Đề tài Quy trình tư vấn kinh doanh vàng và ngoại hối trên tài khoản

Mục lục Phần I: Giới thiệu đề tài Phần II:Quy trình tư vấn Hướng dẫn cài đặt phần mềm hế thốngMở tài khoản kinh doanhCác phương pháp phân tích giá và thị trường: phương pháp phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuậtĐề xuất mua-bánCác biện pháp hạn chế rủi roLời khuyên của tư vấn đến nhà đầu tư.Phần III: Kết luận Phần I: Giới thiệu đề tài Đề tài đồ án “Quy trình tư vấn kinh doanh vàng và ngọai hối trên tài khoản” Hình thức kinh doanh vàng-ngoại hối trên tài khoản: Kinh doanh vàng và ngoại hối trên tài khoản tạm gọi là kinh doanh vàng tài khoản (KDVTK) cho giản tiện. KDVTK là hoạt động kinh doanh vàng thông qua tài khoản tại nước ngoài dưới các hình thức giao dịch theo thông lệ Quốc tế. Hình thức kinh doanh này phù hợp với xu hướng Quốc tế, làm giảm bớt nhu cầu kinh doanh vàng vật chất và tạo một kênh lưu thông hiệu quả giữa thị trường trong nước và thị trường thế giới, nhất là trong điều kiện Nhà nước chỉ cho phép các Doanh nghiệp nhập khẩu vàng chứ không cho phép xuất khẩu vàng. Ở nước ta hiện nay đã có 6 Ngân hàng và 4 công ty vàng bạc đá quý được phép triển khai nghiệp vụ này, bao gồm: Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), Sài Gòn Thường Tín (Sacombank), Á Châu (ACB), Phương Đông (OCB), Phương Nam (Southernbank), và Việt Á. Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC), công ty kinh doanh mỹ nghệ vàng bạc đá quý Ngân hàng Nông nghệp và phát triển nông thôn Việt Nam, công ty Vàng bạc đá quý Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn TPCM và công ty cổ phần đầu tư quốc tế Đại Dương (OIIC). Tính ưu việt của thị trường vàng-ngoại hối: Kinh doanh vàng và ngoại hối trên tài khoản là hình thức kiếm lời dựa trên sự chênh lệch tỷ giá. Nhà đầu tư phải biết chấp nhận rủi ro cũng như mức độ kiếm lợi nhuận (chiến lược kinh doanh). Nhiều nhà đầu tư lựa chọn thị trường này với những lý do sau: Đây là thị trường toàn cầu và không bị bão hòa Kinh doanh 2 chiều: Mua thấp-bán cao và Bán cao-mua thấpKhả năng cắt giảm rủi ro, lấy lời một cách tự động (stop loss và take profit )Thị trường giao dịch 24/24Phạm vi hợp đồng lớn hơn nhiều lần so với giá trị thực tếTrong một thời gian ngắn có thể kiếm được lợi nhuận lớnKhông bị thao túng thị trườngKhối lượng giao dịch lớnThị trường luôn biến độngCác thông tin kinh tế, chính trị luôn được cập nhật liên tục NẾU CÓ THẮC MẮC GÌ VỀ BÀI VIẾT BẠN LIÊN HỆ SỐ ***********

doc86 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2486 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy trình tư vấn kinh doanh vàng và ngoại hối trên tài khoản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n phía trên dài cho thấy đội MUA kiểm soát phần đầu trận đấu, nhưng đã bị mất phần kiểm soát vào bên đội BÁN vào cuối trận và đội BÁN giằng co trở lại. 6. Candle với cả 2 phần chân đều dài cho thấy cả đội MUA và đội BÁN đều có giai đoạn kiểm soát trận đấu, nhưng không ai áp đảo được đối phương, và kết quả là vẫn giằng co nhau. Khi bạn định đặt lệnh mà gặp hình doji hay spinning top thì bạn nên chuẩn bị sẵn sàng nhập lệnh để đi theo xu hướng tiếp theo khi có dấu hiệu thông báo bên bán hoặc bên mua thắng thế. Các loại Candle đặc trưng: a. Marubozu:Hình Marubozu chỉ có thân mà không có bóng (body without shadow). Đây là dấu hiệu xác lập 1 xu hướng rất mạnh Marubozu màu trắng có nghĩa là bên bán bị bên mua mạnh hơn nuốt chửng. Ngược lại nếu hình Marubozu đen thì người mua chiếm thế chủ động và thường được giá hời. b. Spinning top ( bông vụ) :Thân nhỏ mà bóng dài cho ta biết là cuộc thương lượng của hai phe mua bán chưa phân thắng bại, giá cả đang còn tranh chấp. Sau 1 xu hướng dài, hình tượng này cho biết , bên mua / bên bán đã yếu thế dần và có dấu hiệu xu hướng sẽ đảo chiều.   c. Doji: Hình Doji xuất hiện khi mức giá đóng cửa xấp xỉ mức giá mở cửa , doji trông như 1 gạch ngang nằm giữa phạm vi giá , là dấu hiệu cho thấy người mua và người bán đang do dự. Khi bạn định đặt lệnh mà gặp hình doji hay spinning top thì bạn nên chuẩn bị sẵn sàng nhập lệnh để đi theo xu hướng tiếp theo khi có dấu hiệu thông báo bên bán hoặc bên mua thắng thế.  Bạn sẽ cần tới một trong bốn hình tượng sau đây xác nhận sự thay đổi xu hướng: Hình hammer, inverted hammer, hangging man  và shooting star cho ta biết giá đang đổi ngược xu hướng (reversal), cần phải mua hay bán ngay trước khi trễ. Cụ thể là hình hammer và inverted hammer ngược theo Doji báo hiệu sự thắng thế của người mua và giá cả từ đây có thể sẽ đổi hướng từ giảm sang tăng, ít nhất là trong ngắn hạn. Trong khi đó hai hình tượng hanging man và shooting star cảnh báo trước người bán có thể đã thắng thế người mua và giá cả có nhiều khả năng sẽ đi xuống.  Candle kết hợp: Mô hình Candles được tạo thành từ nhiều candle liên tục, và có thể được gộp chung thành 1 candle lớn hơn. Candle gộp sẽ thể hiện 1 cách đơn giản hơn so vớii mô hình candles, dựa trên nguyên tắc:  Giá mở là giá mở của candle đầu  Giá đóng là giá đóng của candle cuối  Giá high và giá low là Giá cao nhất và thấp nhất của mô hình. Các dạng biểu đồ trong phân tích kỹ thuật Phân tích kĩ thuật có thể rất đơn giản hoặc rất phức tạp, phụ thuộc vào khả năng bạn thao tác với dữ liệu thị trường. Những công cụ “thô sơ” bao gồm các mô hình biểu đồ, như tam giác, 2 đỉnh – 2 đáy , đầu và vai, mô hình cờ, và tất nhiên, cơ bản nhất nhưng quan trọng nhất, là đường xu hướng. Đôi khi bạn không cần những máy tính và phần mềm quá rườm rà cho dù đôi khi chúng có thể giúp bạn phân tích nhanh và dễ dàng hơn. Các mô hình tiếp diễn Xu hướng thị trường có khuynh hướng tiếp tục duy trì. Khi nào biến động giá còn tuân theo 1 xu hướng xác định và không phá vỡ đường xu hướng đó, thì xu hướng đó vẫn còn sức mạnh và là 1 xu hướng tiếp diễn. Ngoài ra còn có 1 số mô hình biến động giá cũng cho thấy xu hướng vẫn còn tiếp tục. Mô hình cờ tăng ( bullish flag) – Mô hình cờ tăng xuất hiện khi thị trường đang có 1 xu hướng tăng mạnh, và có thể bị gián đoạn bởi 1 sự tạm nghỉ hoặc biến động ít ( sideways) do việc giao dịch giảm trong 1 vài nến ( candles), và sau đó thị trường tiếp tục 1 xu hướng mạnh tiếp diễn. Khoảng gián đoạn chống lại xu hướng chính có thể diễn ra trong vài ngày. Thị trường có đặc thù là luôn dao động giữa 1 chu kì các điểm dao động cao và chu kì các điểm dao động thấp, và đó là lý do tại sao mô hình cờ là 1 dạng thị trường chậm lại 1 nhịp để xác định lại mức trước khi quay trở lại xu hướng tăng. Mô hình cờ giảm (Bearish flag) Mô hình cờ giảm xuất hiện khi thị trường đang có 1 xu hướng giảm mạnh, và có thể bị gián đoạn bởi 