Vấn đề quan trọng hàng đầu trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc là nói về con người. Ở thời kỳ này quan niệm về con người được các nhà triết học tiêu biểu như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Mặc Tử, Hàn Phi Tử quan tâm nhiều nhất. Mỗi triết gia đều đưa ra quan niệm riêng của mình và cho rằng quan niệm của mình là đúng. Khổng Tử cho rằng: “Bản tính của con người là thiện và nó gần giống nhau ở tất cả mọi người”. Ông nói: “tính tương cận, tập tương viễn giã”. Còn Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là thiện. Đối lập với Mạnh Tử thì Tuân Tử cho rằng bản tính con người vốn ác. Mặc Tử bằng thuyết “kiêm ái” đã cho rằng con người ta sinh ra là phải yêu thương nhau. Bản chất con người là “ích kỉ” và đặc tính của con người là ham mê lợi ích đó là quan điểm mà Hàn Phi Tử đưa ra. Từ quan niệm về bản chất con người mà các nhà triết học cũng nói về mối quan hệ giữa con người với con người, họ đã đưa ra những chuẩn mực riêng.
46 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4225 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan niệm về con người trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn xuân thu - Chiến quốc và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người đi học phải biết biện biệt thế nào là thật trung, thật hiếu. Tuân Tử nói: “nhập hiếu xuất đễ, nhân chi tiểu hạnh dã, tòng đạo bất tòng quân, tòng nghĩa bất tòng phụ, nhân chi đại hạnh dã: vào hiếu ra đễ là cái tiểu hạnh của người ta; thuận theo người trên, thân yêu kẻ dưới, là cái trung hạnh của người ta; theo đạo mà không theo vua, theo nghĩa mà không theo cha, là cái hạnh của người ta vậy” (Tử đạo, XXIX).
Người làm tôi có bốn hạng: “có bậc đại trung, có bậc thứ trung, có bậc hạ trung, có kẻ quốc tặc. lấy đức mà báo đáp vua để hoá được vua ấy là bậc đại trung. Lấy đức để sửa lỗi của vua mà giúp vua, ấy là bậc thứ trung. Lấy điều phải mà can ngăn điều trái, làm cho vua giận, ấy là bậc hạ trung. Không lo đến sự vinh, sự nhục của vua, không lo đén nước hay nước dở chỉ thâu hợp cẩu dung để giữ lấy lợi lộc, nuôi lấy sự giao thông bè đảng, ấy là kẻ quốc tặc vậy” .(Thần đạo, XIII).
Người làm con có hiếu có ba hạng: “người con có hiếu có ba điều sở dĩ không theo mệnh cha. Theo mệnh thì cha mẹ nguy, không theo mệnh thì cha mẹ yên, người hiếu tử không theo mệnh là hợp với đạo trung. Theo mệnh thì cha mẹ nhục, không theo mệnh thì cha mẹ vinh, người hiếu tử không theo mệnh là hợp với điêu nghĩa. theo mệnh là cầm thú,không theo mệnh thì làm cho cha mẹ được vẻ vang, người hiếu tử không theo mệnh là kính cha mẹ. Cho nên điều đáng theo mà không theo không phải đạo làm con, chưa nên theo mà đã theo là không hợp đạo trung. Biết rõ cái nghĩa đáng theo mà theo và không đáng theo mà lại hết sức cung kính, trung tín, đoan xác, rồi cứ cẩn thận mà làm, thế gọi là đạo hiếu vậy” (tử đạo XXIX).
Cũng như Khổng Tử, Tuân Tử cũng đề cập đến “trung” và “hiếu” nhưng ông lại đề cao chữ “trung” hơn “hiếu”, Trung có nghĩa là hiếu rồi. Quan điểm khác hẳn với Khổng Tử là đề cao chữ “hiếu”.
2.2 Quan niệm của Mặc gia về mối quan hệ giữa người với người.
Khác với quan điểm tư tưởng của Nho gia, Mặc gia thực chất là do sự khác nhau về địa vị, lợi ích giai cấp xã hội quy định. Nếu như Khổng Tử là nhà quý tộc và cac Nho gia thường xuất thân từ tầng lớp trên của xã hội, thì Mặc Tử vốn xuất thân từ kĩ nghệ gia tinh thông hay là bậc du hiệp, đại biểu cho tầng lớp tiểu tư hữu, phu dịch, võ sĩ lớp dưới của xã hội, nên ít nhiều gần gũi với quần chúng lao động. Chính vì vậy mà khi quan niệm về mối quan hệ giữa con người với con người cũng khác với Nho gia.
Thông qua học thuyết chính trị xã hội, khi bàn về phương thức cai trị. Trước sự loạn lạc của xã hội, Mặc Tử đặt vấn đề phải tìm ra nguyên nhân của sự loạn, cũng như thấy thuốc trị bệnh cho người trước tiện phải biết bệnhdo đâu mà phát sinh thì mới trị được: “thánh nhân trị thiên hạ không thể không xét loạn do đâu mà phát sinh”. (Mặc Tử, kiêm ái, thượng). Mặc Tử tìm nguyên nhân của sự loạn từ việc người ta không yêu thương lẫn nhau, từ việc của cá nhân đến việc của xã hội đều do người ta không yêu thương lẫn nhau mà sinh ra loạn. Cho nên Mặc Tử cho rằng muốn ổn định xã hội thì mọi người phải yêu thương lẫn nhau: “coi nước người như nước mình, coi nhà người như nhà mình, coi thân người như thân mình. Cho nên Chư hầu yêu nhau thì không đánh nhau ở ngoài đồng; chủ nhà yêu nhau thì không cướp lẫn nhau; người nọ người kia yêu nhau thì không làm hại lẫn nhau; vua tôi yêu nhau thì vua huệ tôi trung; cha con yêu nhau thì cha tự con hiếu; anh em yêu nhau thì người mạnh không áp chế kẻ yếu, người giàu sang không khinh kẻ nghèo, người sang không ngạo mạn kẻ hèn, người khôn lanh không lừa gạt kẻ ngu. Những tai hoạ, tranh cướp oán hận trong thiên hạ sở dĩ không nổi lên là vì do yêu nhau cả, cho nên bậc nhân giả khen cái đó.” (Mặc Tử, Kiêm ái, trung).
Xuất phát từ tư tưởng kiêm ái, Mặc Tử lên án việc chiến tranh xâm chiếm đất đai. Ông thuyết phục các nước chư hầu đừng đánh chiếm lẫn nhau. Chiến tranh không những gây ra rối loạn xã hội mà còn làm tổn hại đến đời sống của nhân dân, hao phí của cải của nhà nước và nhân dân.
Mặc Tử với chủ trương đưa ra thuyết “kiêm ái”, ông cho rằng kiêm ái là đạo của thánh nhân. Mọi người trong xã hội hãy yêu thương nhau quan hệ đối xử với nhau thật tốt, sống bình đẳng, hoà hợp có như vậy thiên hạ mới thịnh trị được. Nhìn chung, tư tưởng chính trị của Mặc gia mang tính nhân bản cao, và đã tiềm ẩn những quan điểm về bình đẳng và dân chủ. Kiêm ái là vì hạnh phúc chung của mọi người. Kiêm ái muốn hướng tới một trật tự xã hội công bằng mọi người yêu thương nhau không phân biệt đẳng cấp hay bất cứ một lý do gì và cùng xây dựng cuộc sống tốt đẹp, và xã hội đó không có cuộc chiến tranh giữa các nước với nhau. Mục đích của chính sách kiêm ái là vì người dân, có ý nghĩa xác định trách nhiệm của nhà nước trong việc phục vụ những lợi ích cho nhân dân. Nhân dân được đặt vào trung tâm của những chính sách do nhà nước đề ra.
