Tư vấn và đầu tư chứng khoán là quá trình phân tích các cổ phiếu và đưa ra các lời khuyên liên quan đến chứng khoán, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu lại nguồn tài chính cho khách hàng.
Trong hoạt động tư vấn, công ty chứng khoán cung cấp thông tin, cách thức đầu tư và loại chứng khoán nên đầu tư đối với từng đối tượng khách hàng của mình. Hoạt động này đòi hỏi người môi giới phải chuyên nghiệp và có nhiều kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm. Mặt khác, tính trung thực của công ty chứng khoán có tầm quan trọng rất lớn trong việc thu hút khách hàng. Thông thường hoạt động tư vấn đầu tư luôn đi kèm với các hoạt động khác như lưu ký chứng khoán, môi giới, bảo lãnh phát hành
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2666 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quỹ hưu trí, quỹ đầu tư và các trung gian khác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g được tập̣ trung lại thành các nguồn vốn lớn cho các nhà chuyên nghiệp sử dụng trong lĩnh vực đầu tư kiếm lợi và phân chia cổ tức cho các cổ đông góp vốn . Các khoản tiền tiết kiệm này thay vì được các nhà đầu tư đưa cho mô giới chứng khoán để trực tiếp mua chứng khoán trên thị trường thì lại được góp vào quỹ đầu tư để thực hiện việc đầu tư tập thể.
2.2 Các lợi ích của việc đầu tư qua quỹ
Khi các nhà đầu tư cảm thấy không đủ kiến thức, kinh nghiệm và thời gian để trực tiếp hoạt động trên thị trường chứng khoán, họ tìm đến những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp đẻ ủy thác số tiền đầu tư của mình. Như vậy, so với hình thức đầu tư trực tiếp của từng cá nhân, hình thức đầu tư thông qua quỹ đầu tư có những lợi thế nhất định.
2.2.1. Đa dạng hoá danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro
Với một số tiền ít ỏi, nhà đầu tư muốn phân tán rủi ro rất khó khăn do gặp phải vấn đề giá trị của các chứng khoán đầu tư hay độ lớn của các dự án . Do đóa, việc quỹ ̃ đầu tư hình thành trên cơ sở tập̣ hợp những số tiền nhỏ thành một khoản lớn sẽ giúp các nhà đầu tư lớn hơn. Việc đa dạng hoá danh mục đầu tư duy trì được sự tăng trưởng tốt ngay cả khi có một vài loại cổ phiếu trong danh mục bị giảm giá, còn các cổ phiếu khác lại tăng giá hơn mức mong đợi, taọ ra sư cân bằng cho danh mục. Bởi vì các công ty trên thương trương với những đặc điểm hoạt động của các ngành nghề khác nhau sẽ có chu kỳ tăng trưởng và suy thoái khác nhau, việc đầu tư vào nhiều loại cổ phiếu giúp cho mức lợi nhuận của các danh mục luôn ở mức cân bằng.
2.2.2 Quản lí đầu tư chuyên nghiệp
Các quỹ đầu tư phát triển được quản lí bởi các chuyên gia có kỹ năng và giàu có kinh nghiệm được lựa chọn và sàng lọc, làm tăng cường tính chuyên nghiệp̣ của việc đầu tư. Một quỹ đầu tư với đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn, có khả năng phân tích và chuyên sâu và các lĩnh vực đầu tư sẽ có lợi thế hơn so với những cá nhân riêng lẻ, không chuyên nghiệp.
2.2.3 Chi phí hoạt động thấp
Tiết kiệm chi phí đầu tư, việc đầu tư thông qua quỹ đầu tư sẽ tạo đăng kí tiết kiệm được các chi phí tính trên từng đồng vốn đầu tư và thường được hưởng các ưu đãi về chi phí giao dịch.
Ngoài ra, bên cạnh lợi ích của nhà đầu tư, bản thân các doanh nghiệp sử dụng vốn cũng có những lợi ích nhất định;
- Các doanh nghiệp sẽ có nhiều khả năng thu hút được nguồn vốn với chi phí thấp hơn khi vay qua hệ ̣ thống ngân hàng.
- Việc đầu tư vào doanh nghiệp thông qua các quỹ đầu tư thường có giới hạn nhất định nên các doanh nghiệp vẫn đảm bảo tự chủ trong hoạt động kinh doanh mà không bị chi phối như các cổ đông lớn của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, trong quá trìh hoạt động, quỹ đầu tư không chỉ thuần tuý là nơi cung cấp các thông tin tin cậy và là nơi đánh giá hiệu quả các dự án, qua đó giúp các doanh nghiệp đánh giá được tính khả thi của các dự án đầu tư.
2.3 Các bên tham gia
Các bên tham gia hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán là công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và người đầu tư.
2.3.1. Công ty quản lý quỹ
Công ty quản lý quỹ thực hiện quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Công ty quản lý quỹ đươc thành lập̣ theo giấy phép hoạt động do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp và được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc trách nhiệm hữu hạn với vốn pháp định 5 tỷ đồng. Trong quá trình hoạt động, công ty quản lý quỹ có thể thành lập và quản lý đồng thời nhiều quỹ đầu tư.
2.3.2. Ngân hàng giám sát
Ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản, lưu kí tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán và giám sát công ty quản lý quỹ trong việc bảo vệ lợi ích của người đầu tư.
Điều kiện để được làm ngân hàng giám sát phải là ngân hàng thương mại đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam và được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động lưu ký.
2.3.3. Người đầu tư
Người đầu tư có nghĩa vụ góp vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán qua việc mua chứng chỉ quỹ đầu tư và được hưởng lợi ích từ việc đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán.
2.4 Vai trò của quỹ đầu tư trên thi ̣trường chứng khoán
- Góp phần huy động vốn cho việc phát triển nền kinh tế nói chung và góp phần vào sự phát triển của thị trường sơ cấp.
- Các quỹ đầu tư tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, cung cấp vốn cho phát triển các ngành. Với chức năng này, các quỹ đầu tư giữ vai trò quan trọng trên thi ̣ trường sơ cấp.
- Góp phần vào việc ổn định thị trường thứ cấp.
- Với vai trò là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp̣ trên thị trường chứng khoán, các quỹ đầu tư góp phần bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp, góp phần vào sự phát triển của thị trường này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp phân tích đầu tư khoa học.
- Tạo các phương thức huy động vốn đa dạng qua thị trường chứng khoán. Khi nền kinh tế phát triển và các tài sản tài chính ngày càng tạo khả năng sinh lợi hơn, người đầu tư có khuynh hướng muốn có nhiều dạng công cụ tài chính để đầu tư. Để đáp ứng nhu cầu của người đầu tư, các quỹ đầu tư hình thành dưới nhiều dạng sản phẩm tài chính khác nhau như: thời gian đáo hạn, khả năng sinh lợi, độ an toàn,……
- Xã hội hóa hoạt động đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư tự tạo một phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ, ít có sự hiểu biết về chứng khoán ưu thích. Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư bằng việc thu hút tiền đầu tư quỹ.