1 sự tạm nghỉ hoặc biến động ít ( sideways) do việc giao dịch giảm trong 1 vài nến ( candles), và sau đó thị trường tiếp tục 1 xu hướng giảm mạnh tiếp diễn. Cũng như mô hình cờ tăng, vùng “cờ” là thời gian ngắn thị trường củng cố và xác định trước khi trở lại với 1 xu hướng giảm mạnh. Tam giác đối xứng hay cờ hiệu (pennants)– 1 trong những mô hình tam giác phổ biến – tam giác nhọn là mô hình tiếp diễn. Giá có khuynh hướng dao động ngày càng yếu , với điểm cao và điểm thấp ngày càng có biên độ nhỏ dần và giá hướng đển đỉnh nhọn của tam giác. Sự phá vỡ của giá ra khỏi mô hình tam giác theo 1 hướng thì xu hướng đó sẽ nổi trội hơn – và trong ví dụ phía trên , giá xuống mạnh. Tam giác giảm (descending triangle) – 1 trong những mô hình tam giác hiệu quả báo trước sự tiếp diễn của xu hướng giảm . Thị trường đang nóng lòng tìm kiếm 1 xu hướng mua khi đã chạm mức cản (support) rất nhiều lần trong vài candle liên tiếp. nhưng đỉnh của các nên trong dãy ngày càng thấp hơn và giá hướng đến điểm mũi nhọn trong tam giác. Và cũng như các mô hình tam giác khác, khi người mua quyết định rằng họ không thể giữ giá lâu hơn nữa tại mức chặn đáy của tam giác này, giá sẽ phá vỡ mức cản, và kì vọng giá sẽ tiếp tục xuống theo xu hướng trội hơn. Tam giác tăng (Ascending triangle ) – Tam giác tăng ngược lại với tam giác giảm. Người bán giữ giá tại mức chặn trên (resistance) của tam giác nhưng người mua tiếp tục đẩy giá lên cao hơn, tạo nên mức giá thấp của nến sau cao hơn nến trước cho đến khi mức chặn trên bị phá vỡ. Cũng giống như các tam giác khác, giá sẽ tiếp diễn theo xu hướng trội hơn sau khi phá vỡ mức cản. Chiếc tách và tay cầm ( cup and handle or cup and saucer) : Thị trường giảm đột ngột , sau đó giao dịch với mức độ thấp trong 1 thời gian ngắn, và sau đó tăng đột ngột tạo thành 1 hình chữ U dạng cái tách. Sau đó giá tiếp tục đánh võng tạo thành cái tay cầm phía bên phải cái tách, chạm mức cản trên (resistance) 1 vài lần. Khi giá đã đủ xung lực để phá vỡ mức cản , nó sẽ tiếp tục bứt phá mạnh tạo mức cao hơn với khối lượng lớn, và đôi khi có thể tạo ra 1 khoảng trống (gap) tại điểm bứt phá để xác định 1 xu hướng tăng mạnh. Mô hình cơ bản: Các mô hình đổi chiều Cùng với mô hình tiếp diễn, đường xu hướng (trendline) là mô hình cơ bản để xem xét. Nếu giá phá vỡ đường xu hướng, và tiếp tục bứt phá, đây là sự xác nhận của 1 sự đổi chiều xu hướng. Luôn nhớ rằng, tất cả các mô hình đều có thể áp dụng cho mọi khung thời gian (time frames) – theo giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc có thể theo biểu đồ phút. Mô hình 2 đỉnh – (double tops): Hiện tượng này xuất hiện khi giá đạt đến một điểm cao rõ rệt, vượt hẳn điểm trước đây, sau đó quay lại điểm đó và lại vượt lên. Khi  thời gian 2 đỉnh liên tiếp của sự tăng giá này cách nhau càng lâu thì càng thể hiện khả năng tăng giá của đồ thị này. Sự biến đổi của mô hình này tương tự như hiện tượng mà người ta gọi là mô hình các đỉnh “M” hay 1-2-3 đợt sóng tăng giá. Tuy nhiên, sự tăng giá thứ 2 thường thấp hơn sự tăng giá đầu tiên đối với mô hình này. Trong hầu hết các trường hợp, những điểm quyết định thường là những điểm tăng giá, đó là những điểm đánh dấu khả năng xuất hiện một mức giá trần mong đợi, và một mức giá thấp tạm thời. Nếu giá giảm xuống thấp hơn mức đó, đó là sự xác nhận đỉnh mô hình và dấu hiệu khuyên bạn nên bán. Mô hình 2 đáy (double bottom) – nguyên tắc của mô hình này giống như sự ngược lại của mô hình 2 đỉnh. Tương tự mô hình này được gọi là mô hình các đáy “W” hoặc 1-2-3 đợt sóng giảm giá. Trong tất cả các trường hợp của mô hình này, giá đạt đến một mức thấp rõ rệt, có sự bật lên 1 chút, sau đó rớt xuống mức thấp để thử lại 1 lần nữa, và cuối cùng tăng trở lại. Khi giá vượt khỏi mức cao tạm thời, khi đó đáy mô hình được xác nhận và thị trường nên bán. Mô hình đảo ngược các đỉnh “đầu và vai” (Head-and-shoulders top reversal)– Mô hình đảo ngược khuynh hướng truyền thống này xuất hiện khi thị trường tạo ra một điểm cao mới (left shoulder), giảm xuống, tăng lên đến đỉnh mới cao hơn (head) và giảm trở lại, sau đó tăng tới 1 đỉnh cao mới sau 1 thời gian có thể là bằng với đỉnh bên trái (left shoulder) và sau đó thì giảm trở lại. Điểm mấu chốt ở đây là “1 đường tiệm cận” - “neckline” hoặc là 1 đường nằm ngang mà có thể nối 2 điểm thấp trên đồ thị. Khi giá rớt xuống thấp hơn “neckline”, đó là dấu hiệu kết thúc sự tăng giá và có khả năng bắt đầu 1 đợt giảm giá của thị trường. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp giá có khuynh hướng đi ngược với xu hướng thị trường vì vậy sự dừng lại chưa tạo ra một xu hướng giảm giá ngay. Đôi khi điểm dừng lại của đường tiệm cận xuất hiện như 1 sự gián đoạn hoặc báo hiệu 1 xu hướng giảm giá mạnh, ủng hộ cho sự đảo ngược về giá. Mô hình “ đầu và vai” là một trong nhiều loại mô hình đồ thị khác nhau mà được sử dụng để hoạch định cho chiến lược về giá. Các nhà phân tích đo lường khoảng cách từ đỉnh “head” đến đường tiệm cận của đồ thị sau đó trừ đi khoảng cách từ điểm ngừng của đường tiệm cận để tính toán xem giá có thể giảm đến mức nào. Mô hình đảo ngược các đáy “đầu và vai” (Head-and-shoulders bottom reversal)– Có thể nói mô hình 2 đáy là nghịch đảo của mô hình 2 đỉnh, các đáy “vai và đầu” thì cũng giống các đỉnh “vai và đầu” nhưng ngược lại. Điều này có nghĩa là giá trượt xuống 1 mức thấp (left shoulder), tăng trở lại sau 1 thời gian, sau đó giảm xuống đến 1 mức thấp hơn (head), lại tăng trở lại và sau cùng là hạ xuống lần nữa đến 1 mức thấp xấp xỉ với mức “left shoulder” (right shoulder). Đường tiệm cận của đồ thị rất quan trọng. Khi giá vượt khỏi đường tiệm cận này, mô hình đảo ngược kết thúc và 1 xu hướng tăng tiềm năng có thể xuất hiện. Cùng với các đỉnh “ vai và đầu”, có thể có 1 vài giao dịch về phía sau và phía trước theo cả 2 phía của đường tiệm cận khi thị trường quyết định chọn hướng đi, và khoảng cách giữa đường tiệm cận và đỉnh “head” có thể được sử dụng để dự đoán xem giá có thể biến động như thế nào. Mô hình “sụt giá theo 1 mũi nhọn” (Falling wedge) – Mô hình này xuất hiện khi thị trường đang trong xu hướng đồng loạt giảm giá và các loại giá cao giảm nhanh hơn các loại thấp, giống như dạng mũi nhọn. Người bán có thể đẩy giá đến mức thấp hơn nhưng do có 1 lượng mua hỗ trợ để giữ thị trường không bị giảm giá thấp hơn. Cuối cùng sức mạnh của bên bán bắt đầu cạn dần và không thể khiến giá thị trường giảm thấp hơn nữa, và thị trường bắt đầu bật dậy khi thế lực của bên bán vượt hẳn bên mua. Những mô hình như thế này thường có hướng tăng giá và là điềm báo có 1 sự thay đổi khuynh hướng thị trường.  