Đề tài Quy định và thực tiễn chống bán phá giá của mỹ và giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU . . 1 CHƯƠNG I. QUY ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ 1. Khái niệm về bán phá giá . .3 1.1 Định nghĩa . .3 1.2 Các đạo luật liên quan đến bán phá giá ( Luật doanh thu 1916, Luật thuế quan 1930, ) . .3 2. Quy định của luật pháp Hoa Kỳ về xử lý hành vi bán phá giá . .5 2.1 Cơ quan thẩm quyền điều tra hành vi bán phá giá .5 2.2 Trình tự tiến hành xử lý bán phá giá . .6 2.2.1 Quá trình khởi kiện . 6 2.2.2 Quá trình điều tra . . .10 2.2.3 Các khái niệm pháp lý chính . . .20 2.2.4 Quá trình xem xét lại . . . .34 CHƯƠNG II. THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ 1. Tổng quan thực trạng bán phá giá vào thị trường Mỹ 36 1.1 Thống kê các vụ bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001 .37 1.2 Thực trạng xử lý các vụ bán phá giá vào thị trường Mỹ . .43 2. Những nhận xét về việc áp dụng luật chống bán phá giá của Mỹ .49 2.1 Phản ứng của các quốc gia đối với luật chống bán phá giá của Mỹ .49 2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực của luật chống bán phá giá của Mỹ đến bản thân nền kinh tế Mỹ . .52 CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 1. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu thực tiễn chống bán phá giá của Mỹ . .55 2. Giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề bán phá giá . . .58 2.1 Nhóm giải pháp nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán phá giá 58 2.2 Nhóm giải pháp cần tiến hành khi bị kiện bán phá giá . .61 2.3 Nhóm giải pháp khác . .76 KẾT LUẬN . . . . .79 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc88 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2362 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy định và thực tiễn chống bán phá giá của mỹ và giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng hàng nhập khẩu giá rẻ. Trong một nghiên cứu của mình, Daniel Griswold, phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Thương mại thuộc Viện CATO Hoa Kỳ, đã đưa ra một bằng chứng về sự tổn hại mà luật chống bán phá giá gây ra. Bằng chứng này liên quan đến ngành công nghiệp sản xuất thép của Mỹ. Đó là sau thời kỳ khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-1998, thị trường Mỹ đã tràn ngập các sản phẩm thép nhập khẩu giá rẻ. Nhằm cứu vãn tình hình, ngành sản xuất thép của Mỹ đã kiện bán phá giá đối với các sản phẩm thép nhập khẩu, đặc biệt là các sản phẩm thép của Châu Á. Kết quả là ngành sản xuất thép đã nhận được sự bảo hộ của chính quyền Mỹ. Sự bảo hộ này đã đem lại cho ngành thép khoảng 200 triệu USD mỗi năm. Tuy nhiên, để có được khoản tiền trên thì các ngành khác đã phải chịu thiệt hại. Đó là các ngành công nghiệp sử dụng thép như, xây dựng, vận tải,.., những ngành có số lượng công nhân đông gấp 40 lần số lượng công nhân trong ngành thép, và cũng là những ngành đã được lợi rất nhiều từ các sản phẩm thép giá rẻ nay đã phải hy sinh những lợi ích đó chỉ vì một bộ phận công nhân nhỏ trong ngành thép. Hơn thế nữa, những người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của các ngành sản xuất trên như ôtô, các thiết bị điện dân dụng cũng phải hy sinh quyền lợi của mình vì những chính sách hạn chế cạnh tranh và làm tăng chi phí. Theo Griswold dự tính, để giá của mỗi tấn thép tăng thêm một dollar, thì người tiêu dùng Mỹ đã phải bỏ ra thêm 120 triệu USD. Rõ ràng, qua một số nét sơ lược trên, chúng ta có thể thấy rằng luật chống bán phá giá Mỹ đang ẩn chứa trong nó những yếu tố bất cập. Mặc dù, Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã thừa nhận luật chống bán phá giá như một công cụ pháp lý hợp lệ, nhưng vẫn cần có những sửa đổi đối với luật chống bán phá giá Mỹ để công cụ này thực hiện đúng chức năng của mình hơn và cũng là để tạo ra một hành lang pháp lý bình đẳng cho cả các nhà sản xuất Mỹ lẫn các nhà xuất khẩu nước ngoài. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Việc các doanh nghiệp Việt Nam bị kiện bán phá giá thực sự là một điều đáng lo ngại cho bản thân các doanh nghiệp. Nhưng đồng thời đó cũng là một tín hiệu đáng mừng đối với nền kinh tế Việt Nam bởi lẽ việc bị kiện bán phá giá chứng tỏ một điều rằng : Các doanh nghiệp Việt Nam đã đủ lớn mạnh, đã tạo được một sức ép cạnh tranh đủ lớn khiến các đối thủ nội địa Mỹ phải viện đến sự bảo hộ của chính quyền. Điều cơ bản là các doanh nghiệp và các nhà xuất khẩu Việt Nam cần xây dựng những hướng đi cụ thể để làm sao luật chống bán phá giá không gây ảnh hưởng tới sự phát triển của các doanh nghiệp. 1. Bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu thực tiễn chống bán phá giá của Mỹ. Qua một số nét sơ lược về một số mặt liên quan đến quy định chống bán phá giá của Mỹ, chúng ta có thể nhận thấy rằng Luật chống bán phá giá của Mỹ là một hàng rào bảo hộ rất tinh vi và khó có thể vượt qua. Sự lợi hại của Luật chống bán phá giá thể hiện ở một số điểm như sau: Khả năng loại trừ cạnh tranh cao thông qua cách thức xử lý các vụ kiện của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế (USITC). Như đã trình bày trong Chương II, với các biện pháp hỗ trợ việc phát hiện ra hành vi bán phá giá như Giá dự tính, phương pháp làm tròn,…,luật chống bán phá giá hoàn toàn có thể tạo thành một hàng rào bảo hộ hiệu quả trong bối cảnh các hàng rào thương mại quen thuộc khác đang dần được dỡ bỏ theo quy định của WTO. Mức thuế chống bán phá giá cao kết hợp cùng nỗi lo nợ nần mà quá trình xem xét lại tạo ra cho các nhà nhập khẩu Mỹ sẽ giúp loại bỏ mặt hàng có tính cạnh tranh cao ra khỏi thị trường Mỹ. Ngay cả khi mức thuế thấp nhưng thời gian hiệu lực kéo dài (có thể lên tới 20 năm) cùng với nguy cơ tăng lên của mức thuế sau mỗi lần xem xét lại hàng năm cũng sẽ là một trở lực lớn không dễ vượt qua. Hơn thế nữa, tác động của luật chống bán phá giá đối với mặt hàng thuộc diện điều tra không chỉ do mức thuế của DOC tạo ra mà còn do một số nhân tố khác. Một trong các nhân tố đó là: Tác động của quá trình điều tra Một khi đã hình thành một vụ kiện bán phá giá thì hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra sẽ bị ảnh hưởng ít nhất là trong suốt quá trình điều tra. Trước hết, quá trình điều tra sẽ tạo ra phản ứng của các nhà nhập khẩu Mỹ và/hoặc các nhà xuất khẩu nước ngoài trong việc dự đoán mức thuế sẽ được áp dụng sau khi có phán quyết chính thức, cũng như dự đoán lượng tiền phải ký quỹ một khi có kết luận sơ bộ của DOC (xem mục C 2.2.2 Chương I). Những dự đoán này vì thế sẽ làm lượng hàng nhập khẩu giảm mạnh. Việc giảm mạnh của hàng nhập khẩu sẽ kéo dài trong suốt thời gian còn lại của quá trình điều tra, chừng nào vẫn có lý do để tin rằng vụ kiện