo...
* Xây dựng môi trường tiếng Việt trong cộng đồng:
Hiện nay, tình hình kinh tế-xã hội, cơ sở hạ tầng của vùng đồng bào DTTS đang từng bước được cải thiện; Nhu cầu giao lưu văn hoá, trao đổi thương mại giữa các vùng, miền ngày càng phát triển. Do đó, số người biết tiếng Việt và giao tiếp bằng tiếng Việt trong cộng đồng ngày càng tăng. Phòng GD&ĐT cần chỉ đạo, hướng dẫn các trường:
- Huy động cộng đồng tham gia vào việc tạo môi trường tiếng Việt cho học sinh bằng cách: giao tiếp với học sinh bằng tiếng Việt trong sinh hoạt cộng đồng; xây dựng chương trình phát thanh cho thiếu nhi bằng tiếng Việt; tổ chức các hoạt động tập thể, tham gia dán, viết các áp phích quảng cáo, tuyên truyền ở nơi công cộng.
- Tổ chức nâng cao năng lực tiếng Việt cho quần chúng ở địa phương. Các chương trình tập huấn chuyển giao kỹ thuật sản xuất nông nghiệp; các buổi phổ biến học tập các chính sách, luật pháp; các buổi sinh hoạt văn hoá cộng đồng cần phải sử dụng tiếng Việt để năng lực tiếng Việt của cha mẹ học sinh và nhân dân được nâng lên.
c/ Điều kiện thực hiện biện pháp
- Các cấp Uỷ đảng, chính quyền địa phương và nhân dân có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò, trách nhiệm của mỗi người đối với việc tham gia công tác giáo dục tại địa phương nói chung và trong việc học tập tiếng Việt của học sinh tiểu học DTTS nói riêng.
- Các nhà trường biết cách tham mưu có hiệu quả với chính quyền và chủ động phối hợp với các lực lượng xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục tại địa phương; tạo được uy tín, niềm tin trong nhân dân thông qua chất lượng giáo dục đạt được hàng năm. Từ đó, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội sẵn sàng hợp tác, ủng hộ các nhà trường và sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội sẽ đạt hiệu quả cao.
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp.
BP2: GV
BP5: LLXH
BP1 CBQL, GV
BP4: CSVC
BP3: HS
Ghi chú: BP1-Tăng cường năng lực cho đội ngũ CBQL và giáo viên.
BP2- Đổi mới p.pháp dạy học môn Tiếng Việt phù hợp với HS DTTS.
BP3- Tăng cường quản lý việc học tập tiếng Việt của học sinh.
BP4- Đầu tư và phát huy tác dụng của CSVC, thiết bị dạy học.
BP5- Đẩy mạnh phối hợp các lực lượng giáo dục(Nhà trường-GĐ- XH)
Sơ đồ 3.1. Quan hệ giữa các biện pháp quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.
Nhận xét, đánh giá:
Qua sơ đồ, chúng ta thấy các biện pháp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tác động và hỗ trợ qua lại với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ dạy học tiếng Việt cho học sinh DTTS. Trong đó, biện pháp 1: Tăng cường năng lực quản lý cho đội ngũ hiệu trưởng; nâng cao năng lực giảng dạy Tiếng Việt cho đội ngũ giáo viên là biện pháp trung tâm, có tác động điều phối tới tất cả các biện pháp khác. Có được đội ngũ hiệu trưởng, phó hiệu trưởng vững vàng về năng lực quản lý, có đội ngũ giáo viên giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ thì họ sẽ có khả năng thực hiện tất cả các biện pháp còn lại một cách có hiệu quả.
Ngược lại, nếu đội ngũ CBQL và giáo viên yếu kém, họ sẽ không biết cách làm thế nào để thực hiện tốt các biện pháp còn lại. Bởi vì, các biện pháp còn lại đều do lực lượng này làm nòng cốt, chủ đạo thực hiện.