Mô hình “tăng giá theo 1 mũi nhọn” (Rising wedge) – Mô hình này ngược lại với mô hình trên và xuất hiện khi thị trường ở xu hướng tăng giá. Người mua tiếp tục đẩy đẩy các loại giá thấp trong ngày lên, nhưng người mua đã giữ cho giá thị trường không lên quá cao. Sau cùng việc mua đã giảm và người bán nắm thị trường, và đẩy giá xuống thấp hơn mũi nhọn tạm thời của xu hướng tăng giá. Những mô hình như thế này thường có hướng giảm giá và là điềm báo có 1 sự thay đổi khuynh hướng thị trường. Mô hình “kim cương” (diamond pattern) – Đây là 1 mô hình hiếm thấy xuất hiện thường xuất hiện những thị trường giá cao. Sự hay thay đổi tăng lên ở các mức giá cao hơn, tạo ra 1 phạm vi của giá trần và giá sàn trong 1 giao dịch rộng hơn để tạo nên 1 đoạn rộng nhất của mô hình “ kim cương”. Sau đó sự thay đổi này giảm xuống về phía phải của các mức giá cao và dãy biến động giá trở nên hẹp hơn khi xu hướng giống như dạng “mô hình tam giác” để kết thúc diễn biến của mô hỉnh “ kim cương”. Sự hay thay đổi theo hướng thấp, cao, thấp liên tiếp nhau này thường tự tạo ra chiều hướng của mình đến khi kết thúc. (Theo Maxi-forex) Dùng “Sóng Elliott và số Fibonacci” để dự đoán xu hướng giá  Lý thuyết sóng Elliott: Nguyên tắc sóng Elliott là một trong những công cụ phân tích kỹ thuật mà một số nhà kinh doanh chứng khóan dùng để phân tích những xu hướng giá trong các thị trường tài chánh. “Cha đẻ” của nguyên tắc này là Ông Ralph Nelson Elliott (1871-1948). Nghề chính của ông là kế toán và ông đã nghiên cứu và phát triển ra nguyên tắc này vào những năm 30 của thế kỹ trước. Theo ông Elliott, sự thay đổi của giá cả sẽ tạo ra những cơn sóng, như hình vẽ bên. Trong đó một cơn sóng cơ bản sẽ có 5 cơn sóng “chủ” và 3 cơn sóng điều chỉnh. Trong 5 con sóng chủ thì sóng số 1, 3 và số 5 gọi là sóng “chủ và động”, và sóng 2, 4 gọi là sóng “chủ và điều chỉnh”. 2 con sóng điều chỉnh được gọi là sóng ABC. Trong mỗi một con sóng như vậy lại có những con sóng nhỏ và cũng tuân theo quy luật của lý thuyết Elliot. Một đợt sóng chủ hoàn chỉnh sẽ có 89 sóng và đợt sóng điều chỉnh hoàn chỉnh sẽ có 55 sóng. Tùy theo thời gian độ lớn của sóng sẽ được phân theo thứ tự sau Grant Supercycle: sóng kéo dài nhiều thập kỷ, đôi khi cả thế kỷ Supercycle: kéo dài từ vài năm đến vài thập kỷ Cycle: kéo dài từ 1 đến vài năm Primary: kéo dài từ vài tháng đến vài năm Intermediate: kéo dài từ vài từ tuần đến vài tháng Minor: kéo dài trong vài tuần Minute: Kéo dài trong vài ngày Minuette: Kéo dài trong vài giờ. Subminutte: Kéo dài trong vài phút. Dãy số Fibonacci Dãy số do nhà toán học người Ý Leonardo Fibonacci (1175-1250) phát minh ra. Leonardo Fibonacci là một nhà toán học người Ý, sinh năm 1170 sau công nguyên. Ông được xem là người tìm ra hàng loạt các con số trong quá trình nghiên cứu Kim tự tháp. Các con số của Fibonacci là một chuỗi số học mà mỗi số sau được tính bằng cách tính tổng hai số trước đó. Ví dụ: 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144,… Các con số này có một mối liên hệ khá kỳ lạ với nhau. Ví dụ, mỗi số trong dãy số gần gấp 1.618 lần so với số trước nó và gấp 0.618 lần số đứng sau. Bắt đầu là số 0 và số 1, sau đó là những số kế tiếp được tạo ra bằng cách cộng 2 số đứng trước. Ví dụ 1 = 1+0, 5 = 3+2, 34=21+13. Điều kỳ diệu hơn là cứ lấy số lớn chia cho số nhỏ hơn một bậc , ví dụ 89/55 ta sẽ được 1.618; lấy số nhỏ chia cho số lớn hơn 1 bậc, ví dụ 21/34 ta sẽ được 0.6180, lấy số nhỏ chia cho số lớn hơn 2 bậc, ví dụ 13/34 ta sẽ được 0.382. Tất cả các con số thuộc dãy số Fibonacci 0, 1, 1, 2, 3, 5, 8 …và các con số 0.618 và 0.382, trong đó đặc biệt nhất là con số được mệnh danh là “tỷ lệ vàng” 1.618 - xuất hiện rất nhiều trong tự nhiên, trong cơ thể con người, trong vũ trụ, trong kiến trúc, xây dựng. Quan trọng hơn đối với chúng ta những nhà đầu tư, kinh doanh chứng khoán, vàng, ngoại hối, những con số “đầy ma lực trên” bên trên xuất hiện ngay trong thị truờng tài chính, nhất là những biến động về giá cả. Ralph Nelson Elliott khẳng định rằng. ông nghiên cứu và phát minh ra lý thuyết sóng truớc khi biết Fibonacci nhưng những con số trùng hợp đến kỳ lạ: 5 sóng chủ, 3 sóng điều chỉnh, 89 sóng chủ, 55 sóng điều chỉnh cũng như tỷ lệ giá của các con sóng luôn ở chung quanh các tỷ lệ vàng 0.618, 1.618, 0.328. Do đó có một giá thuyết khác cho rằng, ông Elliott đã ứng dụng những con số Fibonacci vào lý thuyết của mình. Dãy số Fibonacci Số lớn/chia cho số nhỏ hơn 1 bậc Số nhỏ/chia cho số lớn hơn 1 bậc Số nhỏ/chia cho số lớn hơn 2 bậc 0 1 1 2 3 5 8 13 1.6250 0.6154 0.3810 21 1.6154 0.6190 0.3824 34 1.6190 0.6176 0.3818 55 1.6176 0.6182 0.3820 89 1.6182 0.6180 0.3819 144 1.6180 0.6181 0.3820 233 1.6181 0.6180 0.3820 377 1.6180 0.6180 0.3820 610 1.6180 0.6180 0.3820 987 1.6180 0.6180 Một dãy sóng 5-3 điển hình trong thị truờng tăng trường “bò húc” Dưới đây là phân tích một con sóng 5-3 điển hình của thị trường trong giai đoạn tăng trưởng - “bò húc”. Cũng con sóng 5-3 này trong thị trường suy thoái – “gấu ngủ” sẽ được vẽ hoàn toàn ngược lại. Sóng chủ số 1. Đợt sóng đầu tiên này là có điểm xuất phát từ thị truờng con gấu (suy thoái), do đó sóng 1 ít khi được nhận biết ngay từ đầu. Lúc này thông tin cơ bản về các công ty niêm uớc vẫn đang là thông tin tiêu cực. Chiều hướng của thị trường trước khi sóng 1 xảy ra chủ yếu vẫn là thị truờng suy thoái. Những nhà phân tích cơ bản vẫn đang tiếp tục điều chỉnh thu nhập kỳ vọng thấp xuống so với dự kiến. Khối lượng giao dịch có tăng chút ít theo chiếu hướng giá tăng. Tuy vậy việc tăng này là không đáng kể. Do đó nhiều nhà phân tích lỹ thuật không nhận ra sự có mặt của đợt sóng số 1 này. Sóng chủ số 2. Sóng chủ 2 sẽ điều chỉnh sóng 1, nhưng điểm thấp nhất của sóng 2 không bao giờ vượt qua điểm xuất phát đầu tiên của sóng 1. Tin tức dành cho thị trường vẫn chưa khả quan. Thị trường đi xuống ở cuối sóng 2 để thực hiện việc “kiểm tra” độ thấp của thị trường. Những người theo phái con gấu vẫn đang tin rằng thị trường con gấu vẫn ngự trị. Khối lượng giao dịch sẽ ít hơn đợt sóng 1. Giá sẽ được điều chỉnh giảm và thuờng nằm trong khoảng 0.382 đến 0.618 của mức cao nhất của sóng 1. Sóng chủ số 3. Thông thường đây là sóng lớn nhất và mạnh mẽ nhất của xu hướng lên giá. Ngay đầu sóng 3, thị trường vẫn còn nhận những thông tin tiêu cực, vì vậy có nhiều nhà kinh doanh không kịp chuẩn bị để mua vào. Khi sóng 3 đang ở lưng chừng, thị trường bắt đầu nhận những thông tin cơ bản tích cực và những nhà phân tích cơ bản bắt đầu điều chỉnh thu nhập kỳ vọng. Mặc dù có những đợt điều chỉnh nho nhỏ trong lòng của sóng 3, giá của sóng 3 tăng lên với tốc độ khá nhanh. Điểm cao nhất của sóng 3 