Đề tài Quản trị rủi ro lãi suất tại ngân hàng tmcp ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Cần Thơ

LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế thị trường với xu hướng toàn cầu hóa và quốc tế hóa các luồng tài chính đã làm thay đổi căn bản hệ thống ngân hàng, hoạt động kinh doanh ngày càng trở nên phức tạp. Thực tế đó đòi hỏi hệ thống các Ngân hàng thương mại (NHTM) phải có cải tiến mạnh mẽ để nâng cao năng lực quản trị rủi ro. Rủi ro là một điều kiện rất phổ biến và gần như mang tính tất yếu đối với mọi hiện tượng cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống kinh tế - xã hội của con người. Vì vậy, chấp nhận đối đầu với rủi ro là một điều kiện bình thường, không tránh khỏi, nhưng vấn đề đặt ra ở đây không phải có hay không có rủi ro, mà ở chỗ phải phòng ngừa để giảm thiểu rủi ro ở mức chấp nhận được. Thực tiễn hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại cho thấy rủi ro đối với NHTM trong điều kiện kinh tế thị trường gồm nhiều loại như: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá, và một trong những loại hình rủi ro lớn nhất mà ngân hàng phải thường xuyên đối mặt là rủi ro lãi suất. Thực vậy, ở Việt Nam, cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng đang ngày trở nên nóng bỏng thì rủi ro lãi suất là khó tránh khỏi cho các ngân hàng hiện nay. Đó là một loạt các phản ứng dây chuyền, khi lãi suất tăng khiến lãi suất huy động tăng, người đi vay cũng phải chịu chi phí cao hơn, rủi ro thất bại của dự án đầu tư cũng tăng theo và nếu quá ngưỡng sẽ dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. Cho đến lúc này, có thể xem như lãi suất của Việt Nam đã được tự do hóa hoàn toàn. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, vấn đề chạy đua lãi suất trong các năm qua giữa các ngân hàng thương mại nhiều lúc không tuân theo một qui luật nào cả. Việc “chạy đua lãi suất” giữa các NHTM đã tạo ra không ít rủi ro cho doanh nghiệp. Do đó, vấn đề quản lý rủi ro lãi suất trong hoạt động ngân hàng có vai trò rất quan trọng và thậm chí nó còn quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Cùng sự phát triển của nền kinh tế nước nhà, nền kinh tế Cần Thơ trong thời gian qua đã có những thay đổi tích cực. Trên tinh thần đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - chi nhánh Cần Thơ với các nghiệp vụ kinh doanh đã và đang đổi mới, mở rộng quy mô hoạt động để khẳng định mình trong hệ thống các ngân hàng cùng thành phố. Để cho ngân hàng hoạt động ngày càng chất lượng, hiệu quả thì việc phân tích và quản lý rủi ro luôn được đặt lên hàng đầu và quản trị rủi ro lãi suất luôn là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán , phục vụ cho phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy, hoạt động ngân hàng chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro mà chúng ta khó có thể lường trước được. Với tính chất thời sự và tầm quan trọng như vậy, chúng ta cần phải đánh giá và phân tích rủi ro lãi suất một cách sâu sắc, toàn diện nhằm phát huy tối đa năng lực quản lý lãi suất, đồng thời hạn chế được những thiệt hại của nó gây ra cho ngân hàng nói riêng cũng như cho nền kinh tế - xã hội nói chung. Đó cũng chính là lý do mà em chọn đề tài: “Quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Cần Thơ” làm luận văn tốt nghiệp. CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU .1 1.1. Vấn đề nghiên cứu 1 1.1.1. Sự cần thiết nghiên cứu .1 1.1.2. Căn cứ khoa học thực tiễn .2 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3 1.2.1. Mục tiêu chung 3 1.2.2. Mục tiêu cụ thể 3 1.3. Phạm vi nghiên cứu 3 1.3.1. Không gian 3 1.3.2. Thời gian 3 1.3.3. Đối tượng nghiên cứu 4 CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .5 2.1. Phương pháp luận 5 2.1.1. Khái niệm rủi ro lãi suất 5 2.1.2. Tính chất rủi ro lãi suất 7 2.1.3. Các trường hợp xảy ra rủi ro lãi suất .8 2.1.4. Mô hình định giá lại trong đo lường rủi ro lãi suất .10 2.1.5. Một số khái niệm liên quan đến mô hình định giá lại .11 2.2. Phương pháp nghiên cứu 12 2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu 12 2.2.2. Phương pháp phân tích số liệu 12 CHƯƠNG 3: KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH CẦN THƠ .14 3.1. Quá trình hình thành và phát triển 14 3.2. Tình hình nhân sự và cơ cấu tổ chức .15 3.2.1. Tình hình nhân sự 15 3.2.2. Sơ đồ cơ cấu và tổ chức VCB Cần Thơ 15 3.2.3. Chức năng hoạt động của các phòng ban và phòng giao dịch 17 3.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của VCB Cần Thơ .20 3.3.1. Về công tác huy động vốn .20 3.3.2. Về công tác sử dụng vốn .20 3.3.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của VCB Cần Thơ 21 3.4. Những thuận lợi và khó khăn của VCB Cần Thơ 22 3.4.1. Thuận lợi 22 3.4.2. Khó khăn .22 CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH RỦI RO LÃI SUẤT TẠI NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM CHI NHÁNH CẦN THƠ .23 4.1. Phân tích tình hình rủi ro lãi suất tại Ngân hàng .23 4.1.1. Phân tích cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng 23 4.1.2. Phân tích sự biến động của nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất .28 4.1.3. Khái quát cơ cấu tài sản của Ngân hàng 32 4.1.4. Phân tích sự biến động của tài sản nhạy cảm với lãi suất .33 4.1.5. Phân tích thực trạng rủi ro lãi suất của ngân hàng TMCP Việt Nam chi nhánh Cần Thơ theo mô hình định giá lại .35 4.2. Dự báo mức thay đổi của lãi suất .47 CHƯƠNG 5: MỘT SỐ GIẢN PHÁP VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI VCB CẦN THƠ .54 5.1. Nhận xét về những mặt làm được và những mặt tồn tại trong công tác quản lý rủi ro lãi suất 54 5.2. Những giải pháp góp phần naamg cao hiệu quả của việc quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng 55 5.3. Một số biện pháp chủ yếu nhằm hạn chế rủi ro lãi suất tại Ngân hàng .57 CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .60 6.1. Kết luận .60 6.2. Kiến nghị .61 6.2.1. Đối với VCB Cần Thơ .61 6.2.2. Đối với ngân hàng Nhà nước Việt Nam 61 6.2.3. Đối với Nhà nước và chính quyền địa phương .62 TÀI LIỆU THAM KHẢO .64

doc76 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3475 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản trị rủi ro lãi suất tại ngân hàng tmcp ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng ở trạng thái nhạy cảm nguồn vốn. Nếu lãi suất tăng, tỷ lệ thu nhập lãi của Ngân hàng sẽ giảm vì thu từ lãi trên tài sản sẽ ít hơn chi phí trả lãi cho vốn huy động. Nếu các yếu tố khác không đổi thu nhập lãi của Ngân hàng sẽ giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất giảm khi Ngân hàng đang trong tình trạng nhạy cảm nguồn vốn thì tỷ lệ thu nhập lãi cận biên của Ngân hàng sẽ tăng vì thu nhập lãi trên tài sản sẽ giảm ít hơn chi phí trả lãi cho nguồn vốn. Như vậy thu nhập của Ngân hàng sẽ tăng. Bảng 8: Phân tích trạng thái nhạy cảm lãi suất của Ngân hàng qua 3 năm 2006 – 2008 Đơn vị tính: tỷ đồng CHỈ TIÊU 2006 2007 2008 Tài sản nhạy cảm lãi suất 2.027 1.706 1.602 - Tín dụng ngắn hạn 2.027 1.706 1.602 Nguồn vốn nhạy cảm lãi suất 2.154 1.964 1.753 1. Tiền gửi tiết kiệm cá nhân 222 323 398 - Không kỳ hạn 14 8 7 - Có kỳ hạn < 12 tháng 208 315 391 2. Tiền gửi