Trong Thiên Phi nhạc, Mặc Tử đã tập trung phê phán những kẻ cầm quyền chỉ lo ăn chơi,lễ nhạc xa hoa làm cho nước nghèo, dân khổ. Ông phản đối Nho gia chủ trương đàn hát ca múa làm mất thiên hạ. Theo ông: “Vương công, đại phu sai chế ra các thứ nhạc khí tất phải thu nhiều thuế má của dân. Trong khi tấu nhạc kẻ tấu cùng người nghe đều dùng thì giờ lãng phí, vô ích cho tiêu khiển nhạc, không làm ra cái ăn, đồ mặc gì cho dân. Việc gõ chuông, đánh trống, gẩy đàn, thổi sáo không thể ngăn nổi những việc nước lớn đánh nước nhỏ, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, kẻ láu lừa kẻ ngu. Mặc dù không phải vì cho những tiếng chuông lớn, trống kêu, đàn cầm, đàn sắt, sáo ngang, sáo dọc là không vui; không phải vì cho những thứ trạm trổ văn vẻ là không đẹp; không phải cho những đồ béo ngậy xào nướng là không ngon; không phải vì cho những nơi đền cao nhà rộng là không yên...”
Trong thiên Tiết dụng, ông kêu gọi hãy sống theo thánh gương xưa bỏ tất cả cái vô dụng không tiện lợi và tiêu phí sức dân: “thánh vương làm việc chính trị những sự ra lệnh dấy việc, cốt tiện với cái dùng của dân, không có cái gì không thêm công dụng mà cũng làm. Cho nên dùng của không phí, sức dân không mệt, ấy là dân lợi nhiều lắm” (Mặc Tử, tiết dụng).
Do xuất thân của Mặc Tử ở tầng lớp dưới ông gần gũi với nhân dân lao động nên quan niệm về dời sống của loài người có vẻ đơn giản. Bản chất xã hội của con người nói lên tính chất phức tạp của cuộc sống con người.không thể đánh đồng mọi người như nhau. Yêu thương mọi người như nhau, coi người cũng là mình là một luận thuyết không phù hợp với bản tính của con người. Chủ trương tiết kiệm của Mặc Tử trở nên thái quá, làm cho con người nếu sống theo chủ trương đó sẽ trở nên khắc khổ.
2.3. Quan niệm của Pháp gia về mối quan hệ giữa con người với con người
Kế thừa quan niệm về mối quan hệ giữa con người với con người của thế hệ đi trước như: Thương Ưởng, Thân Bất Hại. Lý Tư... đều cho rằng bản chất con người là lợi kỷ, các mối quan hệ đều dựa trên mục đích là giành phần lợi về cho mình.
Với Hàn Phi Tử, các quan hệ giữa con người đều được nhìn nhận dưới nhãn quan lợi kỷ. ở đó, con người ta đối với nhau chỉ là sự mưu lợi. Ông cho rằng người thầy thuốc chữa chạy cho người bệnh chỉ vì lợi, bởi có chữa khỏi bệnh thì mới lấy được tiền: “người thầy thuốc chữa vết thương cho người, hút máu mủ cho họ không phải là tình ruột thịt, mà là do lợi ở đó”. Người đóng quan tài thì mong có nhiêu người chết: “người thợ mộc đóng xong chiếc quan tài thì mong cho người chết yểu. Người không chết thì quan tài không bán được. đó không phải là ghét người mà có lợi trong sự chết người đó”.
Theo ông, quan hệ vua tôi cũng vậy. Nó giống như sự mua bán lời lãi ở chợ: “thần kiệt sức ở chợ vua, vua bầy tước lộc ở chợ quan”. Quan điểm lợi lộc của Hàn Phi Tử còn được dùng để giải thích quan hệ cha con. ở đây, tình nghĩa ruột thịt không còn, cái còn chỉ là lợi: “cha mẹ đối với con cái, sinh con trai thì chúc mừng nhau, sinh con gái thì giết đi, con trai hay con gái đều là con của bố mẹ, nhưng con trai thì được mừng vì nó lo cho việc sau này, tính đến cái lợi lâu dài vậy”. Đây là một quan điểm rất khác lạ, Hàn Phi Tử còn tiến tới một nhận định khái quát hơn, chung hơn. Ông cho rằng cơ sở của quan hệ giữa con người với cong người chỉ là lợi ích cá nhân, trong quan hệ thấy lợi thì đến, không thấy lưọi thì thôi. Con người “dùng cái tâm để tính toán đối đãi với nhau, không thể bỏ cái tâm cầu lợi để thực hiện cái đạo cùng yêu nhau”.
Có thể xem tư tưởng của Hàn Phi Tử về con người là tư tưởng cá nhân vị kỷ phát triển đến mức cực đoan. Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ đó không những vượt mọi chủ nghĩa cá nhân của chủ nô phong kiến , hoặc của người sản suất nhỏ trước đó, vượt cả quan điểm “vị ngã”, “trọng sinh” của Dương Chu ở hai thế kỷ trước, mà còn đạt đén mức chủ nghĩa cá nhân vị kỷ điển hình. Chủ nghĩa cá nhân này đoạn tuyệt với mọi tư tưởng nhân đạo của truyền thống, nhất là đoạn tuyệt với tư tưởng của Nho gia và Mặc gia.
Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ của Hàn Phi trước hết bắt nguồn từ lập trường giai cấp của ông. Ông là công tử nước Hàn, là dòng dõi quý tộc, nhưng tư tưởng của ông lại tiêu biểu cho giai cấp địa chủ đương thời mới lên.
Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ của Hàn Phi Tử có nguồn gốc ở phương pháp tư duy của ông. Chính phương pháp tư duy đó đã tạo cho học thuyết của ông tính cực đoan, phi lý. Nếu như Tuân Tử, một mặt, thấy nhu cầu sống của con người là không thể thiếu nhưng mặt khác, thấy phải lấy pháp độ và lễ nghĩa để hạn chế dục vọng của con người, không thể để cho nó phát triển vô hạn thì trái lại, Hàn Phi Tử đã khuếch đại luận điểm “tâm thích lợi” của Tuân Tử và lấy nó làm cơ sở duy nhất để quy định hành vi của con người. Bằng cách đó ông đã phát triển một cách phiến diện quan điểm của Tuân Tử .
Trong thực tế cuộc sống, có thầy thuốc mong cho nhiều người ốm, có thợ đóng xe mong cho người giàu sang, có người đóng quan tài mong cho nhiều người chết... Nhưng đấy không phải là hiện tượng phổ biến chỉ thấy cái riêng mà không thấy cái chung. Sai lầm của ông là ở chỗ đó.
Nhìn chung khi xem xét tư tưởng triết học của Hàn Phi ta thấy ông đã có những đóng góp lớn cho chủ trương dùng luật pháp “để trị quốc, bình thiên hạ”. Khác với các nhà triết học trong trường phái Nho gia và Mặc gia khi nói về mối quan hệ giữa con người với con người ông đã quá nhấn mạnh tính lợi kỷ của con người, mà không xem xét đến những tính chất khác. Bên cạnh việc loại bỏ tư tưởng quá nhấn mạnh tính lợi kỷ của con người, chúng ta cần phải tiếp thu tư tưởng coi trọng lợi ích cá nhân chính đáng, bởi nó vẫn có ý nghĩa trong việc xây dựng con người hiện nay.
