Đề tài Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa

Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ - Thực trạng và giải pháp QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG Theo Điều 3 của Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập có đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Các DNNVV bao gồm các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước và Luật Hợp tác xã, hoạt động theo nhiều loại hình doanh nghiệp, như doanh nghiệp Nhà nuớc, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã, công ty hợp danh. Sự hình thành và phát triển DNNVV ngày càng tăng về số lượng bởi lẽ DNNVV có nhiều lợi thế trong hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Nhưng lợi thế của DNNVV có thể kể đến như DNNVV cần vốn ít, lao động không nhiều, dễ quản lý nên dễ dàng khởi sự; có thể tận dụng dễ dàng mọi nguồn lực trong xã hội cho yêu cầu phát triển; dễ linh hoạt về thời gian giao hàng và giá cả nên dễ giao dịch; có tính linh động, có tính phản ứng nhanh trước sự chuyển biến mạnh về sản phẩm, dịch vụ, quy trình sản xuất và thị trường. Chính vì vậy, DNNVV đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của một quốc gia, tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần ổn định xã hội. Ở các nước phát triển, số lượng DNNVV thường chiếm từ 90 - 95% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế và giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực lượng lao động. Chẳng hạn các DNNVV của Thụy Điển đã tạo việc làm cho hơn 60% người lao động, tỷ lệ này ở Nhật là 66,9%, Đài loan là 78%, Chi Lê là 70,3%. Tác dụng tạo việc làm của các DNNVV trong thời kỳ kinh tế suy thoái tựa như một "chiếc van an toàn" để điều chỉnh kinh tế vĩ mô nền kinh tế, hạn chế những tác động tiêu cực của các cuộc khủng hoảng kinh tế. Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 140.000 DNNVV, chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp, đóng góp khoảng 26-27% GDP, 31% sản lượng công nghiệp, 67% nguồn thu ngân sách từ thuế và việc làm cho 26% tổng số lao động cả nước.

doc7 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3109 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ - Thực trạng và giải pháp     QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG Theo Điều 3 của Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập có đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Các DNNVV bao gồm các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước và Luật Hợp tác xã, hoạt động theo nhiều loại hình doanh nghiệp, như doanh nghiệp Nhà nuớc, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã, công ty hợp danh. Sự hình thành và phát triển DNNVV ngày càng tăng về số lượng bởi lẽ DNNVV có nhiều lợi thế trong hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Nhưng lợi thế của DNNVV có thể kể đến như DNNVV cần vốn ít, lao động không nhiều, dễ quản lý nên dễ dàng khởi sự; có thể tận dụng dễ dàng mọi nguồn lực trong xã hội cho yêu cầu phát triển; dễ linh hoạt về thời gian giao hàng và giá cả nên dễ giao dịch; có tính linh động, có tính phản ứng nhanh trước sự chuyển biến mạnh về sản phẩm, dịch vụ, quy trình sản xuất và thị trường.  Chính vì vậy, DNNVV đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của một quốc gia, tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần ổn định xã hội. Ở các nước phát triển, số lượng DNNVV thường chiếm từ 90 - 95% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế và giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực lượng lao động. Chẳng hạn các DNNVV của Thụy Điển đã tạo việc làm cho hơn 60% người lao động, tỷ lệ này ở Nhật là 66,9%, Đài loan là 78%, Chi Lê là  70,3%. Tác dụng tạo việc làm của các DNNVV trong thời kỳ kinh tế suy thoái tựa như một "chiếc van an toàn" để điều chỉnh kinh tế vĩ mô nền kinh tế, hạn chế những tác động tiêu cực của các cuộc khủng hoảng kinh tế. Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 140.000 DNNVV, chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp, đóng góp khoảng 26-27% GDP, 31% sản lượng công nghiệp, 67% nguồn thu ngân sách từ thuế và việc làm cho 26% tổng số lao động cả nước. Đồng Nai là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao đạt 13,05% giai đoạn 2001- 2006, bằng 1,8 lần so tốc độ tăng trưởng của cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa. Năm 2006, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 57,4%, dịch vụ chiếm 28,9% và nông-lâm-thủy sản chiếm 13,7%. Sự tăng trưởng kinh tế cao cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực ở tænh Đồng Nai có sự đóng góp đáng kể của các DNNVV. Chính vì vai trò quan trọng đối