các TCTD 36 20 18 - Không kỳ hạn 44 34 18 3. Tiền gửi của các tổ chức KT 366 428 579 - Không kỳ hạn 361 418 499 - Có kỳ hạn < 12 tháng 5 10 80 4. Giấy có giá 44 22 15 5. Vốn vay NH Hội sở 1.486 1.171 743 Chênh lệch GAP -127 -258 -151 Tỷ lệ tài sản trên nguồn vốn nhạy cảm lãi suất 0,94 0,86 0,91 Trạng thái của Ngân hàng Nhạy cảm nguồn vốn Nhạy cảm nguồn vốn Nhạy cảm nguồn vốn Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) sẽ giảm nếu: Lãi suất tăng Lãi suất tăng Lãi suất tăng (Nguồn: phòng Vốn VCB Cần Thơ) Trên thực tế, như chúng ta đã thấy ở trên, xét tại thời điểm năm 2006, nếu tổng giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất (ISA) là 2.027 tỷ đồng và giá trị nguồn vốn nhạy cảm lãi suất (ISL) là 2.162 tỷ đồng, khi đó chêch lệch GAP tuyệt đối là: IS GAP = ISA – ISL = 2.027 - 2.154 = -127 tỷ đồng Rõ ràng, ngân hàng có chênh lệch tuyệt đối âm biểu hiện tình trạng nhạy cảm nguồn vốn. Ta có tỷ lệ chênh lệch tài sản nhạy cảm tương đối: IS GAP tương đối = IS GAP / ISA = -127 / 2.027 = -0,06 Một chỉ số chênh lệch tương đối âm có nghĩa là Ngân hàng đang ở trong tình trạng nhạy cảm nguồn vốn. Cuối cùng, chúng ta có thể so sánh quy mô nhạy cảm lãi suất ISA với quy mô nguồn vốn nhạy cảm lãi suất ISL. Và đây cũng là hệ số rủi ro lãi suất: Bảng 9: Một số chỉ tiêu về rủi ro lãi suất của Ngân hàng Đơn vị tính: tỷ đồng KHOẢN MỤC 2006 2007 2008 Trạng thái nhạy cảm lãi suất Nhạy cảm nguồn vốn Nhạy cảm nguồn vốn Nhạy cảm nguồn vốn Chênh lệch GAP -127 -258 -151 IS GAP tương đối -0,06 -0,15 -0,09 Hệ số rủi ro lãi suất (ISR) 0,94 0,86 0,91 Qua bảng trên, chúng ta thấy rằng 3 năm qua, Ngân hàng ở trạng thái nhạy cảm nguồn vốn. Giá trị của chênh lệch nhạy cảm lãi suất có sự biến động khác nhau qua qua các năm, đó là do tình hình về tài sản nhạy cảm và nguồn vốn nhạy cảm lãi suất trong từng năm khác nhau. Năm 2007, tỷ lệ khe hở nhạy cảm tương đối giảm xuống -0,15 là do Ngân hàng tăng cường công tác huy động vốn làm cho khoản mục nguồn vốn nhạy cảm lãi suất lớn hơn so với tài sản nhạy cảm lãi suất. Năm 2008, tỷ lệ khe hở nhạy cảm tương đối của Ngân hàng tăng lên -0,09 đó là do Ngân hàng tăng cường công tác cho vay sản xuất kinh doanh và cho vay đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của các tổ chức kinh tế cá nhân. Bên cạnh đó, chúng ta thấy rằng Ngân hàng có hệ số rủi ro lãi suất (ISR) năm 2006 là 0,94; năm 2007 là 0,86; năm 2008 là 0,91. Chỉ khi tài sản nhạy cảm lãi suất cân bằng với nguồn vốn nhạy cảm lãi suất thì Ngân hàng được coi là không có rủi ro lãi suất. Trong trường hợp này, thu lãi từ danh mục tài sản và chi phí trả lãi sẽ thay đổi theo cùng một tỷ lệ. Khi đó, chênh lệch nhạy cảm lãi suất của Ngân hàng bằng 0 và tỷ lệ thu nhập lãi cận biên sẽ được bảo vệ cho dù lãi suất có thay đổi. Tuy nhiên trên thực tế, chênh lệch nhạy cảm lãi suất bằng 0 không loại trừ được hoàn toàn rủi ro lãi suất bởi vì lãi suất của tài sản và lãi suất của các khoản nợ không ràng buộc chặt chẽ với nhau. Ví dụ như lãi suất cho vay luôn thay đổi chậm hơn lãi suất huy động từ thị trường tiền tệ. Vì vậy thu từ lãi của Ngân hàng sẽ có xu hướng tăng chậm hơn chi phí trả lãi. 0 -50 -100 -150 -200 -250 2006 2007 2008 -127 -258 -151 Hình 4: Chênh lệch GAP của Ngân hàng qua 3 năm Tại VCB Cần Thơ, nhà quản lý luôn cố gắng tương đồng danh mục tài sản nhạy cảm lãi suất và danh mục nguồn vốn nhạy cảm lãi suất cho mỗi thời hạn nhằm tăng khả năng đạt được những mục tiêu lợi nhuận mà Ngân hàng đã đề ra. Bảng 10: Chi lãi của Ngân hàng qua 3 năm 2006 - 2008 NGUỒN VỐN 2006 2007 2008 Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất (%/năm) Chi về lãi suất Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất (%/năm) Chi về lãi suất Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất (%/năm) Chi về lãi suất 1. Tiền gửi tiết kiệm cá nhân 222 14,364 323 3,464 398 50,845 - Không kỳ hạn 14 2,76 0,386 8 3,00 0,240 7 3,00 0,210 - Có kỳ hạn < 12 tháng 208 6,72 13,978 315 7,42 3,224 391 12,95 50,635 2. Tiền gửi các TCTD 36 0,432 20 0,240 18 0,216 - Không kỳ hạn 36 1,20 0,432 20 1,20 0,240 18 1,2 0,216 3. Tiền gửi của các tổ chức KT 366 10,300 428 11,544 579 22,159 - Không kỳ hạn 361 2,76 9,964 418 2,60 10,868 499 2,48 12,375 - Có kỳ hạn < 12 tháng 5 6,72 0,336 10 6,76 0,676 80 12,23 9,784 4. Giấy có giá 44 8,40 3,696 22 10,2 2,244 15 15,45 2,318 5. Vốn vay NH Hội sở 1.486 9,00 133,740 1.171 7,08 82,907 743 13,44 99,859 Tổng khoản mục nhạy cảm lãi suất 2.154 162,532 1.964 100,399 1.753 175,397 Tổng khoản mục có lãi suất cố định 78,468 46,601 162,603 Tổng chi phí lãi 241 147 338 (Nguồn: phòng Vốn VCB Cần Thơ) Bảng 11 : Thu từ lãi của Ngân hàng qua 3 năm 2006 - 2008 TÀI SẢN 2006 2007 2008 Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất (%/năm) Thu từ lãi suất Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất (%/năm) Thu từ lãi suất Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất (%/năm) Thu từ lãi suất 1. Tiền gửi tại NHNN 34,3 10,3 22 2. Tiền mặt tại quỹ 12,5 30,2 33,5 4. Chứng khoán dài hạn 0,1 0,1 0,1 5. Cho vay 2.282 180,852 2.055 224,919 1.885 293,051 - Ngắn hạn 2.027 16,60 136,482 1.706 10,68 182,201 1.602 15,60 249,912 - Trung và dài hạn 255 17,40 44,370 349 12,24 42,718 242,9 17,76 43,139 6. TSCĐ và trang thiết bị máy móc 10,6 19,4 27,2 Tổng khoản mục nhạy cảm lãi suất 2.027 136,482 1.706 182,201 1.602 249,912 Tổng khoản mục có lãi suất cố định 136,518 19,799 107,088 Tổng thu từ lãi 273 202 357 (Nguồn: phòng Kế Toán VCB Cần Thơ) Qua hai bảng số liệu trên, ta thấy cơ cấu các khoản mục tài sản và nguồn vốn nhạy cảm lãi suất của Ngân hàng qua 3 năm là khác nhau, nhưng nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến thu nhập thuần từ lãi của Ngân hàng lại chính là lãi suất. Lãi suất của VCB Cần Thơ có xu hướng tăng dần qua 3 năm, cả về lại suất huy động và lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay của Ngân hàng năm 2007 có phần giảm so với năm 2006, giảm từ 16,6%/năm còn 10,68%/năm (năm 2007), điều này là do Ngân hàng áp dụng chính sách cho vay ưu đãi đối với cá nhân cũng như với doanh nghiệp sản xuất. Nhưng năm 2008 lãi suất lại tăng lên 15,6%/ năm là do yếu tố lạm phát tác động vào. Tuy vậy, thu nhập thuần từ lãi của Ngân hàng cũng tăng lên đáng kể vào năm 2007, đạt 55 tỷ đồng tăng 23 tỷ đồng tương ứng 71,88%, điều này là do doanh số cho vay tăng lên cao khi lãi suất của Ngân hàng giảm xuống. Nhìn chung, Ngân hàng đã làm tốt công tác huy động vốn và cho vay khi áp dụng mức lãi suất cho vay thấp. Và năm 2008 là năm khó khăn nhất đối với các Ngân hàng Thương mại, đáng chú ý là những biến động của lãi suất và những chính sách liên quan diễn ra quá nhanh. Các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất để thu hút khách hàng cũng như giữ chân khách hàng thân thiết. Lãi suất tăng cao làm cho huy động vốn tăng nhanh hơn cho vay nên thu nhập thuần từ lãi của Ngân hàng giảm xuống còn 19 tỷ đồng giảm 36 tỷ so với năm 2007 tương đương 65,45% do lãi suất huy động của Ngân hàng tăng cao nhưng lãi suất cho vay lại tăng chậm hơn. Trong bảng cơ cấu tài sản của Ngân hàng thì khoản mục cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất nên khi lãi