Đề tài Quản lý nhà nước về hoạt động báo chí ở Việt Nam

Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với kinh tế, nền báo chí cách mạng Việt Nam đã không ngừng phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng. Báo chí đã bám sát đời sống xã hội, cung cấp những thông tin đa chiều, sâu sắc; tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước hiệu quả. Vai trò của báo chí ngày càng nâng cao trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong quá trình đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Trước tình hình đó, ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ban hành Chỉ thị 22-CT/TW về việc tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản. Đây chính là động lực để kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa X thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí ngày 12-6-1999. Điều này cho thấy, Nhà nước ta đã thể hiện sự cố gắng trong quá trình quản lý hoạt động báo chí phù hợp với điều kiện, tình hình mới. Tuy nhiên, khi mà sự phát triển không đi cùng với việc nâng cao năng lực quản lý phù hợp đã làm cho hoạt động báo chí bộc lộ nhiều bất cập, thiếu ổn định. Đó chính là xu hướng thương mại hóa, xa rời tôn chỉ mục đích, đối tượng phục vụ; làm lộ bí mật, an ninh quốc gia; nhiều tờ báo chạy theo thị hiếu tầm thường, đăng bài ảnh dung tục, thiếu văn hóa, đi ngược lại thuần phong mỹ tục; nhiều địa phương vì lý do này hoặc lý do khác đã gây cản trở hoạt động của phóng viên, cung cấp thông tin sai lệch v.v . Trong khi đó, dưới góc độ Nhà nước thì các công cụ quản lý về báo chí mà chủ yếu là pháp luật chưa hoàn thiện, không phù hợp với thực tiễn phát triển sinh động trong lĩnh vực báo chí thời gian gần đây. Tất cả đã đặt ra nhu cầu cần phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước cả về phương diện pháp lý lẫn thực tiễn. Chính từ bức xúc như vậy mà tác giả đã tiến hành chọn đề tài “Quản lý Nhà nước đối với báo chí” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp Cao học Luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đây là một lĩnh vực tương đối mới. Trong quá khứ cũng như hiện nay chỉ có một số nghiên cứu chính thức về lĩnh vực này có thể kể đến như: + PGS.TS Lê Thanh Bình, ThS.Phí Thị Thanh Tâm: Quản lý Nhà nước và pháp luật về báo chí (sách chuyên khảo dành cho học viên ngành báo chí truyền thông) - NXB Văn Hóa Thông Tin, 2009. + TS.Lê Minh Toàn (chủ biên): Quản lý Nhà nước về thông tin và truyền thông (sách chuyên khảo dành cho cán bộ, viên chức, học viên, sinh viên) - NXB Chính Trị Quốc Gia, 2009. Đây là các công trình mang tính chất tham khảo cho sinh viên chuyên ngành thông tin truyền thông và cũng rất giá trị đối với những người nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ khoa học pháp lý, chuyên ngành Luật Hành chính. Và trên thực tế, nguồn tài liệu tham khảo, các sách khảo cứu chuyên đề về quản lý báo chí không nhiều. Những khó khăn khách quan trên là những trở ngại không nhỏ đối với việc nghiên cứu của tác giả. Do vậy, tác giả ngoài việc thu thập tài liệu sẽ thực hiện một số chuyến đi thực tế đến các nơi như: Các cơ quan quản lý về lĩnh vực báo chí các cấp, các trụ sở của các cơ quan báo chí điển hình để tìm hiểu hoạt động và ghi nhận những phản hồi từ các cơ quan này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài được thực hiện với mục đích: + Xây dựng và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về hoạt động báo chí và quản lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí, vai trò và đóng góp của báo chí trong đời sống xã hội. Phân tích những bất cập của pháp luật nước ta trong những quy định về quản lý hoạt động báo chí. Trình bày các ưu khuyết diểm trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí của Nhà nước ta và tìm ra các nguyên nhân. + Từ cơ sở trên, các tác giả đề ra những biện pháp mang tính khả thi cho công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí và đưa ra những ý kiến mới cho việc xây dựng pháp luật hoàn thiện và chặt chẽ hơn, nhằm tạo ra hành lang pháp lý tích cực cho công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Nội dung được đề cập chủ yếu của đề tài là báo chí ở Việt Nam, những quy định pháp luật về quản lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí và thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt động này. Từ đó phân tích những bất cập cơ bản nhất cả về lý luận cũng như thực tiễn của nội dung này. Đề tài sẽ không đề cập các nội dung liên quan đến vấn đề về nghiệp vụ báo chí. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Các phương pháp chủ yếu để tiến hành nghiên cứu đề tài này dưa trên cơ sở của phép biện chứng duy vật, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra, tác giả cũng sẽ sử dụng tổng hợp các phương pháp hệ thống hóa, phân tích, so sánh trên cở sở từ kết quả đi thực địa. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Đề tài khi được hoàn thành sẽ là một tập luận văn trong đó bao hàm những lý luận cơ bản nhất về quản lý Nhà nước hoạt động báo chí, thực trạng và hướng hoàn thiện liên quan đến quản lý Nhà nước về hoạt động báo chí. Đây sẽ nguồn tư liệu tham khảo và là ý tưởng đề xuất chân thành đối với các cơ quan, tổ chức hoạt động liên quan đến lĩnh vực này. 7. Kết cấu Luận văn Phần mở đầu Phần nội dung: Gồm 2 chương Chương 1: Những vấn đề chung về quản lý Nhà nước đối với báo chí. Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với báo chí. Phần kết luận MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI BÁO CHÍ 4 1.1 Khái quát về báo chí 4 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và lịch sử hình thành báo chí 4 1.1.1.1. Khái niệm báo chí. 4 1.1.1.2. Đặc điểm của báo chí 6 1.1.1.3. Lịch sử hình thành, phát triển của báo chí thế giới và Việt Nam. 10 1.1.2. Các loại hình báo chí trong giai đoạn hiện nay. 15 1.1.2.1. Báo in. 15 1.1.2.2. Báo nói. 16 1.1.2.3. Báo hình. 18 1.1.2.4. Báo điện tử. 19 1.1.3. Giá trị và vai trò của báo chí trong đời sống xã hội. 21 1.2. Quản lý nhà nước đối với báo chí. 24 1.2.1. Khái niệm và các nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với báo chí. 24 1.2.1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với báo chí 24 1.2.1.2. Các nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với báo chí 26 1.2.2. Cơ sở pháp lý của quản lý Nhà nước đối với báo chí. 29 1.2.3. Cơ quan quản lý Nhà nước đối với báo chí 31 1.2.4. Nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí. 35 1.2.5. Ý nghĩa của việc quản lý Nhà nước đối với báo chí 37 1.2.6. Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở một số quốc gia 37 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI BÁO CHÍ 43 2.1. Khái quát về tình hình báo chí Việt Nam hiện nay 43 2.2. Thực trạng quản lý Nhà nước đối báo chí 48 2.2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý Nhà nước đối với báo chí 48 2.2.2. Về thực tiễn quản lý. 60 2.2.2.1. Công tác xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và phát triển báo chí 61 2.2.2.2. Công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện, áp dụng các văn bản qui phạm pháp luật về báo chí 62 2.2.2.3. Công tác quản lý, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ đối với cán bộ báo chí và việc thực hiện chức năng của cơ quan chủ quản 64 2.2.2.4. Công tác quản lý hợp tác, việc liên doanh, liên kết và kinh doanh của cơ quan báo chí. 65 2.2.2.5. Vấn đề cung cấp thông tin và trả lời trên báo chí 66 2.2.2.6. Thanh tra, kiểm tra, khen thưởng trong hoạt động báo chí 69 2.3. Nguyên nhân của thực trạng quản lý Nhà nước đối với báo chí. 71 2.3.1. Nguyên nhân khách quan 71 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan. 72 2.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với báo chí 73 2.4.1. Những cơ hội, thách thức đối với báo chí Việt Nam hiện nay và nhu cầu hoàn thiện về quản lý Nhà nước. 73 2.4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với báo chí. 74 2.4.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về quản lý Nhà nước đối với báo chí. 74 2.4.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực tiễn quản lý Nhà nước đối với báo chí. 79 KẾT LUẬN 83