Được thực hiện đồng bộ, hài hoà, các biện pháp quản lý nói trên sẽ hỗ trợ đắc lực cho nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp giúp các nhà quản lý giáo dục thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học tiếng Việt cho học sinh các trường tiểu học vùng DTTS.
3.4. Khảo nghiệm về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất
3.4.1. Quy trình khảo nghiệm
Bước1: Xác định nội dung phiếu hỏi xin ý kiến của các chuyên gia về các biện pháp tăng cường quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS.
Bước2: Xác định tiêu chuẩn và lựa chọn các chuyên gia.
Các chuyên gia được tham khảo ý kiến về các biện pháp đề xuất được lưac chọn theo các yêu cầu sau:
- Có kinh nghiệm thực tiễn về công tác chỉ đạo chuyên môn cho các trường tiểu học huyện Bảo Yên.
- Có thâm niên trong công tác quản lý các hoạt động dạy học tại các trường tiểu học vùng DTTS.
- Đã từng được đào tạo (bồi dưỡng) chuyên môn về công tác quản lý giáo dục.
- Giáo viên là cốt cán chuyên môn tiểu học của huyện.
- Giáo viên trực tiếp dạy học và là tổ trưởng chuyên môn tại các trường tiểu học vùng DTTS huyện Bảo Yên.
Từ việc đề xuất các biện pháp tăng cường quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS huyện Bảo Yên, chúng tôi đã thăm dò ý kiến của 52 chuyên gia về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp này, bao gồm: 2 chuyên viên phụ trách chuyên môn tiểu học tại phòng GD&ĐT, 25 CBQL tiêu biểu của 17 trường tiểu học vùng DTTS của huyện, 25 giáo viên là cốt cán chuyên môn của huyện và tổ trưởng chuyên môn của các trường tiểu học.
Bước 3: Xin ý kiến các chuyên gia và xử lý các phiếu hỏi.
Cách thức cho điểm tính cần thiết như sau:
Rất cần thiết: 3 điểm
Cần thiết: 2 điểm
Không cần thiết: 1 điểm
Cách thức cho điểm tính khả thi như sau:
Rất khả thi : 3 điểm
Khả thi: 2 điểm
Không khả thi: 1 điểm
3.4.2. Kết quả khảo nghiệm
Bảng số 3.1: Kết quả khảo nghiệm tính cần thiết
của các biện pháp quản lý đề xuất (N=52)
STT
BIỆN PHÁP
THỨ BẬC
1
Tăng cường năng lực quản lý cho đội ngũ hiệu trưởng; Nâng cao năng lực giảng dạyTiếng Việt cho đội ngũ giáo viên
148
2,85
1
2
Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt cho phù hợp với đặc điểm học sinh trường tiểu học DTTS
143
2,75
2
3
Quản lý việc học tập Tiếng Việt của học sinh DTTS
122
2,35
4
4
Tăng cường đầu tư và phát huy tác dụng của CSVC, thiết bị trong dạy học môn Tiếng Việt.
177
2,25
5
5
Đẩy mạnh phối hợp các lực lượng giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội để tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động dạy học môn Tiếng Việt.
142
2,73
3
Tổng chung
134
2,58
(Nguồn số liệu: Tổng hợp từ phiếu điều tra số 03)
Kết quả trên cho thấy: Các chuyên gia đánh giá các biện pháp quản lý đã đề xuất đều rất cần thiết, thể hiện: trung bình chung tính cần thiết của các biện pháp nêu ra là ở mức =2,58. Trong đó có 3 biện pháp được đánh giá ở mức trung bình chung > 2,50 (BP1,2,5) và có 2 biện pháp được đánh giá ở mức trung bình chung >2,0 (BP3,4). Các biện pháp có được tính cần thiết do đáp ứng được nhu cầu về đổi mới quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS, qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của các nhà trường.
Mức độ tính cần thiết của các biện pháp quản lý nêu trên xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp là:
- Tăng cường năng lực quản lý cho đội ngũ hiệu trưởng; Nâng cao năng lực giảng dạyTiếng Việt cho đội ngũ giáo viên.
- Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt cho phù hợp với đặc điểm học sinh trường tiểu học DTTS.
- Đẩy mạnh phối hợp các lực lượng giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội để tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động dạy học môn Tiếng Việt.
- Quản lý việc học tập Tiếng Việt của học sinh DTTS.
- Tăng cường đầu tư và phát huy tác dụng của CSVC, thiết bị trong dạy học môn Tiếng Việt.
Bảng số 3.2. Kết quả khảo nghiệm tính khả thi
của các biện pháp quản lý đề xuất (N= 52)
STT
BIỆN PHÁP
THỨ BẬC
1
Tăng cường năng lực quản lý cho đội ngũ hiệu trưởng; Nâng cao năng lực giảng dạyTiếng Việt cho đội ngũ giáo viên
127
2,44
1
2
Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt cho phù hợp với đặc điểm học sinh trường tiểu học DTTS
124
2,38
3
3
Quản lý việc học tập Tiếng Việt của học sinh DTTS
118
2,27
4
4
Tăng cường đầu tư và phát huy tác dụng của CSVC, thiết bị trong dạy học môn Tiếng Việt.
109
2,10
5
5
Đẩy mạnh phối hợp các lực lượng giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội để tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động dạy học môn Tiếng Việt.
125
2,40
2
Tổng chung
121
2,32
(Nguồn số liệu: Tổng hợp từ phiếu điều tra số 03)
Nhìn vào bảng kết quả trên chúng ta thấy, tính khả thi của các biện pháp quản lý đề xuất được các chuyên gia đánh giá khá cao, thể hiện ở chỉ số trung bình chung = 2,32. Các biện pháp đề xuất có tính khả thi tương đối cao vì hầu hết các biện pháp không phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan (trừ biện pháp4-CSVC), không cần đầu tư lớn về nhân lực, vật lực, tài lực, mà chủ yếu dựa vào các yếu tố chủ quan, chỉ cần có sự đầu tư về thời gian, công sức và trí tuệ của đội ngũ CBQL, giáo viên, trong đó quan trọng nhất là sự nhạy bén của người hiệu trưởng. Vì vậy, khả năng vận dụng vào thực tiễn công tác quản lý giáo dục tại địa phương là rất thuận lợi.
Mức độ khả thi của các biện pháp quản lý trên thể hiện theo thứ tự từ cao đến thấp là:
- Tăng cường năng lực quản lý cho đội ngũ hiệu trưởng; Nâng cao năng lực giảng dạyTiếng Việt cho đội ngũ giáo viên.
- Đẩy mạnh phối hợp các lực lượng giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội để tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động dạy học môn Tiếng Việt.
- Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt cho phù hợp với đặc điểm học sinh trường tiểu học DTTS.
- Quản lý việc học tập Tiếng Việt của học sinh DTTS.
- Tăng cường đầu tư và phát huy tác dụng của CSVC, thiết bị trong dạy học môn Tiếng Việt.
*Kết quả trên cho thấy các biện pháp tăng cường quản lý dạy học môn Tiếng Việt của phòng GD&ĐT đối với các trường tiểu học vùng DTTS được đánh giá khá cao cả về tính cần thiết và tính khả thi. Nhưng trong đó, đánh giá về tính khả thi của các biện pháp không cao bằng tính cần thiết do ảnh hưởng các yếu tố thực trạng của các trường tiểu học vùng DTTS, ví dụ như:
Biện pháp Tăng cường quản lý việc học tập tiếng Việt của học sinh DTTS chịu ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố khách quan ngoài nhà trường (trình độ học vấn, phương pháp quản lý của cha mẹ học sinh; nhận thức và sự quan tâm của chính quyền và các lực lượng xã hội ở địa phương…), mà thực tế tại vùng đồng bào DTTS thì các yếu tố này đang được đánh giá ở mức độ thấp, ảnh hưởng tới tính khả thi của biện pháp;
Biện pháp Tăng cường đầu tư và phát huy tác dụng của cơ sở vật chất, thiết bị trong dạy học môn Tiếng Việt đang gặp nhiều khó khăn từ các nguồn vốn ngân sách nhà nước. Mặt khác, các nguồn lực huy động từ các lực lượng xã hội theo chủ trương xã hội hoá giáo dục chưa được nhận thức đúng và đầy đủ; đồng thời, đời sống kinh tế của cả huyện còn ở mức độ thấp, không có nhiều các công ty, doanh nghiệp lớn kinh doanh trên địa bàn, do đó việc huy động tài chính ủng hộ giáo dục còn nhiều hạn chế.