suất này thay đổi, nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập thuần từ lãi của Ngân hàng. Vì thế rủi ro từ lãi suất của các ngân hàng là rất lớn. Nếu lãi suất thị trường tăng và lãi suất cho vay, lãi suất huy động tăng cùng mức độ thì thu nhập thuần từ lãi sẽ giảm do chi phí tiền lãi huy động nguồn vốn cao hơn doanh thu từ lãi hay ngân hàng đang trong tình trạng nhạy cảm nợ. Nếu lãi suất thị trường giảm và lãi suất cho vay, lãi suất huy động giảm cùng mức độ thì thu nhập thuần từ lãi sẽ tăng do chi phí tiền lãi huy động vốn nhỏ hơn doanh thu từ lãi. Để có thể nhận xét rõ hơn việc ảnh hưởng của sự biến động lãi suất đến thu nhập của ngân hàng, chúng ta sẽ phân tích bảng kết cấu tài sản của VCB Cần Thơ phân nhóm theo khoản mục nhạy cảm lãi suất. Khi đó, trong trường hợp tăng hoặc giảm lãi suất, thu nhập của Ngân hàng sẽ thay đổi theo. Để hiểu rõ hơn vấn đề, chúng ta hãy xem xét các bảng số liệu sau đây: Bảng 12: Phân tích Tài sản – Nguồn vốn phân nhóm theo khoản mục nhạy cảm lãi suất TÀI SẢN 2006 2007 2008 Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất cho vay trung bình (%/năm) Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất cho vay trung bình (%/năm) Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất cho vay trung bình (%/năm) Khoản mục nhạy cảm lãi suất 2.027 16,60 1.706 10,68 1.602 15,60 Khoản mục có lãi suất cố định 255 17,04 349 12,24 242,9 17,76 NGUỒN VỐN Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất huy động trung bình (%/năm) Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất huy động trung bình (%/năm) Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất huy động trung bình (%/năm) Khoản mục nhạy cảm lãi suất 2.154 5,37 1.964 5,46 1.753 8,68 Khoản mục có lãi suất cố định 122 8,64 125 8,76 151 11,94 Thu nhập thuần từ lãi 253,72 106,73 122,86 (Nguồn: phòng Vốn VCB Cần Thơ) Bảng 13: Phân tích Tài sản – Nguồn vốn phân nhóm theo khoản mục nhạy cảm lãi suất khi lãi suất tăng 1% TÀI SẢN 2006 2007 2008 Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất cho vay trung bình (%/năm) Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất cho vay trung bình (%/năm) Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất cho vay trung bình (%/năm) Khoản mục nhạy cảm lãi suất 2.027 17,60 1.706 11,68 1.602 16,60 Khoản mục có lãi suất cố định 255 18,04 349 13,24 242,9 18,76 NGUỒN VỐN Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất huy động trung bình (%/năm) Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất huy động trung bình (%/năm) Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất huy động trung bình (%/năm) Khoản mục nhạy cảm lãi suất 2.154 6,37 1.964 6,46 1.753 9,68 Khoản mục có lãi suất cố định 122 9,64 125 9,76 151 12,94 Thu nhập thuần từ lãi 253,78 106,39 122,27 (Nguồn: phòng Vốn VCB Cần Thơ) Bảng 14: Phân tích Tài sản – Nguồn vốn phân nhóm theo khoản mục nhạy cảm lãi suất khi lãi suất tài sản tăng 0,5% và lãi suất nguồn vốn tăng 1,5% TÀI SẢN 2006 2007 2008 Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất cho vay trung bình (%/năm) Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất cho vay trung bình (%/năm) Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất cho vay trung bình (%/năm) Khoản mục nhạy cảm lãi suất 2.027 17,1 1.706 11,18 1.602 16,1 Khoản mục có lãi suất cố định 255 17,54 349 12,74 242,9 18,26 NGUỒN VỐN Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất huy động trung bình (%/năm) Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất huy động trung bình (%/năm) Số tiền (tỷ đồng) Lãi suất huy động trung bình (%/năm) Khoản mục nhạy cảm lãi suất 2.154 6,87 1.964 6,96 1.753 10,18 Khoản mục có lãi suất cố định 122 10,14 125 10,26 151 13,44 Thu nhập thuần từ lãi 230,99 85,67 103,52 (Nguồn: phòng Vốn VCB Cần Thơ) Bảng 15: Tổng hợp thu nhập thuần từ tiền lãi của VCB Cần Thơ khi lãi suất biến động Đơn vị tính: tỷ đồng CHỈ TIÊU 2006 2007 2008 Khi lãi suất chưa biến động 253,72 106,73 122,70 Khi lãi suất tăng 1% 253,78 106,39 122,27 Khi lãi suất tăng không cùng mức độ 230,99 85,67 103,52 Do 3 năm 2006 – 2008, VCB Cần Thơ có trạng thái nhạy cảm về nguồn vốn. Nếu như không xét đến các khoản chi phí và thu nhập ngoài lãi suất khác thì khi lãi suất thị trường tăng 1% cho cả hai khoản mục tài sản và nguồn vốn, thu nhập thuần từ tiền lãi của Ngân hàng sẽ tăng ít hơn chi phí về lãi suất, từ đó làm cho thu nhập từ lãi giảm xuống. Lúc này Ngân hàng sẽ phải chịu rủi ro lãi suất và chấp nhận lỗ một khoản tiền bằng hiệu số chêch lệch của thu nhập thuần từ lãi khi lãi suất chưa biến động và khi lãi suất tăng 1%. Nếu như lãi suất của tài sản nhạy cảm tăng 0,5% và lãi suất của khoản mục nguồn vốn tăng 1,5% thì Ngân hàng sẽ nhận được mức thu nhập thuần từ tiền lãi sẽ nhỏ hơn 2 trường hợp trên. Cụ thể, năm 2006 là 230,99 tỷ đồng lỗ 22,73 tỷ đồng, năm 2007 là 85,67 tỷ đồng lỗ 21,06 tỷ đồng, năm 2008 là 103,52 tỷ đồng lỗ 19,18 tỷ đồng so với khi chưa có biến động lãi suất. Như vậy, khi Ngân hàng đang ở trong trạng thái nhạy cảm nguồn vốn, lãi suất tăng nhưng không cùng mức độ dẫn đến sự chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là 1%, đặc biệt là khi lãi suất huy động tăng nhanh hơn lãi suất cho vay thì thu nhập thuần từ tiền lãi của Ngân hàng sẽ giảm. Qua việc phân tích này, chúng ta có thể thấy được ảnh hưởng rất lớn của lãi suất đên lợi nhuận của Ngân hàng. Do đặc diểm của ngân hàng vừa là người đi vay và vừa là người cho vay nên khi lãi suất thay đổi, ngân hàng có thể chịu rủi ro về cả hai bên tài sản và nguồn vốn. Do vậy, Nhà quản trị Ngân hàng cần phải xem xét và quyết định chấp nhận hay đối phó rủi ro này bằng những chiến lược phòng ngừa hoặc bằng những công cụ phù hợp để đem lại hiệu quả cao trong hoạt động của Ngân hàng. 4.2. DỰ BÁO MỨC THAY ĐỔI CỦA LÃI SUẤT Lãi suất là một biến số kinh tế nhạy cảm và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau, biến số quan trọng này được theo dõi chặt chẽ trong nền kinh tế. Lãi suất còn tác động trực tiếp đến nhiều mối quan hệ trong nền kinh tế liên quan trực tiếp đến các lợi ích vật chất trong xã hội. Do đó, nó cũng đồng thời tác động đến đời sống của con người. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, vai trò của lãi suất đã bị xem nhẹ và còn được hiểu như sự phân chia cuối cùng của sản xuất và người sản xuất, hay người đầu tư về vốn và người cho vay. Còn trong nền kinh tế thị trường thì vai trò của lãi suất đã có sự thay đổi, lãi suất trong nền kinh tế thị trường đã được khẳng định là giá cả để vay mượn hoặc thuê những dịch vụ tiền có liên quan đến việc tạo ra tín dụng, do đó người ta có thể coi lãi suất là giá cả của thị trường. Hiện nay, trong cá tổ chức tín dụng đang tồn tại nhiều loại lãi suất khác nhau gây khó khăn trong quản lý và theo dõi lãi suất, sự chênh lệch lãi suất giữa nông thôn và thành thị còn khá cao. Đối với nền kinh tế Việt Nam từ khi chuyển mình từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lãi suất trở thành công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước. Lãi suất đã góp phần kiềm chế lạm phát cũng như kích thích tăng trưởng và phát triển kinh tế trong công cuộc đổi mới của đất nước. Thực tiễn đã cho thấy, do những chính sách không phù hợp, mặc cho nền kinh tế Việt Nam có tăng trưởng nhưng vẫn đi vào ngõ cụt và không có cách nào vực lên được. Thực tiễn cũng đã chứng minh với chính sách đúng đắn về lãi suất đã giải quyết được vấn đề về lạm phát từ những năm cuối thập niên 1980 từ lạm phát 3 con số xuống còn 2 số, riêng năm 1993 tỉ lệ lạm phát chỉ còn một chữ số mức thấp nhất trong lịch sử điều tiết lãi suất ở Việt Nam. Lãi suất cơ bản được thực hiện từ ngày 1 tháng 10 năm 1998 cho đến nay nhưng thực ra không còn ý nghĩa nữa. Vì các tổ chức tín dụng huy động vốn với lãi suất cố định nhưng lại cho vay theo lãi suất thỏa thuận từ ngày 1/6/2002. Điều này đã tạo ra rủi ro lãi suất rất lớn mà ngân hàng Nhà nước đã cảnh báo các tổ chức tín dụng từ trước. Bên cạnh đó, cuộc chạy đua lãi suất của các ngân hàng đang diễn ra trên đà nóng hổi. Đặc biệt là trong năm 2008 vừa qua, Ngân hàng An Bình (ABBank) là nhà băng đầu tiên "nổ pháo" cho đợt tăng lãi suất huy động VND trong năm 2008. Đầu tháng 1, ngân hàng này điều chỉnh mức tăng cao nhất 0,48% mỗi năm với lãi hàng quý cho tất cả kỳ hạn. Với kỳ hạn 24 tháng, lãi suất 9,12%, cộng thêm lãi suất cuối kỳ khi gửi 2 tỷ đồng trở lên, người gửi tiền có thể hưởng tối đa 10,34% mỗi năm. Đến cuối tháng 1,ABBank lại tiếp tục đẩy lãi suất lên thêm 0,3- 0,78% mỗi năm. Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB) cũng thông báo nâng lãi suất huy động tiền đồng lên 0,78% cho kỳ hạn 6 tháng cho miền bắc và miền nam, 0,795% cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Dong A Bank cũng thông báo tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm VND dành cho khách hàng cá nhân với mức tăng bình quân 0,06% mỗi tháng. Đây là lần thứ hai kể từ đầu năm 2008 Dong A Bank tăng lãi suất tiết kiệm VND, hai lần chỉ cách nhau 35 ngày. Ngày trong ngày 15/2, Eximbank cũng nhập cuộc đua tăng lãi suất gửi VND với mức điều chỉnh 0,07% mỗi tháng, ở tất cả kỳ hạn. Góp mặt trong danh sách đua tăng lãi suất này còn có Techcombank với mức tăng 0,2-0,35% mỗi năm, trong đó mạnh nhất ở kỳ hạn 12 tháng lên 9,6%. Biểu lãi suất mới của Ngân hàng Phương Đông (OCBank) cũng được điều chỉnh tăng thấp nhất 0,01% mỗi tháng. Đó là sự biến động khó lường của lãi suất kéo dài gần kín cả năm. Từ dưới 10%/năm, lãi suất huy động VND vọt lên trên 19%/năm. Và ở đỉnh điểm, lãi suất cho vay tối đa bị chốt lại ở lãi suất trần là 21%/năm. Lãi suất huy động phổ biến của các ngân hàng thương mại nhà nước là từ 17,5%/năm đến 17,8%/năm, lãi suất huy động phổ biến của các ngân hàng thương mại cổ phần là từ 17,5%/năm đến 18,5%/năm. Mức thấp nhất trong năm 2008 và giảm 8,25%/năm so với thời điểm cao nhất cuối tháng 6-2008 (21%/năm). Cạnh tranh cũng là yếu tố gắn liền với kinh doanh, học thuyết tư bản xem cạnh tranh là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của bất cứ lĩnh vực nào. Cạnh tranh sẽ tạo tính tự chủ cao, linh hoạt trong kinh doanh. Ngân hàng cũng không khác gì các doanh nghiệp hoạt động với hình thức đi vay và cho vay thì yếu tố cạnh tranh lại càng quan trọng hơn để các nhà quản lý có chiến lược phù hợp đem lại hiệu quả hoạt động cao cho ngân hàng của mình. Các ngân hàng chạy đua lãi suất với nhau để có được nguồn vốn phục vụ cho doanh nghiệp và cá nhân, tăng thị phần của mình. Đó là góp phần cho sự phát triển của xã hội cũng như hoạt động kinh doanh của chính mình. Trước xu thế chạy đua quyết liệt về lãi suất của các ngân hàng trên cùng địa bàn thì VCB Cần Thơ cũng có những chiến lược cạnh tranh về lãi suất cho bản thân. Bên cạnh đó thì công tác quản lý rủi ro lãi suất cũng được chú trọng. Đi vay để cho vay là đặc thù chính của ngân hàng, để thu được lợi nhuận từ lãi suất cao thì các ngân hàng phải tối đa hóa độ chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào của ngân hàng mình. Do đó, việc tính toán lãi suất đầu vào – đầu ra sao cho hợp lý là vô cùng cần thiết. Trong nhiều năm qua, Ngân hàng đã cố gắng dự báo xu hướng vận động trong tương lai của lãi suất thị trường nhằm hạn chế rủi ro lãi suất. Tuy nhiên, trên thực tế lãi suất được hình thành thành do sự tương tác giữa hàng nghìn lực lượng cung cầu trên thị trường nên rất khó có thể đạt được một dự báo chính xác. Trong đề tài này chúng ta sẽ dự báo lãi suất đầu vào và đầu ra của VCB Cần Thơ theo phương pháp bình phương bé nhất. Bảng 16: Dự báo sự biến động của lãi suất huy động và cho vay tại VCB Cần thơ theo phương pháp bình phương bé nhất THÁNG Lãi suất huy động (%/năm) Lãi suất cho vay (%/năm) 1/2009 7,79 12,72 2/2009 8,15 13,00 3/2009 8,33 13,28 4/2009 8,51 13,56 5/2009 8,69 13,84 6/2009 8,87 14,12 7/2009 9,05 14,40 8/2009 9,23 14,68 Kết quả của dự báo cho thấy lãi suất huy động và cho vay trong tương lai có xu hướng tăng dần, đến tháng 8 năm 2009 là 9,23% và 14,68%. Trong năm qua có quá nhiều biến động của lãi suất mà dự báo trên lại dựa vào lãi suất của năm 2008 nên kết quả trên chỉ dừng lại ở mức độ dự báo mà thôi. Còn trong tương lai, ngân hàng chắc chắn có những biện pháp, nghiệp vụ để phòng ngừa rủi ro cho Ngân hàng mình. Những diễn biến trên về tình hình diễn biến lãi suất khiến cho công tác dự báo lãi suất của các ngân hàng nói chung và ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Các nhân tố tác động đến lãi suất không chỉ có cung cầu của quỹ cho vay hay thu nhập và giá cả mà còn có ảnh hưởng của nhân tố lam phát, tình hình kinh tế chính trị thế giới và cả sự cạnh tranh của các ngân hàng với nhau. - Về cung cầu quỹ cho vay: Tiền là thứ để trao đổi lấy hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn bản thân và mang tính dễ thu nhận, nghĩa là mọi người đều sẵn sàng chấp nhận sử dụng. Cho nên ai cũng muốn nắm giữ tiền vì nhiều mục đích thanh khoản khác nhau gồm cả các nhu cầu giao dịch, phòng ngừa và đầu cơ đồng tiền (gửi tiền để lấy lãi). Tuy nhiên những thay đổi của lãi suất có thể làm thay đổi sự mong muốn giữ lấy tiền của các cá nhân. Nếu lãi suất được dự tính sẽ tăng lên thì tiền và những tài sản gần giống như tiền được ưa chuộng hơn nhằm tránh sự giảm giá trái phiếu tiềm tàng trong tương lai. Nếu lãi suất được dự tính là sẽ giảm thấp xuống trong tương lai thì trái phiếu được chuộng nhiều hơn, bởi vì việc nắm giữ một số tiền mặt nhàn rỗi sẽ sinh lời ít hơn, trái phiếu có mức sinh lời cao hơn và có tiềm năng thu lợi trong tương lai bởi vì lãi suất bị xuống thấp. Qua đó, ta thấy lượng cung và cầu trên tác động trực tiếp đến lãi suất. - Tác động của thu nhập: Do nền kinh tế phát triển và phồn vinh nên người dân có thu nhập tăng lên, của cải tăng lên và người dân muốn giữ tiền làm phương tiện dự trữ. Ở Việt Nam, Chính phủ đã điều chỉnh mức lương cơ bản làm tăng thu nhập của người dân, điều này kéo theo mức giá của các loại hàng hóa tăng lên gây tác động đến tâm lý người dân, mức tiêu dùng và gián tiếp ảnh hưởng đến lượng cầu tiền tệ trên thị trường làm cho lãi suất gia tăng. - Tác động của mức giá: Trong xã hội thì ai cũng muốn nắm giữ một lượng tiền nhất định để đáp ứng nhu cầu về vật chất cho mình. Khi giá cả tăng, dân chúng muốn nắm giữ một lượng tiền lớn hơn để có thể mua đúng với số hàng hóa và dịch vụ cung ứng như trước. Như