sẽ kết thúc bằng phán quyết chính thức rằng : Có hành vi bán phá giá và có thiệt hại vật chất. Trên thực tế, ảnh hưởng của quá trình điều tra đã được báo chí Mỹ nhắc đến rất nhiều. Ví dụ như trong một vụ kiện bán phá giá mà Hiệp hội Dệt kim và Quần áo Thể thao Mỹ kiện các nhà sản xuất áo len Hong Kong, Hàn Quốc, và Đài Loan, phán quyết sơ bộ “Có hành vi bán phá giá” đã được đưa ra ngay vào thời điểm các đại lý bán lẻ ở Mỹ chuẩn bị đặt hàng nhập khẩu lô quần áo cho mùa thu. Và kết quả là các đại lý Mỹ lập tức dừng việc nhập khẩu lại và chuyển sang mua hàng của các nhà sản xuất nội địa, do sự không chắc chắn về mức giá trong tương lai ( Thời báo NewYork, 24/4/2000, Tr. C1). Những tác động về mặt tâm lý như trên là rất bất lợi cho bên bị đơn vì chưa cần biết kết quả chính thức của vụ kiện sẽ như thế nào, mà chỉ cần biết rằng mặt hàng nhập khẩu trên có nguy cơ phải chịu thuế chống bán phá giá (vì bị kiện bán phá giá), thì các kênh phân phối vào thị trường Mỹ đã bị đóng lại đối với mặt hàng đó. Đây là một bài học kinh nghiệm cho các nhà xuất khẩu bởi các nhà xuất khẩu cần hiểu rằng: Bản thân các đối thủ nội địa Mỹ cũng hiểu được những tác động mà quá trình điều tra có thể tạo ra đối với hàng hoá nhập khẩu. Nên, trong những giai đoạn khó khăn khi mà nhu cầu sụt giảm và khả năng tận dụng năng suất thấp, nhằm tránh những cuộc chiến về giá khốc liệt mà phần thắng chưa chắc đã thuộc về phía mình, các đối thủ nội địa Mỹ sẽ viện đến luật chống bán phá như một giải pháp tình thế. Điều này có nghĩa là các đối thủ Mỹ sẽ đệ đơn kiện bán phá giá mà không cần biết trên thực tế có tồn tại hành vi bán phá giá hay không và cũng không trông đợi DOC đưa ra một mức thuế chống bán phá giá. Hành động này chí ít sẽ giúp làm tăng mức giá cũng như làm tăng thị phần cho các nhà sản xuất nội địa Mỹ trong giai đoạn điều tra bất kể thuế chống bán phá giá có được áp dụng hay không. Như vậy toàn bộ ảnh hưởng của quá trình điều tra, hiểu theo cách này, sẽ là “lời đe doạ” trừng phạt đối với các nhà xuất khẩu nước ngoài nếu họ đưa ra một mức giá quá cạnh tranh. Và lời đe doạ đó sẽ có hiệu lực bằng cách đệ đơn kiện. Hơn thế nữa, việc đệ đơn kiện và việc điều tra của DOC và USITC còn có tác động về mặt tâm lý đến bản thân nhà xuất khẩu. Rõ ràng là với một nhà xuất khẩu không nắm rõ quy trình tiến hành cũng như các thông tin liên quan đến việc xử lý bán phá giá, đồng thời thị trường Mỹ là thị trường duy nhất của loại sản phẩm mà họ sản xuất, thì việc bị kiện bán phá giá quả thực là một điều đáng lo ngại. Lợi dụng yếu tố tâm lý đó, các nhà sản xuất nội địa Mỹ có thể ràng buộc nhà xuất khẩu trên vào các thoả ước theo đó nhà xuất khẩu sẽ chỉ xuất hàng của mình tại một mức giá nhất định. Các thoả ước như vậy được luật pháp Mỹ mà cụ thể là Học thuyết Noerr-Pennington thuộc bộ luật chống độc quyền cho phép và do đó được luật pháp Mỹ bảo vệ. Như vậy, qua việc nghiên cứu quy định và thực tiễn chống bán phá giá của Mỹ, các nhà xuất khẩu cần phải ý thức được rằng : Luật chống bán phá giá nói chung và luật chống bán phá giá của Mỹ nói riêng có những ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và do vậy đòi hỏi các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu cần cẩn trọng khi tham gia vào thương mại quốc tế trong bối cảnh các hàng rào thương mại cổ điển đang dần được dỡ bỏ và luật chống bán phá giá nổi lên như một sự thay thế hữu hiệu. 2. Giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề bán phá giá 2.1 Nhóm giải pháp nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán phá giá Một điều hiển nhiên là các nhà xuất khẩu luôn là những người bị động trong các vụ kiện bán phá giá. Sự bị động đó một phần là do nhà xuất khẩu là người bị kiện chứ không phải là người đi kiện. Tuy nhiên, chính sự lạ lẫm trước những quy định phức tạp của luật chống bán phá giá cũng như cách thức tiến hành của một vụ kiện bán phá giá mới là yếu tố cơ bản tạo nên sự bị động đó. Chính sự bị động đó đã khiến nhà xuất khẩu đôi khi phải chịu những thiệt thòi không đáng có, và bỏ qua những cơ hội để giành phần thắng. Nhằm hạn chế tình trạng bị động trên cũng như hạn chế nguy cơ bị kiện bán phá giá, các nhà xuất khẩu cần thực hiện một số giải pháp sau. 2.1.1 Nghiên cứu kỹ thị trường Việc nắm rõ thị trường mục tiêu, nắm rõ các điều kiện cạnh tranh, các đối thủ, điểm mạnh và điểm yếu của bản thân có lẽ là vấn đề cơ bản đối với tất cả các doanh nghiệp khi có ý định xuất khẩu sản phẩm của mình sang một thị trường mới. Và đối với vấn đề bán phá giá, công việc này cũng hết sức cần thiết. Ngoài các yếu tố, thông số thuộc về thị trường, nhà xuất khẩu cần nắm rõ những thông tin liên quan đến luật chống bán phá giá như các quy định của luật chống bán phá giá, cách thức và trình tự tiến hành một vụ kiện bán phá giá, yêu cầu đối với các bên liên quan,… Việc nắm vững những yếu tố trên sẽ giúp nhà xuất khẩu hiểu rõ hơn về bản chất của luật chống bán phá giá, từ đó xây dựng những chính sách cụ thể nhằm hạn chế tầm ảnh hưởng của luật chống bán phá giá đến hoạt động xuất khẩu và kinh doanh trên thị trường Mỹ. Hơn thế nữa, việc nắm vững bản chất của luật chống bán phá giá sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu được thế bị động một khi bị kiện bán phá giá. 2.1.2 Xây dựng một chính sách giá hợp lý Trên cơ sở đã nghiên cứu kỹ thị trường Mỹ và các yếu tố liên quan khác, nhà xuất khẩu cần xây dựng một chính sách giá hợp lý. Đây là một yếu tố hết sức mấu chốt và cũng hết sức nhạy cảm bởi rõ ràng là việc bị kiện bán phá giá đều xuất phát từ yếu tố giá cả của sản phẩm nhập khẩu vào thị trường Mỹ. Việc xây dựng một chính sách hợp lý quả thực không phải một chuyện đơn giản và còn phải tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh và hoàn cảnh của nhà xuất khẩu, tuy nhiên, về cơ bản một chính sách giá hợp lý nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán phá giá phải đáp ứng được một số tiêu chí sau: Đảm bảo được sự thống nhất về mức giá giữa các thị trường xuất khẩu khác nhau, giữa thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa Đảm bảo được tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở có cân nhắc đến mức giá hợp lý-LTFV. Điều này có nghĩa là trước khi hình thành một mức giá xuất khẩu, nhà xuất khẩu cần cân nhắc mức độ cạnh tranh của mức giá đó tại thị trường nước nhập khẩu, khả năng thoả mãn thị trường của mức giá đó (xác định lượng cung – cầu của mức giá đó) và mức lợi nhuận mà mức giá đó đem lại. Tuy nhiên có một vấn đề khi thực hiện mục tiêu này : đó là áp lực cạnh tranh giữa các công ty nội địa của nước xuất khẩu với nhau sẽ đẩy mức giá xuất khẩu xuống thấp. Do đó cần phải liên kết các công ty trong cùng một mặt hàng