với nền kinh tế cho nên trong thời gian vừa qua, khối doanh nghiệp này cũng đã được Đảng và Nhà nước khuyến khích phát triển mạnh mẽ bằng nhiều chủ trương, chính sách, cùng với sự hỗ trợ tích cực của chính quyền địa phương các cấp, các ngành. Tuy nhiên, trên thực tế các DNNVV còn gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế trong quá trình hoạt động, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới. DNNVV tuy nhiều về số lượng nhưng chỉ đóng góp khoảng 25% GDP, từ 6 - 7% kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm cho trên 117.000 lao động, đóng góp 25% thu ngân sách Nhà nước, chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế của mình. Các DNNVV hiện đang phát triển thiếu định hướng, mất cân đối và phân bổ không đồng đều, trái ngược với những ưu thế vốn có. Sự khó khăn trong cạnh tranh trên thị trường của DNNVV, một phần xuất phát từ năng lực nội tại yếu kém, như quy mô vốn còn nhỏ bé, thiết bị công nghệ còn lạc hậu, năng lực quản lý còn hạn chế . Mặt khác, do sự quản lý của Nhà nước còn nhiều bất cập, chưa tạo môi trường thông thoáng cũng như sự hỗ trợ cần thiết cho DNNVV phát huy đầy đủ vai trò và lợi thế của mình đóng góp ngày càng nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế. Bước vào thời kỳ mới, chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện và sâu rộng hơn, đó là thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế khu vực và song phương. Theo đó, hàng rào bảo hộ bị dỡ bỏ hoặc giảm mạnh, đồng thời chúng ta có cơ hội để mở rộng thị trường với sự gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Những yêu cầu mới đặt ra trong sự phát triển kinh tế - xã hội cùng với việc hội nhập kinh tế quốc tế đang đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện về mọi mặt, các DNNVV có nhiệm vụ phải tìm hiểu sâu hơn về vấn đề hội nhập, thường xuyên nắm bắt thông tin liên quan đến sản phẩm của mình, từ đó xây dựng chiến lược kinh doanh, phấn đấu nâng cao sức cạnh tranh trong điều kiện mới bằng các biện pháp, như đổi mới công nghệ, giảm giá thành, xây dựng thương hiệu, phát triển hệ thống phân phối, phát triển nguồn nhân lực... Thực hiện các nhiệm vụ trên, các DNNVV phải chủ động, phát huy mọi khả năng của mình, đồng thời Nhà nước cần thực hiện tốt các công tác quản lý nhà nước đối với DNNVV, cụ thể là: - Hoàn chỉnh hệ thống thể chế, chính sách, đẩy mạnh cải cách hành chính, hướng về doanh nghiệp, phục vụ cho doanh nghiệp tốt hơn. + Trước hết về thể chế chính sách: Nhà nước nên coi trọng việc xây dựng và ban hành thể chế, chính sách phải bảo đảm quán triệt tư duy đổi mới, không để chen vào trong đó những quy định gây khó khăn cho DNNVV và cần chống lại việc tùy tiện đặt ra các điều kiện hạn chế quyền tự do kinh doanh hợp pháp, nhưng phải đảm bảo tăng cường kiểm tra, kiểm soát nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp nói chung và DNNVV nó riêng kinh doanh đúng pháp luật, ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền tự do kinh doanh để kiếm lời bất chính. + Củng cố cơ quan đăng ký kinh doanh thành hệ thống đủ mạnh để tạo thuận lợi cho việc đăng ký kinh doanh, giải quyết những vấn đề phát sinh trước khi bắt đầu khởi sự doanh nghiệp . Bên cạnh việc tạo thuận lợi cho sự thành lập doanh nghiệp mới, Nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi bình đẳng cho doanh nghiệp hoạt động trong suốt quá trình kinh doanh. Trong thời gian qua, môi trường kinh doanh đã được cải thiện một bước đáng kể, nhưng vẫn còn những trở ngại từ phía các cơ quan chức năng đang lạm dụng các biện pháp hành chính gây nhũng nhiễu, khó khăn cho doanh nghiệp, làm tăng chi phí kinh doanh, hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong thời gian tới, chúng ta phải thực hiện việc công khai, minh bạch các thủ tục hành chính để loại trừ những cản trở hoạt động làm ăn chính đáng của dân và của doanh nghiệp, góp phần chống tham nhũng. - Nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi cho DNNVV phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể là: + Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô thông qua việc tạo lập cân đối gia tăng tiết kiệm để đầu tư cho phát triển; duy trì sự cân đối giữa thu và chi ngân sách Nhà nước nhằm giữ lạm phát ở mức có thể kiểm soát được; duy trì sự cân đối giữa tích lũy và đầu tư nhằm tránh sự lệ thuộc vào nước ngoài và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, như nạn tham nhũng, buôn lậu và gian lận thương mại. + Giữ vững ổn định chính trị: Một Nhà nước mạnh, thực thi hữu hiệu các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng được các yêu cầu chính đáng của nhân dân đem lại lòng tin hấp dẫn nhà đầu