2.5 Các loại hình quỹ đầu tư
2.5.1 Căn cứ vào quy mô, cách thức và tính chất góp vốn
Quỹ đầu tư chia làm 2 loại :
2.5.1.1. Quỹ đầu tư dạng đóng (Closed – end funds)
Đây là quỹ đầu tư mà theo điều lệ quy định thường chỉ tạo vốn qua một lần bán chứng khoán cho công chúng. Quỹ đầu tư dạng đóng có thể phát hành cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Quỹ không được phát hành thêm bất kì một loại cổ phiếu nào để huy động thêm vốn và cũng không mua lại các cổ phiếu đã phát hành. Những người tham gia góp vốn đầu tư không được phép rút vốn bằng cách bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho chính quỹ đầu tư. Tuy nhiên, chính việc cấm rút vốn làm cho cấu trúc của quỹ rất chặt chẽ, nên các chứng chỉ quỹ đầu tư dạng đóng thường được niêm yết giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán, vì vậy người đầu tư có thể rút vốn bằng cách bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư trên Sở giao dịch chứng khoán. Với tính chất cơ cấu vốn ổn định cho phép quỹ đầu tư dạng đóng có đăng kí đầu tư vào các dự án lớn và các chứng khoán có tính thanh khoản cao.
Quỹ đầu tư dạng đóng dùng số vốn của mình đầu tư vào các doanh nghiệp hay thị trường chứng khoán. Sau đó lại dùng số tiền và vốn lãi thu đươc để đầu tư tiếp. Như vậy, quy mô vốn của loại quỹ này chỉ có thể tăng lên thư các khoản lợi nhuận thu được mà thôi.
Việt Nam hiện có 22 quỹ đầu tư đang hoạt động theo mô quỹ đóng với 5 quỹ đại chúng va 17 quỹ thành viên.
Ví dụ: Ngày 14/3/2006, Quỹ Đầu tư Việt Nam (VIF) với quy mô vốn 1.600 tỷ đồng (tương đương 100 triệu USD) chính thức khai trương tại Hà Nội.VIF là quỹ đầu tư thành viên dạng đóng của 20 tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam cùng với hai thành viên sáng lập là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) (góp 96 tỷ đồng) và Vietnam Partners LLC (góp 80 tỷ đồng), có quy mô huy động tối đa là 1.600 tỷ đồng, hoạt động trong thời gian tám năm.VIF được phép đầu tư nắm giữ các loại cổ phần, chứng khoán, đầu tư vốn trực tiếp vào các dự án; được phép tổ chức góp vốn theo tiến độ đầu tư và vay vốn để phối hợp đầu tư. VIF sẽ ưu tiên đầu tư vào một số dự án có tiềm năng sinh lời cao như dự án bất động sản (khách sạn, văn phòng cho thuê...), các dự án khai khóang (titan, boxit nhôm), các lĩnh vưc công nghiệp, dịch vụ, bưu chính viễn thông.
2.5.1.2. Quỹ đầu tư dạng mở (Open end funds)
Quỹ đầu tư dạng mở còn được gọi là quỹ tương hỗ (Mutual funds). Khác với quỹ đầu tư dạng đóng, các quỹ này luôn phát hành thêm những cổ phiếu mới để tăng vốn và cũng sẵn sàng chuộc lại những cổ phiếu đã phát hành. Các cổ phiếu của quỹ được bán trực tiếp cho công chúng không thông qua thị trường chứng khoán. Muốn mua cổ phiếu của quỹ đầu tư dạng mở chúng ta không qua mô giơi, không phải trả tiền hoa hồng và có thể viết thư hoặc điện thoại trực tiếp cho quỹ xin các giấy tờ cần thiết, do đó tạo cơ hội cho bất kì ai cũng có thẻ tham gia và trở thành chủ sở hữu của quỹ. Tất cả các cổ phiếu phát hành của quỹ này đề là cổ phiếu thường, so với quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở có lợi thế rõ ràng về khả năng huy độg, mở rộng quy mô vốn, do đó nó linh hoạt hơn trong việc lựa chọn các dự án đầu tư.
Do cấu trúc hoạt động của quỹ có tính chất “mở” nên rất thuận tiện cho người đầu tư trong việc rút vốn vào bất cứ lúc nào nếu họ thấy hoaṭ động của quỹ không hiệu quả. Tuy nhiên, đây cũng là điểm bất lợi cho quỹ vì cơ cấu vốn không ổn định cho nên quỹ thường xuyên phải duy trì một tỷ lệ khá lớn những tài sản có tính thanh khoản cao như trái phiếu Chính phủ hoặc cổ phiếu được niêm yết trên SGDCK, chứ ít có khả năng đầu tư vào dự án lớn có tiềm năng và những dự án có lợi nhuận lớn nhưng có độ rủi ro cao.
Do việc đòi hỏi tính thanh khoản cao, hình thức quỹ mở này mới chỉ tồn tại ơ
các nước có nền kinh tế và thị trường chứng khoán phát triển như Châu Âu, Mỹ,
Canada… và chưa có mặt tại Việt Nam.
QUỸ ĐẦU TƯ DẠNG MỞ
QUỸ ĐẦU TƯ DẠNG ĐÓNG
- Loại chứng khoán phát hành là cổ phiếu thường.
- Số lượng chứng khoán hiện hành luôn thay đổi.
- Chào bán ra công chúng liên tuc̣ .
- Quỹ sẵn sàng mua lại các cổ phiếu phát hành theo giá trị tài sản thuần.
- Cổ phiếu được phép mua trực tiếp từ quỹ đầu tư, người bảo lãnh phát hành hay mô giới thương gia.
- Giá mua là giá trị thuần cộng với lệ phí bàn (giá trị tài sản thuần được xác định bằng giá trị chứng khoán trong hồ sơ).
- Lệ phí bán được cộng thêm vào giá trị tài sản thuần. Mọi phí tổn mua lại phải công bố rõ ràng trong bản cáo bạch ( Prospectus)......
- Có thể phát hành cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu.
- Số lượng chứng khoán hiện hành cố định.
- Chào bán ra công chúng chỉ một lần.
- Không mua lại các chứng khoán đã phát hành.
- Cổ phiếu được phép giao dịch trên TTCK chính thức hay phi chính thức (OTC).
- Giá mua được xác định bởi lượng cung cầu. Do đó giá mua có thể cao hoặc thấp hơn giá trị tài sản thuần.
2.5.2 Căn cứ vào cơ cấu tổ chức – điều hành
Quỹ đầu tư được tổ chức dưới 2 hình thức là quỹ đầu tư dạng công ty (Corporate funds) và quỹ ̃ đầu tư dạng tín thác (Trust funds).
2.5.2.1. Quỹ đâù tư daṇg công ty :
Theo mô hình công ty, quỹ đầu tư được xem là một pháp nhân đầy đủ, nhưng người góp vốn trở thành các cổ đông và có quyền biểu quyết và có quyền bầu ra Hội đồng quản trị quỹ.̃ Đây là tổ chức cao nhất trong quỹ đứng ra thuê công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản tài sản quỹ và giám sát việc tuân thủ hoạt động của 2 tổ chức này. Trong đó,́ ngân hàng giám sát đóng vai trò bảo quản các tài sản quỹ, nhận hoặc giao chứng khoán cho quỹ khi thực hiện lệnh giao dịch. Còn công ty quản lý quỹ có trách nhiệm cử người điều hành và sử dụng vốn của quỹ để đầu tư vào các chứng khoán hay các tài sản sinh lời khác. Mô hình quỹ đầu tư tổ chức dưới dạng công ty thường được sử dụng ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển, tiêu biểu là thị trương Mỹ và Anh.