doc84 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 14422 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước về hoạt động báo chí ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngũ người làm báo ngày càng phát triển, chất lượng ngày càng được nâng cao. Nếu như năm 1999 trên toàn quốc chỉ có 8.000 nhà báo được cấp thẻ thì đến năm 2009 cả nước có gần 17.000 nhà báo được cấp thẻ. Trong số này, nhiều nhà báo có lập trường chính trị, tư tưởng vững vàng, tiến bộ nhanh về nghiệp vụ, tiếp cận nhanh với phong cách làm báo hiện đại, trưởng thành từ thực tiễn của sự nghiệp đổi mới. Tuy nhiên, công tác quản lý, bồi dưỡng nâng cao trình độ báo chí của Bộ Thông tin và Truyền thông vẫn còn những hạn chế như: Chưa thực hiện được kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý chuyên sâu mảng phát thanh, truyền hình, internet. Khối lượng công việc phải xử lý trong công tác quản lý Nhà nước về báo chí ngày càng nhiều và phức tạp, trong khi đó đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu và yếu, một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý trong tình hình mới. Công tác kế hoạch, quy hoạch, tổ chức bộ máy quản lý nhìn chung chưa hợp lý; trình độ nghiệp vụ chuyên môn của một số cán bộ, chuyên viên còn yếu, chất lượng công tác chưa cao, khả năng phát hiện, khả năng nắm bắt các nghiệp vụ báo chí của một số cán bộ, chuyên viên chưa theo kịp yêu cầu của công tác quản lý Nhà nước về báo chí trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển. Song song đó, Luật Báo chí hiện hành quy định rõ về quyền và trách nhiệm của cơ quan chủ quản báo chí nhưng vẫn còn những cơ quan chủ quản báo chí chưa hoàn thành nhiệm vụ quản lý toàn diện, buông lỏng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu cương quyết trong xử lý các vi phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền. Phần lớn các cơ quan chủ quản chưa có cơ chế làm việc và chưa bố trí cán bộ chuyên trách theo dõi hoạt động của cơ quan báo chí. Một số cơ quan chủ quản chưa làm tốt công tác cán bộ, còn bổ nhiệm chức danh lãnh đạo cơ quan báo chí chưa đảm bảo tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ. Riêng về đội ngũ phóng viên, trước xu hướng thương mại và thực dụng hóa cuộc sống và sinh hoạt báo chí, nhiều phóng viên không được đào tạo chính quy, kém năng lực, thiếu bản lĩnh chính trị đã dẫn đến sai phạm luật mà điển hình trong thời gian gần đây là vụ việc ngày 14-10-2008, Tòa án Nhân dân TP.Hà Nội tuyên phạt nhà báo Nguyễn Văn Hải và nhà báo Nguyễn Việt Chiến của Báo Tuổi Trẻ và Báo Thanh Niên án tù và tù không giam giữ vì hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, công dân. Toà án xác định, 2 phóng viên đã viết nhiều tin bài sai sự thật, không có căn cứ về vụ án PMU 18 xâm phạm lợi ích Nhà nước và một số cán bộ cao cấp. 2.2.2.4. Công tác quản lý hợp tác, việc liên doanh, liên kết và kinh doanh của cơ quan báo chí Vấn đề liên doanh, liên kết trong hoạt động báo chí đã diễn ra nhiều năm nay và đặc biệt sôi động trong một vài năm gần đây, khi công nghệ thông tin - truyền thông phát triển, truyền hình kỹ thuật số, truyền hình cáp, mạng viễn thông quốc tế được ứng dụng rộng rãi, nhu cầu cung cấp thông tin của xã hội ngày càng cao. Nhiều cơ quan báo chí liên kết với các tổ chức, cá nhân trong, ngoài nước không chỉ trong công đoạn in ấn, phát hành báo chí mà cả trong việc cung cấp nội dung cho các ấn phẩm báo chí, đặc biệt là ở lĩnh vực thương mại, giải trí. Tuy nhiên, Luật Báo chí hiện hành không quy định và điều chỉnh cụ thể vấn đề này trong lần ban hành gần đây nhất. Không thể phủ nhận rằng sự hợp tác giữa cơ quan báo chí và các công ty tư nhân với nguồn vốn dồi dào, công nghệ tiên tiến, nguồn nhân lực năng động, trẻ trung đã tạo nên những sản phẩm báo chí hấp dẫn độc giả. Nhưng mặt khác, do các công ty tư nhân hoạt động với mục đích thương mại theo phương châm nhanh, rẻ, thu lợi cao, nên không ít chương trình còn có sự cẩu thả về nội dung, vi phạm các quy định về quảng cáo trên báo chí. Nhiều ấn phẩm báo chí khai thác những đề tài nhạy cảm, giật gân, câu khách, vi phạm thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng đến lối sống của một bộ phận giới trẻ. Tình trạng tư nhân, trong đó có cả công ty nước ngoài, “núp bóng” để làm toàn bộ ấn phẩm báo chí hoặc “mua kênh”, “bán sóng” đối với báo hình,… chưa được nghiên cứu, phân tích nghiêm túc, từ đó xây dựng cơ chế quản lý phù hợp. Riêng đối với hoạt động kinh doanh của các cơ quan báo chí, theo Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 thì: “Cơ quan báo chí chỉ được tổ chức hoạt động kinh doanh, dịch vụ phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ của mình”. Khoản 2, Điều 17c, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 Tuy vậy, trên thực tế, ngoài các nguồn thu từ bán báo và quảng cáo, nhiều cơ quan báo chí còn cho thuê cơ sở vật chất và tham gia hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực không liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ báo chí như bất động sản, chứng khoán,… Điều này không phù hợp với quy định của pháp luật nhưng cho đến thời điểm này, cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí vẫn chưa có biện pháp giải quyết. 2.2.2.5. Vấn đề cung cấp thông tin và trả lời trên báo chí Điều 7, Luật Báo chí hiện hành quy định: “Trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, các tổ chức có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí, giúp cho báo chí thông tin chính xác, kịp thời và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin. Đối với vụ án đang được điều tra hoặc chưa xét xử thì các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền không cung cấp thông tin cho báo chí, nhưng báo chí có quyền thông tin theo các nguồn tài liệu của mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin. Báo chí có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ tên người cung cấp thông tin nếu có hại cho người đó, trừ trường hợp có yêu cầu của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân hoặc Chánh án Toà án Nhân dân cấp tỉnh và tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm nghiêm trọng”. Tuy nhiên, quy định nói trên của Luật chưa được một số cơ quan, tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh. Đặc biệt trong công tác chống tham nhũng, tiêu cực, còn những tổ chức, cá nhân chưa hợp tác với nhà báo theo luật định, thậm chí còn đe dọa, hành hung, thu giữ, phá hỏng phương tiện tác nghiệp của nhà báo. Do không có nguồn tin chính thức, phóng viên phải khai thác những nguồn tin khác, không đầy đủ và dễ sai lệch. Ngoài ra, quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí do Thủ tướng Chính phủ ban hành giữa năm 2007 đã bước đầu chấn chỉnh được vấn đề này, nhưng việc thực thi quy chế vẫn còn