thường cao hơn điểm cao nhất của sóng 1 với tỷ lệ 1,618:1 Sóng chủ số 4. Đây thật sự là một con sóng điều chỉnh. Giá có khuynh hướng đi xuống và đôi khi có thể răng cưa kéo dài. Sóng 4 thường sẽ điều chỉnh sóng 3 với mức 0.382 – 0.618 của sóng 3. Khối lượng giao dịch của sóng 4 thấp hơn của sóng 3. Đây là thời điểm để mua vào nếu như nhà kinh doanh nhận biết được tiềm năng tiếp diễn liền sau đó của con sóng 5. Tuy vậy, việc nhận biết điểm dừng của sóng 4 là một trong những khó khăn của các nhà phân tích kỹ thuật trường phái sóng Elliot. Sóng chủ số 5. Đây là đợt sóng cuối cùng của 5 con sóng “chủ”. Thông tin tích cực tràn lan khắp thị trường và ai cũng tin rằng thị trường đang ở trong thế bò húc. Khối lượng giao dịch của sóng 5 khá lớn , tuy vậy thông thường vẫn nhỏ hơn sóng 3. Điều đáng nói là những nhà kinh doanh “không chuyên nghiệp” thường mua vào ở những điểm gần cuối sóng 5. Vào cuối con sóng 5, thị trường nhanh chóng chuyển hướng. Sóng điều chỉnh A. Sóng này bắt đầu cho đợt sóng điều chỉnh A,B,C. Trong thời gian diễn ra sóng A, thông tin cơ bản vẫn đang rất lạc quan. Mặc dù giá xuống, nhưng phần đông các nhà kinh doanh vẫn cho rằng, thị trường đang trong thế bò húc. Khối lượng giao dịch tăng trưởng khá đều đặn theo con sóng A. Sóng điều chỉnh B. Giá tăng trở lại và với mức cao hơn so với điểm cuối sóng A. Sóng B được xem là điểm kéo dài của thị trường bò húc. Đối với những người theo trường phái phân tích kỹ thuật cổ điển, điểm B chính là vai phải của đồ thị Đầu và Vai ngược. Khối lượng giao dịch của sóng B thường thấp hơn của sóng A. Vào lúc này, những thông tin cơ bản của các công ty không có những điểm tích cực mới, thế nhưng cũng chưa chuyển hẳn qua tiêu cực. Sóng điều chỉnh C. Giá có khuynh hương giảm nhanh hơn các đợt sóng trước. Khối luợng giao dịch tăng. Hầu như tất cả mọi nhà kinh doanh, đầu tư đều nhận thấy rõ sự ngự trị của “gấu ngủ” trên thị trường, chậm nhất là trong đợt sóng nhỏ thứ 3 của sóng C. Sóng C thường lớn như sóng A. Điểm thấp nhất của sóng C ít nhất bằng điểm thấp nhất của sóng A nhân với 1.618. Các công cụ chỉ dẫn phân tích cơ bản 1. Đường chỉ xu hướng Việc phá vỡ đường tiệm cận trên hoặc tiệm cận dưới đưa đến sự thay đổi kỳ vọng của các nhà giao dịch (là nguyên nhân gây ra sự thay đổi của đường cung/cầu). Kiểu thay đổi này thường bất ngờ và “dựa trên thời sự”. Các thay đổi này có thể có xu hướng nhất định. Xu hướng thể hiện sự thay đổi nhất quán về giá cả. Xu hướng khác đường tiệm cận trên/tiệm cận dưới ở chỗ xu hướng thể hiện sự thay đổi trong khi đường tiệm cận trên/tiệm cận dưới ngăn chặn việc thay đổi. Xu hướng đi lên được xác định bởi mức giá thấp liên tục cao hơn. Xu hướng đi lên có thể được xem là đường tiệm cận dưới đi lên : “con bò đực” đang kiểm soát và đẩy giá lên cao hơn. Xu hướng đi xuống được xác định bởi mức giá cao liên tục thấp hơn. Xu hướng đi xuống có thể được xem là đường tiệm cận trên đi xuống : “con gấu” đang kiểm soát và đẩy giá xuống thấp hơn. Cũng như giá thâm nhập vào đường tiệm cận trên và tiệm cận dưới khi kỳ vọng thay đổi, giá có thể thâm nhập đường xu hướng lên và xuống. Khối lượng tăng khi đường xu hướng bị thâm nhập. Cùng với đường tiệm cận trên và dưới, thông thường thì sự hối tiếc của các nhà giao dịch cũng đi cùng với việc thâm nhập đường xu hướng. Một lần nữa, khối lượng giao dịch là mấu chốt để xác định tầm quan trọng của việc tham gia xu hướng. 2. Chuyển động trung bình (MovingAverage) Là một trong những công cụ phân tích kỹ thuật phổ biến và lâu đời nhất. Đường chuyển động trung bình là giá trung bình của công cụ tài chính trên thời gian xác định. Khi tính đường chuyển động trung bình, bạn có thể xác định khoảng thời gian để tính giá trung bình. Ví dụ khoảng thời gian có thể là 25 ngày. Một đường chuyển động trung bình “đơn giản” được tính bằng cách cộng công cụ giá vào khoảng thời gian “n” gần đây nhất và sau đó chia cho “n”. Ví dụ như cộng giá cuối ngày của một công cụ tính cho 25 ngày gần đây nhất và sau đó chia cho 25. Kết quả là giá trung bình của công cụ tính trên 25 ngày sau cùng. Kết quả tính toán này được thực hiện tại mỗi thời điểm trên biểu đồ. Lưu ý rằng không thể tính được chuyển động trung bình khi không có dữ liệu khoảng thời gian “n”. Ví dụ như không thể hiển thị chuyển động trung bình của 25 ngày khi chưa có ngày thứ 25 trên biểu đồ. Chuyển động trung bình thể hiện sự thống nhất các kỳ vọng của nhà đầu tư trên khoảng thời gian định sẵn. Nếu công cụ giá trên mức chuyển động trung bình thì có nghĩa là kỳ vọng hiện thời của nhà đầu tư (ví dụ như giá hiện tại) cao hơn giá trung bình trong 25 ngày cuối và nhà đầu tư làm tăng giá cổ phiếu trên công cụ. Trái lại, nếu giá của ngày hôm nay dưới mức chuyển động trung bình thì có nghĩa là kỳ vọng hiện thời thấp hơn mức trung bình trong 25 ngày cuối. Cách lý giải của sử dụng chuyển động trung bình theo lối kinh điển là giám sát sự biến động về giá cả. Nhà đầu tư thường mua khi công cụ giá tăng trên mức chuyển động trung bình và bán khi giá xuống thấp hơn mức chuyển động trung bình. Những thuận lợi Thuận lợi của hệ thống chuyển động trung bình theo cách này (ví dụ như bán và mua khi giá thay đổi thông qua chuyển động trung bình) là bạn sẽ luôn ở bên “đúng” của thị trường : giá không thể lên quá cao khi chưa vượt trên mức giá trung bình. Bất lợi là bạn sẽ luôn mua và bán chậm. Nếu xu hướng không kéo dài trong một khoảng thời gian đáng kể, thông thường là gấp đôi lượng thời gian của chuyển động trung bình thì bạn sẽ mất tiền. Sự hối tiếc của nhà giao dịch Chuyển động trung bình thường biểu thị sự hối tiếc của các nhà giao dịch. Do đó, công cụ thường phá vỡ xu hướng của chuyển động trung bình dài hạn và sau đó trở lại mức trung bình của nó trước khi tiếp tục đường đi của mình. Kỹ thuật phân tích các đường thẳng Trong phân tích kỹ thuật, các đường kẻ và các thông số hình học dùng để biểu thị trên biểu đồ giá hoặc là các công cụ sử dụng biểu đồ được gọi là các đường chỉ dẫn. Những đường này bao gồm Đường tiệm cận trên, tiệm cận dưới và Đường xu hướng đã được mô tả ở trên, cùng với các đường sau: 3. Các công cụ Fibonacci Sau đây là cách phân tích Fibonaci đã giới thiệu ở trên Đây là các công cụ kỹ thuật phổ biến để phân tích kỹ thuật dựa trên dãy số của Fibonacci. Nguyên tắc chung của các công cụ này là khi giá thực tế gần bằng giá trị của các đường thẳng được dựng nên bởi các kỹ thuật liên quan đến dãy số Fibnonacci thì xu hướng giá có thể sẽ thay đổi. ƒ Fibonacci Arcs ƒ Fibonacci Fan ƒ Fibonacci Retracement ƒ Fibonacci Time Zones ƒ Fibonacci Expansion ƒ Fibonacci Channel Fibonacci Arcs Fibonacci Arcs