2.5.2.2. Quỹ đầu tư dạng tín thác
Theo mô hình thác, quỹ đầu tư không được xem là một pháp nhân đầy đủ, mà chỉ là quỹ chung vốn giữa những người đầu tư để thuê chuyên gia quản lý quỹ chuyên nghiệp đầu tư sinh lời. Theo mô hình này, vai trò của công ty quản lý quỹ khá nổi bật. Đó là tổ chức đứng ra thành lập và sử dụng vốn thu được vào nơi có hiệu quả nhất. Còn ngân hàng giám sát đóng vai trò là người bảo quản an toàn vốn và tài sản của người đầu tư, giám sát các hoạt động của công ty quản lý quỹ trong việc tuân thủ điều lệ quỹ đầu tư. Mô hình quỹ đầu tư tổ chức dưới dạng tín thác thường được sử dụng ở các thị trường chứng khoán mới nổi (emerging market) đặc biệt là các thị trường chứng khoán đang phát triển ở Châu Á.
2.5.3 Căn cứ vào nguồn vốn huy động
2.5.3.1 Quỹ đầu tư tập̣ thể (Quỹ công chúng)
Quỹ đầu tư tập̣ thể là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Nhưng người đầu tư vào quỹ có thể là các cá nhân hoặc tổ chức kinh tế, nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ, ít am hiểu về thị trương chứng khoán. Quỹ đầu tư tập thể cung cáp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro, chi phí đầu tư thấp với hiệu quả đầu tư cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại.
Tại VN hiện nay có 4 quỹ công chúng đang được niêm yết trên thị trường chứng khoán là: VF1, VF4, BF1, PF1.
2.5.3.2 Quỹ ̃đầu tư tư nhân (Quỹ thành viên )
Khác với quỹ đầu tư tập̣ thể, quỹ đầu tư tư nhân huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một số nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, là các thẻ nhân hoặc các định chế tài chính hoặc các tập̣ đoàn kinh tế lớn. Các nhà đầu tư vào các quỹ tư nhân thường đầu tư lượng vốn tương đối lớn và đổi lại họ đòi hỏi các yêu cầu về quản lý quỹ rất cao. Họ sẵn sàng chấp thuận khả năng thanh khoản thấp hơn so với các nhà đầu tư nhỏ – những người đầu tư vào các quỹ tập thẻ – và vì thế họ khống chế việc đầu tư trong các quỹ tư nhân.
Một đặc điểm khác của các quỹ tư nhân là các nhà quản lí quỹ thường tham gia kiểm soát hoạt động của các công ty nhận đầu tư. Việc kiểm soát này có thể dưới hình thức là thành viên Hội đồng quản tri,̣ cung cấp tư vấn hoặc có ảnh hưởng đáng kể tới các thành viên của Hội đồng quản trị của công ty nhận đầu tư.
Tại Việt Nam ngày càng xuất hiện nhiều các Quỹ đầu tư tư nhân từ các nước đang tìm đối tác là những doanh nghiệp nhỏ và vừa để hợp tác đầu tư như Thunderbird, Auxesia, Leopard, CB Solutions, Foreya Partners, American Indochina…
2.6. Cơ cấu tổ chức và hoạt động
2.6.1 Cơ cấu tổ chức
2.6.1.1 Hội đồng quản trị
Là cơ quan đại diện cho các chủ sở hữu cuả quỹ đầu tư do cổ đông bầu ra, là cơ quan duy nhất có quyền quyết định mọi vấn đề của quỹ. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm triển khai các chính sách đầu tư, chọn công ty quản lý quỹ và giám sát việc tuân thủ các quyết định đề ra. Theo định kì, Hội đồng quản trị sẽ họp xem xét, kiểm tra giám sát tình hình điều hành của công ty quản lý quỹ để giải quyết những vấn đề nảy sinh. Chỉ có các quỹ đầu tư dạng công ty mới có Hội đồng quản trị quỹ.
2.6.1.2 Ban đại diện quỹ
Là các thành viên đại diện quỹ do đại hội người đầu tư bầu ra và hoạt động theo những nguyên tắc được quy định trong điều lệ quỹ. Ban đại diện quỹ thường được thành lập trong các quỹ đầu tư chứng khoán theo mô hình tín thác.
2.6.1.3 Công ty quản lí quỹ
Là công ty có chức năng quản lí,́ điều hành các quỹ đầu tư chứng khoán.
2.6.1.4 Công ty tư vấn đầu tư
Là công ty có trách nhiệm lập̣ các dự án đầu tư và phân tích các thông tin để trình Hội đồng quản trị xem xét , đồng thời cùng công ty quản lý quỹ thực hiện các dự án đầu tư. Thông thường công ty quản lý quỹ kiêm luôn vai trò tư vấn đầu tư cho quỹ đầu tư chứng khoán.
2.6.1.5 Ngân hàng giám sát bảo quản
Là ngân hàng thương mại, thực hiện việc bảo quản, lưu kí tài sản của quỹ đồn thời giám sát công ty quản lý quỹ trong việc bảo vệ lợi ích cuả cổ đông.
2.6.1.6 Cổ đông của quỹ
Là những người mua góp vốn mua cổ phần do quỹ phát hành, có quyền lợi như các cổ đông của các công ty cổ phần bình thường.
2.6.1.7 Người hưởng lợi
Là người mua chứng chỉ cuả quỹ theo mô hình tín thác và được hưởng lợi trên kết quả hoạt động của quỹ. Tuy nhiên, nhà đầu tư nắm giữ chứng chỉ quỹ đầu tư không chỉ có quyền biểu quyết cũng như thay đổi chính sách đầu tư của quỹ .
2.6.1.8 Công ty kiểm toán
Là đơn vị xác nhận báo cáo tài chính của quỹ đầu tư.
2.7 Hoạt động của quỹ đầu tư
2.7.1 Hoạt động huy động vốn
Phương thức phát hành:
Đối với các quỹ đầu tư dạng công ty, quỹ phát hành cổ phần để huy động vốn hình thành nên quỹ. Tương tư như các công ty cổ phần, cổ đông của quỹ cũng nhận được các cổ phiếu mình sở hữu tại công ty.
Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, thông thường lượng vốn dự kiến hình thành nên quỹ được chia thành các đơn vị (tương tự như cổ phần cuả quỹ dạng công ty). Qũy sẽ phát hành chứng chỉ đầu tư, xác nhận số đơn vị tương đương vơi số vốn góp của người đầu tư vào quỹ. Cũng như cổ phiếu phổ thông khác, chứng chỉ đầu tư có thể phát hành dưới hình thức ghi danh hoặc vô danh và có thể được chuyển nhượng như cổ phiếu.