3.4.3. Tương quan giữa tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý đề xuất.
Để khẳng định mối tương quan giữa tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý đề xuất, đề tài sử dụng hệ số tương quan thứ bậc Spearman để tính toán:
Công thức:
Trong đó: r: Hệ số tương quan
D: Hiệu số thứ bậc của 2 đại lượng so sánh
(tính cần thiết và tính khả thi)
N: Số đơn vị được nghiên cứu( số biện pháp)
Bảng số 3.3. Mối tương quan giữa tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý dạy học môn Tiếng Việt
tại các trường tiểu học vùng DTTS huyện Bảo Yên.
TT
BIỆN PHÁP
Tính cần thiết
Tính khả thi
D
D2
Thứ bậc
Thứ bậc
1
Tăng cường năng lực quản lý cho đội ngũ hiệu trưởng; Nâng cao năng lực giảng dạyTiếng Việt cho đội ngũ giáo viên
148
2,85
1
127
2,44
1
0
0
2
Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt cho phù hợp với đặc điểm học sinh trường tiểu học DTTS
143
2,75
2
124
2,38
3
1
1
3
Quản lý việc học tập Tiếng Việt của học sinh DTTS
122
2,35
4
118
2,27
4
0
0
4
Tăng cường đầu tư và phát huy tác dụng của CSVC, thiết bị trong dạy học môn Tiếng Việt
117
2,25
5
109
2,10
5
0
0
5
Đẩy mạnh phối hợp các lực lượng giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội để tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động dạy học môn Tiếng Việt.
142
2,73
3
125
2,40
2
-1
1
Áp dụng các chỉ số trên vào công thức tính hệ số, ta có:
= 1- 0,1= 0,9
r = + 0,9
Như vậy, với kết quả hệ số tương quan r = +0,9 cho thấy: mối tương quan giữa tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS của phòng GD&ĐT đã đề xuất là tương quan thuận và rất chặt chẽ. Điều đó cũng có nghĩa là giữa tính cần thiết và tính khả thi có sự tương ứng cao và được các chuyên gia đánh giá cao.
Dù mức độ đồng thuận về tính cần thiết và tính khả thi ở cả 5 biện pháp và ở mỗi biện pháp không hoàn toàn trùng khớp, nhưng chỉ số trung bình chung đều từ 2,10 trở lên đối với tính khả thi và từ 2,25 trở lên đối với tính cần thiết. Kết quả đó chứng tỏ các biện pháp quản lý đã đề xuất là cần thiết và có tính khả thi.
Møc ®é
BiÖn ph¸p
Biểu đồ 3.1: Biểu diễn tương quan giữa tính cần thiết và tính khả thi
của các biện pháp quản lý đề xuất.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu về lý luận; xuất phát từ thực trạng những điểm mạnh, điểm yếu của giáo dục tiểu học vùng DTTS huyện Bảo Yên, từ những đặc điểm đặc thù của việc dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học người DTTS tại địa phương, chúng tôi đã đề xuất 5 nhóm biện pháp quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS huyện Bảo yên.