được xây dựng như sau: đầu tiên, đường xu hướng được vẽ từ hai điểm cực độ, ví dụ, từ cực tiểu đến cực đại đối diện. Sau đó, ba đường hình cung sẽ được xây dựng với tâm trùng với điểm cực trị thứ 2 và cắt đường xu hướng tại mức Fibonacci 38.2, 50 và 61.8%. Fibonacci Arcs được xem như là các đường tiệm cận trên và tiệm cận dưới tiềm năng. Fibonacci Arcs và Fibonacci Fans thường được sử dụng với nhau trên biểu đồ và đường tiệm cận trên và tiệm cận dưới được xác định bởi giao điểm của các đường này. Lưu ý rằng các giao điểm của các đường cung và đường biểu thị giá có thể thay đổi tùy thuộc vào tỉ lệ của biểu đồ bởi vì đường cung là một phần của đường tròn và hình dạng luôn không đổi. Fibonacci Fan Fibonacci Fan là một công cụ được xây dựng như sau : một đường xu hướng – ví dụ vẽ một đường nối 2 điểm cực trị. Sau đó, một trục dọc “vô hình” được vẽ một cách tự động đi ngang qua điểm cực đại thứ hai. Và sẽ có 3 đường xu hướng được vẽ từ điểm cực trị thứ nhất, các đường này cắt đường dọc vô hình tại mức Fibonacci bằng 38.2, 50 và 61.8%. Những đường thẳng này được xem là đại diện cho đường tiệm cận trên và tiệm cận dưới. Để có thể đạt hiệu quả cao hơn trong việc dự đoán giá, chúng ta nên sử dụng các công cụ Fibonacci khác cùng với Fibonacci Fan. Fibonacci Retracement Đường Fibonacci Retracement được xây dựng như sau: đầu tiên, đường xu hướng được vẽ giữa hai điểm cực trị, ví dụ, từ điểm cực tiểu đến điểm cực đại đối diện. Sau đó, 9 đường ngang cắt đường xu hướng ở các mức Fibonacci 0.0, 23.6, 38.2, 50, 61.8, 100, 161.8, 261.8 và 423.6% được vẽ. Sau một mức tăng hay giảm rõ rệt, giá thường sẽ trở lại mức trước đó nhằm điều tiết cho một phần cần thiết (và thỉnh thoảng tới khi hoàn thành) của những thay đổi ban đầu. Giá thường chạm tiệm cận trên/tiệm cận dưới tại hoặc gần các mức Fibonacci Retracement trong một quá trình thay đổi tuần tự. Fibonacci Time Zones Fibonacci Time Zones là một loạt các đường dọc cách nhau 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34,…Các thay đổi giá mạnh thường nằm gần các đường này. Để xây dựng công cụ này, phải xác định 2 điểm để có thể biết được chiều dài của khoảng cách đơn vị. Mọi đường thẳng khác được xây dựng dựa trên các khoảng cách đơn vị và các số Fibonacci. Fibonacci Expansion Fibonacci Expansion tương tự như Fibonacci Retracement và dùng để xác định điểm kết thúc của bước sóng thứ 3. Không như Fibonacci Retracement, công cụ này được xây dựng không chỉ dựa trên một đường xu hướng, mà dựa trên 2 bước sóng. Đầu tiên, vẽ đường thẳng xu hướng cho bước sóng thứ nhất, độ cao của nó sẽ được dùng làm đơn vị khoảng cách. Điểm kết thúc bước sóng thứ hai là điểm mang tính tham khảo để dựng một trục thẳng đứng vô hình. Các đường thẳng tương ứng khác được vẽ từ điểm tham khảo đó trên các khoảng cách bằng 61.8%, 100% và 161.8% của khoảng cách đơn vị (xác định khi dựng đường thẳng thứ nhất). Bước sóng thứ ba sẽ kết thúc gần các mức này. Fibonacci Channel Fibonacci Channel được tạo nên bằng các đường xu hướng song song. Để xây dựng công cụ này, bề rộng của kênh được sự dụng là bề rộng đơn vị. Sau đó, các đường thẳng song song sẽ được vẽ tại các điểm giá trị tương ứng với dãy số Fibonacci, bắt đầu là 0.618 bề rộng đơn vị, sau đó 1.000, 1.618, 2.618, 4.236 lần…Sau bước sóng thứ năm, có thể dự đoán được sự thay đổi của xu hướng. Nên nhớ rằng để dựng Kênh Fibonacci đúng thì phải dựa vào đường giới hạn tầm trên của kênh khi xu hướng tăng và tầm dưới của kênh khi xu hướng giảm. 4. Các công cụ Gann WD Gann ( 1878 -1955) đã phát triển một số phương pháp nhất định dùng trong việc phân tích biểu đồ giá. Ông chú trọng nhất vào các góc hình học, thể hiện mối liên hệ giữa thời gian và giá cả. Ông tin rằng mỗi loại góc và giá trị hình học nhất định trên biểu đồ đều có tính chất đặc biệt dùng trong việc dự đoán sự thay đổi của giá. Gann tìm ra một tỉ lệ hoàn hảo giữa thời gian và giá nếu giá tăng hoặc giảm theo góc 45 độ so với trục thời gian. Góc 45 chứng tỏ mối quan hệ 1:1, tương ứng với mức giá tăng trong từng đơn vị thời gian. Có 3 loại biểu đồ Gan chính : • Hình cung (Gann Fan) • Đường thẳng tuyến tính (Gann Line) • Dạng lưới (Gann Grid) Gann Fan Các đường thẳng dùng trong biểu đồ hình cung này được dựng thành các góc khác nhau từ một điểm cực đại hoặc cực tiểu của biểu đồ giá. Đường xu hướng theo tỉ lệ 1x1 được Gann xem là quan trọng nhất. Nếu đồ thị giá nằm trên đường thẳng này, nó chứng tỏ thị trường mạnh (giá có xu hướng tăng), ngược lại, nếu đồ thị nằm dưới thì thị trường yếu (giá có xu hướng giảm). Gann cho rằng đường bán kính theo tỷ lệ 1x1 là đường cận dưới có tác động mạnh khi xu hướng đi lên và giao điểm với đường này được xem là tín hiệu quan trọng cho sự chuyển hướng của thị trường. Gann nhấn mạnh trong 9 góc cơ bản sau thì góc theo tỉ lệ 1x1 là góc quan trọng nhất. ƒ 1х8 — 82.5 độ ƒ 1х4 — 75 độ ƒ 1х3 — 71.25 độ ƒ 1х2 — 63.75 độ ƒ 1х1 — 45 độ ƒ 2х1 — 26.25 độ ƒ 3х1 — 18.75 độ ƒ 4х1 — 15 độ ƒ 8х1 — 7.5 độ Gann Grid Biểu đồ Gann dạng lưới thể hiện xu hướng tại các góc 45 độ (Gann Lines). Theo quan niệm của Gann, đường thẳng nghiêng 45 độ thể hiện đường xu hướng dài hạn (có thể tăng hoặc giảm). Khi các mức giá cao hơn đường xu hướng theo hướng tăng thì xu hướng giá của thị trường đang tăng (nghiêng về hướng của “con bò đực”). Nếu các mức giá nằm dưới đường xu hướng theo hướng tăng thì xu hướng giá đang giảm (nghiêng về hướng của “con gấu”). Giao điểm của các đường Gann sau mức cân bằng này thể hiện sự phá vỡ mức cân bằng và khả năng thay đổi của xu hướng. Để vẽ Gann Grid, cần xác định hai điểm đầu và cuối để xác định vùng khảo sát trên biểu đồ. 5. Các công cụ phân tích khác Một số nghiên cứu về các quy tắc tuyến tính được dùng rất nhiều trong kỹ thuật phân tích để xác định các kênh và sự thay đổi của xu hướng. Các công cụ đó là : • Kênh hồi quy tuyến tính • Kênh các đường song song cách đều • Kênh về độ lệch chuẩn • Quy tắc cái nĩa Andrew Kênh hồi quy tuyến tính Kênh hồi quy tuyến tính được tạo nên dựa trên xu hướng hồi quy tuyến tính, thường là đường biểu hiện xu hướng nối liền 2 điểm trên biểu đồ giá và sử dụng quy tắc cực tiểu hoá sai số. Với kết quả đó, đường thẳng này được xem là đường trung tâm chính xác của sự thay đổi giá. Nó có thể được xem là đường giá cả cân bằng và bất kỳ sự lệch hướng theo chiều lên sẽ biểu thị người mua chiếm ưu thế và theo chiều xuống sẽ biểu thị người bán chiếm ưu thế. Kênh hồi quy tuyến tính bao gồm hai đường thẳng song song, cách đều 2 bên của đường hồi quy tuyến tính. Khoảng cách giữa hai đường này và đường hồi quy tuyến tính bằng mức sai số lớn nhất của của các điểm