Định giá phát hành
Việc định giá cổ phiếu chứng chỉ đầu tư lần đầu để lập nên quỹ do các tổ chức đứng ra thành lập̣ quỹ xác định. Đối với quỹ theo mô hình công ty, việc định giá cổ phiếu quỹ là do các tổ chức bảo lãnh phát hành xác định. Đối với quỹ đầu tư dạng hợp đồng, công ty quản lý quỹ sẽ xác định giá chào bán ban đầu các chứng chỉ đầu tư của quỹ. Chi phi ́ chào bán lần đầu (bao gồm chi phí cho các đại ̣ lý, chi phí in ấn tài liệu ...) được khấu trừ từ tổng giá trị cuả quỹ huy động được.
2.7.2 Giao dịch chứng chỉ đầu tư
Đối với các quỹ đầu tư dạng đóng ở bất kì mô hình nào, sau khi phát hành, chứng chỉ quỹ đầu tư được niêm yết trên thị trường chứng khoán và giao dịch như bất kỳ loại cổ phiếu niêm yết nào. Chính vì vậy, giá của chứng chỉ quỹ đầu tư do cung cầu thì trường quyết định và dao động xung quanh giá trị tài sản ròng. Đối với quỹ đầu tư dạng mở, sau khi phát hành, chứng chỉ đầu tư cuả quỹ được phát hành thêm và mua lại tại chính công ty quản lý quỹ hoặc thông qua các đại lý của công ty. Giá chứng chỉ đầu tư của quỹ luôn gắn liền với giá trị tài sản ròng cuả quỹ.
2.7.3 Hoạt động đầu tư
Bất kỳ quỹ đầu tư chứng khoán nào được thành lập cũng nhằm đạt được những mục tiêu ban đầu như sau :
- Thu nhập̣: Nhanh chóng có nguồn chi trả cổ tức.
- Lãi vốn: làm gia tăng giá trị các nguồn vốn ban đầu thông qua đánh giá lại các cổ phiếu trong danh mục quỹ đầu tư của quỹ.
- Thu nhập̣ và lãi vốn: Sự kết hợp giữa 2 yếu tố trên.
Để đạt được các mục tiêu ban đầu, mỗi quỹ đều hình thành các chính sách đầu tư riêng của mình, trên cơ sở đó có thể xây dựng danh mục đầu tư nhằm được mục tiêu đã đề ra. Người đầu tư sẽ lựa chọn và quyết định đầu tư vào quỹ theo khả năng và mức độ chịu rủi ro của mình dựa vào các thông tin về chính sách và mục tiêu đầu tư của quỹ. Chính sách và mục tiêu đầu tư của quỹ thường thể hiện ở tên gọi của quỹ.
2.8 Các hạn chế đầu tư của quỹ công chúng
Vốn và tài sản của quỹ công chúng chứng chỉ được đầu tư vào chứng khoán hoặc tài sản khác phù hơp với điều lệ quỹ và quy định của pháp luật. Việc đầu tư vốn và tài sản của quỹ công chúng phải tuân thủ các hạn chế sau:
- Một quỹ công chúng không được góp vốn hoặc đầu tư vào chứng chỉ quỹ của chính quỹ công chúng đó hoặc của một quỹ khác.
- Một quỹ công chúng không được đầu tư vào quá 15% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành.
- Một quỹ công chúng không được đầu tư quá 20% tổng giá trị tài sản quỹ vaò chứng khoán đang lưu hành của một tổ chứng phát hành.
- Một quỹ công chúng không được đầu tư quá 10% tổng giá trị tài sản quỹ vào bất động sản.
- Một quỹ đầu tư công chúng không được đầu tư quá 30% tổng giá trị tài sản quỹ vào các công ty trong cùng một tập̣ đoàn hay một nhóm công ty có quan hệ sở hữu lẫn nhau.
- Vốn và tài sản của quỹ công chúng không được dùng để cho vay hoặc bảo lãnh cho bất kỳ khoản vay nào, không được phép vay để tài trợ hoạt động của quỹ công chúng, trừ trường hợp vay ngắn hạn để trang trải các chi phí cần thiết cho quỹ công chúng. Tổng giá trị các khoản vay của quỹ công chúng không được vượt quá 1% giá trị tài sản ròng của quỹ công chúng tại mọi thời điểm. Thời hạn vay tối đa không được vượt quá 30 ngày.
- Các quỹ công chúng không bị hạn chế đầu tư vào các trái phiếu chính phủ.
Cơ cấu đầu tư của quỹ công chúng có thể sai lệch nhưng không vượt quá 10% và sai lệch phải là kết quả của việc tăng hoặc giảm thì giá tài sản đầu tư va các khoản thanh toán hợp pháp của quỹ công chúng
CHƯƠNG 3: CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH KHÁC
Hiệp hội cho vay và tiết kiệm (Savings and loan associations)
Quá trình hình thành
Ra đời từ năm 1831 ở Lyon và Philadelphia, Hiệp Hội cho vay và tiết kiệm chủ yếu cho vay để mua nhà, đất chậm trả đối với những đối tuợng có thu nhập thấp trong xã hội. Cho đến những năm 1900, hoạt động cho vay chính cùa nó cũng vẫn còn xoay quanh hình thức cho vay có cầm cố thế chấp nhà cửa (Mortgage Loan) với những người lao động thiếu tiền tiêu dùng hoặc làm ăn với lãi suất hàng năm khá thấp.
Ngày nay, sự khác biệt về phạm vi hoạt động giữa các hiệp hội tiết kiệm và cho vay với các Ngân hàng thương mại hầu như không đáng kể. Chúng đã trở thành những đối thủ cạnh tranh đáng gờm của các Ngân hàng thương mại trong nhiều lĩnh vực.
Mục đích thành lập:
- Nhằm tập hợp các đối tượng nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu vay vốn của Ngân hàng Chính sách Xã hội để sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống; cùng tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống; cùng liên đới chịu trách nhiệm trong việc vay vốn và trả nợ Ngân hàng.
- Các tổ viên trong tổ giúp đỡ nhau từng bước có thói quen dành tiền tiết kiệm để tạo lập nguồn vốn tự có và quen dần với sản xuất hàng hoá, hoạt động tín dụng và tài chính.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ viên trong việc vay vốn và trả nợ ngân hàng đảm bảo duy trì và an toàn được vốn vay của mỗi thành viên trong tổ.
Hình thức hoạt động
Giống như một ngân hàng thuơng mại, nguồn vốn hoạt động của Hiệp hội cho vay và tíêt kiệm, viết tắt là S&Ls (Savings and Loan Association) – có nguồn gốc từ các “Liên hiệp xây dựng” (Building society) ở Anh, chủ yếu huy động tiền gửi của nhân dân và các tổ chức kinh doanh. Cho đến ngày nay, các hiệp hội này có vốn từ các khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn,… chiếm 70% đến 80% tổng vốn hoạt động (hay tài sản nợ). Khoảng 10% là vay mượn từ các nguồn khác, và 10% còn lại là vay của chính quyền địa phương, trung ương hoặc các NHTG khác.