tư, tránh được rủi ro chính trị. + Bảo đảm ổn định xã hội: Giữa doanh nghiệp và môi trường văn hóa xã hội có liên hệ mật thiết nhau, xã hội cung cấp những nguồn lực mà doanh nghiệp cần và tiêu thụ những hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra. Nhà nước cần tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, như vấn đề công bằng xã hội, công ăn việc làm, môi trường sinh thái, văn hóa... - Nhà nước cần bảo đảm cơ sở hạ tầng cho phát triển, dịch vụ kết cấu hạ tầng có vai trò to lớn đối với sự tăng trưởng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng dịch vụ hạ tầng đòi hỏi vốn lớn mà khả năng thu hồi lại chậm và hiệu quả không cao nên khó thu hút vốn tư nhân, vì vậy Nhà nước có nhiệm vụ đảm bảo các dịch vụ thuộc cơ sở hạ tầng phát triển, như giáo dục, vận tải, thông tin, năng lượng, công nghệ ... - Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ phát triển các DNNVV thông qua việc thực hiện các chương trình hỗ trợ DNNVV cải thiện khả năng hoạt động, tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước. Việc hỗ trợ DNNVV theo nguyên tắc cơ bản, đó là giúp DNNVV để họ giúp mình; chỉ giúp DNNVV chứ không bảo hộ họ; đưa DNNVV vào guồng máy phát triển kinh tế chung và duy trì một môi trường kinh doanh thân thiện. Thực hiện hỗ trợ theo những hướng chủ yếu là giúp cải cách DNNVV và giảm thiểu rủi ro, như tài chính và kế hoạch; tiếp nhận, áp dụng và cải tiến công nghệ; quản lý‎ nguồn nhân lực; cải thiện và huấn luyện khả năng sản xuất và hợp tác kinh doanh, cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại... Cần coi trọng và có chính sách ưu đãi hơn nữa để phát triển các DNNVV, các làng nghề ở vùng nông thôn, đưa doanh nghiệp về nông thôn sẽ góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, phát triển đô thị nhỏ, giảm bớt sự chênh lệch về đời sống giữa thành thị và nông thôn. Đây cũng là giải pháp chủ yếu tạo ra thu nhập và việc làm cho những nông dân không còn đất trong quá trình đô thị hóa, hạn chế tình trạng dân nông thôn đổ về thành thị làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với DNNVV, thiết nghĩ đây là vấn đề cấp thiết cần được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện nhằm khơi dậy tinh thần kinh doanh trong dân ta, khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn, trí tuệ, tài năng ra kinh doanh vì sự phồn vinh của đất nước, nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Tiến sĩ. Lê Thị Khuyên - Ban Tuyên giáo Tỉnh Ủy Chủ nhiệm đề tài: T.S Trần Tiến Cường - Trưởng ban Ban Nghiên cứu cải cách và phát triển doanh nghiệp Email: ttcuong@ciem.org.vn Đề tài khoa học cấp bộ "Đổi mới quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam theo hướng không phân biệt thành phần kinh tế"             Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp theo hướng thống nhất không phân biệt thành phần kinh tế; xác định các nội dung chính của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và kiến nghị các giải pháp giúp hình thành nội dung và cơ chế quản lý nhà nước chung thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp. Ngoài mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương với các nội dung như sau: Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước và quản lý nhà nước thống nhất đối với các loại hình doanh nghiệp. Chương này tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận như: các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam xét từ đặc điểm pháp lý và sở hữu có ảnh hưởng đến quản lý nhà nước; quan niệm về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp khi chuyển sang nền kinh tế thị trường; quan niệm, đặc điểm và yêu cầu quản lý nhà nước thống nhất không phân biệt thành phần kinh tế; vai trò của Nhà nước, mục tiêu và nguyên tắc xác định nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và quản lý nhà nước thống nhất không phân biệt thành phần kinh tế; phân biệt quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu; một số kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. Chương II: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Chương này tập trung phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế trên các khía cạnh: khung pháp lý của các doanh nghiệp; bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; việc tách bạch chức năng quản lý của chủ sở hữu với chức năng quản lý nhà nước... Phân tích tại chương này cho biết quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp đã có những đổi mới trong thời gian gần đây, như: bước đầu chuyển từ tư duy “cai trị” xin-cho là chủ đạo sang tư duy tìm kiếm công cụ quản lý thay thế; điều chỉnh dần từ phương pháp hành chính-mệnh