MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU VÀ RÀO CẢN TRONG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY 3
1.1 Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng dệt may 3
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm về xuất khẩu hàng dệt may 3
1.1.2 Các hình thức xuất khẩu hàng dệt may 4
1.1.3 Lợi ích và các nhân tố ảnh hưởng trong xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 6
1.2 Rào cản trong xuất khẩu hàng dệt may 11
1.2.1 Khái niệm và phân loại rào cản trong xuất khẩu hàng dệt may 11
1.2.2 Tác dụng của các rào cản 23
1.3 Kinh nghiệm vượt rào cản trong xuất khẩu hàng dệt may của một số nước vào thị trường Hoa Kỳ 26
1.3.1 Trung Quốc 26
1.3.2 Một số nước ASEAN 28
1.3.3 Một số bài học kinh nghiệm với Việt Nam 29
CHƯƠNG II. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC RÀO CẢN HOA KỲ ĐẶT RA ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM 31
2.1 Tổng quan về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 31
2.1.1 Thị trường Hoa Kỳ 31
2.1.2 Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 33
2.2 Các rào cản trong xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 38
2.2.1 Rào cản thứ nhất: Hàng rào thuế quan 39
2.2.2 Rào cản thứ hai: Các biện pháp hạn chế định lượng 44
2.2.3. Rào cản thứ ba: Các tiêu chuẩn và quy định liên quan tới người tiêu dùng và người lao động 52
2.2.4 Rào cản thứ tư: Các quy định về xuất xứ, nhãn mãc, nhãn hiệu hàng hoá 57
2.2.5 Rào cản thứ năm: Các biện pháp thương mại tạm thời 65
2.2.6 Rào cản thứ sáu: Các rào cản khác 67
2.3 Đánh giá chung về rào cản của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may Việt Nam 72
2.3.1 Rào cản của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may Việt Nam gồm rất nhiều loại 72
2.3.2 Rào cản của Hoa Kỳ rất phức tạp 72
2.3.3 Rào cản của Hoa Kỳ ở mức cao 73
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM VƯỢT RÀO CẢN TRONG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 75
3.1 Dự báo xu hướng phát triển của các rào cản của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may Việt Nam 75
3.1.1 Rào cản thuế quan có khả năng giảm nhưng không nhiều 75
3.1.2 Các quy định tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn lao động ngày càng tăng 76
3.1.3 Các quy định bảo vệ người tiêu dùng ngày càng nhiều và được lồng ghép trong nhiều rào cản hơn 77
3.1.4 Các quy định nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm rất được quan tâm 78
3.1.5 Rào cản từ các biện pháp thương mại tạm thời ngày càng khắt khe hơn 79
3.2 Một số giải pháp và kiến nghị nhằm vượt rào cản trong xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Hoa Kỳ 80
3.2.1 Kiến nghị về phía Nhà nước 80
3.2.2 Giải pháp về phía Hiệp hội dệt may Việt Nam 90
3.2.3 Giải pháp với doanh nghiệp 95
3.2.4 Các giải pháp khác 98
KẾT LUẬN 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
114 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2526 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rào cản và Giải pháp vượt rào cản trong xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và hiện tại hàng năm Hoa Kỳ vẫn luôn điều chỉnh mức thuế với tất cả các mặt hàng, trong đó không thể thiếu hàng dệt may một mặt hàng nhập khẩu quan trọng của Hoa Kỳ. Mức thuế điều chỉnh đối với hàng dệt may nhìn chung có xu hướng giảm từ 0,03 đến 2% một năm và hiện tại nhiều mặt hàng dệt may Việt Nam đã được miễn hoàn toàn. Ví dụ: Bộ comple bằng sợi nhân tạo hoặc tổng hợp chứa 23% hoặc nhiều hơn trọng lượng len năm 2002 phải chịu mức thuế 3.4%, năm 2005 được miễn thuế, bằng các sợi khác năm 2002 phải chịu mức thuế 6%, năm 2005 cũng được miễn thuế hoàn toàn. Như vậy mức thuế đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ có xu hướng giảm nhưng không nhiều.
3.1.2 Các quy định tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn lao động ngày càng tăng
Vấn đề môi trường hiện nay là vấn đề rất được các nước quan tâm. Chính vì vậy các sản phẩm phải đảm bảo tiêu chuẩn môi trường thì Hoa Kỳ mới cho phép thông quan. Đối với hàng dệt may cũng vậy, phải là hàng may mặc “xanh”. Hiện nay các tiêu chuẩn môi trường đối với hàng dệt may của Hoa Kỳ chưa nhiều và chủ yếu là các rào cản do Hoa Kỳ tự đặt ra. Hàng dệt may của các nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ bị trả lại do không vượt qua được rào cản này ngày càng tăng. Hoa Kỳ cũng có xu hướng áp dụng thêm các tiêu chuẩn môi trường của quốc tế thì hàng dệt may không đảm bảo tiêu chuẩn môi trường sẽ càng khó khăn hơn để vào được thị trường này.
Mấy năm gần đây, ngày càng nhiều sản phẩm dệt may Trung Quốc bị Hoa Kỳ từ chối hoặc phải bồi thường do không phù hợp với tiêu chuẩn “xanh” – tiêu chuẩn ra đời từ hàng rào thương mại “xanh” greentrade barrier (Hàng dệt may “xanh” là các sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khoẻ đối với người sử dụng). Hàng dệt may của Việt Nam tất yếu không thể tránh được điều này khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Hiện nay công nghệ sản xuất hàng dệt may của Việt Nam đặc biệt là công nghệ nhuộm còn chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn môi trường. Vì thế đây là rào cản không dễ vượt qua đối với tất cả các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may sang Hoa Kỳ trong thời gian tới.
Bên cạnh việc coi trọng vấn để đảm bảo môi trường trong quá trình sản xuất, Hoa Kỳ còn rất coi trọng việc đáp ứng các tiêu chuẩn lao động trong doanh nghiệp – các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp có đông lao động như ngành dệt may. Hiện nay Hoa Kỳ đang áp dụng hai tiêu chuẩn xã hội là tiêu chuẩn SA 8000 và tiêu chuẩn WRAP. Như đã giới thiệu ở chương hai, cả hai tiêu chuẩn này không bắt buộc, các doanh nghiệp dệt may áp dụng trên tinh thần tự nguyện. Nhưng ngày càng nhiều nước chỉ nhập khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu đáp ứng được các tiêu chuẩn này. Xu hướng tiêu chuẩn này sẽ trở thành bắt buộc, tất cả các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đều phải tuân theo nếu muốn xuất khẩu được hàng hoá vào Hoa Kỳ.
3.1.3 Các quy định bảo vệ người tiêu dùng ngày càng nhiều và được lồng ghép trong nhiều rào cản hơn
Về lý thuyết, việc các quốc gia đưa ra các rào cản thương mại trái với nguyên tắc tự do hoá thương mại đã được thoả thuận trong thương mại quốc tế. Vì vậy, các nước nhập khẩu hàng dệt may nói chung và Hoa Kỳ nói riêng thường núp dưới bóng lợi ích người tiêu dùng để thiết lập các rào cản mới.
Hiện nay có rất nhiều rào cản có liên quan tới người tiêu dùng. Chẳng hạn như quy định liên quan tới việc ghi nhãn hàng dệt may của Hoa Kỳ rất chặt chẽ đảm bảo cho người tiêu dùng có các thông tin cần thiết về sản phẩm như thành phần sợi, nước sản xuất, cách giặt, tẩy, là, sấy... Từ đó người tiêu dùng có cách dùng tốt hơn, đồng thời đảm bảo chất lượng sản phẩm trong thời gian dài hơn. Hay các quy định tiêu chuẩn môi trường, ngoài các lợi ích về môi trường nói chung còn nhằm đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Trong quy định tiêu chuẩn môi trường của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may có quy định rõ không được dùng hoá chất nhuộm vải hay các chất trợ nhuộm độc hại với môi trường và không an toàn với người tiêu dùng.