Tiền vốn thu được chủ yếu để cho vay bất động sản (chủ yếu là nhà ở) với thời hạn dài. Thời kì đầu, các hiệp hội này bị giới hạn trong các khoản cho vay bất động sản và không được cung cấp các tài khoản thanh toán. Nhưng từ những năm 80 trở đi, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay đã được phép cung cấp các tài khoản thanh toán, cho vay tiêu dùng và thực hiện hàng loạt các hoạt động khác mà trước đây chỉ giới hạn ở các Ngân hàng thương mại.
Hình thức đi đến quyết định cho vay của nó cũng rất khác lạ. Có ít nhiều tuơng tự với hình thức “chơi hụi” mà người Trung Hoa hay tổ chức ở các nơi, kể cả ở Việt Nam hiện nay:
- Người muốn vay tiền của hiệp hội truớc hết phải là thành viên của nó. Các thành viên này mỗi tháng đóng vào hiệp hội một khoản tiền nhất định (thường là nhỏ). Điều quan trọng là những khoản tiền nộp vào này được xem như một khoản tiền gửi, có lãi suất hàng tháng đàng hoàng.
- Tổng cộng các khoản đóng hàng tháng này của cả trăm họăc vài trăm thành viên hình thành một quỹ tiền rất lớn. Hiệp hội bắt đầu xét việc cho vay. Hàng thàng cũng có nhiều thành viên đăng ký vay. Những thành viên này được hệ thống vào một danh sách và được mang ra trước tất cả mọi thành viên để quyết định. Mỗi thành viên muốn vay tiền, lần lượt đề xuất mức lãi suất mà minh có khả năng trả cho tiền được vay. Dĩ nhiên, lãi suất này tối thiểu phải bằng mức lãi suất dùng để trả cho tiền gửi vào của mọi thành viên đã nói trên. Nguời nào đề xuất mức lãi suất cao nhất sẽ đuợc vay trong đợt ấy.
Điều khác nhau giữa loại hình này với “chơi hụi” của người Trung Hoa là người muốn vay phải đem khế ước (giấy tờ) nhà đến thế chấp khi vay, sau khi nhận được quyết định cho vay từ đấu giá lãi suất. Chính vì thế, không ai chạy được nợ cho nên người ta chỉ đưa ra những mức lãi suất cao vừa phải so với khả năng có thể làm ra lợi tức của họ. Không ai điên dại mà đưa ra lãi suất thật cao để trúng được vốn, rồi cuối cùng không thể làm ra nổi lợi tức để trả lãi cho vốn ấy, dẫn đến việc vỡ nợ, phá sản hoặc mất nhà.
Do đó, lãi suất cho vay và lãi suất trả tiền gửi của hiệp hội là thuộc vào lọai thấp nhất so với các tổ chức tài chính khác kể từ khi nó được hình thành cho đến những thập niên đầu thế kỷ XX. Rất nhiều hiệp hội được thành lập với mục đích kiếm thêm thu nhập cho các thành viên nghèo của nó. Vào năm 1929, cả Mỹ có hơn 12.000 tổ chức như thế.
Bảng 2. là sự khái quát về tính chất và hoạt động của hiệp hội này. Tại Pháp, cho đến những thời gian gần đây nhất, hơn 90% vốn của hiệp hội là tiền gửi của các thành viên, và cũng hơn 90% nguồn cho vay của nó cũng là cho các thành viên dưới hình thức cho vay có thế chấp nhà cửa. Ngoài khối lượng cho vay như trên, chỉ có chứng khoán của chính phủ là loại hình đầu tư phổ biến và hầu như là duy nhất mỗi khi những tổ chức này thừa tiền mặt. Mua sắm tài sản cố định chiếm không quá 0,1% tài sản có. Hoạt động của nó, như vậy là cực kỳ gọn nhẹ và an toàn.
Riêng tại Hoa Kỳ, trong những năm gần đây mặc dù đuợc Luật điều chỉnh năm 1980 cho phép mở rộng việc nhận tiền gửi không kỳ hạn và đối tượng cho vay, nhưng với cách thức hoạt động truyền thống trong bối cảnh cạnh tranh dữ dội của các NHTM cùng các tổ chức tài chính lớn khác, hiệp hội cho vay và tiết kiệm tại Mỹ đang mất dần khách hàng ở các thành phố lớn, chỉ còn hoạt động mạnh ở vùng ngoại ô và các bang nhỏ. Đến năm 1992, chỉ có 2.100 hiệp hội là trụ được ở thành phố.
TÀI SẢN CÓ
TÀI SẢN NỢ
Hạng mục
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Hạng mục
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Cho vay (có cầm cố
nhà) cho các thành viên
Chứng khoán dài hạn
Chứng khoán ngắn hạn
Tài sản cố định
TỔNG TÀI SẢN CÓ
494
11,8
39,2
1,0
546
90,5
2,2
7,2
0,1
100,0
Tiền gửi của các thành viên
Vay nợ nơi khác
Tài sản chưa trả lại
TỔNG TÀI SẢN NỢ
503,2
34,0
8,8
546
92,2
6,2
1,6
100,0
Ưu điểm
- Nó luôn luôn là một mô hình tốt cho việc khuyến khích tính chất tương trợ nhau cùng làm ăn, để cùng cải thiện thu nhập ở các thành phần nhân dân có mức lương thấp hoặc trung bình vốn rất phổ biến ở các nước đang phát triển.
- Thông qua hiệp hội, những nguời lao động nghèo có thể tạo ra những cơ hội làm ăn tốt hơn bằng đồng vốn huy động đuợc ở các thành viên. Nhờ thế họ có thề tự cải thiện được cuộc sống của chính mình và góp phần giúp đỡ những người khác, hạn chế bớt khoảng cách giữa giàu và nghèo trong đời sống kinh tế thị trường.
Nhược điểm
Các nhà kinh tế đều nhìn nhận rằng trong những nền kinh tế đã phát triển, hiệp hội cho vay và tiết kiệm với lãi suất thấp và tiêu chuẩn an toàn cao trong cho vay, sẽ không cạnh tranh nổi với mức độ giành giật đến chóng mặt cùng với nhiều rủi ro của các ngân hàng và tổ chức tài chính khổng lồ khác, với những lãi suất cao hấp dẫn do các đơn vị này đưa ra.
Các tổ chức tín dụng
Quá trình hình thành
- Được tổ chức như một công ty kinh doanh, hoạt động chính của tổ chức tín dụng cũng là kinh doanh tiền tệ.
- Ý kiến sớm nhất để hình thành mô hình tổ chức tín dụng được nêu ra ở Đức vào năm 1848 và lan dần đến Italia.
- Năm 1900, tổ chức tín dụng đầu tiên ở Bắc Mỹ được khai sinh tại Canada.
- Đến năm 1909, hình thức này mới được bắt chước ở Hoa Kỳ.
- Năm 1934, Quốc hội Mỹ ban hành Luật tổ chức tín dụng liên bang.
- Từ đó đến nay, tháng 6 năm 1996, Hoa Kỳ có 12.000 tổ chức tín dụng, Nhật Bản có hơn 3.000 tổ chúc chính thức và không chính thức.
Hình thức hoạt động
Được thành lập theo hình thức góp vốn cổ phần và hoạt động theo nguyên tắc tập thể, tự nguyện, hợp tác và bình đẳng.