lệnh sang quản lý bằng pháp luật và các công cụ khác như cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Tuy nhiên, xét về quản lý thống nhất, không phân biệt loại hình doanh nghiệp, hình thức sở hữu và thành phần kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế. Đề tài đi sâu phân tích mặt được và những tồn tại, hạn chế nhìn từ góc độ quản lý thống nhất và không phân biệt về khung pháp luật, bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tách bạch chức năng và bộ máy quản lý của chủ sở hữu, quản lý các lĩnh vực liên quan đến vòng đời của doanh nghiệp (thành lập, đăng ký kinh doanh, gia nhập thị trường, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp, về cơ chế, chính sách của Nhà nước...). Chương III: Một số giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệpở Việt Nam theo hướng không phân biệt thành phần kinh tế. Chương này đề xuất quan điểm, mục tiêu đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; tập trung phân tích, đề xuất 6 nhóm giải pháp (gồm các nội dung quản lý nhà nước cần thể chế hoá; hoàn thiện khung khổ pháp luật; bảo đảm hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước; giải pháp về cơ chế, chính sách; tách bạch quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu; đổi mới bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp). Báo cáo của đề tài được lưu tại Thư viện Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. Hiểu thế nào về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp? Thứ sáu, 05 Tháng 2 2010 16:37 Quản trị viên Trả lời: Nhà nước quản lý DN về những nội dung sau: 1. Ban hành, phổ biến và hướng dẫn thực hiện các Văn bản pháp Luật về doanh nghiệp và Văn bản pháp Luật có liên quan. 2. Tổ chức đăng ký kinh doanh; hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh bảo đảm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội. 3. Tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao đạo đức kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp; phẩm chất chính trị, đạo đức, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý nhà nước đối với Doanh nghiệp; đào tạo và xây dựng đội ngũ cho công nhân lành nghề. 4. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với Doanh nghiệp theo định hướng và mục tiêu của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. 5. Kiểm tra, thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xử lý các hành vi vi phạm Pháp luật của doanh nghiệp, của cá nhân và tổ chức có liên quan theo quy định của Pháp luật. CHƯƠNG IX QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP Điều 161. Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp 1. Ban hành, phổ biến và hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp và văn bản pháp luật có liên quan. 2. Tổ chức đăng ký kinh doanh; hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh bảo đảm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội. 3. Tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao đạo đức kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp; phẩm chất chính trị, đạo đức, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; đào tạo và xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề. 4. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp theo định hướng và mục tiêu của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. 5. Kiểm tra, thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp, của cá nhân và tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật. Điều 162. Trách nhiệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp 1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; chỉ định một cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì phối hợp với các bộ, ngành khác thực hiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. 2. Các bộ, cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc thực hiện nhiệm vụ được phân công trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân công có trách nhiệm: a) Đánh giá lại theo định kỳ hoặc theo yêu cầu của hiệp hội doanh nghiệp các điều kiện kinh doanh thuộc quyền quản lý nhà nước; kiến nghị bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không còn cần thiết; sửa đổi các điều kiện kinh doanh bất hợp lý; trình Chính phủ ban hành điều kiện kinh doanh mới bảo đảm yêu cầu thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước được phân công; b) Hướng dẫn thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm việc chấp hành các điều kiện kinh doanh thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước; c) Tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật; d) Tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; kiểm tra, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi trường; bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn vệ sinh lao động; đ) Xây dựng hệ thống Tiêu chuẩn Việt Nam; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm việc thực hiện tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá và dịch vụ theo hệ thống Tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam; e) Thực hiện các quyền và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. 3. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trong phạm vi địa phương; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân công có trách nhiệm: a) Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trực thuộc và Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cung cấp thông tin doanh nghiệp; giải quyết khó khăn, cản trở trong đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trong phạm vi thẩm quyền; tổ chức kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật; b) Tổ chức đăng ký kinh doanh và thực hiện quản lý doanh nghiệp, hộ kinh doanh theo các nội dung đăng ký kinh doanh; xử lý hành chính các hành vi vi phạm Luật này và pháp luật có liên quan; c) Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trực thuộc và Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện các quy định của pháp luật về thuế, các điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật và hướng dẫn tương ứng của các bộ, cơ quan ngang bộ; trực tiếp xử lý hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực này; d) Tổ chức cơ quan đăng ký kinh doanh, quyết định biên chế cơ quan đăng ký kinh doanh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; chỉ đạo và hướng dẫn Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xử lý vi phạm hành chính trong đăng ký kinh doanh. Điều 163. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan đăng ký kinh doanh 1. Cơ quan đăng ký kinh doanh có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: a) Giải quyết việc đăng ký kinh doanh và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật; b) Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin doanh nghiệp; cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có yêu cầu theo quy định của pháp luật; c) Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp khi xét thấy cần thiết cho việc thực hiện các quy định của Luật này; đôn đốc việc thực hiện chế độ báo cáo của doanh nghiệp; d) Trực tiếp hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra doanh nghiệp theo những nội dung trong hồ sơ đăng ký kinh doanh; đ) Xử lý vi phạm các quy định về đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật; thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải thể theo quy định của Luật này; e) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về những vi phạm trong việc đăng ký kinh doanh; g) Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan. 2. Cơ cấu tổ chức của cơ quan đăng ký kinh doanh do Chính phủ quy định. Điều 164. Kiểm tra, thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việc kiểm tra, thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện theo quy định của pháp luật. Điều 165. Xử lý vi phạm 1. Người có hành vi vi phạm các quy định của Luật này thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; trường hợp gây thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp, chủ sở hữu, thành viên, cổ đông, chủ nợ của doanh nghiệp hoặc người khác thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. 2. Doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và bị xoá tên trong sổ đăng ký kinh doanh trong các trường hợp sau đây: a) Nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký kinh doanh là giả mạo; b) Doanh nghiệp do những người bị cấm thành lập doanh nghiệp theo khoản 2 Điều 13 của Luật này thành lập; c) Không đăng ký mã số thuế trong thời hạn một năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; d) Không hoạt động tại trụ sở đăng ký trong thời hạn sáu tháng liên tục, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc chứng nhận thay đổi trụ sở chính; đ) Không báo cáo về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh trong mười hai tháng liên tục; e) Ngừng hoạt động kinh doanh một năm liên tục mà không thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh; g) Doanh nghiệp không gửi báo cáo theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 163 của Luật này đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày có yêu cầu bằng văn bản; h) Kinh doanh ngành, nghề bị cấm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc[Tài Liệu Tham Khảo] Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.doc
Luận văn liên quan