vậy, khi mức giá tăng lên sẽ làm cho lượng cầu tiền tệ tăng lên từ đó kéo theo sự biến động của lãi suất thị trường. Đối với hoạt động của ngân hàng, việc cạnh tranh về giá là một nguyên nhân quan trọng quyết định sự thay đổi lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Sự gia tăng lãi suất này tác động tới quyết định tiêu dùng của khu vực hộ gia đình theo hướng giảm tiêu dùng hiện tại và tăng tiết kiệm để cho tiêu dùng trong tương lai. Đối với khu vực doanh nghiệp, sự gia tăng lãi suất làm tăng chi phí vốn vay ngân hàng. Điều này đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay ngân hàng phải có tỷ lệ lợi nhuận lớn hơn và kết quả là số dự án đầu tư có thể thực hiện với mức lãi suất cao hơn này có thể giảm hay nói cách khác, đầu tư cố định có thể giảm. Ngoài ra, lãi suất cao cũng làm tăng chi phí lưu giữ vốn lưu động (ví dụ như hàng trong kho) và do vậy, tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm đầu tư dưới dạng vốn lưu động. Trong dịch vụ ngân hàng bán lẻ và dịch vụ thanh toán, duy trì giá thấp không phải là một chiến lược mang lại lợi thế cạnh tranh lâu dài vì: không phải lúc nào khách hàng cũng nhạy cảm với giá. Sản phẩm ngân hàng như tiền gửi, cho vay, mức lãi suất bao gồm cả rủi ro. Các ngân hàng có độ tín nhiệm thấp luôn duy trì mức lãi suất tiền gửi cao hơn các ngân hàng có độ tín nhiệm cao. Ngoài ra, các đối thủ cạnh tranh hoàn toàn có thể điều chỉnh giá của mình. Đối với ngân hàng có cơ cấu chi phí cao, hoặc trong môi trường cạnh tranh gay gắt thì ngân hàng khó có thể duy trì chính sách giá thấp trong thời gian dài. Tuy nhiên các ngân hàng muốn thâm nhập thị trường có thể dùng chính sách giá thấp. Nhưng bù lại, họ cần phải đạt được một doanh số đáng kể, hoặc bán được các dịch vụ khác kèm theo. Sức ép về cạnh tranh và sự biến động liên tục về lãi suất trên thị trường khiến cho ngân hàng phải thường xuyên xem xét và điều chỉnh mức giá của mình. - Tác động của chính sách tiền tệ: Ngày nay, sứ mệnh của hầu hết các ngân hàng Trung ương trên thế giới là chịu trách nhiệm xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia thông qua các công cụ và giải pháp nhằm đạt tới các mục tiêu chính sách đã đề ra. Chịu trách nhiệm về sự vận hành trôi chảy của hệ thống thanh toán và sự bình ổn của hệ thống tài chính và ngân hàng Trung ương là người cho vay cứu cánh cuối cùng. Vì vậy, mục tiêu hoạt động đầu tiên và cũng là quan trọng nhất của ngân hàng Trung ương là mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước đó là ổn định giá trị đồng bản tệ, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ngoài các mục tiêu vĩ mô này, tuỳ thuộc vào trạng thái của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, các ngân hàng Trung ương còn có thể lựa chọn cho mình thêm một số mục tiêu cụ thể khác. Những thay đổi về lãi suất trong thị trường tiền tệ tác động lên lãi suất trên thị trường vốn và ngược lại. Lãi suất trong thị trường tiền tệ giảm thấp khiến lãi suất trong thị trường vốn hấp dẫn hơn so với lãi suất trong thị trường tiền tệ. Hậu quả là dân chúng sẽ chuyển dịch quỹ từ thị trường tiền tệ sang thị trường vốn. Mức cung của quỹ từ thị trường vốn gia tăng có chiều hướng làm giảm thấp lãi suất trong thị trường vốn. Mức cung của quỹ từ thị trường tiền tệ giảm sút sẽ có chiều hướng tăng cao lãi suất trong thị trường tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước giữ vai trò rất quan trọng trong chính sách tiền tệ, thông qua chính sách này nhà nước thực hiện việc điều chỉnh thị trường tiền tệ một cách tôt nhất tạo sự bình ổn cho thị trường. Trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt nhằm ổn định lãi suất và tỷ giá, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhà nước sử dụng các công cụ tỷ giá, lãi suất sẽ tác động mạnh mẽ đến hoạt động của ngân hàng. - Tác động của lạm phát: Lạm phát là sự mất đi sức mua hay giá trị nội tại của một loại bản tệ (ở đây là đồng Việt Nam). Lãi suất thực của tiền tiết kiệm - hiệu số giữa lãi suất danh nghĩa và mức lạm phát - trở nên giá trị âm. Hơn nữa, sự thay đổi không mong đợi của tỷ lệ lạm phát sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch, ngăn cản sự tăng trưởng và đổi mới doanh nghiệp. Tỷ lệ lạm phát thường có một tác động rất mạnh mẽ lên mức lãi suất. Trong điều kiện lạm phát, lãi suất thực là tiêu chuẩn để xem xét hiệu suất của việc sử dụng vốn. Lãi suất thực đóng vai trò rất quan trọng trong việc kích thích tiết kiệm và đầu tư. Với ý nghĩa kiềm chế ý muốn tiêu dùng trong hiện tại để có một tiêu dùng lớn trong tương lai. Tác động của lạm phát sẽ làm cho người ta phải tính toán thận trọng và luôn gây ra một nỗi ám ảnh và một nỗi lo ngại về một sự tổn thất khi phải đưa vốn vào cho vay, do đó xu hướng găm giữ tiền lại hoặc chuyển sang thị trường tài sản ngày càng phát triển cùng với mức tăng của lạm phát. Lạm phát lên cao, giá trị thực của những khoản tiền lời gần như bị triệt tiêu và giá trị thực của vốn gốc đã bị hao mòn. Những người có khả năng cho vay chuyển vốn tiền tệ ấy vào một thị trường khác, dĩ nhiên không phải là thị trường tiền tệ mà là thị trường tài sản như hàng hóa dự trữ, vàng, bất động sản hoặc các hàng hóa lâu bền khác. Trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta kiềm giữ lạm phát ở một tỷ lệ mong đợi nhưng với sự gia tăng của giá nguyên vật liệu, giá dầu, giá vàng,…chỉ số tiêu dung CPI cũng tăng làm lạm phát cũng tăng theo, mà lãi suất biến động cùng chiều với tỷ lệ lạm phát do đó lãi suất thị trường tăng lên là điều không thể tránh khỏi. - Tình hình kinh tế- xã hội: Tình hình kinh thế thới giới trong những năm qua đã có nhiều tác động làm cho lãi suất tăng cao. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Feb) tăng lãi suất liên tục khiến lãi suất USD của các ngân hàng trong nước tăng, nhiều yếu tố khác làm cho lạm phát tăng, giá cả nguyên vật liệu đầu vào khác cũng tăng theo. Các ngân hàng đã tăng lãi suất lên để giữ chân khách hàng của mình, từ đó đã dẫn đến cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng. Qua việc phân tích các yếu tố trên, ta thấy được tính phức tạp của thị trường nên dự báo lãi suất chỉ mang tính tương đối. Chúng ta phải hết sức thận trọng khi khái quát hóa mối quan hệ giữa lãi suất thị trường và thu nhập của ngân hàng, cũng như trong việc dự báo sự biến động của lãi suất. Các nhà quản trị ngân hàng muốn dự báo chính xác về lãi suất cần phải có khả năng dự báo những thay đổi của thị trường đối với tất cả các nhân tố cấu thành nên lãi suất đã được đề cập ở trên. CHƯƠNG 5 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI VCB CẦN THƠ 5.1. NHẬN XÉT VỀ NHỮNG MẶT LÀM ĐƯỢC VÀ NHỮNG MẶT TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT Trong hoạt động ngân hàng, vấn đề quản trị rủi ro lãi suất là rất phức tạp. Trước tình hình biến động của lãi suất, các ngân hàng Thương mại Việt Nam nói chung và VCB Cần Thơ nói riêng đã thực hiện một số biện pháp nhằm hạn chế rủi ro lãi suất. Tuy có nhiều khó khăn nhưng Ngân hàng đã làm được những mặt tích cực trong công tác quản lý rủi ro lãi suất cơ bản như sau: Trước sự diễn biến phức tạp của lãi suất trong năm qua, VCB Cần Thơ đã có sự quan tâm đặc biệt