không ít bất cập. Một số cơ quan chưa cử người phát ngôn hoặc người phát ngôn chưa đáp ứng yêu cầu cập nhật và cung cấp thông tin kịp thời, chuẩn xác. Thậm chí, việc áp dụng máy móc quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí trong một số trường hợp đã hạn chế báo chí tiếp cận thông tin. Chính vì lẽ đó mà đã có nhiều vụ việc xảy ra dẫn đến hậu quả khó lường liên quan đến nội dung này mà các cơ quan báo chí và phóng viên bị kỷ luật oan như sau: - Trường hợp thứ nhất: Từ tháng 9-2002 đến tháng 10-2003, Báo Pháp Luật TP.Hồ Chí Minh có đăng tải loạt bài về sự can thiệp của Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Thuận vào hoạt động của Công ty Cổ phần Khách sạn Phan Thiết. Để xác định sự can thiệp này là trái pháp luật, báo đã dẫn ý kiến các chuyên gia trong tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp của Chính phủ, viện dẫn báo cáo của Văn phòng Chính phủ, văn bản thông báo ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ... Sau đó, Ủy ban Nhân dân tỉnh có ý kiến trở lại, Thủ tướng Chính phủ giao Thanh tra Nhà nước thẩm tra lại. Báo cáo kiểm tra của Thanh tra Nhà nước tiếp tục xác định nội dung can thiệp của Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Thuận là không đúng pháp luật. Thế nhưng sau cuộc làm việc trực tiếp với tỉnh Bình Thuận, tháng 4-2004, Thủ tướng Chính phủ có kết luận: Việc Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Thuận chỉ đạo thanh tra, xử lý vi  phạm ở Công ty Cổ phần Khách sạn Phan Thiết là cần thiết và phù hợp pháp luật. Chỉ rút kinh nghiệm về cách làm... Dựa vào kết luận sau cùng này, ông Lê Tú Hoàng, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Thuận, người trực tiếp xử lý vụ việc, khởi kiện báo, và Tòa án Nhân dân quận 10, thành phố Hồ Chí Minh đã phán quyết báo đã thông tin sai sự thật, gây thiệt hại uy tín, danh dự của ông Phó Chủ tịch tỉnh. Đáng chú ý là các bài báo liên quan, báo đều dựa theo các nguồn có thẩm quyền: ý kiến các chuyên gia trong tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp của Chính phủ, viện dẫn báo cáo của Văn phòng Chính phủ, Văn bản thông báo ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ... Thời điểm báo đăng  tin bài, các văn bản trên đều đang có hiệu lực, chưa hề bị hủy bỏ, thay thế. - Trường hợp thứ hai: Báo Công Lý (thuộc Tòa án Nhân dân Tối cao ra ngày 09-1-2002) có đăng tải bài viết về “tác giả” của những vụ kiện ở Tuyên Quang: Chân dung và những trò bịp” về bà Nguyễn Thị Oanh. Trong bài báo, phóng viên đưa ra hàng loạt sự kiện về đời tư của bà Oanh từ những chuyện như bị “đúp” khi đi học tại Đại học Sư phạm Việt Bắc, bị hạnh kiểm kém đến những chuyện “lừa nhẹ nhàng lấy 70.000 đồng”, “lợi dụng quan hệ tình ái để lừa đảo”… Nhân vật chính trong bài “điều tra” nói trên đã khiếu nại về nội dung bài báo. Do không thoả mãn với trả lời của Báo Công Lý, bà Oanh khởi kiện phóng viên và báo ra Tòa án Nhân dân quận Hoàn Kiếm với yêu cầu cải chính đối với một số chi tiết về đời tư (những “cú lừa được nhắc đến trong bài báo) cũng như đòi Báo bồi thường 5,199 tỷ đồng. Báo Công Lý cho rằng những thông tin trong bài báo “Chân dung và những trò bịp” hoàn toàn dựa trên tài liệu do các cơ quan chức năng tỉnh Tuyên Quang cung cấp, phóng viên và báo không bịa đặt ra các thông tin trong bài báo đó. Các thông tin phản ánh hành vi lừa đảo của bà Oanh, những biểu hiện trong sinh hoạt của bà Oanh như việc khiếu kiện của bà Oanh đối với anh em đều được thể hiện trong báo cáo 116/CAT (PA25) ngày 24-8-2001 của Công an tỉnh Tuyên Quang; Báo cáo số 31/CV-VSTBPN ngày 16-9-2001 của Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh Tuyên Quang. Tại toà, Báo Công Lý cho rằng chỉ cải chính khi có văn bản xác định 2 văn bản “nguồn thông tin” kia không đúng sự thật. Tòa án Nhân dân quận Hoàn Kiếm cho rằng 2 báo cáo trên là những báo cáo của ngành, những thông tin trong đó mang tính chất nội bộ, bởi vậy khi những thông tin về đời tư của bà Oanh được đưa lên báo thì phóng viên và Báo Công Lý có nghĩa vụ chứng minh rằng những thông tin đó là có căn cứ, đúng sự thật khách quan và phải chịu trách nhiệm về sự chính xác của những thông tin đó. Hội đồng Xét xử nhận định: Bài báo liên quan nhiều đến đời tư của bà Oanh, lại khẳng định một số hành vi lừa đảo khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật cũng như chưa có cơ quan có thẩm quyền nào kết luận là phiến diện, chưa phản ánh đúng sự thật khách quan. Hội đồng Xét xử đã yêu cầu phóng viên và Báo Công Lý phải cải chính đối với những thông tin nêu trên, bồi thường cho bà Oanh 11.050.000 đồng. - Trường hợp thứ ba: Năm 2005, từ nguồn tin Ban chuyên án Tổng cục Cảnh sát, Báo Tuổi Trẻ và nhiều cơ quan báo chí đưa thông tin Nguyễn Đức Chi khai đã sử dụng 700 ngàn USD “bôi trơn” cho cán bộ tỉnh Khánh Hoà và Bộ Kế hoạch và Đầu tư khi thực hiện dự án Rusalka. Sau này toà án xét xử không có nội dung này. Tỉnh Khánh Hoà phản ứng dẫn tới việc Bộ Thông tin và Truyền thông rút thẻ nhà báo đối với hai phóng viên Phan Sông Ngân và Võ Hồng Quỳnh. Một khó khăn nữa đối với các nhà báo khi tiếp cận thông tin là tình trạng đóng dấu “mật” tràn lan trên tài liệu của các cơ quan, hạn chế phóng viên tìm hiểu, khai thác nội dung các tài liệu. Nghị định 56/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2006 về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa - thông tin chỉ có khoản 1, Điều 11 quy định mức xử phạt từ 1 triệu đến 2 triệu đồng đối với hành vi vi phạm quy định về cung cấp thông tin cho báo chí của tổ chức, cá nhân, nhưng trên thực tế cũng chưa có tổ chức, cá nhân nào bị áp dụng hình thức xử phạt này. Liên quan đến trả lời trên báo chí, Điều 8 Luật Báo chí hiện hành quy định: “Người đứng đầu cơ quan báo chí có quyền yêu cầu các tổ chức, người có chức vụ trả lời vấn đề mà công dân nêu ra trên báo chí; các tổ chức, người có chức vụ có trách nhiệm trả lời trên báo chí”. Trên thực tế, nhiều tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thường không trả lời ý kiến phê bình trên báo chí cũng như những kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân do cơ quan báo chí chuyển đến hoặc khi được báo chí nhắc nhở thì cũng chỉ trả lời chung chung. Trong khi đó, Luật Báo chí hiện hành và các văn bản dưới luật lại không có chế tài cụ thể đối với tổ chức, cá nhân vi phạm quy định tại Điều 8, vì vậy cơ quan quản lý nhà nước về báo chí không thể xử lý và cơ quan báo chí cũng không thể khiếu nại tổ chức, cá nhân vi phạm. 2.2.2.6. Thanh tra, kiểm tra, khen thưởng trong hoạt động báo chí Trong những năm qua, cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí đã duy trì đều đặn giao ban định kỳ hằng tuần, hằng tháng với các cơ quan báo chí, chủ động và kịp thời hơn trong việc cung cấp và định hướng thông tin cho báo chí, tăng cường kiểm tra lưu chiểu báo chí, xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động báo chí. Hoạt động thanh tra, kiểm tra báo chí đang ngày càng đi vào nề nếp. Từ năm 1999 đến năm 2009, Bộ đã tiếp nhận và giải quyết hơn 180 đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh những thông tin không chính xác trên báo chí do các cá nhân, tổ chức trong cả nước gửi tới liên quan đến hơn 1.000 vụ việc. Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, trong 9 năm (2000- 2008), Bộ đã nhắc nhở, phê bình, đề nghị kiểm điểm đối với gần 350 trường hợp, xử phạt vi phạm hành chính đối với các cơ quan báo chí có tổng số tiền phạt trên 1 tỷ đồng. Bộ cũng đã đề nghị kiểm điểm, xử lý vi phạm kỷ luật đối với 20 cơ quan báo chí (Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Tiền Phong, Khoa Học và Đời Sống, Đại Đoàn Kết, Pháp Luật Việt Nam, Gia Đình và Xã Hội...). Chỉ riêng năm 2009, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tiếp nhận và xử lý 293 đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến 132 vụ việc được đăng, phát trên báo chí; trong đó có 30% đơn thư không hợp lệ; xử phạt vi phạm hành chính đối với 31 lượt trường hợp sai phạm của 26 cơ quan báo chí và một số trang tin điện tử với số tiền trên 200 triệu đồng. Bộ đã thu hồi thẻ nhà báo của 4 phóng viên (vì bị khởi tố, bắt giam); rút quyết định đình bản 3 tháng với 1 cơ quan báo chí. Bộ Thông tin và Truyền thông (2009), Báo cáo tình hình báo chí 2009, tr.4 Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, công tác lưu chiểu còn hạn chế về cán bộ, phương tiện làm việc chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Lưu chiểu là một khâu quan trọng của quản lý Nhà nước về báo chí nhằm thực hiện chức năng kiểm tra trước khi cho lưu hành nhưng vấn đề này vẫn còn bộc lộ sơ hở, yếu kém; những vi phạm phát hiện chậm đã gây không ít khó khăn cho quá trình xử lý và để lại hậu quả phức tạp. Việc khen thưởng trong hoạt động báo chí cũng đã được quan tâm hơn. Chỉ tính riêng hai năm 2005, 2006, Bộ Thông tin và Truyền thông đã biểu dương, khen thưởng, hiệp y để các cấp có thẩm quyền khen thưởng 61 trường hợp (biểu dương, khen thưởng 44 trường hợp, hiệp y khen thưởng đối với 17 trường hợp khác gồm tập thể các cơ quan báo chí và cán bộ phóng viên có thành tích). Lê Minh Toàn chủ biên (2009), Quản lý Nhà nước về thông tin và truyền thông, NXB Chính Trị Quốc Gia, tr. 21 Ngoài ra, lãnh đạo Bộ biểu dương, khen thưởng những cơ quan báo chí đã có thành tích tuyên truyền về các lĩnh vực như: quốc phòng, an toàn giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống bão lụt, thiên tai... Tuy nhiên, công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động báo chí vẫn còn nhiều thiếu sót và chưa tương xứng với chức năng nhiệm vụ được quy định. Trong nhiều trường hợp, cơ quan quản lý báo chí còn phản ứng chậm trước những sự kiện nhạy cảm, để báo chí nước ngoài chủ động đưa tin, hướng dẫn dư luận trong nước. Một số vụ việc chậm được định hướng, để báo chí đưa tin rồi mới “thổi còi”, đột ngột dừng thông tin mà không có lời giải thích hợp lý, gây dư luận không tốt trong nhân dân. Ví dụ như các nội dung bài viết liên quan: Chất lượng tiền polymer, bauxite Tây Nguyên v.v… Cho đến nay, một số cơ quan báo chí và nhà báo vi phạm Luật Báo chí đã bị xử lý, nhưng những vi phạm của các tổ chức, cá nhân khác nói chung còn chưa được các cơ quan có thẩm quyền xử lý đúng mức. Việc xử lý vi phạm của cơ quan báo chí trong một số trường hợp còn thiếu nhất quán, cùng một lỗi vi phạm nhưng mỗi lúc, mỗi nơi lại áp dụng mức xử phạt khác nhau. Có những vi phạm không được xử lý kịp thời, dứt điểm, dẫn đến tình trạng sai phạm bị lặp lại ở hàng loạt ấn phẩm báo chí khác nhau, làm sự việc thêm trầm trọng, gây dư luận bất lợi trong nhân dân (như thông tin về vụ PMU18, về chất lượng đồng tiền polymer, về tăng giá xăng dầu, đăng hình ảnh bản đồ Việt Nam không có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa…). 2.3. Nguyên nhân của thực trạng quản lý Nhà nước đối với báo chí 2.3.1. Nguyên nhân khách quan Nói tới nguyên nhân khách quan là nói tới những lý do không nằm trong sự kiểm soát của con người. Con người dù muốn hay không muốn chúng vẫn diễn ra mà khó có thể tiên liệu được. Xét trên bình diện này, ta thấy rằng thực trạng quản lý Nhà nước đối với báo chí như nêu trên trước hết chịu sự tác động của tình hình phát triển của báo chí thế giới. Ngay từ khi xuất hiện, báo chí đã đi vào đời sống văn hóa, tinh thần của nhiều dân tộc, nhiều giai cấp trong xã hội. Bên cạnh những tích cực mang đến cho xã hội loài người thì báo chí cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội trên toàn thế giới và luôn hàm chứa nhiều mối lo ngại. Bởi lẽ, trong lịch sử đã có biết bao nhiêu cuộc chiến trên lĩnh vực thông tin báo chí đã xảy ra và hiện nay không hề giảm đi mà có chiều hướng gia tăng. Đó là chưa kể đến làn sóng thương mại hóa, đa phương hóa, đa dạng hóa, quốc tế hóa báo chí của thế giới cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình báo chí trong nước theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Chính vì vậy mà việc quản lý báo chí đã khó khăn lại còn khó khăn, phức tạp hơn. Thứ nữa, các thế lực thù địch, các lực lượng lưu vong, chống đối và không thiện cảm với Việt Nam luôn tìm cách chống phá công cuộc xây dựng đất nước, phát triển xã hội của ta. Trong đó vấn đề nhân quyền và tự do ngôn luận, báo chí luôn là chiêu bài và biện pháp hiệu quả để các tổ chức này tiến hành các âm mưu của mình. Từ đó đã tạo ra tình hình bất ổn thật sự trong hoạt động báo chí mà các cơ quan chức năng không dễ dàng quản lý. Cuối cùng là hoạt động báo chí ngày càng theo chiều hướng phức tạp, khó kiểm soát. Đa số các loại hình báo chí và cơ quan báo chí, bên cạnh các hoạt động thuần tuý thông tin, còn tham gia tích cực và đông đảo vào nhiều hoạt động hướng đến cộng đồng, xã hội như một điều tất yếu. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận rằng bên cạnh những biểu hiện tích cực, chung sức cùng xã hội chăm lo xây dựng phát triển đất nước, phát triển đời sống vật chất tinh thần, báo chí còn tiến hành nhiều hoạt động phi thông tin khác như kinh doanh, tổ chức sự kiện. Và đây là các căn cứ cơ bản tạo nên sự khó khăn cho hoạt động quản lý của cơ quan có thẩm quyền. 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan Nguyên nhân chủ quan trước tiên đó là sự hạn chế trong công tác quản lý và điều kiện vật chất bảo đảm. Vì công tác quản lý Nhà nước bao gồm cả việc xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của cơ quan quản lý Nhà nước đối với báo chí. Như trên đã phân tích, pháp luật hiện tại về quản lý Nhà nước đối với báo chí dù đã được sự đầu tư và chuẩn bị rất công phu nhưng do tính chất cố hữu của pháp luật là ở thể tịnh nên cũng có những bất cập trong một số chế định. Riêng về công tác tổ chức thực hiện pháp luật dù có những quy định tương đối rõ ràng của pháp luật nhưng vẫn có sự chồng chéo lên nhau giữa các cơ quan chức năng mà chủ yếu là một số nơi, các cấp có thẩm quyền chưa phân định được chức năng, vai trò, vị trí của mình. Từ đó dẫn đến buông lỏng quản lý hoặc thực hiện không đúng trách nhiệm và quyền hạn. Kể đến là thực trạng điều hành cơ quan báo chí vẫn còn nhiều lo ngại. Trong hệ thống đào tạo chính quy đã có cơ sở đào tạo cán bộ quản lý báo chí và cán bộ điều hành các cơ quan báo chí. Tuy nhiên trên thực tế, do nhu cầu một phần các lãnh đạo của các cơ quan báo chí thường được bổ nhiệm không đúng với trình độ chuyên môn của mình. Đây chính là một bất cập lớn trong hoạt động báo chí của nước ta. Nó không chỉ phản ánh thực trạng đội ngũ cán bộ điều hành một lĩnh vực nhất định mà còn tạo ra nhiều khó khăn phức tạp cho hoạt động quản lý báo chí. Bên cạnh đó, tình trạng buông lỏng quản lý diễn ra ở nhiều nơi trên cả nước. Theo thống kê, những năm gần đây nhiều địa phương chưa có bộ phận, thậm chí chưa có các bộ chuyên trách quản lý báo chí, xuất bản. Công tác quản lý hoạt động phát thanh, truyền hình, internet, lĩnh vực có tính đặc thù, đòi hỏi có kiến thức về công nghệ, kỹ thuật nhưng trên thực tế trình độ, năng lực của cán bộ quản lý ở một số địa phương còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của công tác quản lý; đa số địa phương chưa đầu tư trang thiết bị đủ sức đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của công tác quản lý. Điều đó cho thấy việc buông lỏng quản lý đã đến mức cần có sự điều chỉnh kịp thời để khắc phục tình trạng nói trên. Nói tóm lại, các nguyên nhân nêu trên chính là các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thực trạng quản lý Nhà nước đối với báo chí như vừa đề cập. Dù có sự phân định rạch ròi như vậy nhưng thật sự trong mối tương quan chung thì chúng liên hệ mật thiết với nhau. Vượt lên trên hết thì sự bất cập của pháp luật, sự yếu kém của cán bộ chức trách, sự buông lỏng của các cơ quan chức năng được đánh giá là tương đối quan trọng. Nó chi phối các nguyên nhân còn lại. Vì vậy, muốn cải thiện được tình hình nêu trên thì nhất thiết phải có sự đầu tư, khắc phục các nguyên nhân này. 2.