Vào buổi đầu, tổ chức tín dụng mang tinh thần tương trợ cao. Theo cách hoạt động của những tổ chức tín dụng đầu tiên tại Đức vào thời điểm 1848, các thành viên của tổ chức tự động góp tiền vào cho quỹ mua các thẻ thành viên, để nhận một loại hình mà nay ta gọi là cổ phiếu. Sau đó, họ cùng nhau bầu ra người quản lý. Những người có cổ phiếu trong tay, hoặc mua được cổ phiếu của tổ chức, sẽ được hưởng quyền vay tiền của tổ chức khi cần. Số lượng vay tùy thuộc vào số cổ phiếu mà người muốn vay sở hữu, và cứ thế luân phiên nhau. Khi cần vốn thêm, các tổ chức lại phát hành thêm cổ phiếu, chấp nhận thêm những thành viên mới. Thông thường, tổ chức không cho người ngoài vay tiền. Ngoài cho các thành viên vay, quỹ cũng có thể đầu tư vào chứng khoán.
Cho đến năm 1992, phần lớn tính chất này vẫn không thay đổi.
Trước thập niên 70, tất cả các khoản vay của tổ chức đều là cho vay ngắn hạn. Sau năm 1980, một số tổ chức ở Đức, Pháp và Nhật đã bắt đầu cho vay dài hạn và cho vay có cầm cố, thế chấp. Tại Hoa Kỳ, sau năm 1980 với sự điều chỉnh Luật điều tiết tiền tệ, tổ chức tín dụng bắt đầu được phép nhận tiền gửi không kỳ hạn và cấp sổ séc cho người gửi.
- Ở Việt Nam, quỹ tín dụng tồn tại dưới dạng các tổ chức tín dụng hợp tác. Đây là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ Ngân hàng, do các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập để hoạt động Ngân hàng theo Luật Hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tổ chức tín dụng hợp tác gồm: Ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, Hợp tác xã tín dụng và các hình thức khác. Tuy nhiên, do bối cảnh đặc biệt của nền kinh tế Việt Nam, các HTX tín dụng trong nước giai đoạn 1987 - 1992 hoạt động không khác gì một ngân hàng với nguồn vốn huy động và đối tượng cho vay rất rộng rãi. Hoàn toàn không giống với nguyên lý của tổ chức tín dụng ở châu Âu. Từ năm 1992 đến nay, các HTX tín dụng đang được sắp xếp lại về tổ chức và hoạt động.
Theo Điều 64 Luật các tổ chức tín dụng: “Tín dụng hợp tác được huy động vốn của các thành viên và của các tổ chức, cá nhân để cho các thành viên vay. Việc cho các đối tượng không phải là thành viên vay phải được Đại hội thành viên hoặc Đại hội đại biểu chấp thuận và không được vượt quá tỉ lệ tối đa do Ngân hàng Nhà nước quy định”.
- Ở Mỹ, các liên hiệp tín dụng cũng có mô hình tương tự như quỹ tín dụng. Đây là các tổ chức cho vay có quy mô nhỏ, có tổ chức HTX, được tổ chức xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt (ví dụ các thành viên của một công ty). Mục đích của các liên hiệp này là cho các thành viên vay với mức lãi suất thấp nhất có thể. Họ thu nhận vốn bằng cách bán cổ phần mà họ mua. Các khoản vay từ quỹ chủ yếu phục vụ nhu cầu mua hàng hóa tiêu dùng hơn là mua nhà. Từ sau năm 1980, các liên hiệp tín dụng này cũng được phép phát hành các tài khoản tiền gửi thanh toán và có thể thực hiện các khoản cho vay bất động sản ngoài các khoản cho vay tiêu dùng.
Bảng 3. là Balance Sheet của một tổ chức tín dụng ở Hoa Kỳ vào tháng 1 năm 1992. Trong đó chúng ta có thể thấy rằng đến 91% vốn hoạt động thể hiện bên tài sản nợ là vốn do phát hành cổ phiếu, hay nói cách khác, vốn do các thành viên đóng góp vào. Bên tài sản có, 59% vốn là do các thành viên của tổ chức vay. Chỉ có 41% được đem đầu tư vào chứng khoán hoặc các tài sản khác. Mà thông thường vẫn là chứng khoán chính phủ và tiền mặt.
TÀI SẢN CÓ
TÀI SẢN NỢ
Hạng mục
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Hạng mục
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Cho các thành viên vay
Tiền mặt và chứng khoán
TỔNG TÀI SẢN CÓ
133
94
227
59
41
100,0
Vốn của các thành viên
Các loại vốn khác
TỔNG TÀI SẢN NỢ
206
21
227
91
9
100,0
Nguồn: National Credit Union Administration, Annual Report, 1992
Công ty chứng khoán
Khái niệm
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán, trao đổi các loại chứng khoán, là một bộ phận của thị trường tài chính. Thị trường chứng khoán có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động vốn và sử dụng vốn của nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán không giống như thị trường hàng hoá thông thường vì hàng hoá trên thị trường chứng khoán là các loại chứng khoán. Loại hàng hoá này không dễ dàng nhìn nhận đánh giá và chỉ có giá trị, không có giá trị sử dụng. Do đó giao dịch trên thị trường chứng khoán hoạt động không phải trực tiếp do người muốn mua hay muốn bán thực hiện. Việc quy định chứng khoán giao dịch trên thị trường chứng khoán thông qua môi giới sẽ đảm bảo các chứng khoán được đem giao dịch là những chứng khoán thực và hợp pháp đảm bảo lợi ích cho nhà đầu tư, từ đó giúp thị trường hoạt động liên tục, lành mạnh, công bằng và hiệu quả.
Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán cho thấy thị trường chứng khoán phát triển luôn kéo theo sự ra đời của nhiều công ty chứng khoán và những nhà môi giới chuyên nghiệp.
Công ty chứng khoán là một trong những tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép cho công ty chứng khoán hoạt động trên lĩnh vực chứng khoán có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và thực hiện chế độ hạch toán độc lập. Như vậy công ty chứng khoán thực chất là một doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán vớí các lĩnh vực hoạt động chính là tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, và tư vấn. Trên thực tế, một công ty chứng khoán không nhất thiết phải thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ trên, tùy theo loại hình nghiệp vụ mà công ty chứng khoán được cấp phép có đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định của loại hình nghiệp vụ đó không. Tuy nhiên nghiệp vụ môi giới vẫn được coi là nghiệp vụ cơ bản quan trọng mà hầu hết công ty chứng khoán nào cũng tham gia.
Sự phát triển của công ty chứng khoán luôn gắn liền với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Nhiều nước trên thế giới đã xem công ty chứng khoán là hạt nhân cơ bản của nghành công ghiệp chứng khoán, nó góp phần thúc đẩy nền tài chính quốc gia phát triển.
Phân loại
Dựa vào loại hình tổ chức
Hiện nay có ba loại hình tổ chức cơ bản của công ty chứng khoán đó là:
Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh
Công ty cổ phần
- Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, với các chủ sở hữu là các cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Giấy chứng nhận cổ đông của công ty không thể hiện trách nhiệm trả nợ của công ty mà thể hiện quyền lợi của người sở hữu đối với các tài sản của công ty. Người sở hữu giấy chứng nhận được gọi là cổ đông của công ty.