Bên cạnh các quy định liên quan tới bảo vệ người tiêu dùng, Hoa Kỳ cũng có rất nhiều luật để bảo vệ người tiêu dùng như luật về trách nhiệm với sản phẩm, luật an toàn sản phẩm tiêu dùng, luật liên bang về các chất nguy hiểm, luật về vải dẽ cháy... Những luật này bao gồm những luật của liên bang và luật của các bang. Hoa Kỳ theo hệ thống luật án lệ nên các phán quyết của toà án diễn giải các luật bảo vệ người tiêu dùng cũng trở thành luật. Đó là một lý do khiến cho rào cản liên quan tới bảo vệ người tiêu dùng ngày càng nhiều hơn.
3.1.4 Các quy định nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm rất được quan tâm
Hiện nay Hoa Kỳ nhập khẩu hàng dệt may của hầu hết các nước trên thế giới. Mỗi nước tuỳ theo mối quan hệ về kinh tế chính trị mà được hưởng các mức thuế khác nhau với các ưu đãi khác nhau. Chính vì vậy việc xác định xuất xứ hàng hoá là rất quan trọng. Nếu hàng dệt may mà tất cả các công đoạn sản xuất cũng như nguyên liệu sử dụng ở một nước thì xuất xứ hàng hoá sẽ là nước đó. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường phải nhập nguyên liệu hay trong quá trình sản xuất có những khâu được làm ở nước ngoài thì việc xác định xuất xứ hàng dệt may phức tạp hơn rất nhiều.
Việc ghi sai xuất xứ hàng dệt may cũng bị Hoa Kỳ xử phạt rất nghiêm khắc. Hàng dệt may nhập khẩu vi phạm quy định đánh dấu xuất xứ hàng hoá sẽ bị hải quan giữ lại. Hải quan có thể yêu cầu người nhập khẩu nộp thuế vi phạm quy định đánh dấu xuất xứ, tiêu huỷ hoặc đánh dấu xuất xứ dưới sự giám sát của hải quan.
Các quy định liên quan tới xuất xứ hàng dệt may ngày càng nhiều và phức tạp. Hiện nay ngoài việc phải ghi xuất xứ hàng dệt may trên sản phẩm, các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may còn phải ghi xuất xứ dưới dạng mã số MID để hải quan dễ kiểm tra khi cho hàng thông quan.
Nói chung việc ghi xuất xứ hàng dệt may rất được Hoa Kỳ quan tâm chính vị vậy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chú ý để tránh những rắc rối và những tổn thất không đáng có từ rào cản này.
3.1.5 Rào cản từ các biện pháp thương mại tạm thời ngày càng khắt khe hơn
Việt Nam sắp là thành viên của WTO nhưng không có nghĩa là hàng dệt may của Việt Nam có thể tránh khỏi rào cản từ các biện pháp thương mại tạm thời. Thật vậy, trong lần đàm phán thứ 12 vừa rồi giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã đi đến một thỏa thuận rất quan trọng đối với hàng dệt may. Hoa Kỳ sẽ xoá bỏ hạn ngạch cho Việt Nam nhưng Chính phủ Việt Nam phải cam kết không được thực hiện các chương trình trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp dệt may, các chương trình đang thực hiện cũng cần xoá bỏ ngay lập tức. Điều này gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó việc Việt Nam gia nhập WTO cũng không đồng nghĩa với việc hàng dệt may của Việt Nam sẽ không bị kiện bán phá giá hay áp dụng các biện pháp đối kháng khác khi vi phạm. Mà chỉ có thể là vị trí của Việt Nam trong các vụ kiện đó sẽ được cải thiện mà thôi. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy, sau khi tham gia vào WTO, trong giai đoạn đầu hàng hoá Trung Quốc tự do chiếm lĩnh tất cả các thị trường và đã vướng phải rất nhiều vụ kiện bán phá giá từ nhiều nước trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ. Việt Nam cũng vậy, trong thời gian tới khi hạn ngạch đối với hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ không còn thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ xuất khẩu hết khả năng của mình (hiện tại các doanh nghiệp chỉ xuất khẩu khoảng 50% khả năng sản xuất). Chính vì vậy, nguy cơ hàng dệt may Việt Nam vào thị trường này tăng rất nhanh là điều mà các doanh nghiệp có thể nhìn thấy được. Với sự tăng nhanh như vậy các doanh nghiệp dệt may của Hoa Kỳ có thể sẽ khởi đơn kiện Việt Nam và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi đó sẽ bị áp các biện pháp đối kháng. Mặt khác, nếu các doanh nghiệp không đưa ra giá cả một cách hợp lý thì bị kiện bán phá giá là điều không thể tránh khỏi.
Như vậy các rào cản thương mại tạm thời của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may Việt Nam sẽ ngày càng khó khăn hơn. Chính phủ Việt Nam cùng các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải có các biện pháp chiến lược, phối hợp các biện pháp hỗ trợ một cách đồng bộ mới mong vượt qua được rào cản này.
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM VƯỢT RÀO CẢN TRONG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO HOA KỲ
3.2.1 Kiến nghị về phía Nhà nước
a) Tăng cường công tác thông tin phổ biến pháp luật và chính sách thương mại của Hoa Kỳ
Trong hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng các doanh nghiệp chỉ có thể xuất khẩu thành công khi hiểu rõ hệ thống pháp luật và chính sách thương mại của nước nhập khẩu. Hoa Kỳ là một nước có hệ thống pháp luật rất phức tạp với hệ thống pháp luật liên bang và hệ thống pháp luật bang. Chính vì vậy nó là rào cản đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ. Để giúp các doanh nghiệp vượt qua được rào cản này Nhà nước phải tăng cường công tác thông tin phổ biến pháp luật và chính sách thương mại của nước này.
Với sự biến động cả về kinh tế cũng như chính trị của các nước trên thế giới, Hoa Kỳ luôn có sự thay đổi về pháp luật, thủ tục hành chính và đặc biệt là thay đổi về chính sách thương mại để đối phó cũng như để bảo hộ sản xuất trong nước và bảo vệ người tiêu dùng. Nếu các doanh nghiệp dệt may Việt Nam không nắm được những thay đổi đó thì sẽ gặp phải trở ngại rất lớn khi xuất khẩu. Ngược lại, nếu các doanh nghiệp có được thông tin kịp thời thì sẽ có biện pháp để vượt qua các rào cản này một cách dễ dàng.
Trong những năm gần đây Chính phủ và các cơ quan chuyên trách đã có quan tâm tới vấn đề cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp dệt may. Như Trung tâm Thông tin thương mại - Bộ Thương mại có tạp chí chuyên ngành dệt may phát hành mỗi tuần một số. Đây là một tờ báo rất có ý nghĩa đỗi với các doanh nghiệp cũng như những người quan tâm tới lĩnh vực dệt may trong nước và quốc tế. Nhưng việc cung cấp thông tin qua mạng Internet thì còn rất hạn chế. Các trang Web của các bộ chưa hữu ích đối với các doanh nghiệp, các thông tin trên đó không theo kịp sự phát triển trên thị trường dệt may. Bên cạnh việc cung cấp thông tin một cách kịp thời thì các cơ quan này cũng cần phải có những hướng dẫn cụ thể và chi tiết cho các doanh nghiệp hơn khi có những quy định mới.