giá gần vời đường hồi quy. Mọi biến động giá diễn ra trong kênh hồi quy, đường viền trên được coi như tiệm cận trên và đường viền dưới là tiệm cận dưới. Giá thường vượt quá vùng hối quy trong một thời gian ngắn. Nếu giá vượt khỏi kênh hồi quy trong một thời gian dài, có thể dự đoán là xu hướng sẽ thay đổi. Kênh song song Kênh song song thể hiện 2 đường xu hướng song song nối liền các điểm cực đại và cực tiểu của các mức giá gần. Giá thị trường dao động tạo ra các điểm cực đại và cực tiểu, định hình cho phương hướng của các xu hướng trên thị trường. Việc xác định sớm kênh này có thể cung cấp các thông tin có giá trị bao gồm sự thay đổi trong việc định hướng, cho phép ước lượng các khoản lợi nhuận và thua lỗ có thể xảy ra. Cần đưa chỉ dẫn và độ rộng của kênh để thiết lập nên công cụ này. Kênh độ lệch chuẩn Kênh độ lệch chuẩn được tạo ra dựa trên xu hướng hồi quy tuyến tính, thể hiện đường xu hướng thường nối liền 2 điểm trên biểu đồ giá, sử dụng quy tắc cực tiểu hoá sai số. Với kết quả đó, đường thẳng này được xem là đường trung tâm chính xác của sự thay đổi giá. Nó có thể được xem là đường giá cả cân bằng và bất kỳ sự lệch hướng theo chiều lên sẽ biểu thị người mua chiếm ưu thế và theo chiều xuống sẽ biểu thị người bán chiếm ưu thế. Kênh độ lệch chuẩn bao gồm hai đường thẳng song song, cách đều 2 bên của đường hồi quy tuyến tính. Khoảng cách giữa hai đường này và đường hồi quy tuyến tính bằng độ lệch chuẩn của các điểm giá gần so với đường hồi quy tuyến tính. Đường viền trên được coi như tiệm cận trên và đường viền dưới là tiệm cận dưới. Giá thường vượt quá vùng hồi quy trong một thời gian ngắn. Nếu giá vượt khỏi kênh hồi quy trong một thời gian dài, có thể dự đoán là xu hướng sẽ thay đổi. Quy tắc cái nĩa của Andrews Quy tắc cái nĩa của Andrews là một công cụ bao gồm 3 đường xu hướng song song. Công cụ này được triển khai bởi Tiến sĩ Alan Andrews. Việc lý giải quy tắc này dựa vào các quy luật cơ bản của các đường tiệm cận trên và dưới. Đường xu hướng thứ nhất phát xuất từ một điểm cực trị tự chọn bên lề trái (đây là điểm cực đại hoặc cực tiểu quan trọng) và được vẽ sao cho nằm giữa hai điểm cực trị khác phía sau. Đường thẳng này được xem là “tay cầm” của cái nĩa. Các đường xu hướng thứ hai và thứ ba được vẽ từ hai điểm cực trị nói trên và song song với đường thứ nhất. Đây là “các răng cưa” của cái nĩa. Chỉ số là kết quả của các phép tính toán học dựa trên giá hoặc/và số lượng. Các chỉ số này được dùng để dự đoán thay đổi về giá. Có rất nhiều chỉ số kỹ thuật phức tạp dạng kể trên. ƒ Accelerator/Decelerator Oscillator — AC ƒ Accumulation/Distribution — A/D ƒ Alligator ƒ Average Directional Movement Index — ADX ƒ Average True Range — ATR ƒ Awesome Oscillator — AO ƒ Bollinger Bands — BB ƒ Commodity Channel Index — CCI ƒ DeMarker — DeM ƒ Elder-rays ƒ Envelopes ƒ Force Index — FRC ƒ Fractals ƒ Gator Oscillator — Gator ƒ Ichimoku Kinko Hyo ƒ Market Facilitation Index — BW MFI ƒ Momentum ƒ Money Flow Index — MFI ƒ Moving Average — MA ƒ Moving Average Convergence/Divergence — MACD ƒ Moving Average of Oscillator — OsMA ƒ On Balance Volume — OBV ƒ Parabolic SAR ƒ Relative Strength Index — RSI ƒ Relative Vigor Index — RVI ƒ Stochastic Oscillator Các khái niệm cơ sở trong phân tích kỹ thuật 1. Tiệm cận dưới và tiệm cận trên (Support and resistance) Hãy xem như công cụ tài chính là kết quả của cuộc đối đầu giữa “con bò đực” (người mua) và “con gấu” (người bán). “Con bò đực” đẩy giá lên cao hơn trong khi “con gấu” lại hạ giá xuống. Biến động chiếu hướng giá cả thực chất cho thấy ai sẽ thắng trong cuộc chiến này. Tiệm cận dưới là đường mà “con bò đực” (người mua) kiểm soát giá và ngăn không cho giá xuống thấp hơn. Trái lại, tiệm cận trên là điểm mà người bán (con gấu) kiểm soát giá và ngăn không cho giá lên cao hơn. Mức giá mà một giao dịch thực hiện được là giá mà tại đó “con bò đực” và “con gấu” đồng ý tiến hành giao dịch. Điều đó thể hiện sự nhất trí các kỳ vọng của họ. Đường tiệm cận dưới chỉ giá mà tại đó phần lớn các nhà đầu tư tin rằng giá sẽ lên cao hơn. Đường tiệm cận trên chỉ giá mà tại đó phần lớn các nhà đầu tư nhận thấy giá sẽ xuống thấp hơn. Tuy nhiên, các kỳ vọng của nhà đầu tư lại thường thay đổi theo thời gian và thay đổi này thường là bất ngờ. Trường hợp vượt mức đường tiệm cận trên và tiệm cận dưới là đáng chú ý và tái xuất hiện nhiều nhất trên biểu đồ giá. Đường vượt khỏi tiệm cận trên / tiệm cận dưới có thể được hình thành từ những thay đổi cơ bản trên hoặc dưới kỳ vọng của nhà đầu tư (ví dụ như thay đổi về thu nhập, quản lý, cạnh tranh…) hoặc bằng việc tự dự đoán (nhà đầu tư mua vì họ cho rằng giá sẽ lên). Nguyên nhân thì không quan trọng bằng hiệu quả : kỳ vọng mới phát sinh dẫn đến các mức giá mới. Các đường tiệm cận trên/ tiệm cận dưới bị tác động bởi yếu tố chủ quan nhiều hơn. Tiệm cận trên chuyển thành tiệm cận dưới Khi đường tiệm cận trên bị “phá vỡ” thành công thì sẽ chuyển thành đường tiệm cận dưới. Tương tự, khi đường tiệm cận dưới bị “phá vỡ” thành công thì sẽ chuyển thành đường tiệm cận trên. Nguyên nhân của việc này là “thế hệ” bò đực mới xuất hiện và thế hệ mới này lại từ chối mua khi giá xuống thấp. Giờ đây, thế hệ mới này lại sẵn sàng mua tại bất kỳ thời điểm nào mà giá trở lại mức trước. Tương tự, khi giá xuống dưới đường tiệm cận dưới thì mức này thường chuyển thành đường tiệm cận trên và giá thường khó có thời điểm phá vỡ. Khi giá đến gần đường tiệm cận dưới trước thì nhà đầu tư cố gắng giới hạn lỗ bằng cách bán đi. Sự hối tiếc của các nhà giao dịch Sau khi đường tiệm cận trên / tiệm cận dưới bị phá vỡ, thông thường thì các nhà giao dịch sẽ tự hỏi mức giá mới dựa trên thực tế có thể đạt tới mức nào. Ví dụ như sau khi đường cắt nằm trên đường tiệm cận trên, cả người mua và người bán đều có thể đặt câu hỏi về tính hiệu lực của giá mới và có thể quyết định bán. Điều này tạo nên hiện tượng có liên quan đến “sự hối tiếc của các nhà giao dịch” : giá trở lại đường tiệm cận trên / tiệm cận dưới theo giá phá vỡ xu hướng cũ. Tác động giá tiếp theo giai đoạn phục hồi này mang tính quyết định. Có thể xảy ra một trong hai tình huống : cả sự nhất trí của các kỳ vọng lẫn giá mới đều không được bảo đảm trong trường hợp giá sẽ trở lại mức trước đó hoặc các nhà đầu tư sẽ chấp nhận giá mới trong trường hợp giá sẽ tiếp tục theo hướng phá vỡ xu hướng cũ tạo xu hướng mới. Ở trường hợp thứ nhất, sự nhất trí của các kỳ vọng là giá mới cao hơn không được bảo đảm và sẽ hình thành “cái bẫy của con bò đực” kinh điển (hay còn gọi là phá vỡ xu hướng cũ theo chiều hướng xuống). Ví dụ như giá phá vỡ xu hướng cũ tại đường tiệm cận