Kết quả khảo nghiệm về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý đã đề xuất đối với 3 nhóm khách thể khảo sát (gồm 52 chuyên gia là các CBQL, giáo viên làm cốt cán chuyên môn tiểu học, tổ trưởng chuyên môn các trường tiểu học) cho thấy: Các biện pháp đề xuất trong luận văn có tính cần thiết và tính khả thi cao, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các biện pháp này cần được vận dụng linh hoạt sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng trường, kết hợp với nghiên cứu bổ sung những kinh nghiệm của các trường tiểu học vùng DTTS ở địa phương khác. Điều quan trọng hơn cả là sự năng động của các nhà quản lý giáo dục trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện các nhóm biện pháp trên. Các biện pháp quản lý trên chỉ phát huy tác dụng thực sự khi CBQL giáo dục nơi đây linh hoạt, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám cống hiến hết mình cho sự nghiệp phát triển giáo dục miền núi - miền khó khăn, gian khổ của đất nước.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.KẾT LUẬN
. Về mặt lý luận
Giáo dục được coi là bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế mỗi quốc gia, và trên thực tế, đang vươn lên trở thành yếu tố đứng đầu, là động lực phát triển kinh tế- xã hội.
Trong sự nghiệp phát triển giáo dục, quản lý giáo dục chính là khâu then chốt, bảo đảm thực hiện các mục tiêu giáo dục. Quản lý giáo dục có vai trò quan trọng, là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của giáo dục. Trong QLGD, quản lý dạy học lại là khâu trọng yếu nhất, bởi vì hoạt động dạy học là hoạt động giáo dục trọng tâm, cơ bản nhất trong các nhà trường.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục tiểu học là cấp học đầu tiên, nền tảng của giáo dục phổ thông, đặt cơ sở ban đầu cho sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người, đặt nền móng vững chắc cho GDPT và cho toàn bộ hệ thống GDQD. Do đó, chất lượng quản lý dạy học trong cấp học tiểu học không những quyết định chất lượng giáo dục của cấp học này mà còn ảnh hưởng to lớn đến chất lượng toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.
Đối với các trường tiểu học vùng DTTS, quản lý dạy học môn Tiếng Việt có vai trò quyết định chất lượng giáo dục trong mỗi nhà trường, bởi tầm ảnh hưởng quan trọng, to lớn của môn Tiếng Việt đối với các môn học khác. Do đó, để nâng cao chất lượng giáo dục trong các trường tiểu học vùng DTTS, trước tiên cần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý dạy học môn Tiếng Việt.
1.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả tìm hiểu và đánh giá thực trạng quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS huyện Bảo Yên cho thấy việc quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng này mặc dù đã được các cấp quản lý từ phòng GD&ĐT đến các nhà trường, các giáo viên quan tâm, hưởng ứng và thực hiện đạt được hiệu quả nhất định, tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn cần phải tháo gỡ, nhiều hạn chế cần phải khắc phục trong thời gian tới.
Nguyên nhân của một số hạn chế trong công tác quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS là do năng lực quản lý của hiệu trưởng các trường này còn chưa cao; các biện pháp quản lý đã làm còn chưa đồng bộ, chưa thường xuyên, chưa triệt để ở một số thời điểm; việc chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh DTTS đạt hiệu quả chưa cao.
1.3. Về việc đề xuất một số biện pháp quản lý
Sau khi nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tiễn công tác quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS huyện Bảo Yên, đề tài đã đề xuất 5 biện pháp quản lý của phòng GD&ĐT huyện Bảo Yên nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý dạy học môn Tiếng Việt ở các trường tiểu học vùng này, đó là:
- Biện pháp 1: Tăng cường năng lực quản lý cho đội ngũ hiệu trưởng; Nâng cao năng lực giảng dạyTiếng Việt cho đội ngũ giáo viên.
- Biện pháp 2: Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt cho phù hợp với đặc điểm học sinh trường tiểu học DTTS.
- Biện pháp 3: Tăng cường quản lý việc học tập Tiếng Việt của học sinh DTTS.
- Biện pháp 4: Tăng cường đầu tư và phát huy tác dụng của CSVC, thiết bị trong dạy học môn Tiếng Việt.