đến việc quản trị rủi ro lãi suất. Cụ thể là Ngân hàng luôn làm tốt những quy định về lãi suất huy động và lãi suất cho vay mà ngân hàng Ngoại thương Việt Nam gửi điện báo. Bên cạnh đó, Ngân hàng luôn chú trọng điều chỉnh lãi suất đầu vào, đầu ra một cách hợp lý theo sự biến động của lãi suất thị trường. Công tác quản lý tài sản và nguồn vốn của Ngân hàng cũng không ngừng được quan tâm hơn. Và kết quả là Ngân hàng đã duy trì cho mình một cơ cấu hợp lý giữa tài sản nhạy cảm và nguồn vốn nhạy cảm lãi suất. Với hệ số rủi ro lãi suất của 3 năm 2006 – 2008 là nhỏ hơn và gần bằng 1, Ngân hàng duy trì trạng thái nhạy cảm lãi suất. Tỷ lệ này tương đối tốt vì khi lãi suất thị trường thay đổi thì khoản chênh lệch giữa hai khoản mục tài sản và nguồn vốn nhạy cảm lãi suất là thấp. Đặc biệt, VCB Cần Thơ thực hiện công tác huy động vốn trong xã hội rất có hiệu quả và sử dụng chúng để đầu tư sinh lời cho Ngân hàng. Mặc dù, chịu sự cạnh tranh gay gắt từ phía ngân hàng khác trên địa bàn, nhưng thương hiệu VCB Cần Thơ luôn đáng tin cậy, chất lượng và uy tín. Trong năm qua, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng nhận được một số giải thưởng đáng chú ý như: giải thưởng “Ngân hàng quản lý tiền mặt tốt nhất năm 2008 tại Việt Nam” của tạp chí Asiamoney do các doanh nghiệp bình chọn. Tổng giám đốc Ngân hàng là Nguyễn Phước Thanh đã vinh dự được trao Giải thưởng "Nhà lãnh đạo xuất sắc trong lĩnh vực bán lẻ 2008". Những năm qua, đặc biệt là thời gian gần đây, Vietcombank luôn đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ. Các sản phẩm và dịch vụ của Vietcombank cung ứng luôn được khách hàng đón nhận nồng nhiệt. Nhiều hoạt động, sản phẩm, dịch vụ của Vietcombank vừa là đầu tàu tiên phong, vừa có yếu tố cạnh tranh thúc đẩy các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác đầu tư, nghiên cứu để cho ra những sản phẩm mới. Thị trường hoạt động ngân hàng bán lẻ luôn sôi động và đang là mục tiêu vươn tới không chỉ của các ngân hàng nội địa mà của cả các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh. Ngân hàng còn nhận giải thưởng và Cúp Vàng “Công ty cổ phần hàng đầu Việt Nam”,…Bên cạnh những mặt đã làm được, VCB Cần Thơ còn tồn tại một số vấn đề sau: Trong nhận định về rủi ro lãi suất, Ngân hàng chỉ dừng lại ở nhận định là Ngân hàng có rủi ro lãi suất khi lãi suất thị trường thay đổi, nhưng chưa đo lường, đánh giá cụ thể mức rủi ro lãi suất là bao nhiêu, lãi suất biến động theo chiều hướng nào sẽ gây thiệt hại cho Ngân hàng. Cũng như chưa có một chính sách quản lý rủi ro lãi suất, chưa có quy định cụ thể và những nội dung cần thực hiện trong quá trình quản lý rủi ro. Do chưa thực hiện việc lượng hóa rủi ro vì chưa có đủ điều kiện cần thiết nên các biện pháp mà Ngân hàng đã sử dụng để kiểm soát rủi ro này là dựa trên cảm tính và kinh nghiệm. Ngân hàng chưa thực hiện một cách toàn diện những biện pháp cần thiết để phòng ngừa rủi ro lãi suất. Cụ thể, về các biện pháp nội bảng, chủ yếu Ngân hàng chỉ mới áp dụng chính sách lãi suất thả nổi cho vay trung và dài hạn mà chưa có biện pháp tích cực để duy trì sự cân xứng về kỳ hạn của tài sản và nguồn vốn. Về các biện pháp ngoại bảng cho đến nay hầu hết các ngân hàng chưa ứng dụng các nghiệp vụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất. 5.2. NHỮNG GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI NGÂN HÀNG Trong thời gian qua, tuy các ngân hàng đã đưa ra nhiều phương pháp đo lường rủi ro nhưng nhìn chung vẫn còn yếu kém và rất hạn chế. Đây sẽ là bất lợi đối với lĩnh vực tài chính khi bước vào ngưỡng cửa hội nhập. Năm 2007, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép mở chi nhánh tại Việt Nam. Do vậy, nếu các ngân hàng trong nước không có sự chuẩn bị kỹ về mọi mặt e rằng khó có thể tồn tại. Bởi ngoài vốn, chất lượng dịch vụ, mạng lưới hoạt động,… quản trị rủi ro được xem là một trong những yếu tố hàng đầu để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển tốt nhất đối với các Ngân hàng Thương mại Cổ phần. Để hạn chế những rủi ro về lãi suất, theo các chuyên gia tài chính ở cấp độ cơ bản nhất, các ngân hàng cần sử dụng những phương pháp tái định giá để đo lường rủi ro. Đồng thời, ngân hàng cần lưu ý trong việc định giá và có những cá nhân chuyên về quản trị rủi ro để kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Vì thế, Ngân hàng nên lựa chọn và đào tạo những cán bộ am hiểu một cách toàn diện về rủi ro lãi suất. Nếu có thể nên thành lập một bộ phận chuyên đo lường, dự báo và quản trị rủi ro lãi suất. Hiện nay, vấn đề rủi ro lãi suất còn khá mới mẻ đối với cán bộ nhân viên các ngân hàng trong nước, nên việc nhận biết và đánh giá rủi ro lãi suất còn hạn chế. Để xác định được một cách chính xác những tác động này, đòi hỏi cán bộ Ngân hàng phải thật sự am hiểu về quản lý tài sản và nguồn vốn của ngân hàng, đồng thời phải có những kiến thức nhất định về tài chính để nắm vững những kỹ thuật đo lường rủi ro lãi suất bằng việc sử dụng các mô hình. Do đó, giải pháp hàng đầu của Ngân hàng là đào tạo nhân lực có trình độ và tay nghề giỏi, có khả năng quản trị tốt rủi ro lãi suất cho Ngân hàng. Ngân hàng cần phải cung cấp đầy đủ những số liệu cần thiết cho những tính toán, lượng hóa rủi ro lãi suất. Do đó, Ngân hàng cần chú trọng xây dựng hệ thống kế toán thống kê thật sự vững mạnh và chuyên nghiệp. Để tính toán đo lường rủi ro lãi suất cần phải có số liệu thống kê về các tài sản trong ngân hàng một cách chính xác nên công tác thống kê cần phải chính xác và đầy đủ. Để tăng cường quản lý rủi ro lãi suất nhằm giảm thiểu những tổn thất đối với Ngân hàng từ loại rủi ro này. Đòi hỏi trong thời gian tới, chúng ta cần quan tâm tìm hiểu những nguyên nhân gây hạn chế, trên cơ sở đó nghiên cứu áp dụng các giải pháp cần thiết, nhanh chóng khắc phục những mặt còn hạn chế trong công tác quản lý rủi ro lãi suất. Ngân hàng có thể áp dụng một chiến lược quản trị năng động là thu hẹp kỳ hạn của tài sản hoặc kéo dài kỳ hạn của danh mục nguồn vốn, hoặc giảm nguồn vốn nhạy cảm lãi suất và tăng tài sản nhạy cảm lãi suất lên. Vì hiện tại, VCB Cần Thơ đang ở trong trạng thái nhạy cảm nguồn vốn, tức là nguồn vốn nhạy cảm lãi suất lớn hơn tài sản nhạy cảm lãi suất, do đó Ngân hàng sẽ bị tổn thất nếu lãi suất tăng vì lợi nhuận cân biên từ lãi suất của Ngân hàng giảm xuống. 