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với báo chí 2.4.1. Những cơ hội, thách thức đối với báo chí Việt Nam hiện nay và nhu cầu hoàn thiện về quản lý Nhà nước Hiện nay, trên thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá. Nền kinh tế trí thức, khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, mạng internet phát triển mạnh mẽ đang làm biến đổi nhanh chóng bộ mặt thế giới hiện đại. Trong bối cảnh đó, các trào lưu, các khuynh hướng tư tưởng và báo chí truyền thông mới mẻ của thế giới tác động và ảnh hưởng nhanh chóng, mạnh mẽ vào từng nước; tác động trực tiếp vào tư tưởng, tình cảm, tâm lý, lối sống và đạo đức của con người. Trong đời sống quốc tế xuất hiện những vấn đề mới về lý luận và thực tiễn về con đường phát triển khác nhau của các nước. Các ý kiến, quan điểm, chính kiến, tư tưởng cọ xát diễn ra hàng ngày. Đây là những điều kiện để báo chí các nước trên thế giới và cả Việt Nam phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin đa dạng, phong phú, kịp thời, chính xác của công chúng. Qua giao lưu quốc tế, báo chí truyền thông ngày càng hoàn thiện, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước và sự nghiệp hòa bình, hợp tác và phát triển của thế giới. Trong khi đó, nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá, tiếp tục đổi mới, phấn đấu đến năm 2010 đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển và đến năm 2020 cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh được xác định rõ và đang nỗ lực thực thi. Kinh tế - xã hội tuy có lúc khó khăn nhưng tổng thể phát triển khá, đời sống người dân được cải thiện. Trên cơ sở đó, báo chí truyền thông Việt Nam cũng tự đổi mới và phát triển, mở rộng quan hệ quốc tế, bước đầu thu nhiều thành tựu đáng kể khi có điều kiện và thời cơ để khai thác, xử lý và cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời, đa dạng cho công chúng. Học hỏi, trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp và tư duy, phương pháp làm báo hiện đại. Sử dụng được các phương tiện kỹ thuật tiên tiến cho tác nghiệp. Tuy nhiên, Việt Nam mới bước vào hội nhập và báo chí Việt Nam cũng vậy. Hoạt động kinh tế thị trường đang dẫn đến phân hoá xã hội về thu nhập lợi ích và phân tầng xã hội thành các nhóm khác nhau. Việc giải quyết hài hoà giữa lợi ích đất nước và quốc tế, bảo vệ tư tưởng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc với các tư tưởng khuynh hướng mới của thế giới là không đơn giản. Trên cơ sở giao lưu quốc tế, báo chí Việt Nam đang đứng trước nhu cầu hội nhập và phát triển. Hội nhập quốc tế, báo chí Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt hơn giữa báo chí trong nước và báo chí nước ngoài vượt trội về công nghệ, kỹ thuật, tài chính, tính chuyên nghiệp; cạnh tranh về sản phẩm báo chí, cơ quan quản lý và cấp độ báo chí Trung ương - địa phương trong nước, có thể dẫn tới sự phân hoá - tạo ra sự không đồng đều, thậm chí một bộ phận cơ quan báo chí bị phá sản, phóng viên thất nghiệp. Báo chí nước ngoài với những ưu thế nhiều mặt sẽ tác động mạnh hơn, nhanh hơn đến nhu cầu báo chí trong nước, có thể gây ra rối loạn thông tin chèn ép và áp đặt thông tin, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước và báo chí Việt Nam. Vấn đề phát triển đất nước và nâng cao hiệu quả đóng góp của báo chí đối với ổn định xã hội còn đặt ra những thách thức khác như lập trường, bản lĩnh của nhà báo, giữ vững định hướng phát triển đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường độc lập dân tộc và phát triển bền vững... là những vấn đề cần được giải quyết, đòi hỏi mỗi công tác quản lý Nhà nước và nhà báo phải phấn đấu hoàn thiện toàn diện để đáp ứng yêu cầu mới. 2.4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với báo chí 2.4.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về quản lý Nhà nước đối với báo chí Trên thế giới hiện nay không nhiều nước có Luật Báo chí. Phần lớn các nước điều chỉnh hoạt động báo chí bằng Bộ luật Dân sự và một số luật có liên quan. Ở nước ta, việc ban hành Luật Báo chí năm 1989 được đánh giá là một bước tiến, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động báo chí phát triển, phục vụ đắc lực công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau hơn 10 năm áp dụng, Luật Báo chí đã được sửa đổi, bổ sung một số điều cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Tới nay, sự phát triển của thực tiễn, đặc biệt là sự phát triển có tính chất bước ngoặt của công nghệ thông tin và truyền thông, đòi hỏi cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật báo chí và sửa đổi một cách căn bản Luật Báo chí hiện hành nhằm bao quát được đầy đủ các loại hình báo chí và mô hình hoạt động báo chí mới xuất hiện, chấn chỉnh các hiện tượng tiêu cực, tạo điều kiện cho báo chí tiếp tục phát triển lành mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Việc chậm hoàn thiện hệ thống pháp luật và sửa đổi Luật Báo chí trong lúc các quy định pháp luật hiện tại bộc lộ nhiều bất cập, một mặt có thể gây trở ngại cho sự phát triển của báo chí và công tác quản lý báo chí, mặt khác sẽ dẫn đến tình trạng một số quy định pháp luật mất tác dụng điều chỉnh thực tế, làm giảm tính tôn nghiêm của pháp luật. Khi hoàn thiện hệ thống pháp luật về báo chí và sửa đổi Luật Báo chí hiện hành, cần quan tâm đến các nội dung sau: Thứ nhất, hoàn thiện lại hệ thống pháp luật liên quan đến báo chí. Trên phương diện chung như đã phân trích ở trên, hệ thống pháp luật về báo chí của nước ta tuy đã có những cập nhật bổ sung so với trước khi Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 ban hành. Nhất là các cơ quan có thẩm quyền đã có gắng hoàn thiện bằng cách liên tiếp bổ sung những văn bản hướng dẫn thực hiện như nghị định, thông tư, quy chế khác nhau. Tuy nhiên nhìn tổng thể, pháp luật về báo chí vẫn còn phải tiếp tục cụ thể hóa và hệ thống lại để tránh chồng chéo và “giẫm chân” lên nhau trong các quy định. Cụ thể, ở trung ương nên điều chỉnh lại chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí của Bộ Thông tin và Truyền thông đối với tất cả các cơ quan báo chí, bao gồm cả các cơ quan hiện đang trực thuộc Chính phủ như Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam. Riêng ở địa phương, Sở Thông tin và Truyền thông cần được tăng cường thêm vai trò là cơ quan điều chỉnh toàn bộ đối với cả những cơ quan báo chí đặc thù thuộc Ủy ban Nhân tỉnh cấp tỉnh. Trong lĩnh vực thông tin đối ngoại, hiện có nhiều cơ quan có liên quan như Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Ngoại giao (cụ thể là Cục Thông tin Đối ngoại) và cả Ban Tuyên giáo Trung ương. Tuy nhiên xét về nội hàm, các hoạt động liên quan đến thông tin đối ngoại đều nằm trong phạm vi hoạt động báo chí, vì thế nên chuyển về một đầu mối quản lý là Bộ Thông tin và Truyền thông nhằm tạo nên sự thống nhất trong quản lý và quy trách nhiệm nếu có những sai phạm xảy ra trong quá trình điều hành, quản lý. Thứ hai, cần quy định chi tiết hóa các điều khoản liên quan đến các loại hình báo chí. Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 đã có sự đổi mới khi bổ sung thêm loại hình báo điện tử cùng với các loại hình báo truyền thống: báo in, báo nói, báo hình… Và cũng chính từ quy định này mà công tác quản lý báo điện tử có những chuyển biến tích cực làm cho loại hình báo chí này trở nên phổ biến và có sự thu hút đông đảo bạn đọc, phục vụ tốt nhu cầu thông tin nhanh, chuẩn xác các vấn đề xảy ra hàng ngày. Tuy nhiên hiện nay, các hoạt động liên quan đến mạng điện tử không chỉ có báo điện tử mà còn có những loại hình hoạt động khác như: Trang thông tin điện tử (website), nhật ký điện tử cá nhân (blog), cổng thông tin điện tử (portal) và các hình thức tương tự khác. Sự ảnh hưởng của các loại hình này đối với xã hội không phải nhỏ. Nhận thức được điều này, Chính phủ đã ban hành Nghị  định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 09 năm 2008 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ và thông tin điện tử trên internet để điều chỉnh các tổ chức, cá nhân tham gia việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet tại Việt Nam. Và mới đây nhất, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng ban hành Thông tư số 14/2010/TT-BTTTT ngày 29-06-2010 quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet đối với hoạt động quản lý trang thông tin điện tử và dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. Chưa thể kiểm định được hiệu quả điều chỉnh những văn bản này nhưng qua đó cũng cho thấy mong muốn và cố gắng của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý các loại hình hoạt động thông tin điện tử đang rất phức tạp và khó khăn như hiện nay. Cũng chính vì lẽ đó, để luật hóa và tạo nên trật tự quản lý đối với báo điện tử, trong Luật Báo chí cần làm rõ sự khác biệt giữa các hình thức thông tin trên mạng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật như cổng điện tử, trang tin điện tử, blog với báo điện tử - một đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Song song đó, cũng cần bổ sung và hoàn thiện các điều luật điều chỉnh các hoạt động mang tính chuyên biệt liên quan đến báo điện tử. Thứ ba, điều chỉnh, bổ sung những quy định liên quan đến quảng cáo trên báo chí. Hiện nay, quảng cáo trên báo chí được xem là một trong những nguồn thu quan trọng và to lớn của các cơ quan báo chí. Nếu như không thực hiện quảng cáo, khó có cơ quan báo chí nào có thể đứng vững trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt về giá bán và những vấn đề liên quan. Ở nhiều cơ quan báo chí, nguồn thu từ quảng cáo thể bù đắp lại tất cả các khoản chi khác trong quá trình hoạt động. Chính vì lẽ đó, quảng cáo trên báo chí sẽ luôn song hành với sự sống còn của nền báo chí nước ta. Ý thức được điều này, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung 1999 cũng quy định nội dung quảng cáo và được quy định chi tiết về thời lượng trong Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001. Tuy nhiên, như đã phân tích, những quy định này không có tính thực tiễn và dễ dẫn đến tình trạng xem thường pháp luật và vẫn chưa thấy thanh tra kiểm soát của các cơ quan chức năng. Ngoài ra, trong nội dung này cũng đang đặt ra vấn đề: độ tin cậy của quảng cáo, quảng cáo giật gân… Chính vì lẽ đó, cần sửa đổi Luật Báo chí hiện hành về nội dung này theo hướng quy định chi tiết và phù hợp hơn diện tích quảng cáo hoặc đưa các nội dung quảng cáo vào những ấn phẩm phụ trương, quy định cơ chế kiểm tra độ tin cậy của quảng cáo, thời gian quảng cáo cho một sản phẩm trên từng loại hình báo chí, những hành vi bị cấm trong hoạt động quảng cáo trên báo chí. Sự bổ sung này nên lưu ý tránh trùng lặp với Pháp lệnh Quảng cáo đang có hiệu lực. Thứ tư, hoàn thiện pháp luật theo hướng quy trách nhiệm các cơ quan, cá nhân liên quan trong việc đảm bảo quyền tự do báo chí của công dân. Quyền tự do báo chí là một quyền cơ bản của công dân và được quy định trong Hiến pháp. Mọi công dân trong nước được quyền hưởng thụ các thành quả trong hoạt động báo chí để thỏa mãn nhu cầu thông tin của mình cũng như đóng góp cho sự phát triển xã hội. Luật Báo chí và các văn bản pháp lý hiện hành cũng đã cụ thể hóa quyền này tuy nhiên chỉ mang tính định hướng mà chưa rõ ràng và thể hiện sự chế tài cần thiết. Vì vậy cần phải chi tiết hơn trong việc quy định này thể hiện ở các nội dung sau: - Đối với cơ quan báo chí: Tiếp nhận và đăng, phát kiến nghị, phê bình, tin, bài, ảnh và các tác phẩm báo chí khác của công dân có nội dung phù hợp với tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ và không vi phạm Điều 12 của luật này. Trường hợp không đăng, phát, cơ quan báo chí có trách nhiệm trả lời cho tác giả bằng hình thức hộp thư, nhắn tin hoặc bằng văn bản khi có yêu cầu. Thông báo cho tổ chức, cá nhân có khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phê bình hoặc đăng, phát trên báo chí của mình trong thời hạn mười ngày đối với báo ngày và báo nói, báo hình, báo điện tử, mười lăm ngày đối với báo tuần, trên số ra gần nhất đối với tạp chí khi nhận được văn bản trả lời của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc văn bản của cơ quan, tổ chức, cá nhân trả lời kiến nghị, phê bình đối với vấn đề mà báo chí nêu hoặc tiếp nhận. - Đối với các cơ quan, tổ chức liên quan: Khi nhận được ý kiến, kiến nghị, phê bình, khiếu nại của tổ chức, công dân; tố cáo của công dân do cơ quan báo chí chuyển đến hoặc đăng, phát trên báo chí thì trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được hoặc từ ngày báo chí đăng, phát, người đứng đầu tổ chức phải thông báo cho cơ quan báo chí kết quả hoặc biện pháp giải quyết. Nếu quá thời hạn nêu trên mà không nhận được thông báo của cơ quan, tổ chức thì cơ quan báo chí có quyền chuyển ý kiến, kiến nghị, phê bình, khiếu nại, tố cáo của công dân đến cơ quan cấp cao hơn có thẩm quyền giải quyết hoặc đưa vấn đề đó lên báo chí. - Đối với cung cấp thông tin báo chí và việc cải chính nguồn tin: Cần quy định rõ trách nhiệm các tổ chức cung cấp thông tin báo chí về nội dung thông tin cung cấp. Các cơ quan báo chí khi công bố nguồn tin phải có trách nhiệm nêu rõ xuất xứ nguồn tin và có nghĩa vụ không tiết lộ người cung cấp thông tin nếu có hại cho người đó. Song song đó, cũng cần có biện pháp chế tài nếu các cơ quan, tổ chức liên quan không thực hiện trách nhiệm của mình về nội dung này. Riêng đối với việc cải chính nguồn tin: Cần có những quy định mang tính chế tài đối với các cơ quan báo chí không thể hiện thiện chí khi đăng tin không chính xác. Theo đó, Luật Báo chí sửa đổi bổ sung mới cần quy định rõ: Việc thông tin sai sự thật, xúc phạm tổ chức, cá nhân không chỉ dừng lại ở việc cải chính mà tuy theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, trong trường hợp gây thiệt hại phải bồi thường. Ngoài ra, Luật báo chí cũng cần quy định rõ các cách thức cải chính trên loại hình báo chí như: Thời điểm đăng, phát sóng lại, nội dung cải chính, loại hình cải chính và hình thức cải chính…v.v. Thứ năm, quy định chi tiết hơn về việc nộp