trên xác định (gọi đàn “bò đực” kỳ vọng giá sẽ cao hơn) và sau đó giá xuống thấp hơn đường tiệm cận trên và “con bò đực” nắm cổ phiếu trên mức giá. Cũng tương tự như thế đối với cái bẫy của “con gấu”. Giá hạ xuống dưới đường tiệm cận dưới và đủ thời gian để “con gấu” bán (hoặc bán trong khoảng thời gian ngắn) và sau đó khôi phục trên đường tiệm cận dưới để “con gấu” ra khỏi thị trường. Tình huống khác có thể xảy ra liên quan đến sự hối tiếc của các nhà giao dịch là kỳ vọng của các nhà đầu tư có thể thay đổi dẫn đến mức giá mới có thể chấp nhận được. Trong trường hợp này thì giá sẽ tiếp tục chuyển theo hướng tham gia thị trường. Có một phương pháp xác định số lượng kỳ vọng theo sự phá vỡ xu hướng cũ rất hiệu quả là xác định số lượng cùng với giá phá vỡ xu hướng cũ. Nếu giá phá vỡ đường tiệm cận trên/tiệm cận dưới với một lượng lớn tăng thêm và giai đoạn phục hồi của các nhà giao dịch tương đối chậm thì có nghĩa là kỳ vọng mới sẽ chi phối (chỉ một số ít các nhà đầu tư cảm thấy hối tiếc). Trái lại, nếu đường phá vỡ xu hướng tương đối vừa phải và giai đoạn “phục hồi” tăng thêm thì điều này cho thấy rất ít nhà đầu tư thay đổi kỳ vọng và sự quay về kỳ vọng ban đầu (ví dụ như giá ban đầu) được đảm bảo. 2. Yếu tố Cung và cầu Không có gì là khó hiểu đối với khái niệm tiệm cận dưới và tiệm cận trên: đó là cung và cầu theo lối kinh điển. Hãy nhớ lại loại “Econ 101”, đường cung/cầu chỉ lượng cung và cầu sẽ có tại mức giá định sẵn. Đường cung chỉ số lượng (ví dụ số lượng cổ phiếu) mà người bán sẵn sàng cung ứng tại mức giá định sẵn. Khi giá tăng, số lượng người bán cũng như các nhà đầu tư muốn bán giá cao hơn cũng tăng. Đường cầu chỉ số cổ phiếu mà người mua sẵn sàng mua tại mức giá đưa ra. Khi giá tăng, số lượng người mua cũng như các nhà đầu tư mua với giá cao hơn bị giảm đi. Tại bất kỳ giá nào được đưa ra, biểu đồ cung/cầu cũng hiển thị số lượng người mua và bán. Trong thị trường tự do, các đường hiển thị này luôn thay đổi. Kỳ vọng của các nhà đầu tư thay đổi, vì thế người mua và người bán cảm thấy giá cả có thể chấp nhận được. Đường cắt nằm trên đường tiệm cận trên cho thấy sự thay đổi theo chiều hướng lên ở đường cầu vì có nhiều người mua sẵn sàng mua với giá cao hơn. Tương tự, đường cắt nằm dưới đường tiệm cận dưới cho thấy đường cung có hướng đi xuống. Nguyên tắc cơ bản của hầu hết các công cụ phân tích kỹ thuật được thiết lập trên khái niệm cung và cầu. Biểu đồ giá của công cụ tài chính cho chúng ta cái nhìn thấu đáo về những thế mạnh này khi thực hiện. 3. Khoảng thời gian dao động Không kể đến “khoảng thời gian dao động” của dữ liệu trên biểu đồ của bạn (ví dụ như biểu đồ theo từng giờ, ngày, tuần, tháng…), cần phải có các nguyên tắc cơ bản của phân tích kỹ thuật. Thời cơ xuất hiện bất kỳ lúc nào trong khoảng thời gian dao động. Tuy nhiên, sự sắp xếp các công cụ phân tích kỹ thuật theo yêu cầu của khách hàng là cần thiết đối với mỗi khoảng thời gian. Trên biểu đồ tuần, đơn vị tính trên trục thời gian là một tuần. Do đó, trên biểu đồ tháng, mỗi thanh thể hiện hoạt động giá cả của một tháng trọn vẹn. Rõ ràng là để kiểm soát khoảng thời gian lâu hơn và có thể phân tích xu hướng dài hạn thì phải điều tiết hoạt động giá cả. Ví dụ như biểu đồ tuần có thể kiểm soát khoảng thời gian 5 năm và hơn nữa, biểu đồ tháng có thể kiểm soát 20 năm hoặc hơn. Đây là cách mà nhà phân tích quản lý tầm nhìn xa và có thể đánh giá thị trường về cơ hội lâu dài thực sự quan trọng khi tiến hành phân tích kỹ thuật. Trình tự nghiên cứu biểu đồ giá là rất quan trọng đối với việc phân tích chuyên sâu. Kinh nghiệm cho thấy thường bắt đầu từ phân tích biểu đồ dài hạn và sau đó chuyển dần đến biểu đồ ngắn hạn. Sẽ ít có “xáo trộn” hơn đối với khoảng thời gian dài hạn và đó là lý do tại sao mô hình đồ thị, các đường xu hướng cơ bản và các đường tiệm cận trên và tiệm cận dưới được nhìn thấy rõ ràng hơn. Điều này lý giải cho loại hình công việc với khoảng thời gian số liệu. Nếu chúng ta bắt đầu nghiên cứu thị trường ngắn hạn thì sau đó cùng với việc triển khai phân tích số liệu, chúng ta sẽ phải xem xét lại các kết luận tối thiểu là vài lần. Trong thời gian dài thì các kết quả ngắn hạn có thể còn làm thay đổi hoàn toàn sau khi nghiên cứu biểu đồ dài hạn. Nếu trước tiên chúng ta bắt đầu phân tích các khoảng thời gian dài hơn thì chúng ta có thể thiết lập thị trường với tiềm năng dài hạn. Sau đó, chúng ta có thể chuyển sang nghiên cứu biểu đồ với khoảng thời gian ngắn hơn. Đây là cách mà nhà phân tích đi từ phân tích “vĩ mô” sang “vi mô”. Ở giai đoạn cuối của phân tích, chúng ta sẽ xác định điểm “tham gia thị trường”, ví dụ như điểm mở một vị thế. Giai đoạn cuối của phân tích càng ngắn thì độ chính xác để xác định điểm tham gia thị trường càng cao. 4. Hệ thống giao dịch / Trading System Hệ thống giao dịch (TS) là một tập hợp các chỉ dẫn đưa ra lời khuyên nên mở hoặc đóng các vị thế giao dịch căn cứ trên kết quả của phân tích kỹ thuật. Hệ thống giao dịch cho phép ngăn chặn tính tùy tiện trong tiến trình giao dịch. Sự tuân thủ nghiêm ngặt hệ thống cho phép loại trừ yếu tố cảm tính trong giao dịch. Vì lý do này, phải tuân thủ các hướng dẫn của hệ thống một cách nghiêm ngặt cho dù một vị thế sinh lợi tiềm năng có thể không được mở. Điều đầu tiên bạn cần phải thực hiện khi thiết lập hệ thống giao dịch là chọn lựa các khoảng thời gian hoặc khoảng thời gian dao động mà bạn sẽ tiến hành. Số tiền ký quỹ ban đầu và các nguyên tắc về quản lý vốn là những hạn chế trong lĩnh vực này. Sẽ có ít “xáo trộn về tài chính” trong khoảng thời gian dài hạn hơn khoảng thời gian ngắn hạn. Phân tích kỹ thuật dài hạn thì chính xác hơn và giảm thiểu sự sai lệch. Khoảng thời gian dài hạn thích hợp để đạt yêu cầu công việc nhưng đòi hỏi ký quỹ ban đầu lớn hơn. Khoảng thời gian dao động ngắn hơn có xái trộn nhiều hơn và do đó mà phân tích kỹ thuật sẽ ít chính xác hơn và cho các tín hiệu sai lệch nhiều hơn. Trong trường hợp ký quỹ ban đầu có mức vừa phải, không nên hướng việc giao dịch đến khoảng thời gian dao động dài, tốt hơn là thử ở mức trung bình và ngắn hạn trước tiên. Đối với khoảng thời gian dài hơn, sự biến động giá có thể không thấy rõ nhưng các biến động này có thể đủ đáng kể để “nuốt chửng” toàn bộ số tiền ký quỹ ban đầu. Do đó, hạn chế đầu tiên của hệ thống giao dịch là tiền ký quỹ ban đầu sẽ xác định việc lựa chọn khoảng thời gian dao động. Xin hãy luôn ghi nhớ rằng việc thiết lập các công cụ phân tích cho mỗi giai đoạn được lựa chọn riêng lẻ từng cái một. Bên cạnh đó, nếu thực hiện việc phân tích trong khoảng thời gian dao động ngắn thì yêu cầu đối với các công cụ phân tích càng đòi hỏi