lại với nhau để tránh sự cạnh tranh không cần thiết dẫn đến thiệt hại cho tất cả các bên, một khi bị kiện bán phá giá. Điểm mấu chốt để thực hiện được hai tiêu chí này đó là yếu tố thông tin. Nhưng hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam luôn gặp phải vấn đề thiếu thông tin khi xúc tiến công việc kinh doanh của mình. Bản thân các doanh nghiệp khó có thể tự thu thập đủ thông tin mà mình cần. Do đó cần có sự hỗ trợ từ các tổ chức khác như Cục Xúc tiến Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội đồng Thương mại Việt – Mỹ,… 2.1.3 Đa dạng hoá sản phẩm Đây cũng là một biện pháp để hạn chế tầm ảnh hưởng của luật chống bán phá giá đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Việc đa dạng hoá sản phẩm không chỉ phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu của mỗi doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp tận dụng thị trường và giảm nguy cơ bị kiện bán phá giá. Điều này thể hiện ở chỗ thay vì dồn tất cả các yếu tố đầu vào vào một chủng loại sản phẩm nhất định, doanh nghiệp có thể dàn các yếu tố này vào nhiều chủng loại khác nhau, tạo cho mỗi chủng loại một đặc tính khác nhau, do đó có thể bán ở các mức giá khác nhau với những thương hiệu khác nhau. Trước hết nếu khối lượng đầu vào là không đổi (lượng nguyên liệu là không đổi) thì khối lượng đầu ra trên mỗi chủng loại sản phẩm sẽ giảm đáng kể tỉ lệ theo số lượng các chủng loại. Ví dụ như trong trường hợp cá Tra và cá Basa của Việt Nam, thay vì chỉ xuất khẩu sang Mỹ 30 tấn các sản phẩm cá chưa chế biến, nhà xuất khẩu có thể đa dạng hoá sản phẩm bằng cách xuất 10 tấn cá chưa chế biến, 10 tấn cá bán chế biến (các sản phẩm như cá tẩm gia vị) và 10 tấn cá đã chế biến (các sản phẩm như cá hộp). Việc dàn trải ra nhiều chủng loại sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ bị kiện bán phá giá do khối lượng sản phẩm nhỏ hơn sẽ làm giảm khả năng bị kiện gây thiệt hại cho nền sản xuất Mỹ và có thể được coi là Hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng (như đã trình bày trong Chương I, sản phẩm có kim ngạch nhập khẩu nhỏ hơn 3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó của Mỹ). 2.2 Nhóm giải pháp cần tiến hành khi bị kiện bán phá giá Sẽ thật phóng đại nếu đưa ra được các giải pháp để chắc chắn giành phần thắng trong các vụ kiện bán phá giá của Mỹ, bởi như đã trình bày ở trên, luật chống bán phá giá của Mỹ được xây dựng không phải chỉ như chính quyền Mỹ tuyên bố là để loại bỏ những gian lận trong thương mại, tạo một môi trường cạnh tranh bình đẳng mà sâu xa, đây là một công cụ để bảo hộ nền sản xuất Mỹ. Chính bởi lẽ đó, sẽ rất khó khăn để có thể giành phần thắng một khi đã bị kiện bán phá giá. Nhưng khó khăn không có nghĩa là không có hy vọng bởi thực tế đã chứng minh rằng : vẫn có những vụ kiện mà phần thắng thuộc về bên bị đơn, tức là các nhà xuất khẩu. Điều quan trọng là các nhà xuất khẩu cần phải nắm được quy trình thủ tục cũng như cách thức theo hầu một vụ kiện bán phá giá. Và sau đây là một số điều, tạm coi là giải pháp tình thế, mà các nhà xuất khẩu cần lưu ý khi bị kiện bán phá giá 2.2.1 Tham gia một cách đầy đủ và hợp tác dưới sự cố vấn của các chuyên gia Một điều đầu tiên quan trọng khi bị kiện bán phá giá là tham gia vào quá trình điều tra của DOC bởi theo quy định của luật chống bán phá giá Mỹ: trong trường hợp nhà xuất khẩu nước ngoài từ chối tham gia vào quá trình điều tra và không trả lời Bảng câu hỏi mà Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) đưa ra, thì Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) không có chọn lựa nào khác là sử dụng những thông tin sẵn có mà DOC có thể tiếp cận được để tính toán mức bán phá giá. Và trong phần lớn các trường hợp, những thông tin này là những thông tin do bên nguyên đơn cung cấp hoặc từ tài liệu của các vụ kiện trước đó. Việc DOC sử dụng những thông tin này sẽ rất bất lợi cho bên bị đơn bởi những thông tin này không thể phản ánh đúng tình hình và thường là thiên vị về phía bên nguyên đơn, do đó khả năng DOC phát hiện ra hành vi bán phá giá càng khả dĩ hơn. Cũng do sự không hợp tác hoặc không hợp tác đầy đủ mà USITC cũng sẽ đưa ra phán quyết rằng : Hành vi bán phá giá trên gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho một ngành sản xuất của Mỹ. Ngoài ra cũng có một vấn đề khác cần lưu ý là : Hợp tác với DOC và USITC như thế nào. Việc trả lời các câu hỏi mà USITC đưa ra, cũng như cung cấp những thông tin mà DOC yêu cầu không phải là một chuyện đơn giản. Luật chống bán phá giá của Mỹ được soạn thảo ra là nhằm mục đích bảo vệ nền sản xuất nội địa của Mỹ nên bất kỳ một sai sót nào trong việc đáp ứng các yêu cầu mà hai cơ quan trên đưa ra cũng có thể dẫn đến việc phải chịu thuế chống bán phá giá. Chính vì điều này mà các doanh nghiệp cần có sự cố vấn của các chuyên gia. Với sự cố vấn của các chuyên gia, các doanh nghiệp sẽ biết cần phải trả lời các câu hỏi chi tiết đến mức nào và cũng sẽ biết được khả năng thẩm tra thông tin của DOC ở mức độ nào. 2.2.2 Cố gắng giành phần thắng ngay ở giai đoạn điều tra sơ bộ Một điểm cũng hết sức quan trọng là cần tận dụng mọi cơ hội để giành phần thắng ngay từ đầu. Đối với các nhà sản xuất Mỹ, để có thể giành phần thắng trong một vụ kiện bán phá giá, họ phải đệ trình đơn kiện lên DOC và USITC, đồng thời phải chứng minh được hai điểm : Chứng minh sự tồn tại một mức bán phá giá cao với DOC Chứng minh có thiệt hại vật chất hoặc có đe dọa thiệt hại vật chất với USITC Một khi các nhà sản xuất Mỹ chứng minh được hai điều trên và giành được phần thắng trong giai đoạn điều tra sơ bộ thì phần thắng sẽ chắc chắn thuộc về họ bởi giai đoạn điều tra chính thức của DOC và USITC gần như chỉ mang tính chất thủ tục. Trong trường hợp này, nhà xuất khẩu chỉ có thể trông chờ đạt được một mức thuế thấp trong giai đoạn xem xét lại. Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu có ba cách để giành được phần thắng trong giai đoạn điều tra sơ bộ. Đó là: Giành phần thắng tại USITC, tức là USITC tuyên bố rằng: việc bán tại mức giá thấp hơn mức hợp lý-LTFV không gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đối với ngành sản xuất Mỹ DOC phát hiện một mức bán phá giá thấp Đạt được thoả ước đình chỉ đối với chính quyền Mỹ Việc giành phần thắng đồng nghĩa với việc có thể tiếp tục xuất khẩu sản phẩm sang Mỹ. Còn việc thua quả thật là một thảm hoạ. Một khi nhà sản xuất Mỹ giành phần thắng, DOC sẽ áp dụng một mức thuế chống bán phá giá và mức thuế này có thể kéo dài vô cùng, tức là từ 10 đến 20 năm. Điều này có thể được minh chứng qua một sản phẩm hoá chất của Trung Quốc, chất Barium Chloride. Việc nhập khẩu chất này vào Mỹ đã bị kiện bán phá giá vào năm 1983 và kết quả là chất này đã phải chịu một mức thuế chống bán phá là 62.5% cho đến năm 1999, sau nhiều lần xem xét lại USITC quyết định huỷ bỏ mức thuế cũ nhưng đồng thời đưa ra một phán quyết khác, đó là tiếp tục áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm này cho đến năm 2005. Như vậy là thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm Barium Chloride sẽ tồn tại hơn 20 năm. Như đã trình bày ở trên, có ba cách để có thể giành phần thắng trong các vụ kiện bán phá giá. Tuy nhiên, việc giành phần thắng, dù là ở DOC hay USITC, đều rất khó khăn. Nhưng với sự giúp đỡ của các chuyên gia, chúng ta vẫn có thể hy vọng vào khả năng giành phần thắng Giành được mức bán phá giá thấp tại DOC Trong hơn 80% số vụ kiện bán phá giá, DOC kết thúc điều tra bằng việc phát hiện ra hành vi bán phá giá và áp dụng một mức thuế chống bán phá giá dựa trên mức bán phá giá đó. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ liệu mức thuế mà DOC đưa ra có đủ thấp để nhà xuất khẩu tiếp tục xuất khẩu sản phẩm của mình sang thị trường Mỹ. Rõ ràng là việc giành được một mức thuế thấp là rất khó khăn, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Cũng giống như đối với Trung Quốc, DOC không sử dụng các mức chi phí thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam để tính toán mức bán phá giá bởi DOC coi Việt Nam là một nền kinh tế phi thị trường, tức là, quốc gia mà tại đó chính phủ, chứ không phải thị trường, xác định mức giá hàng hoá và kiểm soát nền kinh tế, cũng như các mối quan hệ kinh tế giữa các công ty. Mặc dù, đã có rất nhiều thay đổi đối với nền kinh tế Việt Nam, nhưng DOC không nhận biết được những thay đổi này và cũng do có những áp lực về mặt chính trị từ phía chính quyền Mỹ buộc DOC phải không thừa nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường. Kết quả là, DOC chỉ sử dụng giá bán tại Mỹ của các nhà xuất khẩu, chứ không sử dụng các dữ liệu về chi phí thực tế của họ. DOC yêu cầu nhà xuất khẩu cung cấp thông tin về các yếu tố đầu vào, cụ thể là về mức nguyên liệu thô, mức nhân công và mức năng lượng mà nhà xuất khẩu cần để sản xuất một đơn vị sản phẩm thuộc diện điều tra. DOC sau đó sẽ sử dụng thông tin về giá của các yếu tố đầu vào đó được công bố trong các tài liệu chính thức của một nước thứ ba cùng trình độ phát triển và có nền kinh tế thị trường, chẳng hạn như Ấn Độ hoặc Indonesia, để xác định giá trị của các yếu tố đầu vào trên (Trong vụ kiện cá Tra và cá Basa của Việt Nam, DOC đã quyết định chọn Bangladesh làm nước thay thế). Phương pháp thay thế như thế này có thể dẫn đến một mức bán phá giá rất cao. Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu vẫn có cơ hội giành được tỉ lệ bán phá giá thấp. Nếu tỉ lệ đó là 0%, giống như một số sản phẩm của Trung Quốc đã đạt được (nhựa PVA), thì đây là tình huống khả quan nhất bởi nhà xuất khẩu sẽ được giải phóng khỏi thuế chống bán phá giá và sẽ không phải đối phó với quá trình xem xét lại mà DOC và USITC tiến hành hàng năm. Nếu tỉ lệ bán phá giá là lớn hơn 2% và USITC xác định là có thiệt hại hoặc có đe doạ vật chất, thì rắc rối chỉ mới bắt đầu bởi kết quả còn nằm ở giai đoạn xem xét lại. Các nhà xuất khẩu thường không hiểu rằng, giai đoạn điều tra ban đầu của DOC không quyết định mức thuế chống bán phá giá mà nhà nhập khẩu Mỹ phải trả. Giai đoạn điều tra ban đầu chỉ đơn giản xác định mức tiền ký quỹ mà nhà nhập khẩu Mỹ phải nộp cho Cục Hải quan Mỹ khi nhập khẩu sản phẩm vào Mỹ. Một khi có yêu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá của DOC, thì một năm sau đó, trong quá trình xem xét lại, DOC mới xác định mức thuế chống bán phá giá mà nhà nhập khẩu phải trả. Nếu Nếu DOC xác định mức thuế chống bán phá giá thực tế thấp hơn mức tiền ký quỹ, thì nhà nhập khẩu sẽ được nhận lại số tiền chênh lệch cộng với một khoản tiền lãi từ Cục Hải quan Mỹ. Trong trường hợp ngược lại, nhà nhập khẩu sẽ phải thanh toán số tiền chênh lệch trên cộng với một khoản tiền lãi. Đã có rất nhiều trường hợp nhà nhập khẩu Trung Quốc do đạt được một mức bán phá giá thấp nên đã không tham gia vào quá trình xem xét lại và để cho DOC tự thẩm tra các thông tin mà nhà xuất khẩu cung cấp. Kết quả là mức bán phá giá tăng lên gấp 3-4 lần. Việc tăng đột ngột của mức bán phá giá đồng nghĩa với việc tăng lên của mức thuế chống bán phá giá và điều này có thể khiến các nhà nhập khẩu Mỹ phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Mức bán phá giá tìm được trong giai đoạn xem xét lại cũng chính là mức thuế chống bán phá giá đối với các lô hàng nhập khẩu trong tương lai, vì vậy một mức thuế chống bán phá giá cao ở giai đoạn xem xét lại sẽ có thể đóng cửa hoàn toàn thị trường Mỹ đối với nhà xuất khẩu. Do vậy vấn đề mấu chốt không chỉ là giành được một mức bán phá giá thấp ở DOC trong giai đoạn điều tra ban đầu mà còn phải giành được cả một mức bán phá giá thấp trong giai đoạn xem xét lại được tiến hành hàng năm. Điều này có nghĩa là khi nào nhà xuất khẩu vẫn còn ý định xuất hàng sang thị trường Mỹ thì họ vẫn phải tiếp tục theo đuổi vụ kiện chống bán phá giá và đương nhiên vẫn phải trả tiền án phí và tiếp tục nguy cơ bị mất thị trường Mỹ. Thoả ước đình chỉ Tương tự như quá trình xem xét lại, việc đạt được một thoả ước đình chỉ cũng có cái giá của nó. Như đã trình bày ở trên, rất khó có thể đạt được thỏa ước đình chỉ. Trong số hơn 80 vụ kiện bán phá giá đối với Trung Quốc, DOC chỉ thực hiện thoả ước đình chỉ trong 2 trường hợp : Sản phẩm mật ong và thép Carbon1. Ngay cả trong vụ kiện cá Tra và cá Basa của Việt Nam, mặc dù chính phủ Việt Nam đã đề xuất một thoả ước đình chỉ với DOC nhưng sau nhiều lần đàm phán, hai bên vẫn không thể đạt được thoả ước trên. Thỏa ước đình chỉ là một thoả ước giữa chính quyền Mỹ và chính quyền nước xuất khẩu theo đó, DOC dừng việc điều tra bán phá giá lại và đưa ra một mức hạn ngạch cùng với một mức giá sàn cho mặt hàng thuộc diện điều tra. Trong vụ kiện sản phẩm mật ong của Trung Quốc, lý do để DOC đưa ra một thoả ước đình chỉ là do tác động từ phía nhà nhập khẩu Mỹ và nhà sản xuất Mỹ chuyên đóng gói sản phẩm mật ong để bán tại thị trường Mỹ. Nếu sản phẩm mật ong của Trung Quốc bị loại bỏ hoàn toàn ra khỏi thị trường Mỹ thì các nhà đóng gói bao bì Mỹ sẽ phải đối mặt với nguy cơ thất nghiệp. Các nhà đóng gói, do đó, đã tạo được đủ áp lực để buộc chính quyền Mỹ đi đến một thoả ước với chính quyền Trung Quốc. Tuy nhiên, thỏa ước đình chỉ cũng có cái giá của nó. Sau khi có được thoả ước đình chỉ trong vụ kiện sản phẩm mật ong của Trung Quốc, các nhà xuất khẩu Trung Quốc cảm thấy thực sự mệt mỏi bởi mức giá sàn mà DOC đưa ra là quá cao và làm giảm đáng kể kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mật ong. Giành phần