Chẳng hạn, cuối năm 2005 cơ quan hải quan và bảo vệ biên giới Hoa Kỳ ra một quy định mới về viêc khai xuất xứ hàng dệt may. Huỷ bỏ quy định cũ về khai báo (19 CFR 12.130) đối với tất cả hàng dệt và may. Thay vào đó, các nhà nhập khẩu phải khai báo mã của nhà sản xuất – Manufacturer Identification Code (MID). Nhà nhập khẩu, môi giới hải quan là người sẽ xác định MID dựa trên những thông tin về công ty, điền vào form khai hải quan khi làm thủ tục nhập khẩu. Quy định này có hiệu lực từ ngày 5/10/2005. Theo đó tất cả hàng dệt may nhập khẩu từ tất cả các nước trong đó có Việt Nam phải thực hiện. Hàng hoá của nước nào không thực hiện quy định này sẽ không được thông quan. Bộ Thương mại đã cho đăng thông báo này trên tạp chí dệt may số ra ngày 24/10/2005 nghĩa là sau khi quy định có hiệu lực gần 20 ngày, còn Cục Xúc tiến thương mại Việt Nam thì cung cấp thông tin này thông qua trang Web của cục ngày 21/4/2006, chậm so với ngày có hiệu lực hơn nửa năm. Trong cả hai trang thông tin này Bộ Thương mại cũng như Cục Xúc tiến thương mại đều không có những quy định hướng dẫn cụ thể. Tuy có đưa ra các ví dụ về việc ghi mã số MID của một số công ty nước ngoài nhưng tuyệt đối không có một ví dụ nào là gắn với Việt Nam và các doanh nghiệp dệt may Viêt Nam. Điều này gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ trong thời gian qua.
Tóm lại, để có thể chủ động đối phó với sự thay đổi trong chính sách của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may, Nhà nước cần có thông tin đầy đủ kịp thời cho các doanh nghiệp dệt may trong nước chuẩn bị. Không những thế những cơ quan thông tin đại chúng và các cơ quan nghiên cứu, đào tạo cần phải phổ biến hướng dẫn một cách cụ thể các biện pháp đối phó với các rào cản một cách có hiệu quả.
b) Chuẩn bị tốt các điều kiện cho doanh nghiệp khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới
Sau nhiều vòng đàm phán với Hoa Kỳ, rạng sáng ngày 13/5/2006, vòng đàm phán 12 đã kết thúc với một thoả thuận song phương, theo đó Hoa Kỳ đồng ý Việt Nam có thể gia nhập tổ chức chức thương mại thế giới (WTO). Đây là bước đi lớn và cũng là bước đi cuối cùng, mang tính quyết định việc Việt Nam có được gia nhập WTO hay không.
Trong cuộc đàm phán chiều ngày 3/6/2006 với Phó Thủ tướng Vũ Khoan, Tổng giám đốc WTO, ông Pascal Lamy nhận định nếu mọi việc suôn sẻ, có thể sẽ làm thủ tục kết nạp Việt Nam vào tháng 10. Như vậy việc tham gia vào WTO của Việt Nam chỉ vài tháng nữa là thành hiện thực, Chính phủ Việt Nam cùng các cơ quan ban ngành phải hỗ trợ giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp dệt may chuẩn bị tốt các điều kiện khi gia nhập tổ chức này.
Gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới sẽ mở ra con đường phát triển tốt hơn cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may nói riêng. Các doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn khi vượt qua rào cản của Hoa Kỳ về hàng dệt may. Chẳng hạn khi đã là thành viên của WTO Việt Nam sẽ không phải chịu hạn ngạch khi xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ nữa. Đây là một thuận lợi vô cùng to lớn đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Theo Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, ông Lê Quốc Ân, Hoa Kỳ đồng ý dỡ bỏ mọi hạn chế về quota nhập khẩu đối với hàng dệt may Việt Nam một khi nước này là thành viên của WTO. Lâu nay, hạn ngạch dệt may vào thị trường Hoa Kỳ luôn là vấn đề lớn đối với ngành dệt may Việt Nam. Khi Việt Nam là thành viên WTO, không còn quota, tâm lý khách hàng Hoa Kỳ sẽ vững tâm hơn khi làm ăn với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Mặt khác khi có các vụ kiện hay các cuộc đàm phán với các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ, sẽ đỡ lép vế hơn, ít bị ép giá hay thua thiệt hơn.
Trong những năm gần đây, Đảng và Chính phủ đã khẳng định rõ chủ trương về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và đã từng bước công bố lộ trình hội nhập. Chính vì vậy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam không còn bỡ ngỡ với WTO. Nhưng Nhà nước cũng cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp hơn nữa để doanh nghiệp có thể cơ cấu lại nguồn lực, sắp xếp lại sản xuất... nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam.
c) Giúp doanh nghiệp vượt qua rào cản trách nhiệm xã hội của Hoa Kỳ
Khi xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam thường vướng phải các rào cản về trách nhiệm xã hội theo tiêu chuẩn SA 8000 và WRAP. Cả hai tiêu chuẩn này đều có những quy định cơ bản về lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, sức khoẻ và an toàn, quyền tự do thành lập các hiệp hội về đàm phán tập thể, phân biệt đỗi xử, các hình thức kỷ luật, giờ làm việc và chế độ tiền lương.
Mặc dù đây là các tiêu chuẩn tự nguyện không có tính bắt buộc đối với doanh nghiệp và các doanh nghiệp có thể đăng ký để được công nhận các tiêu chuẩn đó, tuy nhiên Hoa Kỳ vẫn viện cớ rằng hàng hoá không đáp ứng được các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội để cản trở xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Điều này đặc biệt được thể hiện rất rõ trong trường hợp sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may.
Tất nhiên, việc đáp ứng đầy đủ các quy định trong tiêu chuẩn SA 8000 và WRAP là rất khó khăn với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng. Việc để được công nhận là đáp ứng đầy đủ các yêu cầu theo các tiêu chuẩn đó càng khó khăn hơn và phải trải qua một thời gian không ngắn để doanh nghiệp từng bước đầu tư cải thiện điều kiện lao động và trả lương cho người lao động. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã nhận thức được lợi ích của việc áp dụng các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, có nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã đáp ứng được các tiêu chuẩn này như May 10, Việt Tiến, Đức Giang...
Đây là một trong những vấn đề khó khăn và phức tạp, vì vậy Nhà nước cần phải giúp đỡ các doanh nghiệp:
Thứ nhất, Nhà nước phải tổ chức các diễn đàn, các buổi thảo luận với chủ đề trách nhiệm xã hội hay lồng ghép trong các chương trình phổ biến kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như phổ biến kiến thức để xuất khẩu thành công sang thị trường Hoa Kỳ. Từ đó nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp về triển khai thực hiện và đăng ký để được cấp chứng chỉ SA 8000 cũng như WRAP.
Thứ hai, Nhà nước cũng cần tổ chức bộ phận hỗ trợ và tư vấn cho các doanh nghiệp.
Bên cạnh các chương trình được tổ chức thường xuyên nhằm phổ biến kiến thức cũng như kinh nghiệm để vượt qua rào cản trách nhiệm xã hội cho các doanh nghiệp dệt may, Nhà nước phải tổ chức một bộ phận chuyên về tư vấn, trong đó có những chuyên gia hiểu biết về lĩnh vực này để giúp các doanh nghiệp bất cứ khi nào họ cần. Các nhà tư vấn phải phân tích để cho các doanh nghiệp thấy việc thực hiện các tiêu chuẩn đó rất có lợi cho doanh nghiệp. Một mặt hàng dệt may của doanh nghiệp sẽ dễ dàng vào đuợc thị trường Hoa Kỳ, các đơn vị kinh doanh Hoa Kỳ cũng ưu tiên ký hợp đồng với những doanh nghiệp này hơn, và tiến tới chỉ ký hợp đồng với những doanh nghiệp hoạt động theo đúng tiêu chuẩn. Mặt khác, việc doanh nghiệp tạo môi trường làm việc tốt và đảm bảo quyền lợi cho người lao động sẽ giúp người lao động gắn bó với doanh nghiệp lâu dài và tạo sản phẩm có chất lượng tốt. Từ đó giúp các doanh nghiệp dệt may Việt Nam củng cố vị trí cạnh tranh của mình với các đối thủ khác trên thị trường Hoa Kỳ và góp phần xuất khẩu thành công vào thị trường này. Bên cạnh đó các chuyên gia cũng tư vấn cho doanh nghiệp các bước cần thực hiện để doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu trong tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội theo một lộ trình phù hợp với doanh nghiệp nhất.