lưu chiểu báo chí. Công tác lưu chiểu báo chí là một hoạt động vô cùng quan trọng trong quản lý Nhà nước đối với báo chí nhằm kiểm tra được thông tin mà các cơ quan báo chí công bố cũng như làm căn cứ để xử lý vi phạm. Tuy nhiên hiện nay, pháp luật về báo chí quy định nội dung này cũng còn sơ sài, chưa hợp lý và khả thi về thời gian nộp lưu chiểu. Để đảm bảo tính khả thi của quy định này, cần quy định thời gian nộp lưu chiểu căn cứ trên mốc thời điểm phát hành báo chí. Ngoài ra, cũng quy định trách nhiệm đọc báo lưu chiểu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kịp thời xử lý nếu có sai phạm và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Thứ sáu, Luật Báo chí sửa đổi cần bổ sung các quy định điều chỉnh những vấn đề phát sinh liên quan đến các nội dung sau: - Bổ sung các quy định về tổ chức báo chí với các nội dung quy định về hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thành lập cơ quan báo chí; thủ tục giải thể cơ quan báo chí; hoạt động xã hội của cơ quan báo chí; tổ chức, hoạt động, kinh phí và tài sản của Hội Nhà báo Việt Nam. - Bổ sung các quy định về thẻ nhà báo (tiêu chuẩn cấp thẻ nhà báo; thẩm quyền và thủ tục cấp thẻ; thời hạn cấp và đổi thẻ; hiệu lực của thẻ; việc thu hồi thẻ và tước thẻ và các chế tài liên quan đến quản lý, sử dụng thẻ). - Bổ sung các tiêu chuẩn lãnh đạo cơ quan báo chí, lãnh đạo văn phòng đại diện, tiêu chuẩn phóng viên thường trú, số nhân sự tối thiểu của văn phòng, hồ sơ và thủ tục đề nghị cấp giấy phép đặt văn phòng đại diện, chức năng và nhiệm vụ của văn phòng đại diện, cơ chế quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương đối với các văn phòng đại diện. - Bổ sung các quy định về việc liên kết của cơ quan báo chí với tổ chức, cá nhân trong hoạt động báo chí thể hiện qua các nội dung về: điều kiện liên kết, phạm vi liên kết, trách nhiệm của mỗi bên đối với sản phẩm liên kết,.... - Bổ sung các quy định về việc thành lập và hoạt động của văn phòng đại diện cơ quan báo chí Việt Nam ở nước ngoài; cử phóng viên thường trú ra nước ngoài; liên kết trong hoạt động báo chí với nước ngoài; việc thành lập và hoạt động của các văn phòng đại diện báo chí nước ngoài; hoạt động của phóng viên nước ngoài tại Việt Nam; xuất nhập khẩu báo chí; chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc quản lý hoạt động báo chí có yếu tố nước ngoài. 2.4.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực tiễn quản lý Nhà nước đối với báo chí Trước hết hoàn thiện việc xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và phát triển báo chí. Hiện nay, nước ta đã có chiến lược phát triển báo chí đến năm 2020 với mục tiêu xây dựng hệ thống báo chí Việt Nam phát triển xứng tầm với tiềm năng của một đất nước có gần 90 triệu dân. Tuy nhiên, với tình hình bùng nổ thông tin như hiện nay đòi hỏi đất nước cần có một chiến lược phát triển báo chí bền vững qua thời gian và hội nhập hiệu quả với nền báo chí toàn cầu. Trong nội dung này có một số vấn đề cần phải nhanh chóng giải quyết và thực hiện như sau: - Tăng sản lượng báo xuất bản hàng năm và giảm đầu mối các cơ quan báo chí theo mô hình một cơ quan báo chí có một số ấn phẩm báo chí. - Cân đối tỷ lệ thụ hưởng các sản phẩm báo chí in giữa khu vực thành phố, thị xã và vùng nông thôn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa từ tỷ lệ 75%/25 % hiện nay xuống mức 50%/50%. - Tiến tới xóa bỏ bao cấp trong hoạt động báo chí, trừ những cơ quan báo chí chủ yếu phục vụ các nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước, phục vụ cho vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, tuyên truyền đối ngoại, tạp chí nghiên cứu lý luận, khoa học cơ bản chuyên ngành. - Lựa chọn, xây dựng mô hình cơ quan báo chí phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới và phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội, trình độ dân trí của Việt Nam và cụ thể là thành lập các tập đoàn báo chí. Cần xây dựng một lộ trình phù hợp để hình thành nên những tập đoàn báo chí lớn xứng tầm khu vực và thế giới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin, giải trí của nhân dân. - Xây dựng phương án điều chỉnh cơ quan chủ quản kịp thời theo đúng quy định của Luật Báo chí. Trong đó, xem xét tính cách pháp lý cơ quan chủ quản báo chí của các cơ quan cấp tổng cục chuyển thành tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình doanh nghiệp như Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tổng Công ty Hàng không dân dụng Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam. Tiếp theo là việc tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ đối với cán bộ báo chí và việc thực hiện chức năng của cơ quan chủ quản. Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực báo chí là việc làm quan trọng. Mặc dù ngành báo chí sử dụng nhân lực từ nhiều nguồn khác nhau (văn học, lịch sử, ngôn ngữ, triết học, xã hội học, vật lý, kinh tế, luật...) nhưng để làm báo chuyên nghiệp thì phải đào tạo bồi dưỡng bài bản và hệ thống. Ở Việt Nam hiện nay có 4 cơ sở đào tạo là: Học viện Báo chí và Tuyên truyền (thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh); khoa Báo chí và Truyền thông của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh (thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh); Khoa Ngữ văn - Báo chí (thuộc Đại học Khoa học Huế) đào tạo cán bộ báo chí truyền thông trình độ cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ. Các trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình Trung ương 1 (Phủ Lý - Hà Nam), Trung ương 2 (TP. Hồ Chí Minh), Cao đẳng Truyền hình Trung ương (Thường Tín - Hà Nội) đào tạo cán bộ, phóng viên, biên tập viên trình độ cao đẳng. Các trung tâm bồi dưỡng của Hội Nhà báo Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng tổ chức các lớp (khoá) bồi dưỡng ngắn hạn cho các nhà báo (thường có sự tài trợ hoặc hợp tác với nước ngoài). Tuy nhiên, tất cả đều tập trung đào tạo nghiệp vụ mà chưa quan tâm đến công tác quản lý. Trong tương lai, hệ thống đào tạo này cần tập trung xây dựng chương trình, phương thức đào tạo đội ngũ làm công tác quản lý Nhà nước đối với báo chí. Làm được như thế mới thúc đẩy công tác quản lý Nhà nước đi vào hoàn thiện vì nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng trong quá trình quản lý. Song song đó, Nhà nước cũng cần bổ sung các chính sách, chế độ báo chí như: Lương báo chí, thuế, nhuận bút, chính sách tài trợ giá và cách chính sách ưu đãi hợp lý đối với nhà báo. Chính sách phải đảm bảo các điều kiện và phương tiện để nhà báo hiểu biết về chủ trương, tiếp cận thực tiễn, hoạt động hiệu quả, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo trong quá trình tác nghiệp, đề cao trách nhiệm cá nhân, có chế độ đãi ngộ đối với các nhà báo tài năng, cống hiến xuất sắc cho đất nước. Thứ nữa, tăng cường hợp tác quốc tế, tạo ra cơ chế việc liên doanh, liên kết và kinh doanh của cơ quan báo chí. Hiện nay có rất nhiều dự án trên thế giới hỗ trợ việc nâng cao năng lực quản lý báo chí và nâng cao nghiệp vụ của các nhà báo. Vấn đề quan trọng là, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu tìm hiểu và thiết lập các mối quan hệ để tận dụng được các cơ hội đó nhằm phát triển nền báo chí nước ta. Tuy nhiên, quan điểm trong báo chí là một phạm trù khá đặc thù bị ảnh hưởng đến quan điểm chính trị và bản chất của nhà nước, giai cấp cầm quyền, chính vì lẽ đó, khi thực hiện nội dung này cần có sự chọn lọc, tập trung việc cập nhật và tiếp thu