thắng tại USITC Nếu nhà xuất khẩu không thể giành phần thắng tại DOC, thì nên tận dụng cơ hội để có thể giành phần thắng tại USITC. Giành phần thắng tại USITC cũng rất khó nhưng vẫn còn dễ dàng hơn là giành phần thắng tại DOC bởi nếu có được sự hợp tác hiệu quả giữa nhà xuất khẩu nước ngoài với nhà nhập khẩu Mỹ thì có thể gây đủ áp lực để USITC đưa ra phán quyết rằng : Hành vi bán hàng ở mức giá thấp hơn mức hợp lý LTFV không gây thiệt hại vật chất hoặc đe doạ gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất Mỹ. Chiến lược để giành phần thắng trong giai đoạn điều tra ban đầu. Dưới đây là một vài biện pháp để các nhà xuất khẩu vận dụng vào ba cơ hội trên nhằm tăng khả năng giành phần thắng trong giai đoạn điều tra sơ bộ và chính thức của DOC và USITC A. Kết hợp với nhà nhập khẩu. Chiến lược quan trọng nhất mà các nhà xuất khẩu cần áp dụng để tăng cơ hội giành phần thắng là kết hợp với nhà nhập khẩu Mỹ. Trong rất nhiều vụ kiện, các nhà xuất khẩu đã quyết định đơn độc đối chọi lại bên nguyên đơn và cuối cùng kết quả đã không được tốt đẹp. Mặc dù, nhà xuất khẩu nước ngoài có thể nắm rõ các số liệu của họ, nhưng họ không nắm vững tình hình thực tế tại thị trường Mỹ. Do đó, tại USITC, nhà nhập khẩu Mỹ là bên duy nhất có thể biện hộ một cách hiệu quả chống lại sự tố cáo của bên nguyên đơn rằng : Hành vi bán dưới mức hợp lý-LTFV gây thiệt hại cho ngành sản xuất Mỹ. Trong một số vụ kiện sản phẩm của Trung Quốc như chất Antimony Trioxide, thuốc nhuộm Sulfur, chất Silicon Carbide và đường Saccharin, các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã giành được phần thắng tại USITC bởi sự xuất hiện và lời làm chứng của các nhà nhập khẩu Mỹ. Trong vụ kiện đường Saccharin, chính do lời khai của nhà nhập khẩu mà USITC đưa ra phán quyết xử thắng cho nhà xuất khẩu. Cụ thể, nhà nhập khẩu Mỹ đã biện hộ rằng : nếu sản phẩm đường Saccharin của Trung Quốc bị loại ra khỏi thị trường Mỹ do thuế chống bán phá giá, thì các nhà nhập khẩu Mỹ sẽ nhập đường Saccharin của Hàn Quốc để thay cho sản phẩm của Trung Quốc. Sản phẩm của Hàn Quốc tuy có chất lượng kém hơn nhưng giá lại thấp hơn sản phẩm của Trung Quốc. Sau khi xem xét kỹ, USITC thấy rằng việc áp dụng một mức thuế chống bán phá giá chẳng đem lại lợi ích gì cho các nhà sản xuất Mỹ mà chỉ đem lại lợi ích cho các nhà xuất khẩu Hàn Quốc, do đó quyết định xử thắng cho các nhà xuất khẩu Trung Quốc. Ngoài ra, các nhà nhập khẩu Mỹ còn có thể thuyết phục các khách hàng của họ, tức là người tiêu dùng hoặc các nhà sản xuất khác, biện hộ cho nhà xuất khẩu tại DOC và USITC. Như trong trường hợp chất Silicon Carbide, nhà nhập khẩu đã thuyết phục General Motors, nhà sản xuất xe hơi lớn nhất nước Mỹ và cũng là một khách hàng lớn của sản phẩm Silicon Carbide, biện hộ cho nhà xuất khẩu Trung Quốc. Lời biện hộ từ phía General Motors là một trong những lý do chính khiến USITC xử thắng cho nhà xuất khẩu Trung Quốc. Một lý do quan trọng khác để hợp tác với nhà nhập khẩu là yếu tố Chính trị. Các nhà sản xuất Mỹ nhập khẩu nguyên liệu thô của nhà xuất khẩu có thể tạo ra một số áp lực về chính trị đối với DOC và USITC bởi một phần việc làm của nước Mỹ có thể phải phụ thuộc vào việc nhập khẩu nguyên liệu thô của nhà xuất khẩu. Như đã đề cập ở trên, trong vụ kiện sản phẩm mật ong của Trung Quốc, chính các công ty sản xuất bao bì đóng gói đã tạo ra một số áp lực chính trị đáng kể đối với DOC để đạt được thoả ước đình chỉ. Trong vụ kiện thuốc nhuộm Sulfur của Trung Quốc, các nhà sản xuất Mỹ đã nhập khẩu thuốc nhuộm từ Anh, Ấn Độ, và Trung Quốc, rồi trộn các loại thuốc nhuộm này lại với nhau tại cơ sở của họ ở Nam Carolina. Do cơ sở này thuê một số lượng nhân công đáng kể ở Nam Carolina, các nhà nhập khẩu và sản xuất nói trên đã có thể thuyết phục hai thượng nghị sĩ đại diện cho bang này viết một bức thư biện hộ cho nhà xuất khẩu Trung Quốc. Do tình hình việc làm tại Mỹ vào thời điểm đó đang lâm vào thời kỳ khủng hoảng nên hai thượng nghị sĩ này đã ủng hộ các nhà sản xuất nhập khẩu thuốc nhuộm của Trung Quốc. Những áp lực chính trị đã khiến USITC dễ dàng hơn trong việc xử thắng cho nhà xuất khẩu Trung Quốc. Áp lực về chính trị biện hộ cho nhà nhập khẩu Mỹ và nhà xuất khẩu không thể đảm bảo phần thắng cho nhà xuất khẩu nhưng nó giúp củng cố sự bình đẳng trong “sân chơi”. Cụ thể, DOC sẽ không thể nặng tay với bên bị đơn nếu DOC biết rằng có áp lực chính trị từ phía mình. Tuy nhiên, nếu thiếu đi nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu sẽ không thể tạo được áp lực về chính trị và DOC sẽ dễ dàng hơn khi đưa ra phán quyết có lợi cho ngành sản xuất nội địa Mỹ. Nếu không có sự hợp tác của các nhà nhập khẩu Mỹ, thì rõ ràng nhà xuất khẩu sẽ không thể có được những hỗ trợ như vậy. Nhà nhập khẩu cũng có thể giúp nhà xuất khẩu tìm được những giá trị thay thế thấp nhất, giúp làm giảm mức bán phá giá. Như đã trình bày trong Chương I, trong các vụ kiện bán phá giá đối với các quốc gia có nền kinh tế được coi là phi thị trường như Việt Nam, bên nguyên đơn sẽ tìm một quốc gia khác có nền kinh tế thị trường để thay thế cho Việt Nam ( như đã đề cập, khi đệ đơn kiện, bên nguyên đơn phải chứng minh được rằng có tồn tại hành vi bán phá giá, do đó bên nguyên đơn cũng phải thu thập thông tin để xác định “giá trị thông thường” giống như các bước mà DOC và USITC phải tiến hành). Hiển nhiên, để đảm bảo phần thắng cho mình, bên nguyên đơn sẽ cố gắng tìm những giá trị thay thế cao nhất có thể và sẽ thuyết phục DOC và USITC sử dụng những gì mà họ tìm thấy. Điều này rõ ràng bất lợi cho nhà xuất khẩu. Với sự tham gia của nhà nhập khẩu, bên bị đơn sẽ có thêm cơ hội thuyết phục DOC và USITC không sử dụng những giá trị quá cao mà bên nguyên đơn tìm được. Điều này đã được minh chứng qua một số vụ kiện đối với các sản phẩm của Trung Quốc. Đơn cử như vụ kiện chất Sulfanilic Acid Bài học rút ra từ những vụ kiện bán phá giá của Mỹ đối với Trung Quốc-William.E.Perry . Trong vụ kiện này, công ty của Mỹ là Nation Ford đã yêu cầu DOC sử dụng giá nội địa của chất Aniline tại Ấn Độ. Nếu DOC sử dụng mức giá này thì mức bán phá giá sẽ tăng gấp ba. Tuy nhiên, công ty Clariant Chemicals, một nhà nhập khẩu chất Sulfanilic Acid của Trung Quốc đã đưa ra bằng chứng chứng minh được rằng các nhà sản xuất Ấn Độ cũng nhập khẩu chất Aniline để sản xuất chất Sulfanilic Acid chứ không dùng chất Aniline nội địa. Chính nhờ bằng chứng đó mà DOC đã quyết định sử dụng mức giá nhập khẩu chất Aniline vào Ấn Độ chứ không sử dụng mức giá nội địa. Hơn nữa ngay cả khi nhà nhập khẩu Mỹ không thể giúp tạo ra những hậu thuẫn để nhà xuất khẩu có thể giành phần thắng tại USITC, thì họ vẫn có thể giúp nhà xuất khẩu giảm được thuế chống bán phá