- Biện pháp 5: Đẩy mạnh phối hợp các lực lượng giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội để tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động dạy học môn Tiếng Việt.
* Kết quả khảo nghiệm về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý đã đề xuất cho thấy các biện pháp này có tính cần thiết và khả thi cao.
Thực hiện tốt các biện pháp trên đây, việc dạy học tiếng Việt bậc tiểu học vùng DTTS huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai sẽ có nhiều chuyển biến tích cực, làm nền tảng để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, góp phần phát triển kinh tế, xã hội địa phương.
2. KHUYẾN NGHỊ
2.1. Đối với Bộ giáo dục và đào tạo
- Chỉ đạo biên soạn riêng sách giáo khoa môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học các trường vùng DTTS.
- Chỉ đạo, đầu tư cho các nghiên cứu về tổ chức, quản lý dạy học các cấp học, ngành học cho đối tượng học sinh là người DTTS ở các vùng, miền trên cả nước.
- Điều chỉnh, bổ sung chương trình đào tạo giáo viên tiểu học tại các trường sư phạm, đưa môn học tiếng DTTS vào chương trình đào tạo đối với những tỉnh có tỷ lệ học sinh DTTS cao.
2.2. Đối với Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Lào Cai
- Hàng năm tổ chức Hội thảo đánh giá kết quả dạy học tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng DTTS để rút kinh nghiệm chỉ đạo chung trên địa bàn toàn tỉnh.
- Tăng cường chỉ đạo việc giảng dạy tiếng Việt cho học sinh mẫu giáo 5 tuổi là người DTTS, tạo tâm thế tốt để học sinh vào học tiểu học.
- Tiếp tục chỉ đạo, thực hiện tốt Chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban bí thư TW về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
- Trong công tác tuyển dụng giáo viên, ngoài việc ưu tiên GV người DTTS, cần ưu tiên GV biết sử dụng tiếng DTTS.
- Tham mưu với UBND tỉnh bổ sung chính sách hỗ ttrợ cho giáo viên, cán bộ công tác tại các trường tiểu học vùng DTTS khó khăn; tạo điều kiện để giáo viên yên tâm công tác lâu dài ở vùng DTTS.
2.3. Đối với Phòng GD&ĐT
- Áp dụng triệt để các biện pháp đã đề xuất trong nghiên cứu này để nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh các trường tiểu học vùng DTTS. Đặc biệt, đẩy mạnh công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho CBQL các trường tiểu học nói chung và các trường tiểu học vùng DTTS nói riêng; Có biện pháp tích cực giải quyết những trường hợp giáo viên có năng lực giảng dạy yếu kém.
- Chỉ đạo các trường mẫu giáo thực hiện các biện pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy học, tăng cường tiếng Việt cho trẻ 5 tuổi vùng DTTS, cung cấp vốn tiếng Việt nhiều nhất có thể cho các em trước khi vào học tiểu học.
- Công tác đề bạt, bổ nhiệm CBQL các trường tiểu học vùng DTTS phải xét đến yếu tố cán bộ là người DTTS; cán bộ có khả năng nghe, nói tiếng của đồng bào DTTS.
2.4. Đối với hiệu trưởng các trường tiểu học vùng DTTS
- Tổ chức tốt việc vận dụng chương trình của Bộ vào thực tiễn nhà trường một cách hợp lý; tổ chức dạy giãn tiết, ưu tiên tăng thời lượng dạy học môn Tiếng Việt.
- Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chỉ đạo, hướng dẫn của phòng GD&ĐT trong việc áp dụng các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh DTTS.
- Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc tổ chức, quản lý dạy học, làm cho nhân dân, chính quyền địa phương và các lực lượng xã hội đồng thuận, ủng hộ công tác phát triển giáo dục của nhà trường, của địa phương./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quản lý dạy học môn tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng dân tộc thiểu số huyện Bảo yên, tỉnh lào Cai.doc