2.4. Ý nghĩa của các quan niệm nêu trên trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay
Ngµy nay ë níc ta, cïng víi qu¸ tr×nh ®æi míi toµn diÖn ®Êt níc vµ bíc vµo giai ®o¹n ®Èy m¹nh c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa, viÖc x©y dùng con ngêi ViÖt Nam toµn diÖn lµ yªu cÇu cÊp b¸ch. Bëi v×, con ngêi võa lµ môc tiªu, võa lµ ®éng lùc, võa lµ s¶n phÈm, võa lµ chñ thÓ cña qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa. Ph¸t huy nguån lùc con ngêi lµ vÊn ®Ò chiÕn lîc trong qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa. Tõ ®©y, ®Æt ra vÊn ®Ò ph¶i x©y dùng con ngêi ViÖt Nam hiÖn ®¹i nh thÕ nµo ®Ó kh«ng r¬i vµo ¶o tëng, ®Ó tiÕn hµnh cã hiÖu qu¶ vµ ®a sù nghiÖp nµy ®Õn thµnh c«ng. ChÝnh viÖc x©y dùng c¸c ®øc tÝnh cña con ngêi ViÖt Nam hiÖn ®¹i cã t¸c dông ®Þnh híng cho ho¹t ®éng con ngêi vµ t¹o ra mét nguån lùc m¹nh mÏ, bÒn v÷ng cho c«ng cuéc x©y dùng ®Êt níc.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII đã nhấn mạnh: Đạo đức là một trong ba lĩnh vực then chốt của văn hóa. Và nó cũng là một nội dung quan trọng trong quá trình xây dựng con người toàn diện với những yêu cầu chủ yếu sau: Phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.
Từ trước cho đến nay, Đảng và Bác Hồ luôn luôn chú trọng phát triển con người toàn diện cả đức và tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn, là gốc của người cách mạng. Bởi cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức. Trong hoàn cảnh hiện nay, cơ chế thị trường, diễn biến hòa bình…đang từng ngày, từng giờ tác động tới mọi mặt đời sống xã hội, tới các quan hệ đạo đức giữa người và người. Bên cạnh đó là tình trạng xuống cấp của nền đạo đức dân tộc. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần phải quan tâm hơn nữa tới sự nghiệp trồng người, đặc biệt là hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam. Nhiều nghị quyết của Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII khẳng định: chúng ta phải xây dựng con người Việt Nam mới có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm trung thực, nhân ái nghĩa tình, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng. Theo Nghị quyết TW5 khóa VIII, “con người Việt Nam mới cần:
Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu suốt đời vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đề cao tinh thần tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường.
Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Thường xuyên hoạt động nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực” [4, tr.50-51].
Đó là những phẩm chất, yêu cầu của con người mới Việt Nam. Vậy, quan niệm về đạo đức, con người trong trường phái triết học Nho gia, Mặc gia và Pháp gia có ý nghĩa như thế nào trong việc xây dựng hoàn thiện đạo đức, con người mới Việt Nam hiện nay?
Như chúng ta đã biết, tư tưởng của Nho gia, Mặc gia và Pháp gia vào Việt Nam từ rất sớm, có nguồn gốc từ Trung Hoa và do người phương Bắc truyền vào. Tất cả các tư tưởng này đều đã ít, nhiều tác động, ảnh hưởng đến lối sống, cách nghĩ và có thể nói là ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành đạo đức, con người Việt Nam, trở thành một bộ phận của văn hoá dân tộc. Tuy nhiên, nó không thể thay thế đạo đức truyền thống Việt Nam, mà nó chỉ góp thêm một số yếu tố vào đạo đức truyền thống đó. Cụ thể là:
2.4.1 Học thuyết của Nho gia
Học thuyết của Nho gia đã có mặt ở nước ta hàng nghìn năm và được các triều đại phong kiến Việt Nam sử dụng vào việc đào tạo, giáo dục con người, quản lý đất nước… Chính vì vậy, Nho giáo đã ăn sâu, tác động vào tâm lý, hình thành nên nhân cách của con người Việt Nam theo cả hai hướng tiêu cực và tích cực. Ngũ luân và Ngũ thường là lý tưởng đạo đức của con người. Những quan niệm ấy đã phát huy được tác dụng tích cực trên nhiều mặt: chính trị, đạo đức, giáo dục…góp phần làm nên truyền thống yêu nước, bản sắc văn hóa của người Việt Nam. Nhân dân ta đã tiếp thu chọn lọc, sáng tạo các giá trị tiến bộ của tư tưởng đạo đức Nho giáo, sử dụng các khái niệm đạo đức đó để tuyên truyền, chuyển tải những nội dung đạo đức truyền thống. Chính vì vậy, chúng đã trở thành một bộ phận trong truyền thống đạo đức, văn hóa dân tộc. Nhiều người đã nhầm lẫn tư tưởng đạo đức Nho giáo phong kiến với đạo đức truyền thống dân tộc nên vẫn hết sức ca ngợi và bảo vệ lễ giáo phong kiến. Song không ít người lại bác bỏ hoàn toàn nó bởi tính chất khắt khe, kìm hãm tự do dân chủ, ràng buộc con người với lễ giáo Tam cương, Ngũ thường. Nhìn nhận một cách khách quan, chúng ta cần phải thấy rằng, mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng chúng cũng để lại nhiều tư tưởng đáng để ta xem xét và kế thừa. Ngày nay, chúng ta đang tiến hành xây dựng con người xã hội chủ nghĩa với đạo đức mới – đạo đức cách mạng. Đó không phải chỉ là đạo đức cộng sản, mà đồng thời còn bao gồm cả những giá trị đạo đức truyền thống. Do vậy mà những giá trị đạo đức Nho giáo và tác dụng của nó cần phải được tiếp thu, kế thừa và phát huy mạnh mẽ trong điều kiện xã hội mới, với những yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Thời đại chúng ta đã khác xa thời đại của Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử… nhưng không phải vì vậy mà tư tưởng Nhân của nho giáo không còn ý nghĩa gì nữa. Con người dù ở bất kỳ xã hội nào thì trong tính hiện thực của nó, bản chất con người vẫn là tổng hòa những quan hệ xã hội. Và chữ Nhân vẫn thể hiện trong cách ứng xử, thái độ, hành vi… của mỗi con người. Tính chất tiến bộ và hợp lý của tư tưởng : Nhân là yêu người của Khổng Tử còn có thể phát huy tác dụng. Xã hội ngày nay vẫn còn những người nghèo đói, bệnh tật, bất hạnh… Họ rất cần đến sự quan tâm, cảm thông, giúp đỡ của người khác và cả cộng đồng. Nếu ai cũng chỉ biết xuất phát từ lợi ích của mình để đối xử với người, chỉ biết chăm chăm đến lợi ích cá nhân mà quên đi lợi ích của cộng đồng thì xã hội sẽ chẳng thể tốt đẹp. Đó chính là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể. “Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”. Nó là nguồn gốc của tất cả những tính hư tật xấu như: lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô… Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, chủ nghĩa xã hội” [36, tr. 306]. Một khi mỗi người đều biết quan tâm, nhường nhịn và hỗ trợ người khác thì không những họ thấy cuộc sống của bản thân yên ấm, hạnh phúc, mà cả cộng đồng của họ cũng có sự gắn bó, bền vững. Điều này không những đúng với xã hội thời xưa mà còn có ý nghĩa trong xã hội hiện đại. Khi xã hội loài người đang trong quá trình toàn cầu hóa, phấn đấu để trở thành “ngôi nhà chung” thì chúng ta càng phải xích lại gần nhau hơn, yêu thương và chia sẻ với nhau nhiều hơn. Xây dựng lối sống dân tộc hiện đại ở Việt Nam ngày nay cần củng cố và mở rộng lòng nhân ái khoan dung. Chữ Nhân trong đạo đức Nho giáo rất phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà chúng ta phải phát huy như: thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách, uống nước nhớ nguồn… Và Nhân không chỉ là lòng yêu Tổ quốc, yêu đồng bào mình, mà rộng ra là với toàn thế giới, với độc lập của mỗi dân tộc, với tự do của mỗi người. Chữ Nhân hiện nay cũng bao trùm lên nhiều phẩm chất khác của con người Việt Nam như: trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư…
Nho giáo ở Việt nam là một sự khúc xạ, nó không còn giữ nguyên như Nho giáo Trung Hoa. Bởi vậy, những chuẩn mực, phẩm chất đạo đức của nó cũng đã được tiếp thu và biến đổi cho phù hợp với con người Việt Nam. Trung – hiếu là những khái niệm đã có trong đạo đức truyền thống. Nhưng “Đạo đức ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước, phải hiếu với toàn dân, với đồng bào” [35, tr. 320-321]. Cũng với những phạm trù, chuẩn mực cũ nhưng chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa vào đó một nội dung mới, mang tính cách mạng.