giá trong giai đoạn xem xét lại. Nhà nhập khẩu Mỹ sẽ giúp đỡ bằng cách : sau khi DOC đã chính thức ban hành yêu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá, nhà nhập khẩu sẽ đồng ý nhập khẩu một vài chuyến hàng để làm cơ sở cho việc giảm mức bán phá giá trong giai đoạn xem xét lại. Bởi nhà nhập khẩu Mỹ là một nhân tố quan trọng đối với khả năng giành thắng lợi trong các vụ kiện bán phá giá, nên các nhà xuất khẩu không nên tách mình ra khỏi các nhà nhập khẩu. Thay vào đó, các nhà xuất khẩu nên kết hợp với các nhà nhập khẩu Mỹ để tạo thành một liên minh cùng tham gia vào vụ kiện. Nhà nhập khẩu Mỹ sẽ giữ vai trò chủ đạo tại USITC, còn nhà xuất khẩu giữ vai trò chủ đạo tại DOC. Trong rất nhiều trường hợp, các nhà nhập khẩu Mỹ còn đồng ý chia sẻ tiền án phí đối với các nhà xuất khẩu, giúp các nhà xuất khẩu giảm bớt gánh nặng về mặt tài chính. Sự thiện chí của các nhà nhập khẩu không chỉ đơn thuần xuất phát từ “tấm lòng” của họ mà thực ra là xuất phát từ chính bản thân quyền lợi của họ. Các nhà xuất khẩu cần hiểu rõ rằng không phải ai khác mà chính nhà nhập khẩu Mỹ là người phải gánh vác bất kỳ một sự tăng lên nào của mức bán phá giá tìm được trong giai đoạn xem xét lại. Sự tăng lên của mức bán phá giá trong giai đoạn xem xét lại đồng nghĩa với sự tăng lên trong mức thuế chống bán phá giá chính thức và điều đó có nghĩa là nhà nhập khẩu Mỹ đang nợ Cục Hải quan Mỹ một khoản tiền tương đương với mức tăng lên đó (cộng với một khoản lãi). Chính bởi lý do này mà sẽ không khó khăn gì cho nhà xuất khẩu để có được sự hợp tác của nhà nhập khẩu Mỹ. B. Xác định rõ các yếu tố đầu vào Khi trả lời bảng câu hỏi của DOC, một vấn đề quan trọng là phải xác định rõ những yếu tố đầu vào cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Như đã trình bày ở trên, đối với các nền kinh tế phi thị trường, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) không sử dụng các mức chi phí thực tế của nhà xuất khẩu mà chỉ sử dụng các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất, tức là DOC chỉ cần biết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, nhà xuất khẩu cần sử dụng bao nhiêu nguyên liệu thô, bao nhiêu nhân công, bao nhiêu năng lượng,…Việc kê khai cả những yếu tố đầu vào không cần thiết có thể làm tăng mức giá trị thông thường mà DOC xác định được, tạo thêm khả năng phát hiện ra hành vi bán phá giá. Do vậy, nhà xuất khẩu cần xác định rõ những yếu tố đầu vào trực tiếp liên quan đến quá trình sản xuất để tránh những ảnh hưởng không có lợi đối với bản thân nhà xuất khẩu khi DOC xác định mức bán phá giá. C. Chuẩn bị sẵn sàng Sau khi DOC đưa ra phán quyết sơ bộ trong giai đoạn điều tra ban đầu hoặc trước khi đưa ra phán quyết sơ bộ trong giai đoạn xem xét lại, DOC sẽ trực tiếp đến khảo sát cơ sở của nhà xuất khẩu để thẩm tra các mức doanh số và các chi phí mà nhà xuất khẩu đệ trình lên DOC. Trong giai đoạn này, các nhà xuất khẩu cần hết sức nghiêm túc bởi nó có ảnh hưởng đến tính xác thực của các thông tin mà nhà xuất khẩu cung cấp cũng như ảnh hưởng tới quan điểm của các điều tra viên. D. Thái độ đối với các điều tra viên Một vấn đề chính khác là nhà xuất khẩu nên đối xử như thế nào đối với các điều tra viên. Trong quá trình thẩm tra, các điều tra viên đương nhiên không phải là bạn của các nhà xuất khẩu, nhưng cũng không phải kẻ thù. Các điều tra viên được DOC tuyển dụng để thẩm tra độ chính xác của các thông tin mà nhà xuất khẩu cung cấp cho DOC, tức là họ được trả lương để chứng thực sự hoài nghi của DOC. Do đó, nhiệm vụ của các điều tra viên là phát hiện ra các sai sót, nhưng chừng nào các sai sót đó là không đáng kể và nhà xuất khẩu tỏ ra có thiện chí hợp tác thì các điều tra viên cũng sẽ có thể bỏ qua. Mặt khác, cũng sẽ là một sai lầm nếu nhà xuất khẩu tỏ ra quá thân thiện với các điều tra viên bởi sự thân thiện quá mức sẽ dễ dàng dẫn đến những sai lầm trong việc tiết lộ các thông tin không có lợi cho nhà xuất khẩu. Biện hộ tại USITC Một sai lầm mà các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã mắc phải đó là không tham dự buổi họp báo do USITC tổ chức. Một khi đã bị kiện bán phá giá, rất nhiều nhà xuất khẩu và sản xuất của Trung Quốc muốn tới Mỹ nhưng họ thường tới không đúng thời điểm. Buổi họp báo của DOC thường không quan trọng. Vào thời điểm họp báo, ban điều tra của DOC đã có được quyết định của mình và việc xuất hiện tại buổi họp báo của DOC chẳng có một chút ảnh hưởng nào tới kết quả của vụ kiện. Hoàn toàn ngược lại với buổi họp báo của DOC, buổi họp báo mà USITC tổ chức là hết sức quan trọng và lời biện hộ của nhà xuất khẩu tại buổi họp báo này có thể tạo ra sự khác biệt giữa việc thắng và thua kiện. Trong buổi họp báo này, đại diện của USITC sẽ nghe lời biện hộ của bên nguyên đơn và bên bị đơn. Điều mà USITC quan tâm trong buổi họp báo này là khả năng đe doạ gây ra các thiệt hại vật chất. Trong phán quyết của mình, Uỷ ban Thương mại Quốc tế (USITC) phải xác định xem liệu sản phẩm của nhà xuất khẩu có đe doạ gây thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất Mỹ trong tương lai gần hay không và một phần phán quyết này dựa vào thái độ của nhà xuất khẩu. Nếu các nhà xuất khẩu tham dự buổi họp báo, thì sự xuất hiện và lời biện hộ của họ sẽ giúp USITC khẳng định vững chắc hơn rằng : Hoạt động xuất khẩu của họ sẽ không đe doạ ngành sản xuất Mỹ trong tương lai. Còn nếu các nhà xuất khẩu không tham dự buổi họp báo, thì đối với USITC, hành động đó có thể coi là biểu hiện của những mối đe doạ thiệt hại vật chất trong tương lai. Đơn cử như vụ kiện chất Antimony Trioxide Bài học rút ra từ những vụ kiện bán phá giá của Mỹ đối với Trung Quốc-William.E.Perry , chính nhờ vào lời biện hộ mạnh mẽ của một quan chức thuộc Bộ Thương mại Trung Quốc rằng : Chính phủ Trung Quốc sẽ ban hành giấy phép xuất khẩu để bảo tồn nguồn dự trữ tự nhiên, nên USITC đã thừa nhận rằng kim ngạch xuất khẩu chất Antimony Trioxide của Trung Quốc sẽ không tăng cao và do đó không đe doạ tới ngành sản xuất của Trung Quốc. Tóm lại, trong mỗi vụ kiện, việc tham gia và nỗ lực tìm ra bằng chứng để chứng minh rằng sản phẩm của nhà xuất khẩu sẽ không đe doạ ngành sản xuất Mỹ trong tương lai sẽ giúp nhà xuất khẩu có thêm cơ hội giành phần thắng tại USITC và do đó giành phần thắng chung cuộc. F. Hợp tác toàn diện và tận dụng mọi cơ hội để giành thắng lợi. Sau khi quyết định tham gia vào vụ kiện, một số nhà xuất khẩu thường mắc sai lầm trong việc không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà DOC đưa ra trong Bảng câu hỏi, mà chỉ đưa ra những thông tin mà họ sẵn sàng trả lời. Điều này sẽ có thể dẫn đến những bất lợi đối với nhà xuất khẩu. Trong vụ kiện cá Tra và cá Basa của Việt Nam, các doanh