Thứ ba, Nhà nước phải hỗ trợ các doanh nghiệp về điều kiện vật chất .
Để các doanh nghiệp dệt may có thể thực hiện được các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội phải có sự hỗ trợ của Nhà nước về điều kiện vất chất. Vì doanh nghiệp phải đảm bảo được các yêu cầu về môi trường làm việc như các thiết bị về phòng cháy chữa cháy, có hệ thỗng thoát hiểm tiện lợi, có dây chuyền máy móc đảm bảo an toàn cho người lao động trong quá trình sản xuất, nếu doanh nghiệp nào có ký túc xá hay nhà ăn cho người lao động thì cũng phải đảm bảo sạch sẽ và an toàn... Với các doanh nghiệp lớn việc thực hiện đồng bộ các quy định về tạo môi trường an toàn này đã là rất khó khăn, với các doanh nghiệp nhỏ thì việc thực hiện ngay một lúc lại càng không thể. Chính vì vậy rất cần sự giúp đỡ của Nhà nước những bước đầu. Nhưng khi hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may, Nhà nước cần tìm cách thực hiện tốt nhất. Để không vi phạm quy định của Hoa Kỳ về các hình thức trợ cấp và hỗ trợ không được phép sử dụng.
d) Chuyển các hình thức trợ cấp đèn đỏ, trợ cấp đèn vàng sang trợ cấp đèn xanh
Các biện pháp hỗ trợ của Việt Nam đối với ngành dệt may trong thời gian qua còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và vi phạm các nguyên tắc trợ cấp của WTO cũng như quy định của Hoa Kỳ. Việt Nam được coi là nước đang phát triển ở trình độ thấp nên chúng ta được phép vận dụng nguyên tắc ưu đãi dành cho các nước đang phát triển. Tuy nhiên, theo Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, cũng như Hiệp định về hàng dệt may giữa hai nước thì nhiều biện pháp hỗ trợ của của Việt Nam bị vi phạm như cấp vốn và cho vay ưu đãi đối với doanh nghiệp dệt may Nhà nước, các khoản miễn thuế hay xoá nợ cho một đối tượng nào đó mà không phải là cơ chế chung, trợ cấp để gom hàng xuất khẩu, thưởng thành tích xuất khẩu theo doanh thu... Đây là các biện pháp hỗ trợ được coi như một khoản trợ cấp không được phép đối với hàng dệt may xuất khẩu và nếu tiếp tục thực hiện sẽ bị áp dụng các biện pháp đối kháng.
Có 3 loại trợ cấp, trong đó Trợ cấp đèn đỏ bị Hoa Kỳ cấm hoàn toàn, Trợ cấp đèn vàng thì bị áp thuế đối kháng, chỉ có Trợ cấp đèn xanh được phép sử dụng và không phải là đối tượng của các biện pháp đối kháng. Hoa Kỳ cũng cho phép áp dụng Trợ cấp đèn xanh trong ngành dệt may, bao gồm các loại sau:
Chính phủ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nghiên cứu phát triển do công ty tiến hành. Nghiên cứu bao gồm cả nghiên cứu chung và nghiên cứu có liên quan tới các chương trình môi trường và các chương trình nghiên cứu liên quan tới các sản phẩm dệt may cụ thể.
Chương trình tài trợ của Chính phủ có liên quan tới các dịch vụ: dịch vụ đào tạo, kể cả dịch vụ đào tạo nói chung và đào tạo chuyên ngành dệt may; dịch vụ tư vấn và mở rộng, kể cả cung cấp phương tiện để tạo điều kiện chuyển giao thông tin và kết quả nghiên cứu tới người sản xuất và người tiêu dùng; dịch vụ kiểm tra, kể cả dịch vụ kiểm tra nói chung và dịch vụ kiểm ta từng loại sản phẩm vì mục đích sức khoẻ, an toàn, phân loại phẩm cấp và tiêu chuẩn hoá; dịch vụ xúc tiến và tiếp thị, kể cả thông tin thị trường, tư vấn và xúc tiến có liên quan tới các sản phẩm cụ thể nhưng không bao gồm chi tiêu với mục đích để người bán có thể sử dụng giảm giá bán hoặc tạo ra các lợi ích kinh tế cho người mua.
Chính phủ trợ cấp nhằm điều chỉnh phương tiện sản xuất thích nghi với những đòi hỏi của môi trường, miễn là trợ cấp lần một, không lặp lại và giới hạn ở mức 20% chi phí cho việc thích nghi (ví dụ: như nâng cấp cơ sở hạ tầng, mạng lưới cung cấp điện, đường xá và các phương tiện vận tải khác ..)
Chính phủ hỗ trợ cho các doanh nghiệp dệt may nằm trong các vùng khó khăn phải được xác định ranh giới một cách rõ ràng về địa lý với những đặc điểm kinh tế và hành chính nhất định. Nhằm thông qua chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch nguồn nhân lực...
Chính phủ Việt Nam phải nắm được các hình thức trợ cấp nào cấm, trợ cấp nào cho phép để giúp đỡ doanh nghiệp có hiệu quả. Nhưng bên cạnh đó cũng cần hết sức lưu ý về tỷ lệ trợ cấp cũng như hình thức trợ cấp vì ranh giới giữa được phép và không được phép là rất nhỏ. Đặc biệt đối với Hoa Kỳ việc quy định các hình thức trợ cấp được phép sử dụng trong ngành dệt may là rất ít và xu hướng ngày càng giảm. Điều đó gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Trong vòng đàm phán với Hoa Kỳ giữa tháng 5 vừa qua, Hoa Kỳ yêu cầu Chính phủ Việt Nam phải huỷ bỏ tất cả các chương trình trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp dệt may trong nước. Đây là một thiệt thòi lớn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vì nhu cầu vốn mà doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể vay được từ quỹ này 5 – 10% nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
e) Giúp doanh nghiệp chủ động, sẵn sàng đối phó với các rào cản về chống phá giá
Hiện tại các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Hiệp hội Dệt may Việt Nam chưa phát huy được vai trò của mình trong việc giải quyết các vụ kiện có liên quan đến các tranh chấp bán phá giá, vì vậy vai trò của các tổ chức và cơ quan Nhà nước trở thành hết sức quan trọng. Việt Nam đã từng phải đối phó với một số vụ kiện về bán phá giá ở thị trường Hoa Kỳ với các mặt hàng thuỷ sản như cá da trơn, tôm... Tuy Việt Nam chưa bị kiện về bán phá giá hàng dệt may nhưng một số nước xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ đã từng bị kiện. Năm 2000 trong tổng số các vụ kiện bán phá giá vào Hoa Kỳ hàng dệt may chiếm 2,4% ( nguồn Bộ Thương mại Hoa Kỳ). Sau buổi họp hội thảo luật pháp và thực tiễn Hoa Kỳ về chống bán phá giá do Cục Quản lý Cạnh tranh và Bộ thương mại Hoa Kỳ phối hợp tổ chức năm 2005, công ty luật Willikie Farr & Gallagher cho biết: hiện tại ngành công nghiệp dệt may Hoa Kỳ đang thu thập tài liệu để chứng minh hàng xuất khẩu dệt may của nước ngoài bán vào Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng đến ngành công nghiệp dệt may của nước này, và vụ kiện chống bán phá giá hàng dệt may đối với một số nước xuất khẩu dệt may vào Hoa Kỳ sẽ được bắt đầu trong một khoảng thời gian không xa nữa. Công ty đó cũng cho biết Việt Nam được coi là một nước cung cấp lâu dài và quan trọng cho thị trường Hoa Kỳ nên Việt Nam sẽ là mục tiêu hàng đầu của các đơn kiện chỗng bán phá giá. Việc Việt Nam vẫn phải chịu hạn ngạch không có nghĩa là Việt Nam được loại khỏi những vụ kiện chỗng bán phá giá. Như vậy nguy cơ về việc Hoa Kỳ sử dụng rào cản chống bán phá giá để bảo hộ sản xuất trong nước ngày càng gia tăng, vì thế chúng ta phải chủ động và sẵn sàng đối phó với các rào cản này.