Nếu ở Nho giáo, trung là trung với vua thì ngày nay là trung với nước. Lòng trung đó trước hết thể hiện ở tinh thần yêu Tổ quốc, yêu dân tộc. Tinh thần yêu nước là một đặc trưng cơ bản nhất, là nấc thang giá trị cao nhất của văn hóa Việt Nam; là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc. Nho giáo vào nước ta đã góp phần củng cố truyền thống ấy. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII đã khẳng định: “Trong chất lượng tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người mà chúng ta phải xây dựng nổi bật nhất là tư tưởng, đạo đức chính trị thể hiện ở tinh thần yêu nước” [4, tr. 51]. Yêu nước là cái gì trái với quyền lợi của Tổ quốc, chúng ta phải kiên quyết chống lại. Mỗi cá nhân phải biết đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân mình. Trung với nước cũng là làm sao cho dân giàu, nước mạnh. Phẩm chất ấy đòi hỏi người Việt Nam hôm nay cần tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và lý tưởng chủ nghĩa xã hội.Trong quan hệ trên dưới, cán bộ cấp dưới phải biết giúp cấp trên vạch ra chính sách vì dân, có lợi cho dân, cho nước; tuyệt đối không được dối gạt cấp trên, làm thì láo báo cáo thì hay… Không bao che, hùa theo những sai phạm của người khác. Cán bộ cấp trên cũng cần biết tôn trọng cấp dưới, quyết không vì động cơ cá nhân, cậy quyền, cậy thế mà trù úm, đè nén cấp dưới…Trung là phải biết đấu tranh chống lại cái xấu, mọi sự sai trái, kể cả với cán bộ, lãnh đạo. Chính điều đó cũng góp phần bảo đảm sự ổn định, bền vững của đất nước. Trung với nước thể hiện trách nhiệm của mỗi con người đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên của dân tộc. Trong quan niệm của Nho giáo, khi đề cập đến đức Trung là nói tới mối quan hệ vua tôi, còn với chúng ta ngày hôm nay, đó là quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhân dân đã hết lòng trung thành, phục vụ Tổ quốc thì điều tất nhiên, Đảng và Nhà nước phải thật sự lấy dân làm gốc, phải yêu thương, phải quý trọng dân. Bác Hồ cũng đã từng nói rằng: nếu dân đói, dân rét, dân dốt, dân ốm thì Đảng và Chính phủ có lỗi. Như vậy, chữ trung ngày nay cũng phản ánh bổn phận hai chiều của mối quan hệ này.
Ngày nay, việc giáo dục, hoàn thiện đạo đức cho con người trong gia đình là một nhiệm vụ thực tiễn rất quan trọng. Trước hết, đạo đức con người thể hiện bằng tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ. Nho giáo khi đưa ra mối quan hệ cha con đã chú ý tới bổn phận ở cả hai phía: cha mẹ phải yêu thương con cái, con phải kính trọng, chăm sóc cha mẹ…Điều này cho đến nay vẫn còn ảnh hưởng và có ý nghĩa tích cực. Dù ở bất cứ xã hội nào thì nội dung, yêu cầu cốt lõi của đạo hiếu cũng vẫn không thay đổi như: con cái phải biết công ơn sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ; phải kính trọng, phụng dưỡng cha mẹ…Những yêu cầu rèn luyện đúng đắn chính là để con cái đối xử tốt đối với ông bà, cha mẹ. Thực chất, chúng chỉ là những bước rèn luyện cần thiết cơ bản để con người khi ra ngoài xã hội đáp ứng được yêu cầu đạo đức cao hơn là yêu nước thương nòi, trung với nước, hiếu với dân theo yêu cầu của đạo đức mới. Song nếu Nho giáo chỉ giới hạn chữ hiếu với cha mẹ thì ngày nay, yêu cầu xây dựng đạo đức mới cho con người là phải mở rộng phạm vi của nó là hiếu với dân. Hiếu với dân có nghĩa là bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Con người, mỗi người sống không thể không dựa vào cộng đồng, xã hội của mình. Vì vậy, cần phải biết yêu mến nhân dân, đồng bào với phương châm mình vì mọi người, mọi người vì mình; và vì lợi ích cộng đồng mà có thể hy sinh lợi ích cá nhân. Ai cũng phải chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của tập thể, tích cực giúp đỡ mọi người. Đặc biệt đây là phẩm chất rất quan trọng với người Đảng viên, cán bộ. Hiếu với dân không chỉ thể hiện ở thương dân mà chủ yếu là ở chỗ tin dân, dựa vào dân, giúp đỡ dân. Nó đòi hỏi người cán bộ phải lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân. Họ là người đại diện cho quyền lợi của dân, là đại biểu của dân nhưng cũng đồng thời là đầy tớ của dân, phải phụng sự nhân dân. Trong quan niệm của người Việt Nam, nước và dân có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nước là của nhân dân, nhân dân là chủ của đất nước. Vì vậy, hiếu với dân cũng là thể hiện trung với nước và ngược lại.