cao càng tốt. Nhệm vụ thứ hai của hệ thống giao dịch là xác định điểm tham gia thị trường với sự hỗ trợ của phân tích kỹ thuật. Trong bất kỳ hệ thống giao dịch nào, bất kể công cụ phân tích thế nào đi nữa thì nhà phân tích cũng phải bắt đầu từ khoảng thời gian dao động lớn và chuyển dần sang khoảng thời gian dao động thấp hơn. Điều đầu tiên cần phải xác định là toàn bộ các điều kiện thị trường hiện tại. Ví dụ như nếu giao dịch của chúng ta được chỉ dẫn bởi xu hướng thì trước tiên chúng ta phải xác định xu hướng toàn cầu. Ngay cả khi một tín hiệu mua xuất hiện tại thời điểm xu hướng có chiều hướng giảm thì không nên mở vị thế trong hệ thống giao dịch như thế. Sau đó thì phân tích các điều kiện thị trường trong các khoảng thời gian ít đặt lệnh hơn. Sau cùng là phân tích khoảng thời gian dao động. Nếu xuất hiện một tín hiệu xác nhận trong khoảng thời gian dao động dài thì có thể mở vị thế ngay tức thời. Tuy nhiên, để xác định điểm tham gia thị trường tối ưu thì có thể thực hiện thêm việc phân tích trong khoảng thời gian dao động ngắn hơn. Nhiệm vụ quan trọng nhất của hệ thống giao dịch là xác định điểm kết thúc. Bất kỳ hệ thống nào cũng không chỉ đòi hỏi cung cấp tín hiệu để mở một vị thế mà còn ước tính các mức lợi nhuận. Lệnh Thu Lợi Nhuận sẽ được đặt sau cấp độ này. Cũng cần thiết xác định mức dừng lỗ trong trường hợp thị trường bắt đầu chuyển sang hướng đối ngược. Đặt lệnh Dừng lỗ tại cấp độ này. Nói cách khác, hệ thống giao dịch phải xác định một cách chính xác cho đến cấp độ nào thì vị thế sẽ được mở để nhận lợi nhuận tối đa và xác định kỹ thuật dừng lỗ trong trường hợp thị trường phát triển theo chiều hướng không thuận lợi. VÀNG VIỆT NAM cung cấp cho ta những công cụ cơ bản nhất phục vụ cho các phương pháp phân tích kỹ thuật. Đây được đánh giá là những công cụ đơn giản, đáng tin cậy và được hầu hết các nhà phân tích sử dụng. Các công cụ tính toán ở đây bao gồm: - Pivot Point - Fibonnacy Retracement - Risk Probability Calculator     1/ Pivot Point: Dùng để tính những mức giá sàn (Support) và giá trần (Resistance) quan trọng, nói một cách đơn giản một điểm xoay (Pivot points - PP) và những mức giá trần trên giá sàn là những vùng mà chiếu hướng giá có thể thay đổi. Pivot Point có thể tính cho các khung thời gian tháng, tuần, ngày, giờ,... Những điểm xoay đặc biệt hữu ích cho những nhà giao dịch ngắn hạn đang đi tìm kiếm lợi nhuận trong sự dịch chuyển nhỏ của giá. *Ghi chú:   H: High – Giá cao nhất R1,R2,R3: Mức cản trên 1, 2, 3     L: Low – Giá thấp nhất S1,S2,S3: Mức cản dưới 1,2,3   C: Close – Giá đóng cửa   PP: Giá trung tâm   Resis-Support-Pivot Point Nhập giá trị H L C R3 R2 R1 PP S1 S2 S3 Giao dịch với Pivot Point */ Giao dịch trong thị trường đột biến: - PP là điểm đầu tiên trước khi bạn nhập vào thị trường bởi vì nó là mức sàn hoặc mức trần cơ bản. Sự dịch chuyển giá lớn nhất thường xuất hiện ở mức giá PP. - Khi giá chạm PP thì bạn mới có thể quyết định nên Mua hay Bán và đặt lệnh chốt lời hoặc đừng lỗ. Nói chung nếu giá ở trên PP thì khả năng thị trường đi lên và nếu giá ở dưới thì khả năng thị trường đi xuống. - Nếu chúng ta thấy giá di chuyển lên xuống xung quanh PP và đóng cửa dưới mức PP thì bạn nên quyết định Bán, điểm chặn lỗ sẽ nằm trên PP và mục tiêu lợi nhuận ban đầu sẽ là mức S1. - Tuy nhiên, nếu bạn thấy mức giá tiếp tục rớt xuống dưới S1 thay vì bạn thanh khoản lấy lợi nhuận tại S1 thì bạn có thể chuyển điểm chặn lỗ của bạn đến ngay phía trên S1 và quan sát cẩn thận. S2 sẽ là mức mong đợi thấp thấp nhất của giao dịch trong ngày và nên là mục tiêu cuối cùng của bạn. - Áp dụng ngược lại trong thị trường đi lên, nếu giá đóng của trên PP bạn nên vào lệnh Mua đặt lệnh chặn lỗ ở dưới PP và sử dụng mức làm mục tiêu lợi nhuận của bạn. */ Giao dịch trong thị trường Range - bound - Sức mạnh của mức giá sàn và giá trần tại những mức PP khác nhau được xác định bởi số lần giá, bật nhảy lên tại mức PP đó. - Một cặp tiền tệ chạm một mức giá càng nhiều lần sau đó đảo chiều lại thì mức giá đó càng mạnh. Làm xoay chốt đơn giản có nghĩa là tiến đến mức sàn hoặc mức trần và sau đó quay ngược lại. Vì vậy nó có thể tên là chốt xoay. - Nếu cặp tiền tệ ở mức giá trần phía trên thì bạn có thể sell cặp đồng tiền này và lệnh chặn lỗ bảo vệ nghiêm ngặt ở ngay mức giá trần đó. - Nếu giá cặp tiền tệ đó vẫn cứ di chuyển ở mức giá cao hơn và phá lên mức giá sàn, điều đó được xem như là 1 sự đột phá đi lên, bạn cũng sẽ ngừng sell nhưng nếu bạn tin rằng sự đột phá này có xu hướng tốt để Buy thì bạn có thể vào lại thị trường với một lệnh buy. Bạn có thể đặt lệnh bảo vệ cho bạn ngay dưới mức trần trước đó mà chúng ta vừa mới thâm nhập và bây giờ nó hoạt động như là một mức sàn. - Nếu cặp đồng tiền ở gần một mức sàn ở dưới, bạn có thể buy cặp đồng tiền này và đặt lệnh chặn lỗ ở phía dưới mức giá sàn.     2/ Fibonnacy Retracement:   Dùng để tính mức đàn hồi của giá hay còn gọi là mức dội của giá sau 1 chu kỳ tăng hay giảm giá     *Ghi chú:    UP: tính toán sau 1 cho kỳ tăng giá  DOWN: Tính toán sau 1 chu kỳ giảm giá       R1, R2, R3, R4, R5:Mức dự đoán dội lại của giá sau 1 chu kỳ tăng giá tính theo bậc       T1,T2 :Mức dự đoán tiếp tục của giá sau khi kết thúc việc dội lại       A: Điểm đáy đối với chu kỳ tăng hay giảm giá B: Điểm đỉnh đối với chu kỳ tăng hay   giảm giá.   C: Điểm đáy dội lại đối với chu kỳ tăng giá và điểm đỉnh dội lại đối với chu kỳ giảm giá.    Fibonancy Retracement Nhập giá trị A B C Kết quả R5 R4 R3 R2 R1 T1 T2    3/ Risk Probability Calculator:   Dùng để đo lường các lệnh trước khi thực hiện để xem xét độ rủi ro của nó dựa trên tỷ lệ tính được giữa “Lợi Nhuận” và “Rủi Ro” thông qua các bước tính toán “Mức Retracement” các “Mục Tiêu” và các điểm đỉnh và đáy sau mỗi chu kỳ tăng hay giảm giá, ngắn hay dài hạn bất kỳ.  Risk Probability Calculator - UP Nhập giá trị A B C Kết quả 38.20% 61.70% Mục tiêu 1 Mục tiêu 2 Mục tiêu 3 Rủi ro mục tiêu 1 Rủi ro mục tiêu 2 Rủi ro mục tiêu 3 Lợi nhuận mục tiêu 1 Lợi nhuận mục tiêu 2 Lợi nhuận mục tiêu 3 Tỷ lệ mục tiêu 1 Tỷ lệ mục tiêu 2 Tỷ lệ mục tiêu 3 Chấp nhận mục tiêu 1 Chấp nhận mục tiêu 2 Chấp nhận mục tiêu 3 Risk Probability Calculator - DOWN Nhập giá trị A B C Kết quả 38.20% 61.70% Mục tiêu 1 Mục tiêu 2 Mục tiêu 3 Rủi ro mục tiêu 1 Rủi ro mục tiêu 2 Rủi ro mục tiêu 3 Lợi nhuận mục tiêu 1 Lợi nhuận mục tiêu 2 Lợi nhuận mục tiêu 3 Tỷ lệ mục tiêu 1 Tỷ lệ mục tiêu 2 Tỷ lệ mục tiêu 3 Chấp nhận mục tiêu 1 Chấp nhận mục tiêu 2 Chấp nhận mục tiêu 3

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuy trình tư vấn kinh doanh vàng và ngọai hối trên tài khoản.DOC
Luận văn liên quan