Trước hết, để giải quyết có hiệu quả các tranh chấp có liên quan tới bán phá giá, Nhà nước cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đào tạo để các doanh nghiệp dệt may hiểu một cách đầy đủ và sâu sắc về Hiệp định Chống bán phá giá của WTO và của Hoa Kỳ, qua đó mà có biện pháp phòng ngừa trước. Khi đã có hiểu biết đầy đủ các doanh nghiệp sẽ chủ động có các biện pháp ngăn ngừa từ trước như xác định giá hàng, có chính sách tiêu thụ hàng một cách hợp lý...
Khi đã xuất hiện các vụ tranh chấp, cần vận động bằng nhiều con đường để các doanh nghiệp hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu không nộp đơn. Một khi đã có sự vận động nhưng phía đối tác vẫn nộp đơn thì cơ quan có thẩm quyền cần xem xét tính hợp lệ của đơn dựa trên 3 tiêu chí chủ yếu là: đơn có đại diện cho ngành không, các nhà sản xuất ủng hộ đơn có lớn hơn các nhà sản xuất phản đối đơn hay không và sản phẩm của ngành có phải là sản phẩm tương tự với mặt hàng nhập khẩu đang bị coi là bán phá giá không. Ngoài ra, cần phải xem xét biên độ phá giá có cao hơn 2% giá xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu có cao hơn 3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó hay không?
Khi cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu vẫn tiếp tục điều tra thì cần vận động họ không áp dụng các biện pháp tạm thời (với lý do hàng nhập khẩu chưa gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước). Trong trường hợp việc áp dụng thuế chống bán phá giá là khó tránh khỏi thì có thể chủ động đề xuất cam kết tăng giá xuất khẩu để nước nhập khẩu dừng điều tra và giải quyết tranh chấp theo biện pháp hoà giải.
Cuối cùng, khi cam kết tăng giá xuất khẩu cũng không được chấp nhận thì khả năng áp dụng thuế chống phá giá là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, cần tiếp tục vận động để mức thuế chống phá giá càng thấp càng tốt ( có thể vận động những nhà sản xuất ở nước nhập khẩu sử dụng hàng nhập khẩu như nguyên liệu đầu vào và người tiêu dùng cuối cùng hàng nhập khẩu gây sức ép với cơ quan thẩm quyền áp dụng mức thuế thấp hơn biên độ phá giá). Ngoài ra, để chủ động “hầu kiện” hoặc “kháng cáo” trong trường hợp cần thiết, cần phải chủ động chuẩn bị các chứng từ có liên quan để có cơ sở cho việc xác định biên độ phá giá (cho từng nhà xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu của ta đã bằng 3% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ hay không?
Nhà nước nên thành lập một bộ phận chuyên trách về bán phá giá trực thuộc Bộ Thương mại. Cơ quan này có nhiệm vụ chủ yếu là đảm bảo liên hệ chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan và phối hợp hành động với các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu hay nhập khẩu, Hội bảo vệ người tiêu dùng... vì vậy có những giải pháp kịp thời khi phát hiện khả năng có một vụ kiện sẽ diễn ra. Khi có vụ kiện bán phá giá thì bộ phận này sẽ giúp doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may nói riêng dễ dàng hơn trong việc thương lượng sao cho hậu quả là thấp nhất. Bên cạnh đó, Bộ Thương mại Việt Nam và Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng cần hết sức quan tâm giúp đỡ các doanh nghiệp. Khi có vụ kiện các cơ quan này cần trực tiếp gặp các cơ quan phía Hoa Kỳ, bày tỏ thái độ hết sức quan tâm tới vụ kiện và mong muốn hợp tác với Chính phủ Hoa Kỳ giải quyết vụ kiện một cách công bằng, việc điều tra tiến hành một cách khách quan và hợp pháp.
Để có thể xử lý vấn đề bán phá giá và chống bán phá giá một cách có hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế. Việt Nam phải coi trọng việc đào tạo một đội ngũ cán bộ chuyên trách có trình độ cao, đồng thời Nhà nước phải thường xuyên tổ chức lồng ghép trong các chương trình phổ biến kiến thức kinh doanh quốc tế. Bên cạnh đó cần tuyên truyền cho các doanh nghiệp có những hiểu biết nhất định về luật chống bán phá giá và quyền của họ đối với việc tiến hành điều tra áp dụng thuế chống phá giá, nghĩa vụ tham gia của họ trong tiến trình điều tra.
3.2.2 Giải pháp về phía Hiệp hội dệt may Việt Nam
Hiệp hội dệt may Việt Nam được thành lập từ sau khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 158/ QĐ - TTg ngày 2/2/1999 cho phép thành lập các hiệp hội các tổ chức kinh tế. Hiệp hội dệt may Việt Nam bao gồm tất cả các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Hiện nay hiệp hội bao gồm 455 hội viên.
Hiệp hội dệt may Việt Nam thực hiện chức năng là cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nước, thực hiện các công tác xúc tiến thương mại, công tác đối ngoại của ngành trong hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế, tham gia bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên Hiệp hội dệt may Việt Nam chưa thực sự có sức cạnh tranh và liên kết chặt chẽ, các kiến nghị của Hiệp hội dệt may lên Chính phủ còn mang tính cục bộ, hiệp hội cũng chưa quan tâm đến công tác dự báo và chuẩn bị các điều kiện để đối phó với các rào cản của các nước nói chung và Hoa Kỳ nói riêng.
Từ những chức năng và hạn chế của hiệp hội dệt may Việt Nam, xin đề xuất một số kiến nghị như sau để nâng cao vai trò của hiệp hội trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp vượt qua rào cản:
a) Tạo sự liên kết và gắn bó chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong ngành hơn nữa
Hiệp hội dệt may Việt Nam cần tạo nên liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, sao cho khi cùng xâm nhập thị trường Hoa Kỳ hàng dệt may Việt Nam vẫn có được sức mạnh cạnh tranh về giá, về lượng. Nhưng vẫn đảm bảo không vướng phải các rào cản như chống phá giá của Hoa Kỳ. Nếu Hiệp hội dệt may không làm tốt công việc này thì chính các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại là đối thủ cạnh tranh của nhau tại thị trường Hoa Kỳ, vì đây là một thị trường lớn hầu như tất cả các doanh nghiệp đều có hàng xuất sang. Hơn nữa, khi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cạnh tranh với nhau về giá thì trước tiên lợi nhuận sẽ suy giảm, tiếp theo là khi so sánh giá cả các mặt hàng dệt may tương tự nhau tại các doanh nghiệp Việt Nam nếu có sự chênh lệch giá nhiều thì phía Hoa Kỳ sẽ để ý tiến hành điều tra và cho rằng có sự bán phá giá ở đây. Điều này hoàn toàn không có lợi cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ vì không có kinh nghiệm cũng như điều kiện để có thể chứng minh không bán phá giá.