Nho giáo đã từng khẳng định: Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia (có nghĩa là: Thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà). Vì vậy mà, trong học thuyết đạo đức của Nho giáo, chữ Hiếu được tôn lên cao, đặt ở vị trí đặc biệt quan trọng. Điều đó chứng tỏ Nho giáo luôn đánh giá cao vai trò của gia đình, giáo dục gia đình. Xung quanh vấn đề này, các nhà Nho đưa ra những kiến giải thích hợp, góp phần xây dựng và duy trì các quan hệ xã hội nhất định. Trong quan niệm của Nho giáo, mỗi thành viên của gia đình phải yêu thương, có trách nhiệm, nghĩa vụ với nhau, phải luôn giữ gìn danh dự và phát huy truyền thống gia đình, dòng tộc. Nho giáo khuyến khích sự quan tâm của con người đối với thanh danh gia đình, mà điều đó cần đến sự gắn bó của mọi thành viên trong gia đình. Chúng ta có thể kế thừa Nho giáo ở điểm này. Hiện nay, gia đình vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp chung của đất nước. Muốn đào tạo những con người có đức và để làm tròn bổn phận, trách nhiệm của mình đối với xã hội, trước hết phải xây dựng con người có đạo đức từ trong gia đình. Gia đình phải thực sự trở thành môi trường giáo dục đạo đức cho mỗi con người. Chúng ta phải đặt tình cảm với Tổ quốc, với nhân dân lên hàng đầu nhưng tình cảm ấy trước hết phải được xây dựng và vun trồng từ những tình cảm đầu tiên của con người đối với các thành viên trong gia đình. Ta phải thừa nhận, gia đình là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách con người, để mỗi người không chỉ là người con tốt của gia đình mà còn là điều kiện quan trọng để chuẩn bị thành người công dân tốt của xã hội. Đồng thời, đó cũng là nơi hình thành các giá trị nhân văn của xã hội, bảo vệ và lưu truyền, phát triển các giá trị nhân bản nhất của con người. Hiện nay, chúng ta không ngừng củng cố những tình cảm tốt đẹp và sâu sắc giữa cha mẹ - con cái, anh em, vợ chồng…bởi người nào hư hỏng trong các mối quan hệ này khó có thể là những công dân tốt được. Văn hóa gia đình của người Việt chịu ảnh hưởng nhiều bởi tư tưởng Nho giáo. Nó đã góp phần ổn định gia đình với việc giáo dục lòng yêu thương con người, tạo ra nếp sống kính trên nhường dưới, con cái hiếu thảo với cha mẹ, vợ chồng yêu thương nhau, anh em như thể tay chân…Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình được Nho giáo rất coi trọng bởi đó là quan hệ huyết thống gắn kết con người với tất cả tình cảm tự nhiên vốn có của nó. Yêu cầu của Nho giáo đối với các mối quan hệ trong cộng đồng xã hội là dựa trên yêu cầu của chính các mối quan hệ trong gia đình; là sự mở rộng chúng và phát triển thêm. Đạo đức gia đình của Nho giáo là cần thiết cho việc giải quyết vấn đề gia đình đang có nguy cơ tan rã do tỷ lệ ly hôn ngày càng tăng. Trong mối quan hệ vợ chồng, Nho giáo coi tình nghĩa thủy chung, hòa thuận, sống hết tình hết nghĩa vì nhau là tiền đề quan trọng để đảm bảo hạnh phúc gia đình và hơn nữa là góp phần làm cho xã hội ổn định. Mối quan hệ này ngày càng được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính, tự do và bình đẳng. Trong gia đình mới, người chồng vẫn giữ vai trò là trụ cột, chỗ dựa vững chắc, đáng tin cậy cho vợ con. Người vợ làm đúng thiên chức của mình: chăm sóc cha mẹ, chồng con, quán xuyến công việc gia đình…Nhưng điều quan trọng hơn là vợ chồng phải cùng nhau có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với gia đình và xã hội. Thêm vào đó, hiện nay xu hướng nhiều người muốn sống riêng sau hôn nhân. Nguyên nhân một phần do điều kiện, hoàn cảnh sống; song cũng không hiếm trường hợp viện lý do nào đó để trốn tránh trách nhiệm, nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ. Và còn nhiều biểu hiện xuống cấp về đạo đức gia đình đang cần có cách giải quyết đúng đắn, kịp thời. Bởi vậy, đã đến lúc chúng ta cần xem xét lại lĩnh vực này. Nho giáo quan niệm một xã hội ổn định, trước hết cần có những gia đình hòa thuận. Đó cũng chính là một mô hình gia đình mà xã hội ta hiện nay đang xây dựng. Ở phương diện này, đạo đức Nho giáo đã tiếp tục đóng một vai trò nhất định trong việc hình thành và hoàn thiện đạo đức con người. Nhưng không có nghĩa là chúng ta tiếp thu toàn bộ nguyên tắc đạo đức gia đình của Nho giáo. Bởi một trong những hạn chế của đạo đức Nho giáo là đã ảnh hưởng không nhỏ đến nếp nghĩ, tác phong gia trưởng, nhiều khi tạo ra sự phục tùng mê muội của con người, ý thức trọng nam khinh nữ…, nên chúng ta cần phải xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ, đưa người phụ nữ thoát khỏi sự ràng buộc khắc nghiệt của sợi dây tam tòng tứ đức. Gia đình mới mà chúng ta xây dựng là một gia đình hòa thuận, dựa trên cơ sở dân chủ, bình đẳng. Vợ chồng, cha con, anh em yêu thương, tôn trọng nhau, cùng bàn bạc và quyết định các vấn đề của gia đình. Trong gia đình đó không có chỗ cho tư tưởng gia trưởng, độc đoán.
Mỗi con người đều có những mối quan hệ xã hội nhất định: bạn bè, đồng nghiệp, đối tác kinh doanh…Nho giáo khi đề cập đến mối quan hệ giữa người với người đã đề cao đức Tín. Theo đó, con người sống cần có tín, trung thực, giữ lời. Không thể có một xã hội ổn định và trật tự khi mà mọi người luôn tìm cách lừa lọc nhau để thu lấy cái lợi về mình. Tín là cơ sở của một xã hội ổn định. Nước ta hiện nay đang xây dựng nền kinh tế thị trường, hệ quả kéo theo là sự phân hóa giàu nghèo, lối sống thực dụng…Việc tìm kiếm lợi nhuận tối đa của các doanh nghiệp là điều tất nhiên. Song, nhiều khi cũng vì thế mà giữa con người với con người đã không còn chữ Tín.
Chữ Tín còn gắn với dân chủ và công bằng xã hội. Nếu như một cán bộ, Đảng viên vi phạm pháp luật, làm mất tín nhiệm của cá nhân, Đảng và nhà nước; hoặc doanh nghiệp đánh mất mình vì hành vi lừa đảo khách hàng…thì xã hội thật sự sẽ không còn công bằng, mất ổn định. Vì vậy, chữ Tín ngày nay cần được nâng cao và coi trọng hơn nữa, không chỉ ở lòng tự trọng của mỗi cá nhân mà nó còn phải là trách nhiệm, nghĩa vụ tất yếu buộc mọi người phải thực hiện trên cơ sở pháp luật. Đức tín là chuẩn mực, phẩm chất mà chúng ta rất cần kế thừa và phát huy ở Nho giáo để hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
Ngày nay, trong việc giáo dục, phát triển con người, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy vai trò to lớn của đạo đức cũng như ý nghĩa, giá trị của tư tưởng đạo đức mà Nho giáo đưa ra. Tuy nhiên, không vì thế mà xem nhẹ pháp luật. Xưa kia, cùng với “đức”, Khổng Tử đòi hỏi phải có “lễ”. Lễ ràng buộc con người chặt chẽ hơn nhưng lại không quá nghiêm khắc như pháp luật. Tuy nhiên, ở một giới hạn nhất định, Lễ có thể được xem như luật. Khi đó, việc con người tuân thủ pháp luật cũng là đã làm theo Lễ. Như vậy, trong điều kiện hiện nay, Lễ thể hiện ở mỗi người thông qua việc sống và làm việc theo pháp luật, tôn trọng kỷ cương phép nước. Đồng thời, nó còn biểu hiện trong từng thái độ, ý thức của con người, từ lời nói đến cử chỉ, hành vi…Nếu Lễ là trật tự kỷ cương của xã hội thì ngày nay có thể kế thừa phạm trù này của Nho giáo, biến đổi nó thành nếp sống có trật tự, có văn hóa, kết hợp chặt chẽ giữa đạo đức và pháp luật. Nếu ai cũng làm tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, đúng mực trong các quan hệ xã hội, sống có nhân…thì chính là họ đã thực hiện Lễ tốt. Và ở đây, Lễ còn được hiểu không phải chỉ là phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội phong kiến, mà nó còn góp phần hoàn thiện đạo đức con người: tôn trọng pháp luật, kỷ cương…và đồng thời, tạo ra sự ổn định xã hội. Hiện nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do đó, giáo dục cho người dân lối sống tuân thủ pháp luật, kỷ cương xã hội…là điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xưa kia, Khổng Tử yêu cầu học Lễ vì không học con người ta khó có thể đứng được trong xã hội, không thể trở thành con người chân chính, có ích cho xã hội. Ngày nay cũng vậy, nếu không tuyên truyền và giáo dục lý tưởng chính trị, đạo đức cho toàn thể nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; nếu con người không được giáo dục pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật là yêu cầu tối thiểu của công dân trong xã hội hiện đại thì tất yếu trật tự, kỷ cương từ trong gia đình đến ngoài xã hội sẽ không được đảm bảo, ổn định. Như vậy, đúng như nhận xét của GS Vũ Khiêu, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, các xã hội theo Nho giáo đã giữ được sự ổn định trong gia đình và trật tự ngoài xã hội, củng cố được mối quan hệ cương thường của Nho giáo chính là đã sống theo những quy tắc của Lễ. Lễ trở thành một điều quan trọng bậc nhất trong quản lý đất nước và gia đình. Đó là bài học sâu sắc mà những nước theo Khổng giáo hôm nay đã thực hiện để ổn định chính trị xã hội, phát triển văn hóa và tăng trưởng kinh tế.