nghiệp xuất khẩu không đáp ứng đầy đủ thông tin mà DOC yêu cầu đã phải chịu một tỉ lệ bán phá giá chung là 63.88%, mức cao nhất mà DOC phát hiện được ( mức bán phá giá của các doanh nghiệp Việt Nam là từ 36.84% đến 63.88%). Trong khi đó, các doanh nghiệp như Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thuỷ sản An Giang (Agifish), Công ty TNHH Vĩnh Hoàn, Công ty TNHH Nam Việt, Công ty XNK Nông sản Cần Thơ (CATACO),…, những công ty đã đáp ứng được các yêu cầu trả lời của DOC, đã được hưởng mức bán phá giá riêng dựa trên các thông tin mà công ty đó cung cấp. Hơn thế nữa, mức bán phá giá mà các doanh nghiệp này được hưởng thấp hơn đáng kể so với mức bán phá giá chung. Tỉ lệ bán phá giá áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm cá Tra và cá Basa sang thị trường Mỹ Nhà sản xuất / Nhà xuất khẩu Tỉ lệ bán phá giá (%) Agifish 44.76 Vĩnh Hoàn 36.84 Nam Việt 52.90 CATACO 45.55 Afiex 44.66 Cafatex 44.66 Đà Nẵng 44.66 Mekonimex 44.66 QVD 44.66 Việt Hải 44.66 Vĩnh Long 44.66 Tỉ lệ chung áp dụng cho các doanh nghiệp khác 63.88 Trích từ bản thông báo về phán quyết chính thức của DOC (Ký hiệu : 3510-DS-P) Ngoài ra, một sai lầm mà các nhà xuất khẩu thường hay mắc phải là không tận dụng hết mọi cơ hội. Như đã trình bày ở trên, việc giành thắng lợi đồng nghĩa với việc các nhà xuất khẩu có thể tiếp tục xuất khẩu sản phẩm của họ sang thị trường Mỹ. Nhưng các nhà xuất khẩu thường tin rằng cách tốt nhất để giành thắng lợi một vụ kiện bán phá giá là giành được một mức bán phá giá thấp tại DOC. Nếu nhà xuất khẩu giành được mức bán phá giá thấp nhất, họ có thể trở thành nhà xuất khẩu duy nhất của chủng loại sản phẩm thuộc diện điều tra. Tuy nhiên, chiến lược như vậy có thể tạo thêm khó khăn trong quá trình xem xét lại bởi đối với các doanh nghiệp Việt Nam, DOC không sử dụng các mức chi phí thực tế để tính mức bán phá giá mà sử dụng mức giá của nước thay thế. Việc dồn hết hy vọng vào việc giành thắng lợi tại DOC sẽ khiến nhà xuất khẩu phải thất vọng bởi chiến thắng ở DOC luôn rất khó khăn trong khi đó lại bỏ qua cơ hội chiến thắng dễ dàng hơn ở USITC. 2.2.4. Chiến lược trong giai đoạn xem xét lại. Một khi nhà xuất khẩu không thể giành phần thắng trong giai đoạn điều tra ban đầu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ, thì DOC sẽ áp dụng một mức thuế chống bán phá giá đối với nhà xuất khẩu đó. Và các nhà xuất khẩu thường bỏ cuộc khi nhận được kết quả trên. Tuy nhiên, như đã trình bày ở các phần trước, mức thuế chống bán phá giá mà DOC áp dụng trong giai đoạn này chưa phải là mức thuế chính thức. Do vậy, các nhà xuất khẩu vẫn còn có “tia hy vọng” trong giai đoạn xem xét lại. A. Các chuyến hàng mẫu và quá trình xem xét định kỳ Các nhà xuất khẩu có thể hạ mức bán phá giá xuống bằng cách xuất những lô hàng mẫu. Những lô hàng này có thể chỉ có khối lượng đến một tấn, với mục đích tạo cơ sở cho quá trình xem xét lại. Đây là một trong những lý do để hợp tác với nhà nhập khẩu Mỹ. Nếu như các nhà xuất khẩu có thể tạo thành một liên minh với các nhà nhập khẩu Mỹ, thì nhà nhập khẩu Mỹ sẽ có thể sẵn sàng tiếp tục nhập hàng với số lượng thấp. Mặc dù, nhà nhập khẩu sẽ phải cân nhắc vấn đề thuế chống bán phá giá nhưng cũng sẽ tương đối dễ dàng để thực hiện việc này bởi thông thường, sau khi DOC áp dụng một mức thuế chống bán phá giá, thì mức giá trên thị trường Mỹ sẽ tăng lên đáng kể. Đây là một xu hướng hoàn toàn tất yếu do tác động từ thực tế khách quan lẫn yếu tố tâm lý. Do vậy, nhà xuất khẩu sẽ có cơ hội tăng mức giá của mình và làm giảm mức bán phá giá. Tuy nhiên chuyến hàng mẫu cần phải được tính toán về mọi mặt sao cho có thể tạo ra một mức bán phá giá thấp nhất. Trước khi thực hiện chuyến hàng này, các luật sư cần thảo luận với các nhà sản xuất để tìm cách giảm các yếu tố sản xuất đầu vào. Thời gian của chuyến hàng này cũng phải được tính toán sao cho chuyến hàng “vào” thị trường Mỹ trước thời điểm tròn một năm áp dụng thuế chống bán phá giá. Ví dụ, nếu yêu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá của DOC có hiệu lực từ ngày 1/10/2001, thì chuyến hàng mẫu phải qua được Cục Hải quan Mỹ trước ngày 1/10/2002. Nếu chuyến hàng mẫu đến muộn hơn thời điểm này, thì nó sẽ không được sủ dụng làm cơ sở cho quá trình xem xét lại. B. Nhà xuất khẩu mới Nếu một nhà xuất khẩu thuộc quốc gia và thuộc mặt hàng chịu thuế chống bán phá giá nhưng không tham dự vào quá trình điều tra ban đầu và không có liên hệ gì với các nhà xuất khẩu thuộc giai đoạn điều tra ban đầu, thì nhà xuất khẩu đó có thể yêu cầu tiến hành quá trình xem xét lại áp dụng cho các nhà xuất khẩu mới. Quá trình xem xét lại áp dụng cho các nhà xuất khẩu mới có vẻ dễ dàng hơn quá trình xem xét lại áp dụng cho các nhà xuất khẩu đã tham gia vào quá trình điều tra ban đầu. Sự dễ dàng hơn thể hiện ở chỗ : Trước hết, thay vì phải đợi một năm, các nhà xuất khẩu mới có thể yêu cầu tiến hành xem xét lại 6 tháng một lần. Hơn thế nữa, chuyến hàng mẫu không cần phải “vào” Mỹ trước thời điểm tròn một năm áp dụng thuế chống bán phá giá. Để có thể yêu cầu tiến hành xem xét lại, nhà xuất khẩu cần đệ trình bằng chứng về việc giao dịch, như hoá đơn hoặc hợp đồng, cùng với lời yêu cầu. Quá trình xem xét lại áp dụng cho nhà xuất khẩu mới thường ngắn hơn quá trình xem xét lại thông thường và nhà nhập khẩu những lô hàng của nhà xuất khẩu mới cũng chỉ phải ký quỹ một khoản tiền thấp hơn mức thông thường (mức áp dụng cho các nhà nhập khẩu nhập hàng của các nhà xuất khẩu đã tham gia vào quá trình điều tra ban đầu). Do đó, rõ ràng có lợi thế đối với các nhà xuất khẩu mới. 2.2.5. Rẻ hơn không có nghĩa là tốt hơn Một vấn đề của các nhà xuất khẩu đặc biệt là các nhà xuất khẩu Việt Nam, đó là do sự eo hẹp về tài chính nên các nhà xuất khẩu thường thuê các luật sư với mức thù lao thấp. Các nhà xuất khẩu đôi khi quên rằng các công ty luật cũng là một loại hình kinh doanh, và đối với luật sư, thời gian là tiền bạc. Nếu mức thù lao quá thấp, thì luật sư sẽ không thể quá chú tâm vào một vụ kiện mà phải quan tâm đến các vụ kiện khác có mức thù lao cao hơn. Việc trả một mức thù lao hợp lý có thể tạo điều kiện để các luật sư có cơ hội tìm kiếm được những bằng chứng có lợi và khả năng thắng kiện sẽ cao hơn. 2.3 Nhóm các giải pháp khác Ngoài hai nhóm giải pháp trên, nhà xuất khẩu còn có thể áp dụng một số biện pháp khác nhằm đối phó với luật chống bán phá giá nói chung và luật chống bán phá giá của Mỹ nói riêng. 