Mặt khác khi có sự liên kết chặt chẽ, các doanh nghiệp có thể học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, để vượt qua các rào cản của Hoa Kỳ đặc biệt là các thủ tục hành chính, và thủ tục hải quan. Đây cũng là rào cản mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong thời gian qua thường mắc phải.
b) Có nhiều chương trình đào tạo cán bộ trong các doanh nghiệp dệt may
Nâng cao trình độ cũng như hiểu biết của cán bộ về các thị trường trong đó có Hoa Kỳ tại các doanh nghiệp dệt may là một điều không thể thiếu nếu muốn vượt qua các rào cản để xuất khẩu thành công hàng dệt may Việt Nam.
Hiện nay tại các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn rất thiếu cán bộ hiểu sâu sắc và chủ động nghiên cứu về rào cản của các nước. Vì vậy các doanh nghiệp rất lúng túng mỗi khi vướng phải một rào cản nào đó. Có nhiều doanh nghiệp cũng nhận thấy đây là một vấn đề rất quan trong và có nhu cầu nâng cao hiểu biết của cán bộ trong doanh nghiệp mình. Vì vậy, bên cạnh khuyến khích cán bộ tự nghiên cứu, doanh nghiệp còn muốn có những chương trình thường xuyên của Nhà nước cũng như của hiệp hội. Hiệp hội dệt may Việt Nam cần chủ động mở các lớp tập huấn hay có các khoá học ngắn hạn giúp doanh nghiệp trang bị các kiến thức về các rào cản của Hoa Kỳ, cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp cách thức để có thể vượt qua các rào cản đó một cách tốt nhất và phù hợp với doanh nghiệp mình nhất.
Trong các chương trình này các doanh nghiệp sẽ có cơ hội nói lên những khó khăn của doanh nghiệp mình khi xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ, những rào cản mình đã vượt qua, những rào cản đang còn vướng mắc... Từ đó các doanh nghiệp sẽ học hỏi kinh nghiệm thực tế của các doanh nghiệp bạn và cùng thảo luận bàn cách vượt qua các rào cản của chính doanh nghiệp mình. Thông qua các chương trình này, các doanh nghiệp cũng sẽ đoàn kết hơn. Đó chính là thành công mà một hiệp hội nào cũng mong có được.
c) Nâng cao năng lực thu thập và xử lý thông tin của Hiệp hội dệt may Việt Nam
Việc cập nhật thông tin là một phần không thể thiếu trong kinh doanh nói chung và hàng dệt may nói riêng. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ phải liên tục cập nhật thông tin về thị trường này. Vì các chính sách thương mại cũng như các thủ tục hành chính của Hoa Kỳ liên tục thay đổi cho phù hợp với sự biến động trên thế giới. Nếu không có các thông tin về sự thay đổi đó các doanh nghiệp sẽ không thể xuất khẩu thành công được.
Doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể thu thập thông tin từ các nguồn khác nhau nhưng nguồn thông tin từ Hiệp hội dệt may Việt Nam là nguồn mà các doanh nghiệp mong đợi và tin tưởng nhất. Hiện nay Hiệp hội dệt may Việt Nam chưa đáp ứng được mong đợi này của doanh nghiệp. Thông tin từ phía Hiệp hội chưa thực sự kịp thời và đầy đủ, chưa có những thông tin mang tính dự báo.
Hiệp hội dệt may Việt Nam phải củng cố bộ phận thông tin để thu thập xử lý thông tin của ngành dệt may về thị trường Hoa Kỳ. Hiện nay hiệp hội mới chỉ có những thông tin về thị trường trong nước và các chính sách thương mại nội địa chứ chưa tiếp cận được các thông tin chuyên sâu phục vụ cho việc đối phó với các rào cản của Hoa Kỳ. Bên cạnh việc thu thập thông tin về chính sách thương mại cũng như rào cản của Hoa Kỳ, hiệp hội cũng cần quan tâm thu thập các thông tin về tình hình thị trường và giá cả hàng dệt may ở các nước thứ ba, có trình độ phát triển tương đương với Việt Nam. Để có thể chủ động trong các vụ kiện chống bán phá giá hàng dệt may hay chống trợ cấp sao cho có lợi cho doanh nghiệp Việt Nam vì Hoa Kỳ chưa công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường.
d) Hỗ trợ các doanh nghiệp một cách đắc lực để vượt qua các rào cản với một chi phí thấp nhất
Có rất nhiều rào cản mà doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải vượt qua khi xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. Bên cạnh kiến thức về rào cản, doanh nghiệp còn cần sự hỗ trợ khác của hiệp hội để vượt qua các rào cản đó.
Ví dụ như rào cản trách nhiệm xã hội của Hoa Kỳ đặt ra đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp phải đạt được rất nhiều tiêu chuẩn về sử dụng lao động, môi trường làm việc của người lao động... Hiệp hội dệt may Việt Nam cần hỗ trợ các doanh nghiệp về kiến thức và thường xuyên theo dõi giúp đỡ doanh nghiệp một cách kịp thời. Bên cạnh đó hiệp hội cũng cần giúp doanh nghiệp tìm ra con đường phù hợp nhất để có thể vượt qua rào này với chi phí thấp nhất.
Khi doanh nghiệp gặp các trục trặc trong lúc xuất khẩu, Hiệp hội dệt may Việt Nam phải là cơ quan hỗ trợ đắc lực để doanh nghiệp có thể vượt qua được những rào cản này. Ví dụ như khi một doanh nghiệp dệt may của Việt Nam bị Hoa Kỳ kiện vì bán phá giá thì hiệp hội phải tiến hành hoàn thành các hồ sơ thẩm vấn, tiến hành thu thập xử lý thông tin liên quan tới vụ phá giá đó một cách nhanh nhất, đề nghị Chính phủ giúp đỡ, thuê luật sư... Nói chung, hiệp hội cần chủ động giúp đỡ doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể vượt qua rào cản này, vì rào cản này thường có quy mô, tính chất rất phức tạp và thời gian thường kéo dài, nếu để tự doanh nghiệp tự giải quyết khả năng thành công thường ít mà chi phí thường cao.
e) Tích cực tham gia, phối hợp giải quyết các tranh chấp thương mại với các cơ quan chức năng khác
Hiệp hội dệt may Việt Nam cần phối hợp với các cơ quan Nhà nước trong việc điều tra và giải quyết các vụ tranh chấp thương mại phát sinh đối với hàng dệt may Việt Nam.
Hiệp hội dệt may Việt Nam là cơ quan hiểu rõ nhất về ngành nghề dệt may, nên khi có các tranh chấp thương mại hiệp hội cần tiến hành thu thập các thông tin cũng như bằng chứng để tìm cách chứng minh hàng dệt may Việt Nam không vi phạm.
Nếu phải hầu kiện Hiệp hội phải kết hợp với các cơ quan khác của Nhà nước để thuê luật sư hay giúp các doanh nghiệp hoàn thành hồ sơ... sao cho tổn thất là nhỏ nhất.
f) Phát huy hơn nữa vai trò của mình trong việc điều hoà hoạt động xuất khẩu sang Hoa Kỳ để hạn chế các biện pháp thương mại tạm thời
Để các doanh nghiệp tránh được các rào cản với các biện pháp thương mại tạm thời như chống phá giá, Hiệp hội dệt may Việt Nam cần chủ động tính toán thảo luận với doanh nghiệp để điều tiết sản lượng nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam không vượt 3% khối lượng nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ (là khối lượng hàng nhập khẩu cho phép để không bị Hoa Kỳ kiện khi biên độ phá giá lớn hơn hoặc bằng 2%). Khi hối lượng hàng hoá đã bằng hoặc vượt quá 3% thì cần chủ động điều tiết giá xuất khẩu để biên độ không bằng hoặc vượt quá 2%.