Việt Nam đang phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự điều tiết của nhà nước; trong điều kiện ấy, việc con người hướng tới cái lợi là một điều dễ hiểu. Song, chúng ta cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nghĩa và lợi. Khổng Tử đã từng đề ra: Kiến lợi ư nghĩa. Và ngày nay cũng vậy, con người làm giàu, quan tâm đến lợi ích cá nhân, nhưng thấy lợi thì phải nghĩ đến nghĩa. Nếu hợp với nghĩa thì mới nhận lợi. Ngoài ra, nghĩa đối với đạo đức con người Việt Nam hiện nay là phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, phải hết lòng phục vụ tổ quốc và nhân dân. “Nghĩa là ngay thẳng, không có tâm tư, không làm việc bậy. Thấy việc phải thì làm, thấy việc sai thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn” [35, tr.251-252]. Điều này đặc biệt quan trọng trong hoàn thiện đạo đức người cán bộ, đảng viên khi mà chúng ta đang tiến hành công cuộc chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh tinh thần phê bình và tự phê bình.
Mặc dù trước đây, Nho giáo đề cao đến mức tuyệt đối hóa đạo đức, song cũng nhấn mạnh đến trí. Trí để hiểu biết phải trái, đúng sai, biết ứng xử thế nào trong từng mối quan hệ xã hội. Còn đối với chúng ta, trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, chúng ta chú trọng phát triển con người toàn diện cả đức và tài. Bởi vậy, ngoài ý nghĩa như trong đạo đức Nho giáo đã nêu, Trí còn là không ngừng học tập, nâng cao hiểu biết của mỗi cá nhân. “Trí vì không có việc tư lợi làm mù quáng nó, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt, dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xem việc” [35, tr.251-252]. Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho người thân, gia đình, đồng bào, dân tộc mình. Trí là phải có tinh thần mưu trí, sáng tạo, giải quyết được mọi công việc khó khăn, sáng suốt vượt qua mọi thử thách…
2.4.2. Học thuyết của Mặc gia
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, bên cạnh những thành tựu lớn, mặt trái của kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ rõ và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức xã hội, gây cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững cũng như sự hình thành, phát triển các chuẩn mực đạo đức, xây dựng con người mới mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang hướng đến. Theo tôi, thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử có những giá trị nhất định có thể góp phần vào việc khắc phục mặt trái về đạo đức xã hội của nền kinh tế thị trường. Bởi, nó có những giá trị gần gũi với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta như: tinh thần tương thân, tương ái, vị tha, khoan dung, đoàn kết…
“Kiêm ái” là yêu thương nhau, lấy tình yêu thương để thức tỉnh lương tri, xoa dịu lòng người, phản đối bạo lực phi nghĩa… “Kiêm ái” cũng có nghĩa là nhân nghĩa. Với dân tộc ta, nhân nghĩa đã trở thành truyền thống đạo lý cao thượng. Đặc biệt, tinh thần đại nghĩa của dân tộc ta đã khiến cho bạn bè năm châu kính phục, cảm hoá được những kẻ thù hung ác nhất, giúp “ăn năn hối lỗi”, “cải tà quy chính” những người đi chệch hướng, lầm đường lạc lối. Rõ ràng, từ lòng vị tha, khoan dung trong cư xử, ứng xử, lối sống của người Việt Nam đến chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước ta đều ẩn chứa nội dung “kiêm ái”.
“Kiêm ái” với giá trị nhân nghĩa của nó còn có ý nghĩa lớn trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Không thể phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách bền vững nếu nó không được đặt trên cái gốc của đạo đức, của nhân nghĩa. Phát triển kinh tế bền vững phải gắn liền với tiến bộ xã hội, văn minh cho con người và cho cả nhân loại, chứ không thể phát triển nền kinh tế bằng mọi giá, bất chấp tất cả, đánh đổi cả nhân nghĩa, tình yêu thương con người. Phát triển phải mang ý nghĩa nhân văn, đó mới là ý nghĩa tiến bộ, cao cả của nó, phát triển trên tất cả mọi lĩnh vực cũng để nhằm phát triển con người toàn thiện, phát triển xã hội và phát triển toàn nhân loại.
“Kiêm ái” không chỉ gắn liền với nhân nghĩa, mà còn gắn liền với vấn đề lợi, công lợi. Nội dung này của học thuyết “kiêm ái” cũng có những giá trị nhất định đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường và xây dựng con người mới trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế đối với nước ta là rất lớn, nên thoát nghèo là một trong những mục tiêu hàng đầu của công cuộc cách mạng ở nước ta hiện nay. Nếu không hướng đến cái lợi, không vươn lên giàu mạnh về kinh tế để sánh vai với các cường quốc năm châu, thì Việt Nam sẽ khó có được sự bình đẳng, khó giữ được độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, cái lợi mà mỗi chủ thể kinh tế thường quan tâm đến là tư lợi, lợi ích cá nhân và do đó, nhiều khi có mâu thuẫn, nảy sinh mâu thuẫn, đi ngược lại lợi ích dân tộc, lợi ích quốc tế. Đó không phải là cái lợi mang nội dung “kiêm ái”, càng không phải là cái lợi mang ý nghĩa phổ quát trong mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Và như vậy, việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, phát triển con người toàn diện sẽ gặp nhiều khó khăn.
2.4.3. Học thuyết của Pháp gia
Vấn đề con người trong học thuyết chính trị của Hàn Phi Tử là sự tập hợp đầy đủ toàn bộ nội dung căn bản về vấn đề này của trường phái Pháp gia. Khi nghiên cứu vấn đề này, chúng ta có thể thấy, vượt lên hình ảnh con người thần bí, đức độ với những tấm gương hoàn hảo của Nho gia, Hàn Phi Tử đã động chạm tới mấu chốt nhất của giá trị Người trên cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực. Có lẽ vì thế mà Pháp gia thường được đề cập tới như một thứ công cụ để trị người hơn là dạy người và dùng người. Mặt khác, khi nghiên cứu vấn đề con người của Pháp gia, chúng ta bắt gặp không ít vấn đề của xã hội hiện tại, những giá trị mới trong nội dung tư tưởng đã cũ.