- Đại hội đồng cổ đông có quyền bầu bầu hội đồng quản trị của công ty. Hội đồng này sẽ đề ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vị quản lý khác để điều hành, quản lý công ty theo các chiến lược kinh doanh đã đề ra.
- Công ty vẫn tồn tại bình thường khi quyền sở hữu của công ty bị thay đổi
Công ty hợp danh
Là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở lên
- Thành viên được tham gia vào quá trình ra quyết định tổ chức quản lý là các thành viên hợp danh. Các thành viên này chịu trách nhiệm vô hạn về những nghĩa vụ tài chính của công ty bằng toàn bộ tài sản của mình. Còn lại, các thành viên không tham gia quản lý công điều hành công ty gọi là thành viên góp vốn, họ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ của công ty trong số vốn góp vào công ty trong giới hạn vốn góp của họ vào công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn
- Đây là loại hình công ty đòi hỏi trách nhiệm của các thành viên giới hạn trong số vốn mà họ đã góp vào công ty.
- Xét về phương tiện huy động vốn cũng đơn giản và linh hoạt hơn so với công ty hợp danh. Hơn nữa vấn đề tuyển đội ngũ quản lý cũng năng động hơn, không bị giới hạn bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh
3.3.2.2 Phân loại theo hình thức kinh doanh
Theo hình thức này thì công ty chứng khoán được chia thành những loại sau:
Công ty đầu tư ngân hàng:
- Loại hình công ty này phân phối mới được phát hành qua công chúng thông qua việc mua chứng khoán do công ty cổ phần phát hành và bán lại cho công chúng theo giá tính gộp cả lợi nhuận của công ty. Vì vậy công ty còn được gọi là nhà bảo lãnh phát hành.
Công ty môi giới:
- Hay còn được gọi là công ty thành viên vì nó là thành viên của sở giao dịch chứng khoán. Công việc chủ yếu của công ty môi giới chứng khoán là mua và bán chứng khoán cho khách hàng trên sở giao dịch mà công ty đó là thành viên.
Công ty buôn bán chứng khoán không nhận hoa hồng:
Công ty này nhận chênh lệch giá qua việc mua bán chứng khoán nên họ còn được gọi là nhà tạo lập thị trường.
Các công ty chứng khoán là đối tượng quản lý của các quy chế, nguyên tắc do Uỷ ban chứng khoán đã ban hành. Các quy chế này chi phối kinh doanh các công ty chứng khoán, kiểm soát họ trong các công ty chứng khoán với nhau và giữa công ty chứng khoán với khách hàng của họ. Tuy Vậy khách hàng ít khi biết được tất cả các nguyên tắc quy định này. Do vậy những nhà môi giới phải đóng vai trò là người bảo vệ cho khách hàng của họ, đảm bảo các tài liệu của họ phù hợp với những quy định đang được áp dụng nếu họ muốn được tiến hành kinh doanh hợp lệ.
Công ty giao dịch phi tập chung:
Công ty này mua bán chứng khoán trên thị trường phi tập chung ( OTC ). Hiện nay nhiều công ty có vốn lớn được nhà nước cho phép hoạt động trên cả ba lĩnh vực.
Công ty buôn bán chứng khoán
Là công ty đứng ra mua bán chứng khoán với chi phí công ty tự chịu. Như vậy để có lãi công ty phải bán chứng khoán với giá cao hơn giá mua vào. Do đó công ty này hoạt động với vai trò là người uỷ thác chứ không phải là đại lý nhận uỷ thác.
Công ty dịch vụ đa năng
Loại hình công ty này không bị giới hạn hoạt động ở một lĩnh vực nào của ngành công nghiệp chứng khoán. Ngoài các dịch vụ cơ bản họ còn cung cấp cho khách hàng dịch vụ niêm yết chứng khoán trên sở giao dịch chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, uỷ nhiệm giao dịch chứng khoán cho khách hàng trên thị trường OTC.
Vai trò
- Vừa là nhà đầu tư tham gia trực tiếp vào hoạt động của thị trường, vừa là cầu nối giữa nhà phát hành và các nhà đầu tư khác, cung cấp các dịch vụ cần thiết phục vụ cho hoạt động của thị trường.
- Góp phần duy trì và thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Dù thị trường chứng khoán mang hình thức sở giao dịch hay thị trường OTC thì sự góp mặt của các công ty chứng khoán là không thể thiếu.
3.3.3.1 Đối với các tổ chức phát hành
Mục tiêu khi tham gia thị trường của các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua phát hành các chứng khoán. Vì vậy thông qua hoạt động đại lý bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ cho nhà phát hành.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung gian. Theo nguyên tắc này nhà đầu tư và khách hàng không được phép trực tiếp trao đổi chứng khoán với nhau mà phải tiến hành thông qua trung gian môi giới.
3.3.3.2 Đối với nhà đầu tư
Thông qua các hoạt động bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư, môi giới và quản lý danh mục đầu tư công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí về thời gian và chi phí giao dịch cho nhà đầu tư, do đó hiệu quả đầu tư sẽ được nâng cao.
Đối với những hàng hoá thông thường, việc mua bán thực hiện qua khâu trung gian sẽ làm cho chi phí của người mua và người bán tăng lên. Nhưng đối với thị trường chứng khoán thì ngược lại, do các chứng khoán trên thị trường thường xuyên biến động mức độ rủi ro của các chứng khoán cao sẽ làm cho nhà đầu tư tốn kém chi phí thời gian và công sức để tìm hiểu thông tin trước khi ra quyết định đầu tư, do đó mà sẽ tốn kém hơn rất nhiều nếu không thực hiện qua trung gian. Thông qua các công ty chứng khoán với trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp cho nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách có hiệu quả.
3.3.3.3 Đối với thị trường chứng khoán
- Góp phần xác lập giá cả điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên để thông qua giá cuối cùng người mua và người bán phải thông qua công ty chứng khoán vì họ không được phép tham gia vào quá trình mua bán. Công ty chứng khoán là các thành viên của thị trường, do vậy nó cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các công ty chứng khoán cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Vì lẽ đó, giá cả mỗi loại chứng khoán đem giao dịch đều có sự tham gia định giá của các công ty chứng khoán.
- Góp phần làm tăng tính thanh khoản của tài sản tài chính. Thị trường chứng khoán có vai trò là một môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính. Nhưng các công ty chứng khoán mới thực sự là những người thực hiện vai trò này vì nó góp phần tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường sơ cấp do thực hiện các hoạt động bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán không những thực hiện chức năng huy động nguồn vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh mà còn thực hiện chức năng tạo tính thanh khoản cho các tài sản tài chính, vì các chứng khoán sau khi được phát hành sẽ được mua bán trên thị trường thứ cấp. Điều này làm giảm rủi ro và tạo ra tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư. Trên thị trường thứ cấp, do thực hiện các giao dịch mua và bán, các công ty chứng khoán giúp cho nhà đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Những hoạt động này nhằm làm tăng tính thanh khoản của các chứng khoán.