Trường hợp tiêu chuẩn thứ nhất không đáp ứng được thì cần chuẩn bị các điều kiện và minh chứng để biện hộ cho việc chưa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành dệt may của Hoa Kỳ.
Nếu hai tiêu chuẩn trên vẫn không đủ lý lẽ để bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam khỏi vụ kiện bán phá giá hàng dệt may tại Hoa Kỳ, thì Hiệp hội dệt may Việt Nam cần chủ động hầu kiện hoặc kháng kiện để sao cho việc áp thuế bán phá giá ở mức thấp nhất có thể.
Tương tự như vậy, khi hàng dệt may Việt Nam bị Hoa Kỳ cho rằng đã trợ cấp không hợp lý và Hoa Kỳ có quyền sử dụng các biện pháp đối kháng. Hiệp hội dệt may Việt Nam cần nhanh chóng thu thập thông tin để chứng minh Việt Nam không vi phạm các quy định trợ cấp. Trong trường hợp các doanh nghiêp dệt may Việt Nam được trợ cấp không cho phép từ phía chính phủ thì phải thương lượng sao cho mức thuế bị phạt là nhỏ nhất có thể.
3.2.3 Giải pháp với doanh nghiệp
a) Tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường và các rào cản của Hoa Kỳ
Công tác nghiên cứu tìm hiểu thị trường Hoa Kỳ và các rào cản của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may là một hoạt động không thể thiếu ở các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Qua đó doanh nghiệp nắm được nhu cầu thị hiếu tiêu dùng tại Hoa Kỳ và có thể chủ động đối phó, vượt qua các rào cản.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã quan tâm tới vấn đề này nhưng các doanh nghiệp chưa có nhiều biện pháp nghiên cứu thị trường một cách hiệu quả, thường xuyên và liên tục. Ví dụ như cho đoàn đi khảo sát ở thị trường nước ngoài. Việc nghiên cứu này là cần thiết, nhưng rất tốn kém cả về thời gian và tiền bạc. Mặt khác, nếu chuyến đi không được chuẩn bị tốt về nội dung, phương pháp nghiên cứu thì sẽ không hiệu quả. Vì thế đối với các doanh nghiệp dệt may lớn và thị trường Hoa Kỳ là thị trường chính thì nên có văn phòng đại diện của công ty tại Hoa Kỳ để vừa nghiên cứu thị trường vừa giới thiệu mặt hàng của công ty. Bên cạnh đó cần nghiên cứu thị trường thông qua các phương pháp phân tích thông kê kinh tế từ các nguồn tài liệu có thể thu thập được. Đồng thời có thể sử dụng phương pháp chuyên gia, sử dụng các cộng tác viên ở Hoa Kỳ (đối với những doanh nghiệp nhỏ không có văn phòng đại diện), đề nghị các tổ chức của Việt Nam ở Hoa Kỳ giúp đỡ như Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, hoặc thuê các chuyên gia tư vấn trong Hiệp hội dệt may Việt Nam.
b) Đổi mới công nghệ sản xuất và chủ động thực hiện các tiêu chuẩn của Hoa Kỳ tại doanh nghiệp
Để có thể xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải thực hiện rất nhiều tiêu chuẩn mà Hoa Kỳ đặt ra như tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội... Chính vì vậy doanh nghiệp cần từng bước đầu tư công nghệ sản xuất và cải tạo điều kiện lao động trong doanh nghiệp. Chẳng hạn như khâu nhuộm là khâu gây ô nhiễm môi trường nhất, nếu không cải thiện được điều này hàng dệt may Việt Nam sẽ không thể xâm nhập được vào thị trường Hoa Kỳ. Song song với việc rà soát các chất nhuộm và trợ nhuộm, loại bỏ các chất gây ô nhiễm môi trường, các doanh nghiệp cũng phải đầu tư máy móc tương xứng. Những năm qua, trong chiến lược tăng tốc, ngành dệt may Việt Nam đã chú trọng đáng kể đầu tư vào khâu nhuộm – hoàn tất. Nhiều máy móc, thiết bị tốt, mới đã được đầu tư theo chiều sâu. Nhưng các máy móc thiết bị này chưa được đầu tư một cách đồng bộ nên chưa phát huy hết được khả năng.
d) Đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của doanh nghiệp
Muốn có được những thành công tại thị trường lớn như Hoa Kỳ các doanh nghiệp dệt may việt Nam cần có những nhà quản trị giỏi và các cán bộ am hiểu về các rào cản của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may. Những kiến thức này thay đổi liên tục chính vì vậy cán bộ trong doanh nghiệp cần có ý thức tự học, nâng cao trình độ và hiểu biết cho chính bản thân mình. Bên cạnh đó cán bộ trong các doanh nghiệp dệt may cần tham gia một cách tích cực các khoá đào tạo ngắn của các cơ quan Nhà nước cũng như các chương trình đào tạo của Hiệp hội dệt may và các buổi thảo luận liên quan tới ngành. Doanh nghiệp cần tranh thủ các nguồn hỗ trợ tài chính của Nhà nước và các tổ chức quốc tế cho công tác đào tạo và chủ động bố trí kinh phí để đào tạo các chuyên gia giỏi hiểu biết về thị trường và các rào cản của Hoa Kỳ.
Để có thể vượt qua các rào cản của Hoa Kỳ, phục vụ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp dệt may cần tổ chức hệ quản trị doanh nghiệp theo định hướng thoả mẫn các tiêu chuẩn của Hoa Kỳ. Bên cạnh đó cần nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng thị trường doanh nghiệp. Phòng thị trường phải là cầu nối giữa nhà quản trị và thị trường Hoa Kỳ. Chỉ có như vậy mới có thể tiên đoán trước được những rào cản có thể phát sinh để chủ động đối phó, vượt qua rào cản, đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ. Đồng thời, phải tổ chức doanh nghiệp theo định hướng chiến lược vượt qua rào cản với những giải pháp chiến lược trong dài hạn, nhưng cũng phải có biện pháp hữu hiệu đối phó với các rào cản của Hoa Kỳ trong ngắn hạn.
Trong thời đại công nghệ thông tin, việc sử dụng thương mại điện tử không còn xa lạ với nhiều doanh nghiệp dệt may lớn, nhưng ở những doanh nghiệp nhỏ thì vẫn chưa áp dụng được trong hoạt động của mình. Trong thời gian vừa qua cục Hải quan Hoa Kỳ đã xây dựng hệ thống thông tin visa điện tử “ELVIS”. Trong đó, quy định về việc chuyển các thông tin visa bằng điện tử liên quan tới hàng dệt may từ một quốc gia nào đó cho Hải quan Hoa Kỳ nhằm tránh visa gian lận lẩn tránh quota. Hiện tại Việt Nam chưa áp dụng hình thức này. Một thời gian nữa Hoa Kỳ sẽ không sử dụng hình thức visa thông thường bắt buộc các doanh nghiệp dệt may muốn xuất khẩu vào Hoa Kỳ phải tuân theo. Các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của doanh nghiệp dựa trên công nghệ thông tin hiện đại, có như vậy mới vượt qua được các rào cản của Hoa Kỳ.
3.2.4 Các giải pháp khác
a) Nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức tư vấn pháp luật
Hoa Kỳ là một trong những nước có hệ thống pháp luật phức tạp và các quy định tiêu chuẩn rất chặt chẽ. Vì vậy mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khó có thể cập nhật và hiểu rõ được. Để các doanh nghiệp tự tìm hiểu và có thể vận dụng các điều luật, quy định phức tạp như vậy vào thực tiễn kinh doanh với Hoa Kỳ phải mất rất nhiều thời gian, tiền bạc cũng như những rắc rối không cần thiết khi vướng phải. Mặt khác, tại Hoa Kỳ bất cứ trục trặc hay tranh chấp nào đều được giải quyết bằng toà án. Người tiêu dùng cũng như các doanh nghiệp tại Hoa Kỳ rất tin tưởng vào luật sư và phán quyết của toà án. Chính vì vậy cần nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức luật sư của Việt Nam trong công tác tư vấn pháp luật cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Thứ nhất, cần hoàn thiện các quy định của Nhà nước về việc thành lập và quy chế hoạt động của các tổ chức và cá nhân hành nghề tư vấn pháp luật nói chung và tư vấn về pháp luật Hoa Kỳ nói riêng.