Là học trò của Tuân Tử, Hàn Phi Tử tán đồng quan niệm “tính con người ta vốn ác” của Tuân Tử, đồng thời bổ sung, phát triển thêm nội dung mới. Những nội dung về vấn đề con người trong triết thuyết của ông khá tàn nhẫn và thể hiện một sự công phá từ bên trong khi ông nận ra bản chất đích thực của con người lại thường bị che dấu bởi những giá trị không thật. Ông chấp nhận con người với đầy đủ bản năng sinh tồn để đấu tranh cho sự tồn tại của chính bản thân mình như một lẽ tự nhiên. Với xuất phát điểm đó, Hàn Phi Tử đi thẳng vào khía cạnh lợi ích cá nhân - chủ yếu là lợi ích về mặt vật chất, để khẳng định cơ sở sự tồn tại của con người và bản tính vốn hám lợi, sợ hại của mọi cá thể. Thẳng thắn nhìn vào con người với tư cách một sinh vật mang bản chất hám lợi và ích kỷ, Pháp gia đã chấp nhận sự tồn tại một cách tự nhiên và phổ biến của dạng người này như một sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển.
Khi giải tích về mâu thuẫn xã hội bắt đầu từ lợi ích kinh tế, Pháp gia đã khẳng định ảnh hưởng mang tính quyết định của yếu tố kinh tế đối với mỗi cá nhân và từng xã hội. Hơn thế nữa, Pháp gia còn nhận ra tác dụng hai chiều của yếu tố kinh tế đối với con người. Một mặt, cái lợi là yếu tố căn bản thúc đẩy con người hành động, tranh giành của cải và là nguyên nhân gây ra mâu thuẫn; nhưng mặt khác, nó cũng là yếu tố liên kết con người với nhau. Theo đó, hành động vì cái lợi là lẽ bình thường, vấn đề là cần đặt cái lợi riêng trong cái lợi chung. Đây là tư tưởng biện chứng khá sâu sắc của Pháp gia. Pháp gia đã đánh giá xã hội đương thời và phê phán chế độ quân chủ một cách sắc bén và thẳng thắn. Con người với tư cách là cá nhân đều bị “lột trần” cái vỏ bọc bề ngoài để hiện ra nguyên nghĩa cá thể cần những giá trị nguyên bản bên trong như nhau để tồn tại. Theo Pháp gia, bản chất hám lợi và sợ hại ấy của con người là cái không thể che giấu, sửa đổi, nhưng nếu biết sử dụng nó sao cho hợp lý trong các mối quan hệ giữa người với người thì nó sẽ đem lại hiệu quả nhất định.
Nếu như Nho gia dùng thuyết “chính danh” trong việc giải quyết mối quan hệ giữa con người với con người và duy trì trật tự xã hội thì Pháp gia lại sử dụng “hình danh”. Chính danh định phận của Nho gia nhằm duy trì trật tự đẳng cấp khắc nghiệt, thì “hình danh” của Pháp gia lại mang tư tưởng bình đẳng. Tuy nhiên, nếu cho rằng lý thuyết của Pháp gia nặng về hình, nhẹ về đức khi Pháp gia chủ trương dùng pháp luật để giải quyết tất cả mọi việc thì chưa thật thoả đáng. Bởi lẽ, theo quan điểm của Hàn Phi Tử, pháp luật thấu suốt tình cảm con người, nên trong cái “hình” đã có cái “đức”, không hề có sự tách biệt. Có thể nói, Hàn Phi Tử đã ghi dấu ấn của mình vào lịch sử tư tưởng Trung Quốc nói riêng và lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung với một học thuyết dám nhìn thẳng vào sự thật và khẳng định những giá trị lợi ích căn bản là động cơ cho mọi hành động của con người, bóc trần mọi quan hệ giả tạo giữa người với người, phê phán chế độ quân chủ từ bên trong.
Nhìn chung khi xem xét tư tưởng triết học của Hàn Phi ta thấy ông đã có những đóng góp lớn cho chủ trương dùng luật pháp “để trị quốc, bình thiên hạ”. Khác với các nhà triết học trong trường phái Nho gia và Mặc gia khi nói về mối quan hệ giữa con người với con người ông đã quá nhấn mạnh tính lợi kỷ của con người, mà không xem xét đến những tính chất khác. Bên cạnh việc loại bỏ tư tưởng quá nhấn mạnh tính lợi kỷ của con người, chúng ta cần phải tiếp thu tư tưởng coi trọng lợi ích cá nhân chính đáng, bởi nó vẫn có ý nghĩa trong việc xây dựng con người hiện nay.
Trên đây là những điều trình bày và đánh giá về ý nghĩa, vai trò của quan niệm đạo đức, con người trong trường phái triết học Nho gia, Mặc gia và Pháp gia trong việc xây dựng đạo đức, xây dựng con người mới Việt Nam hiện nay. Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, những chuẩn mực đạo đức như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, kiêm ái, thương yêu con người, bao dung, độ lượng và tôn trọng kỷ cương pháp luật, sống có nguyên tắc… đều vẫn giữ những giá trị tích cực nhất định của nó. Nền đạo đức của chúng ta hiện nay đang chịu những tác động tiêu cực từ nhiều yếu tố: kinh tế trị trường, diễn biến hòa bình, toàn cầu hóa…Chúng không những kìm hãm sự phát triển kinh tế, làm mất an ninh xã hội…mà còn làm băng hoại các giá trị luân lý, đạo đức truyền thống. Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nâng cao đạo đức cách mạng, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống. Một trong những giá trị đó chính là luân lý, đạo đức và quan niệm con người trong trường phái triết học Nho gia, Mặc gia và Pháp gia thể hiện qua một số phạm trù, chuẩn mực trong Tam cương, Ngũ thường, Kiêm ái, Chính danh, Hình danh…. Những tư tưởng như lòng hiếu thảo và kính trọng ông bà, cha mẹ cũng như người lớn tuổi, tư tưởng về anh chị em trong gia đình phải biết yêu thương đùm bọc, che chở nhau, tư tưởng nhân ái yêu thương con người, biết kết hợp lợi ích cá nhân hòa chung với lợi ích tập thể…đều có ý nghĩa và vai trò tích cực cho việc hoàn thiện đạo đức, xây dựng con người mới Việt Nam hiện nay.