5.3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI NGÂN HÀNG Hiện tại, VCB Cần Thơ đang có trạng thái nhạy cảm về nguồn vốn, tức là nguồn vốn nhạy cảm lãi suất lớn hơn tài sản nhạy cảm lãi suất, do đó ngân hàng sẽ bị tổn thất nếu lãi suất tăng vì thu nhập từ lãi của Ngân hàng sẽ giảm. Vì thế, Ngân hàng cần sử dụng một chiến lược quản trị làm cho giá trị GAP bằng 0. Cụ thể là chuyển một phần tài sản dài hạn sang ngắn hạn hoặc chuyển một phần nguồn vốn ngắn hạn sang dài hạn. Bên cạnh đó, ngân hàng có thể chuyển GAP từ âm sang dương theo dự báo lãi suất tăng trong tương lai thì ngân hàng thay đổi cấu trúc tài sản và nguồn vốn. Việc sử dụng các biện pháp, công cụ điều tiết lãi suất như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược về quản lý rủi ro của Ngân hàng cũng như khả năng phân tích, dự báo xu hướng thay đổi của lãi suất trên thị trường. Chúng ta có thể sử dụng các biện pháp sau để hạn chế rủi ro lãi suất tại Ngân hàng: - Hoán đổi khoản mục nguồn vốn: Ngân hàng có thể làm cho độ giãn của lãi suất nguồn vốn được giảm xuống để cân bằng hoặc tiến tới cân bằng với bên tài sản thông qua việc chuyển đổi một số khoản mục của nguồn vốn. Chẳng hạn, ngân hàng có thể trả lại các khoản vay trên thị trường liên ngân hàng (hoặc tái cấp vốn) với lãi suất cố định và thay vào đó là các khoản vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất biến đổi. Điều đó có nghĩa là các khoản nguồn vốn có độ co giãn lãi suất bằng 0 đã được thay bằng khoản mục có độ co giãn lớn hơn, làm cho độ co giãn lãi suất chung của toàn bộ nguồn vốn tăng lên. Như vậy ngân hàng sẽ đạt được mục tiêu giảm rủi ro lãi suất cho mình. Độ co giãn của lãi suất định chuyển đổi cũng như khối lượng của khoản mục nguồn vốn này sẽ quyết định độ co giãn lãi suất chung của toàn bộ nguồn vốn tăng lên được bao nhiêu, có đạt được mục tiêu giảm rủi ro lãi suất hay không. - Hoán đổi khoản mục đầu tư: Với việc hoán đổi một số khoản mục đầu tư (sử dụng vốn), ngân hàng có thể làm giảm độ co giãn của lãi suất tài sản với mục đích tạo ra sự cân bằng hoặc giảm sự chênh lệch với độ co giãn của lãi suất nguồn vốn. Như, ngân hàng có thể chuyển đổi một số danh mục đầu tư có lãi suất biến đổi thành các khoản đầu tư có lãi suất cố định. Điều này sẽ làm độ co giãn lãi suất của toàn bộ tài sản giảm xuống, bớt chênh lệch với độ co giãn của toàn bộ nguồn vốn. Độ co giãn của lãi suất định chuyển đổi cũng như khối lượng của khoản mục tài sản này sẽ quyết định độ co giãn lãi suất chung của toàn bộ tài sản giảm được bao nhiêu, có đạt được mục tiêu giảm rủi ro hay không. - Ngân hàng chủ động thực hiện những cân đối phù hợp về mặt thời gian và giữa tài sản và nguồn vốn: Ngân hàng có thể chủ động tìm kiếm những dự án có sự trùng hợp giữa thời gian của tài sản và nguồn vốn. Sự tương ứng giữa kỳ hạn huy động vốn và cho vay một mặt đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng, mặt khác giúp cho Ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro lãi suất. Với việc đa dạng hóa các kỳ hạn này, Ngân hàng sẽ tiến hành phân nhóm tài sản và nguồn vốn theo một hoặc những khung kỳ hạn khác nhau, từ đó thấy được thực trạng cơ cấu tài sản và nguồn vốn tại mọi thời điểm mà Ngân hàng cần định giá lại trong quản trị rủi ro lãi suất của Ngân hàng, khi đó công tác quản trị rủi ro sẽ chính xác hơn và hiệu quả hơn, xác với thực tế hơn. - Tăng quy mô cân số (tăng tổng nguồn vốn, tăng tổng tài sản): Nếu như các biện pháp chuyển đổi khoản mục tài sản hay nguồn vốn không đem lại kết quả điều tiết rủi ro lãi suất như mong muốn hoặc mới chỉ đạt một phần yêu cầu thì ngân hàng phải sử dụng biện pháp tăng quy mô cân số. Với mục đích đồng thời tăng độ co giãn lãi suất một bên bảng cân đối và giảm độ co giãn lãi suất của bên kia. Khi độ co giãn lãi suất của tài sản khá cao so với nguồn vốn thì ngân hàng có thể huy động vốn vay ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng (với lãi suất biến đổi) để đem đầu tư lại cho các sản phẩm có lãi suất cố định. Tuy nhiên, sử dụng biện pháp này cần hết sức cận trọng vì có những hạn chế nhất định. Quy mô tổng nguồn vốn và tổng tài sản tăng lên có thể làm thay đổi cơ cấu và hàng loạt chỉ số hoạt động, các tỷ lệ an toàn khác mà ngân hàng phải bảo đảm tuân thủ. Do vậy cần tính toán kỹ và sử dụng biện pháp này ở mức độ tương đối hạn chế. - Giảm quy mô cân số (giảm tổng nguồn vốn, giảm tổng tài sản): Tương tự biện pháp tăng quy mô cân số, ngân hàng có thể áp dụng biện pháp giảm quy mô nguồn vốn và tổng tài sản của mình để đạt được mục đích điều tiết rủi ro lãi suất. Như ngân hàng phải bán các khoản đầu tư có lãi suất thay đổi và đồng thời cũng đem trả lại các khoản vốn vay có lãi suất cố định trên thị trường liên ngân hàng. Tuy nhiên, cũng như trường hợp trên thì biện pháp này cũng có một số hạn chế, có thể nhiều chỉ số hoạt động bị thay đổi theo chiều hướng xấu đi như chỉ số về khả năng chi trả, khả năng thanh toán tức thời của ngân hàng. - Sử dụng các công cụ quản trị rủi ro tài chính hiện đại: Ngân hàng có thể sử dụng các công cụ quản trị rủi ro tài chính hiện đại như: hợp đồng kỳ hạn, quyền chọn, hoán đổi về lãi suất,…những công cụ này sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro lãi suất một cách hiệu quả và ít tốn kém, như vậy Ngân hàng sẽ không phải tái cấu trúc lại tài sản và nguồn vốn, vì tái cấu trúc vốn đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian và công sức, hơn nữa có những biện pháp tái cấu trúc vốn sẽ tạo ra những rủi ro khác cho Ngân hàng. Với thực trạng hoạt động hiện nay của ngân hàng, việc nhận biết và ứng dụng các phương pháp quản trị rủi ro lãi suất nhằm giảm rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hết sức cần thiết. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ các phương pháp để lựa chọn, ứng dụng vào thực tiễn hoạt động kinh doanh của mình. 6.1. KẾT LUẬN CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Năm 2008, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động, thị trường tài chính tiền tệ và ngân hàng diễn ra phức tạp, tiềm ẩn rủi ro gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Ngân hàng phải đối đầu với rất nhiều thách thức như: lạm phát tăng cao, ảnh hưởng từ cơn bảo tài chính của Mỹ, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với các ngân hàng trong nước cũng như ngoài nước, cạnh tranh với thị trường chứng khoán và bất động sản. Tuy có nhiều khó khăn nhưng VCB Cần Thơ cũng đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể. Bằng chính khả năng và nghị lực của mình Ngân hàng đã vượt qua bao nhiêu thử thách và sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng khác trên cùng địa bàn, và chi nhánh đã trở thành một trong những ngân hàng quan trọng hiện nay. Phấn đấu với phương châm đề ra trong cho định hướng hoạt động trong tương lai: “ Phát huy truyền thống và nội lực, nâng cao tầm vị thế Thành phố trực thuộc Trung ương, tăng nguồn vốn tăng trưởng tín dụng an toàn phục vụ đầu tư và sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long”. Trong nhiều năm qua, Ngân hàng đã đạt được nhiều thắng lợi to lớn, góp phần cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Để đạt được những thành tựu đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung và VCB Cần Thơ nói riêng luôn đi tiên phong trong công tác ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa ngân hàng, phát triển sản phẩm dịch vụ, cũng như đào tạo đội ngũ cán bộ. Ngân hàng luôn quan tâm đến công tác quản trị rủi ro của mình vì hoạt động của ngân hàng luôn có sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Và một trong những rủi ro mà Ngân hàng thường xuyên phải đối mặt là rủi ro lãi suất. Việc quản trị rủi ro lãi suất là một việc làm rất cần thiết đối với mỗi ngân hàng trong giai đoạn hiện nay. Qua những phân tích của đề tài đã khái quát được phần nào đó về thực trạng rủi ro lãi suất của Ngân hàng, cũng như những vấn đề đã được và chưa được giải quyết. Từ đó mà ban quản trị Ngân hàng có những chiến lược đối phó với sự biến động của lãi suất thị trường nhằm hạn chế tối đa rủi ro do lãi suất gây ra, đồng thời tăng mục tiêu lợi nhuận của Ngân hàng. 6.2. KIẾN NGHỊ Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh rất đặc biệt, hoạt động kinh doanh của ngân hàng có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống ngân hàng và xã hội vì các chủ thể gửi tiền và vay tiền của ngân hàng là các tổ chức kinh tế, các tầng lớp dân cư trong toàn xã hội. Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình, Ngân hàng cần phải đề cao công tác quản trị rủi ro để bảo vệ Ngân hàng và bảo vệ khách hàng của mình. 6.2.1. Đối với VCB Cần Thơ Trong bối cảnh lãi suất thị trường có xu hướng biến động như hiện nay, Ngân hàng cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa của bộ máy lãnh đạo và cán bộ trong nhận thức một cách toàn diện về quản lý rủi ro lãi suất. Để phòng ngùa rủi ro lãi suất, Ngân hàng phải duy trì sự cân đối các khoản nhạy cảm với lãi suất bên nguồn vốn cũng như bên tài sản. Sử dụng các chính sách lãi suất linh hoạt, đặc biệt đối với những khoản vay lớn, thời hạn dài cần tìm kiếm nguồn vốn tương xứng, hoặc thực hiện cơ chế lãi suất thả nổi. Sử dụng các công cụ tài chính để hạn chế rủi ro ngoại bảng như sử dụng các nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất, nghiệp vụ kỳ hạn về tiền gửi và tiền vay, thực hiện các hợp đồng tương lai do không cân xứng về nguồn vốn và tài sản, thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền lựa chọn lãi suất. Ngoài việc phòng ngừa rủi ro lãi suất, Ngân hàng cũng cần phải chú ý đến những rủi ro khác như rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro kỳ hạn,…Và rủi ro kỳ hạn và rủi ro lãi suất thường đi chung với nhau. Để hạn chế rủi ro này, Ngân hàng cần xác định chính xác mức độ ổn định của nguồn vốn ngắn hạn để có thể sử dụng một tỷ lệ nhất định, an toàn cho đầu tư trung và dài hạn. Ngân hàng cũng cần xay dựng chính sách tạo lòng tin đối với người gửi tiền, khuyến khích khách hạn gửi tiền với kỳ hạn dài. 6.2.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường quan tâm chỉ đạo và hỗ trợ cho công tác quản trị rủi ro của các ngân hàng Thương mại. Xây dựng và thực thi có hiệu quả của chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoa, hiện đại hóa đất nước. Điều hành tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái theo cơ chế thị trường thông qua sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để định hướng và khuyến khích công chúng tiết kiệm, đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. Ban hành các văn bản thống nhất về quản lý rủi ro và có biện pháp chế tài nghiêm túc các ngân hàng không tuân thủ các quy định này. Hỗ trợ các ngân hàng Thương mại trong việc đào tạo, tập huấn cho cán bộ nghiệp vụ,… 6.2.3. Đối với Nhà nước và chính quyền địa phương Cần phải có cơ quan dự báo sự thay đổi của lãi suất, trong điều kiện lãi suất thị trương biến động như hiện nay, việc thành lập một cơ quan dự báo sự thay đổi lãi suất là hết sức quan trọng và cần thiết, nó giúp các ngân hàng có dự tính được những thiệt hại có thể phát sinh trong tương lai, từ đó lựa chọn giảm pháp phòng ngừa hiệu quả. Đảng và nhà nước cần hoàn thiện các văn bản pháp lý về việc đo lường và quản lý rủi ro lãi suất tại các ngân hàng Thương mại. Lãi suất là công cụ linh hoạt, đáng được cân nhắc để sử dụng nhất. Mặc dù mỗi công cụ có những đặc tính, khả năng tác động đến thị trường theo những cách khác nhau, với mức độ cũng không giống nhau, song cho dù công cụ nào thì tín hiệu cuối cùng của nó sau khi phát ra cũng dẫn đến sự thay đổi về giá - lãi suất, dù đó là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay mua tín phiếu bắt buộc,… Vì vậy, hãy sử dụng hữu hiệu công cụ lãi suất để điều tiết. Có thể nói, trong các loại lãi suất thì lãi suất thị trường liên ngân hàng sẽ phát ra tín hiệu phù hợp nhất, lãi suất này không chỉ chịu sự chi phối của cung cầu vốn mà còn chịu ảnh hưởng, tác động của lãi suất chỉ đạo phát ra từ Ngân hàng Nhà nước như: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Lãi suất thị trường liên ngân hàng đặc biệt phát huy tác dụng trong điều kiện khó khăn về thanh khoản của các ngân hàng Thương mại. Nhà nước cần phải xây dựng một thị trường Tài chính – Tiền tệ phát triển. Mặc dù cho đến nay, tình hình kinh tế khá ổn định, hoạt động của các ngân hàng có nhiều chuyển biến tích cực, lòng tin của người dân cũng đang dần dần được hồi phục, song trên thực tế, những tác động trái chiều của chính sách tiền tệ vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng và thông qua đó ảnh hưởng đến nền kinh tế,... Vấn đề này cần được thảo luận một cách nghiêm túc, bởi lẽ ngân hàng là nơi cung cấp vốn - điều kiện đầu vào cho mọi quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nếu khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng gặp khó khăn, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không thể tiến hành bình thường được và như vậy, kinh tế khó có thể tăng trưởng. Tóm lại, việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết hoạt động ngân hàng và thông qua đó điều tiết các hoạt động kinh tế là những hoạt động thường ngày, tuy nhiên để vận hành các công cụ này một cách có hiệu quả thì phải tuân thủ những nguyân tắc nhất định song mặt khác lại không thể rập khuôn, máy móc mà rất cần sự sáng suốt, linh hoạt và nhạy bén. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ths. Thái Văn Đại (2003). Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Tủ sách trường Đại Học Cần Thơ. 2. Ts. Nguyễn Văn Tiến. Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, NXB Thống Kê. 3. Gs.Ts. Lê Văn Tư. Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính. 4. Peter S.Rose (2001). Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính. 5. Một số tài liệu liên quan được tìm trên internet, sách báo và các tạp chí ngân hàng,... PHỤ LỤC Phụ lục 1: Dự báo sự biến động của lãi suất huy động tại VCB Cần thơ theo phương pháp bình phương bé nhất THÁNG Y (%/năm) X X2 XY Yd (%/năm) 1/2008 7,04 1 1 7,04 2/2008 8,48 2 4 16,96 3/2008 10,04 3 9 30,12 4/2008 9,36 4 16 37,44 5/2008 11,80 5 25 59,00 6/2008 13,73 6 36 82,38 7/2008 15,00 7 49 105,00 8/2008 15,28 8 64 122,24 9/2008 14,26 9 81 128,34 10/2008 12,22 10 100 122,20 11/2008 8,65 11 121 95,15 12/2008 6,93 12 144 83,16 Tổng 132,79 78 650 889,03 1/2009 13 7,79 2/2009 14 8,15 3/2009 15 8,33 4/2009 16 8,51 5/2009 17 8,69 6/2009 18 8,87 7/2009 19 9,05 8/2009 20 9,23 Phụ lục 2: Dự báo sự biến động của lãi suất cho vay tại VCB Cần thơ theo phương pháp bình phương bé nhất THÁNG Y (%/năm) X X2 XY Yd (%/năm) 1/2008 18,0 1 1 18,0 2/2008 18,0 2 4 36,0 3/2008 19,0 3 9 57,0 4/2008 16,8 4 16 67,2 5/2008 16,8 5 25 84,0 6/2008 20,0 6 36 120,0 7/2008 20,0 7 49 140,0 8/2008 19,8 8 64 158,4 9/2008 20,5 9 81 184,5 10/2008 18,5 10 100 185,0 11/2008 14,4 11 121 158,4 12/2008 11,4 12 144 136,8 Tổng 213,2 78 650 1.345,3 1/2009 13 12,72 2/2009 14 13,00 3/2009 15 13,28 4/2009 16 13,56 5/2009 17 13,84 6/2009 18 14,12 7/2009 19 14,40 8/2009 20 14,68

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản trị rủi ro lãi suất tại ngân hàng tmcp ngoại thương việt nam – chi nhánh cần thơ.doc
Luận văn liên quan