những tiến bộ về nghiệp vụ, sự ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao nghiệp vụ và hiệu quả quản lý báo chí. Song song đó cũng đảm bảo sự kiên định lập trường, đường lối của Đảng và chủ trương phát triển đất nước ta. Sự hợp tác quốc tế vừa tạo điều kiện cho tiến trình hội nhập nhưng cũng vừa góp phần bảo vệ chủ quyền đất nước. Trong đó, trước nhất là cần thực hiện tốt các văn bản quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia như: Luật Bản quyền, Công ước Brussels về phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh, Công ước Bern về bảo vệ sở hữu trí tuệ... Riêng đối với việc liên doanh, liên kết trong báo chí là một thực tế và là xu hướng phát triển báo chí khó có thể cản lại được. Đối với thực trạng này, cần xây dựng quy chế và lộ trình phù hợp để hướng hoạt động liên doanh liên kết báo chí đặt dưới sự quản lý của Nhà nước, đảm bảo cho nền báo chí phát triển lành mạnh phục vụ nhu cầu thông tin của quần chúng, tránh hiện tượng lũng đoạn, vì mưu cầu cá nhân và các thị hiếu tầm thường dẫn đến việc các cơ quan báo chí thông tin trái với quy định pháp luật, vi phạm đạo đức, làm băng hoại thuần phong mỹ tục, các giá trị nhân văn, tốt đẹp của dân tộc. Cuối cùng, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, khen thưởng trong hoạt động báo chí. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, khen thưởng là một hoạt động quan trọng và thường xuyên trong quản lý Nhà nước đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Riêng trong lĩnh vực báo chí, hoạt động này còn quan trọng gấp bội phần khi nó liên quan đến vấn đề định hình tư tưởng, văn hóa và lối sống của đông đảo quần chúng nhân dân. Bởi lẽ, báo chí không chỉ phản ánh dư luận và còn định hướng dư luận và thực hiện nhiệm vụ phản biện xã hội, có ý nghĩa đối với một chế độ chính trị. Vì chưa ý thức được vai trò quan trọng và vì có sự chồng chéo trong việc sắp xếp các cơ quan báo chí như đã nêu nên công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền vẫn còn nhiều bất cập, tạo ra nhiều kẽ hở dẫn đến nhiều sai phạm nghiêm trọng mà phổ biến nhất là việc xa rời tôn chỉ, mục đích của một bộ phận các cơ quan báo chí. Để khắc phục tình trạng này, Bộ Thông tin và Truyền thông cần rà soát và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm. Đồng thời, Bộ cũng cần nghiên cứu đề xuất Chính phủ tăng mức phạt hành chính trong lĩnh vực này để đảm bảo tính răn đe và lập lại trật tự quản lý. Tiểu kết chương 2 1. Sau gần 150 năm hình thành và phát triển, báo chí Việt Nam hiện nay có đầy đủ bốn loại hình: Báo in, báo nói, báo hình và báo điện tử tăng nhanh về cả số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào sự phát triển đất nước. Song song đó cũng tạo ra nhiều bất ổn khi chiều hướng thương mại hóa, thực dụng hóa và ảnh hưởng của các trào lưu báo chí nước ngoài. 2. Công tác quản lý Nhà nước đối với báo chí xét về phương diện pháp luật và thực tiễn đều có những tiến bộ vượt bậc khi nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này và xây dựng một chiến lược phát triển báo chí đến năm 2020. Tuy nhiên, do thiếu đồng bộ và thực tiễn phát triển khá phức tạp của hệ thống báo chí trong nước, nhiều quy định của pháp luật trở nên bất cập, thiếu tính khả thi và chậm sửa đổi, tạo ra những khe hở nhất định trong quá trình điều chỉnh hoạt động báo chí. Bên cạnh đó, về thực tiễn, công tác quản lý Nhà nước cũng bộc lộ nhiều thiếu sót và hạn chế mà tác giả đã phân tích ở mục 2.2. 3. Từ những khó khăn, bất cập, hạn chế đó, tác giả đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay. KẾT LUẬN Ở nước ta, báo chí là công cụ chính trị của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức, đoàn thể xã hội, là diễn đàn của nhân dân. Vai trò của báo chí trong đời sống chính trị - xã hội thể hiện rõ trong hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta là chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng đất nước. Báo chí thật sự đã trở thành vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, mặt khác, nó cũng tạo những điều kiện cần thiết để cho mọi người dân có thể tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Vì vậy, ý nghĩa của thông tin báo chí rất quan trọng. Với nội dung thông tin có định hướng đúng đắn, chân thật, có sức thuyết phục, báo chí có khả năng hình thành dư luận xã hội, dẫn đến hành động xã hội, phù hợp với sự vận động của hiện thực theo những chiều hướng có chủ định. Báo chí còn giữ vai trò tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể; điều này càng phù hợp với thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã tác động sâu sắc đến lĩnh vực báo chí, đưa thế giới từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin báo chí và phát triển kinh tế tri thức. Sự hội tụ giữa thông tin, viễn thông, tin học là một xu hướng quan trọng trong xu thế phát triển báo chí trên phạm vi toàn cầu. Đầu tư cho báo chí từ chỗ được coi là đầu tư cho phúc lợi xã hội chuyển thành đầu tư cho sự phát triển. Trong xu thế khách quan của toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế, các hoạt động báo chí được mở rộng, tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập văn hoá, đồng thời cũng đang diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia và bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã và đang sử dụng hệ thống báo chí để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng tinh vi và quyết liệt hơn. Chính vì lẽ đó mà cần đến sự quản lý chặt chẽ và có hiệu quả đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay với mục tiêu vừa đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân, vừa tạo nên trật tự quản lý góp phần phát triển xã hội, ổn định an ninh trật tự trong nước và hội nhập quốc tế. Từ yêu cầu đó, trên cơ sở nghiên cứu nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí, tác giả đưa ra một số kết luận sau: Một là, tự do báo chí, tự do ngôn luận là một nhu cầu thiết yếu của nhân dân, và Nhà nước luôn có những cơ chế đảm bảo nhu cầu đó. Song song đó, Nhà nước cũng luôn thể hiện vai trò quản lý đối với báo chí. Đây chính là sự tác động có tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu cầu tự do báo chí của công dân. Hai là, tuy đã có những cố gắng nhất định trong việc xây dựng các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực báo chí. Nhưng cho đến nay hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này còn nhiều bất cập, thiếu sự thống nhất, chồng chéo và chưa thể hiện sự bao quát trong điều chỉnh. Trong khi đó, trên thực tiễn, công tác quản lý Nhà nước cũng thể hiện nhiều yếu kém trong xây dựng chiến lược phát triển báo chí, thực hiện liên kết quốc tế, đào tạo cán bộ quản lý Nhà nước và cán bộ điều hành báo chí. Ba là, thông qua luận văn, tác giả đã khái quát được những thành tựu và phân tích những bất cập về mặt pháp luật và những yếu kém trong công tác quản lý thực tiễn, từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện phù hợp nhất. Tóm lại, quản lý Nhà nước đối với báo chí còn cần được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện hơn và sâu sắc hơn từ các góc độ khác nhau, góp phần đưa ra những giải pháp hiệu quả trong quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4. Phan mo dau - Phan noi dung - Ket luan.doc
  • doc1. Bia.doc
  • doc2. Danh muc cac chu viet tat.doc
  • doc3. Muc luc.doc
  • doc5. Danh muc tai lieu tham khao.doc
  • doc6. Phu luc 1.doc
  • doc7. Phu luc 2.doc
Luận văn liên quan