KẾT LUẬN
Vấn đề quan trọng hàng đầu trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc là nói về con người. Ở thời kỳ này quan niệm về con người được các nhà triết học tiêu biểu như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Mặc Tử, Hàn Phi Tử quan tâm nhiều nhất. Mỗi triết gia đều đưa ra quan niệm riêng của mình và cho rằng quan niệm của mình là đúng. Khổng Tử cho rằng: “Bản tính của con người là thiện và nó gần giống nhau ở tất cả mọi người”. Ông nói: “tính tương cận, tập tương viễn giã”. Còn Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là thiện. Đối lập với Mạnh Tử thì Tuân Tử cho rằng bản tính con người vốn ác. Mặc Tử bằng thuyết “kiêm ái” đã cho rằng con người ta sinh ra là phải yêu thương nhau. Bản chất con người là “ích kỉ” và đặc tính của con người là ham mê lợi ích đó là quan điểm mà Hàn Phi Tử đưa ra. Từ quan niệm về bản chất con người mà các nhà triết học cũng nói về mối quan hệ giữa con người với con người, họ đã đưa ra những chuẩn mực riêng. Các ý kiến đưa ra có đặc điểm tương đồng và dị biệt, Khổng Tử, Mạnh Tử khi nói về mối quan hệ giữa con người với con người là dựa trên luân lý đạo đức mang đặc điểm của hệ tư tưởng phong kiến gia trưởng: “quan hệ vua- tôi, cha- con, chồng- vợ, anh- em, bè- bạn” (quân quân, thần thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu). Những quan hệ này đều có tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng. Đó là quan niệm của Nho gia, còn Mặc gia thì đề cao mối quan hệ con người trên cơ sở bình đẳng thượng đồng, mọi người yêu thương lẫn nhau không phân biệt địa vị xuất thân có như vậy thiên hạ mới trị được. Pháp gia đại biểu tiêu biểu là Hàn Phi Tử thì cho rằng quan hệ của con người với con người dựa trên tư tưởng “lợi kỷ” nên mọi người đối xử với nhau đều có sự tính toán mưu lợi cho mình.
Nói tóm lại những tư tưởng của các triết gia cổ đại Trung Quốc tiêu biểu là Nho gia, Mặc gia, Pháp gia đã cho ta thấy được những cách nhìn nhận khác nhau. Nhưng tựu chung lại các nhà triết học cổ đại Trung Quốc đều đứng trên lập trường tư tưởng của giai cấp thống trị khi nhìn nhận về con người và mối quan hệ của con người. Các ông chưa thấy được bản chất thật sự bên trong của vấn đề. Vẫn còn mang nặng tính chất duy tâm mà nguyên nhân chính là do điều kiện khách quan và trình độ nhận thức còn hạn chế. Nhưng mặt khác lọc bỏ đi yếu tố hạn chế do lịch sử để lại, chúng ta thấy các quan niệm về con người nói trên vừa có ảnh hưởng tích cực đồng thời cũng ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức, lối sống, lối suy nghĩ của con người và xã hội Việt Nam hiện nay. Bởi vậy, chúng ta cần có thái độ khoa học trong việc kế thừa những tư tưởng ấy. Cái gì tốt thích hợp thì chúng ta dùng, còn cái gì xấu, tiêu cực có hại thì ta loại bỏ. Kế thừa, cải tạo và phát triển những nhân tố tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng con người trong giai đoạn Xuân Thu – Chiến Quốc, chính là góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng, đào tạo con người theo yêu cầu đạo đức mới, xây dựng con người mới Việt Nam hiện nay. Vì vậy, các nhà nghiên cứu khoa học xã hội cần phải tiếp tục xem xét, thẩm định lại các giá trị của Nho gia, Mặc gia và Pháp gia, trong đó có quan niệm về đạo đức, con người để có cái nhìn toàn diện, chính xác hơn. Việc tìm hiểu, xem xét về con người, đạo đức con người của các trường phái triết học nêu trên với các chuẩn mực, yêu cầu cụ thể nói riêng cần phải theo tinh thần kế thừa có phê phán một cách sáng tạo. Nếu không đặt vấn đề nghiên cứu một cách nghiêm túc thì chúng ta sẽ buông trôi cho sự phục hồi những nhân tố tiêu cực của nó, đồng thời cũng sẽ lãng phí, bỏ sót những nhân tố tích cực có thể đóng góp vào sự nghiệp xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa của chúng ta hôm nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Minh Anh (2004), Về học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo, Tạp chí Triết học, (8), tr 46-51.
Lê Ngọc Anh (2004), Nhân trong Luận ngữ của Khổng Tử, Tạp chí Triết học, (11), tr 37- 41.
Lê Ngọc Anh (2004), Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam , Tạp chí Triết học, (3), tr 19-21.
Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (1998), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5 khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thanh Bình (2005), Học thuyết chính trị của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX), Luận án tiến sĩ triết học
Nguyễn Thanh Bình (2001), Quan niệm của Nho giáo về các mối quan hệ xã hội, ảnh hưởng và ý nghĩa của nó với xã hội ta ngày nay – Luận án tiến sĩ triết học.
Nguyễn Thanh Bình (1999), “Cách xem xét, đánh giá con người thông qua các mối quan hệ xã hội cơ bản của Nho giáo – Một giá trị kế thừa và phát triển”, Triết học, (3), Tr.22-24.
Doãn Chính (chủ biên) (2002), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB Thanh niên, Hà Nội.
Phạm Như Cương (1978), Về vấn đề xây dựng con người mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phan Đại Doãn (chủ biên) (1998), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội.
Phạm Văn Dương (2009), Hội thảo khoa học: “ Tư duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Triết học, (8), Tr 83-84.
Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
Thành Duy (2004), Văn hóa đạo đức – Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đạo đức Nho giáo, (2009)
Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, NXB Văn hóa, Hà Nội.
Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2003), Về phát triển văn hóa và giáo dục con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Văn Giàu (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Giá trị đạo đức Nho giáo, (2009)
Nguyễn Văn Hiền: “Thuyết kiêm ái: nội dung, giá trị và ý nghĩa đối với việc xây dựng đạo đức ở nước ta”, Tạp chí Triết học, số 232, 9-2010.
Nguyễn Ngọc Hà (2009), “Nghiên cứu đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay: một số vấn đề cần quan tâm”, Tạp chí Triết học, (5), Tr 68–71.
Hội thảo quốc tế: “Nho giáo Việt Nam và văn hóa Đông Á” (2009), Tạp chí Triết học, (6), Tr 81-82.
Hội thảo: “Đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt Nam trước yêu cầu của đổi mới và hội nhập quốc tế” (2009), Tạp chí Triết học, (3), Tr 79-80.
Cao Thu Hằng (2004), “Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu đạo đức với nhân cách con người Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (7), Tr. 24-31.
Lê Thị Hằng (2009), “Vấn đề nâng cao đạo đức công chức trong cải cách hành chính ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6), Tr 66-72.
Vấn đề đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam, (2009),
Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Vũ Khiêu (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Vũ Khiêu (2009), “Về giá trị đương đại của Nho giáo Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (8), Tr 37-40.
Trần Trọng Kim (2001), Nho giáo, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Lê Thị Lan (2002), “Quan hệ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại trong xây dựng đạo đức”, Tạp chí Triết học, (7), Tr 25-27.
Nguyễn Thị Thanh Mai (2004), “Tư tưởng “Đức – tài” của Khổng Tử và tư tưởng “Hồng - chuyên” của Hồ Chí Minh”, Triết học, (10), Tr 34-41.
Triệu Quang Minh, Trần Thị Lan Hương: “Vấn đề con người trong quan niệm pháp trị của Hàn Phi”, tạp chí Triết học, số 219, 8-2010.
Đinh Công Sơn (2009), “Tài năng gắn với đạo đức – những phẩm chất cần có của doanh nhân Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (8), Tr 62-67.
Khổng Tử, (2000), NXB Văn hóa, Hà Nội.
Khổng Phu Tử và Luận Ngữ (2004), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Tài Thư (2002), Nho giáo và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, (5), tr29-35.
Vũ Minh Tâm (chủ biên 1996): “Tư tưởng triết học về con người”, Nxb Giáo dục,.
An Mạnh Toàn (dịch): “con người- những ý kiến mới về một đề tài cũ”, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_niem_ve_con_nguoi_trong_lich_su_triet_hoc_trung_quoc_co_dai_giai_.doc