3.3.3.4 Đối với các cơ quan quản lý thị trường
Các công ty chứng khoán có vai trò cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý thị trường. Các công ty chứng khoán coa thể thực hiện được điều này do vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường. Việc cung cấp các thông tin vừa là quy định của hệ thống pháp luật vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của công ty chứng khoán vì các công ty chứng khoán cần phải hoạt động minh bạch và công khai. Các thông tin mà công ty chứng khoán cung cấp có thể là các giao dịch mua, bán chứng khoán trên thị truờng, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu, thông tin về các tổ chức phát hành và thông tin về các nhà đầu tư…vv.Nhờ những thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát thị truờng và chống lại các hiện tượng lũng đoạn, thao túng, bóp méo thị trường.
Tóm lại, công ty chứng khoán là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán, có vai trò hết sức quan trọng đối với đối với các chủ thể phát hành, các nhà đầu tư, đối với cơ quan quản lý thị trường và đối với thị trưòng chứng khoán nói chung. Những vai trò này được thể hiện thông qua các nghiệp vụ của các công ty chứng khoán.
3.3.4 Khái quát những nghiệp vụ chính của một công ty chứng khoán
3.3.4.1 Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện bên mua hoặc bên bán thực hiện giao dịch để hưởng hoa hồng. Theo đó các công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với các kết quả giao dịch mà mình đã quyết định.
3.3.4.2 Tự doanh chứng khoán
Tự doanh chứng khoán là các giao dịch bằng chính nguồn vốn kinh doanh của các công ty chứng khoán nhằm thực hiện mục đích đầu tư kinh doanh thu lợi cho chính công ty và gánh chịu mọi rủi ro từ hoạt động đầu tư của mình. Hoạt động tự doanh chứng khoán được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá, hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua cơ chế tạo lập thị trường. Lúc này công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một lượng chứng khoán nhất định của một loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với khách hàng để hưởng chênh lệch giá.
Khác với nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán chỉ làm trung gian thực hiện lệnh mua bán cho khách hàng để hưởng hoa hồng; đối với hoạt động tự doanh, công ty chứng khoán kinh doanh bằng chính nguồn vốn của mình. Vì vậy công ty chứng khoán đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn và có đội ngũ nhân viên có khả năng phân tích, trình độ chuyên môn và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý. Nhất là trong trường hợp công ty đóng vai trò là người tạo lập thị trường.
3.3.4.3 Đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là một trong những nghiệp vụ chính của công ty chứng khoán giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua chứng khoán của các tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua các chứng khoán chưa được phân phối trong đợt phát hành giúp bình ổn giá cả chứng khoán trong giai đoạn đầu ngay sau khi phát hành. Bảo lãnh phát hành sẽ giúp tổ chức phát hành chắc chắn hơn trong khả năng huy động vốn và có kế hoạch sử dụng vốn huy động hợp lý.
Qua hoạt động bảo lãnh phát hành, công ty chứng khoán thu được hoa hồng bảo lãnh. Hoa hồng này có thể là cố định, có thể là quy định riêng của từng công ty chứng khoán.
3.3.4.4 Quản lý danh mục đầu tư
Quản lý danh mục đầu tư là hoạt động quản lý nguồn tài sản uỷ thác của nhà đầu tư để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tổng hợp kèm theo đầu tư. Khách hàng uỷ thác tiền cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược đã định trước hay những thoả thuận mà khách hàng đã yêu cầu và chấp thuận.
Để thực hiện hoạt động quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng khoán và khách hàng phải ký một hợp đồng quản lý. Hợp đồng quản lý phải quy định rõ các điều khoản cơ bản: số tiền và thời hạn khách hàng uỷ thác cho công ty, mục tiêu đầu tư, quy trình đi đến quyết định đầu tư, giới hạn quyền hạn và trách nhiệm công ty và chi phí quản lý mà công ty phải thu.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có những phát sinh nào ngoài hợp đồng thì công ty phải xin ý kiến bằng văn bản của khách hàng và phải thực hiện theo đúng quy định của khách hàng. Ngoài ra công ty phải tách rời hoạt động này với hoạt động môi giới và hoạt động tự doanh, trách sử dụng vốn sai mục đích để kiếm lợi cho cá nhân.
3.3.4.5 Tư vấn và đầu tư chứng khoán
Tư vấn và đầu tư chứng khoán là quá trình phân tích các cổ phiếu và đưa ra các lời khuyên liên quan đến chứng khoán, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu lại nguồn tài chính cho khách hàng.
Trong hoạt động tư vấn, công ty chứng khoán cung cấp thông tin, cách thức đầu tư và loại chứng khoán nên đầu tư đối với từng đối tượng khách hàng của mình. Hoạt động này đòi hỏi người môi giới phải chuyên nghiệp và có nhiều kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm. Mặt khác, tính trung thực của công ty chứng khoán có tầm quan trọng rất lớn trong việc thu hút khách hàng. Thông thường hoạt động tư vấn đầu tư luôn đi kèm với các hoạt động khác như lưu ký chứng khoán, môi giới, bảo lãnh phát hành…
3.3.4.6 Các hoạt động phụ trợ
* Lưu ký chứng khoán
Là việc bảo quản, lưu trữ các chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán tại công ty. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại công ty chứng khoán ( nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ ) hoặc ký gửi các chứng khoán ( nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất ). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ phải thu phí lưu ký chứng khoán như: phí chuyển nhượng chứng khoán, phí gửi chứng khoán, phí rút chứng khoán.
* Quản lý thu nhập của khách hàng ( quản lý tổ chức )
Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãi, trả cổ tức của chứng khoán được thường xuyên và là người đứng ra làm dịch vụ nhận hộ và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản giao dịch của khách hàng.
* Tín dụng ( mua bán chịu )
Khách hàng có ý định mua bán chứng khoán nhưng không đủ tiền thanh toán, công ty chứng khoán sẽ mua bán chứng khoán qua thị trường giao dịch mua bán chịu. Thị trường này mang tính chất như một thị trường giao dịch bằng tiền mặt, mà có thể được hiểu là giao dịch kỳ hạn. Mua bán chịu là việc ngăn chặn việc lên giá chứng khoán trong tương lai và giúp cho việc lưu hành chứng khoán được dễ dàng hơn thông qua việc hỗ trợ giao dịch thị trường bằng tiền mặt.
Đối với các thị trường chứng khoán phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, các công ty chứng khoán còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện bán khống chứng khoán hoặc cho vay để khách hàng thực hiện mua ký quỹ.
Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán thực hiện cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng khoán ứng trước thanh toán. Đến hạn thanh toán, khách hàng phải hoàn trả số vốn gốc đã vay cùng với khoản lãi cho công ty chứng khoán. Trường hợp khách hàng không hoàn trả số nợ thì công ty sẽ phát mãi số chứng khoán đó để thu hồi nợ.
* Quản lý quỹ
Thị trường chứng khoán ở một số nước, pháp luật về thị trường chứng khoán còn cho phép công ty chứng khoán được thực hiện quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, công ty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư chứng khoán. Công ty chứng khoán được phép thu phí quản lý quỹ đầu tư.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quỹ hưu trí, quỹ đầu tư và các trung gian khác.doc