2.3.1 Đa dạng hoá thị trường Giải pháp này cần được các nhà xuất khẩu áp dụng nhằm hạn chế những thiệt hại mà thuế chống bán phá giá tạo ra. Các nhà xuất khẩu cũng hiểu rằng một khi DOC đã áp dụng một mức thuế chống bán phá giá cho sản phẩm của họ thì điều đó có nghĩa là thị trường Mỹ đã gần như đóng cửa đối với sản phẩm của họ đặc biệt là trong trường hợp nhà xuất khẩu nhận được một mức bán phá giá cao. Và nếu như thị trường Mỹ là thị trường duy nhất cho sản phẩm của nhà xuất khẩu thì tức là công việc kinh doanh của nhà xuất khẩu coi như đã chấm dứt. Chúng ta có thể cảm nhận được điều này trong vụ cá Tra và cá Basa của Việt Nam và cũng thấy được sự khó khăn đến nhường nào mà các bà con nông dân phải đối mặt trong tình trạng khủng hoảng đầu ra cho sản phẩm cá Tra và cá Basa của Việt Nam. Dĩ nhiên, việc đa dạng hoá thị trường không phải là một công việc đơn giản mà có thể muốn là muốn được ngay. Để đạt được điều này không chỉ có sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc đa dạng hoá sản phẩm để phù hợp với các đặc điểm của từng thị trường khác nhau, mà còn cần có sự phối hợp nhịp nhàng với Bộ chủ quản, với các cơ quan chức năng, có như vậy mới mong có được một hiệu quả như mong muốn. 2.3.2 Xây dựng một thương hiệu riêng Vấn đề thương hiệu giờ đây đã là một vấn đề chiến lược đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đối với các sản phẩm nông nghiệp, vấn đề này chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Trong kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh ra thị trường nước ngoài, thương hiệu không chỉ có tác dụng làm tăng giá trị của sản phẩm, tạo lòng tin cho người tiêu dùng mà còn, đối với vấn đề bán phá giá, giảm bớt ảnh hưởng của mức thuế chống bán phá giá. Cụ thể, khi sản phẩm có một thương hiệu riêng, nó sẽ được dễ dàng phân biệt với các sản phẩm đồng loại có cùng xuất xứ. Điều đó, sẽ dễ dàng hơn cho DOC trong việc xác định mức bán phá giá của nhà xuất khẩu đó và cũng dễ dàng hơn cho USITC trong việc xác định mức độ thiệt hại vật chất mà nhà xuất khẩu đó gây ra. Và nếu nhà xuất khẩu có thái độ hợp tác với hai cơ quan trên thì hy vọng nhận được một mức bán phá giá thấp không phải là một điều xa vời. 2.3.3 Luôn sẵn sàng với nguy cơ bị kiện bán phá giá Như đã nói ở trên, với tình hình phát triển của việc sử dụng luật chống bán phá giá hiện nay, thì việc các doanh nghiệp Việt Nam với các lợi thế về chi phí đầu vào trở thành đối tượng thường xuyên của luật chống bán phá giá sẽ sớm trở thành hiện thực, đặc biệt là khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Do đó, việc các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu sẵn sàng chuẩn bị theo hầu các vụ kiện bán phá giá sẽ không hề thừa chút nào. Để có thể ở trong tư thế sẵn sàng, các nhà xuất khẩu cần chuẩn bị đầy đủ các tài liệu liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đơn cử như số liệu về các chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất, các chi phí về quản lý, chi phí tài chính và các khoản chi phí chung khác, số liệu về giá cả các yếu tố đầu vào trên thế giới cũng như ở một số quốc gia có khả năng được sử dụng làm thị trường thay thế cho Việt Nam,…. Việc chuẩn bị sẵn sàng sẽ hạn chế sự bỡ ngỡ cũng như những sai sót không đáng có như trong vụ kiện cá Tra và cá Basa. Trong vụ kiện này, do không chuẩn bị sẵn sàng, một số doanh nghiệp như công ty Nam Việt đã luôn chậm trễ trong việc cung cấp các thông tin mà DOC và USITC yêu cầu, dẫn đến việc luôn phải xin ra hạn. Hơn thế, các thông tin này là không đầy đủ và luôn phải bổ sung trong suốt quá trình điều tra (trong trường hợp của công ty Nam Việt, công ty này đã quên không khai báo một số yếu tố đầu vào như than dùng trong quá trình chế biến thức ăn, trấu dùng trong quá trình sản xuất sản phẩm phụ,…). Chính những sai sót này đã khiến bên nguyên đơn có cớ để công kích, tạo sự bất lợi cho chúng ta. Do đó, để tránh những bất lợi không đáng có, các doanh nghiệp và các nhà xuất khẩu cần có sự chuẩn bị sẵn sàng với nguy cơ bị kiện bán phá giá. KẾT LUẬN Qua những nét sơ lược về một số khía cạnh liên quan đến bộ luật chống bán phá giá của Mỹ được trình bày trong ba chương của bản khoá luận này, chúng ta có thể kết luận rằng : Luật chống bán phá giá của Mỹ là một bộ luật không hề đơn giản như khái niệm bán phá giá và chống bán phá giá. Sự không đơn giản không chỉ thể hiện trong các quy định và quy trình thủ tục xử lý một vụ kiện bán phá giá, mà còn thể hiện trong bản chất của bộ luật này. Rõ ràng, bộ luật chống bán phá giá của Mỹ không chỉ đơn thuần là một công cụ loại bỏ những hành vi cạnh tranh không bình đẳng mà, sâu xa hơn, còn là một công cụ bảo hộ nền sản xuất của Mỹ. Đây sẽ là một trở lực lớn cho thương mại thế giới nói chung và đặc biệt là cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình buôn bán với các bạn hàng Mỹ. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam, những doanh nghiệp hướng tới thị trường ngoại quốc, cần có những đối sách thích hợp để đối phó với bộ luật chống bán phá giá của Mỹ cũng như bộ luật chống bán phá giá của các quốc gia khác bởi trong tương lai, khi các hàng rào thương mại cổ điển được dõ bỏ dần theo yêu cầu của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, luật chống bán phá giá sẽ là một công cụ đắc lực trong việc đối phó với hàng nhập khẩu, và do vậy, sẽ được sử dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT DOC Bộ Thương mại Hoa Kỳ (Department of Commerce) LTFV Mức giá thấp hơn mức hợp lý (Less than fair value) NBER Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia USITC Uỷ ban Thương mại Hoa Kỳ (US International Trade Council) TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu hướng dẫn về chống bán phá giá - UNCTAD - 4/2001 2. Các qui định về chống bán phá giá của Hoa Kỳ – Hội đồng Thương mại quốc tế Hoa Kỳ ( USITC ) – 12/2002 Luật chống bán phá giá của Mỹ : Bộ lụât thương mại có quyền lực nhất – Willliam E.Perry, Williams, Mullen, Christian&Dobbins – 3/2003 Luật chống bán phá giá của Mỹ : Đối mặt với thực tế Brink Lindsey – Trung tâm nghiên cứu chính sách thương mại thuộc Viện CATO Hoa Kỳ – 1/2000 Những thiệt hại mà luật chống bán phá giá dành cho người Mỹ – Dan Ikenson - Trung tâm nghiên cứu chính sách thương mại thuộc Viện CATO Hoa Kỳ – 1/2000 Chống bán phá giá : Kinh nghiệm của Mỹ – Bài học cho Indonesia –Gary C.Hufbauer – Viện kinh tế quốc tế – Bộ Công nghiệp và Thương mại Indonesia Bài học rút ra từ những vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ đối với Trung Quốc- William E.Perry Bằng cách nào các công ty Indonesia có thể giành phần thắng trong các vụ kiện bán phá giá của Mỹ – William E.Perry - 5/2000 Những tranh chấp giữa các qui định về chống bán phá giá của Mỹ với các qui định của WTO – Báo cáo của WTO - 9/2000

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuy định và thực tiễn chống bán phá giá của mỹ và giải pháp cho các doanh nghiệp việt nam.doc
Luận văn liên quan