Thứ hai, để đối phó với những rào cản mới của Hoa Kỳ, cần phải có hiện diện thương mại của Việt Nam ở Hoa Kỳ vì nếu các doanh nghiệp đều cử đại diện hoặc thuê các tổ chức tư vấn nước ngoài thì sẽ rất tốn kém. Nhà nước cần hỗ trợ thủ tục pháp lý và điều kiện kinh tế ban đầu để các luật sư hay tổ chức tư vấn Việt Nam có thể sang Hoa Kỳ thực thi các công việc.
Thứ ba, Nhà nước cần tuyển chọn những luật sư Việt Nam có phẩm chất đạo đức, có năng lực chuyên môn, có trình độ ngoại ngữ để gửi đi đào tạo ở nước ngoài nhằm bổ sung thêm các trọng tài kinh tế có đẳng cấp quốc tế tham gia giải quyết một cách có hiệu quả trong việc các tranh chấp thương mại nói chung và tranh chấp giữa các doanh nghiệp dệt may Việt Nam với Hoa Kỳ nói riêng
b) Hoàn thiện hoạt động hệ thống ngân hàng
Ngoài dịch vụ pháp lý ra còn có rất nhiều dịch vụ đóng một phần quan trọng trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong đó không thể không nói đến dịch vụ tài chính ngân hàng.
Đây là một dịch vụ giúp các công ty nhập khẩu của Hoa Kỳ và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể thanh toán tiền hàng cho nhau mà không phải gặp trực tiếp. Hiện tại các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam thường yêu cầu phía Hoa Kỳ thanh toán theo phương thức L/C không huỷ ngang. Theo phương thức thanh toán này, Hoa Kỳ sẽ yêu cầu một ngân hàng của mình trả cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam một khoản tiền cố định hoặc chấp nhận hối phiếu do phía Hoa Kỳ ký phát trong phạm vi số tiền đó khi xuất trình cho ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp. Sử dụng phương thức thanh toán này rất an toàn và tiện lợi nhưng đòi hỏi các ngân hàng Việt Nam phải có sự phối kết hợp với các ngân hàng của Hoa Kỳ. Chính vì vậy phải không ngừng nâng cao và hoàn thiện nghiệp vụ cũng như hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
KẾT LUẬN
Sau một thời gian thực tập tại Tập đoàn dệt may Việt Nam và tìm hiểu về Hoa Kỳ em nhận thấy Hoa Kỳ là một thị trường lớn và tiềm năng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Nhưng đây cũng là một thị trường với nhiều rào cản mà các doanh nghiệp muốn xuất khẩu được phải vượt qua.
Luận văn tốt nghiệp của em đã đi sâu nghiên cứu về các rào cản của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may Việt Nam trong thời gian qua và dự đoán xu hướng phát triển của các rào cản trong thời gian tới. Đề tài cũng phân tích, đánh giá tác động của các rào cản này với Việt Nam, và đề xuất kiến nghị, giải pháp để vượt qua được các rào cản đó.
Trong thời gian tới khi Việt Nam gia nhập vào WTO, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sắp trở thành quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), các rào cản của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may Việt Nam cũng thay đổi rất nhiều. Các cơ quan Nhà nước và Hiệp hội dệt may Việt Nam cần phát huy vai trò của mình để giúp đỡ các doanh nghiệp vượt qua được các rào cản đối với hàng dệt may Việt Nam của Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng phải không ngừng cập nhật thông tin về các chính sách thương mại của Hoa Kỳ, cũng như các rào cản đối với hàng dệt may của nước này để có thể xuất khẩu thành công và chiếm thị phần ngày càng nhiều tại một trong những thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới này.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AAFA
Hiệp hội dệt may và da giầy Hoa Kỳ
AAMA
Hiệp hội may Hoa Kỳ
ADP
Hiệp định chống bán phá giá
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
ASTM
Hiệp hội Hoa Kỳ về kiểm tra và nguyên liêu
ATC
Hiệp định hàng dệt may
CPSA
Luật an toàn sản phẩm tiêu dùng
CPSC
Uỷ ban an toàn sản phẩm tiêu dùng Hoa Kỳ
EU
Liên minh châu Âu
FTC
Uỷ ban Thương mại liên bang
GATT
Hiệp định chung về mậu dịch và thuế quan
GSP
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
HTS
Danh mục điều hoà thuế quan Hoa Kỳ
ILO
Tổ chức lao động quốc tế
MFA
Hiệp định đa sợi
MFN
Quy chế tối huệ quốc
MID
Quy định ghi mã số nhà sản xuất
NTR
Quy chế quan hệ thương mại bình thường
PNTR
Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn
PTO
Cơ quan bằng sáng chế và nhãn hiệu thương mại
RoO
Hiệp định về nguyên tắc xuất xứ của WTO
SA 8000
Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội
SAI
Tổ chức trách nhiệm xã hội quốc tế
SCM
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
TBT
Hiệp định hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
UCC
Luật thương mại đồng bộ
USITC
Uỷ ban Thương mại quốc tế tại Hoa Kỳ
Vinatex
Tập đoàn dệt may Việt Nam
WRAP
Tiêu chuẩn trách nhiệm toàn cầu trong sản xuất hàng may mặc
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG - BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ từ 1997 – 2001 34
Bảng 2.2: Xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ từ 2002 – 2005 35
Bảng 2.3:Biểu thuế quan điều hoà của Hoa Kỳ với một số mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam năm 2005 42
Bảng 2.4: Tổng nguồn hạn ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm 2006 49
Biểu đồ 2.1: Thị phần hàng dệt may các nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ năm 2005 tính theo khối lượng 33
Biểu đồ 2.2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam của toàn ngành và của Vinatex sang thị trường Hoa Kỳ 36
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu các sản phẩm dệt may xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ năm 2005 phân theo chất liệu 37
Biểu đồ 2.4:Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo công nghiệp Việt Nam – Hiệp hội dệt may Việt Nam (2003), Để xuất khẩu thành công hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ; Nhà xuất bản thống kê Hà Nội.
Bộ Thương Mại – PGS.TS Nguyễn thị Mơ (2002); Tìm hiểu về chính sách xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ và những biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ sau khi hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực; Hà Nội.
Bộ Thương Mại – Trung tâm thông tin thương mại, chuyên ngành dệt may, Tạp chí thông tin thương mại các số từ tháng 1/2004 đến tháng 2/2006.
Bộ Thương mại – Viện nghiên cứu thương mại, PGS.TS Đinh Văn Thành (2005); Rào cản trong thương mại quốc tế; Nhà xuất bản thống kế, Hà Nội.
Bruce W. Jentleson (2004); Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ động cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ 21(American foreign polisy the dynamies of choice in the 21st century); Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
GS.TS Võ Thanh Thu (2003); Quan hệ kinh tế quốc tế; Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ (2005); Xuất khẩu sang Hoa Kỳ những điều cần biết, Hà Nội
Trung tâm nghiên cứu phát triển Investconsult – Công ty tư vấn đầu tư và chuyển giao công nghệ (2002); Tìm hiểu Hoa Kỳ cho mục đích kinh doanh; Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nôi.
TS. Hồ Sỹ Hưng, Nguyễn Việt Hưng (2003); Cẩm nang về xâm nhập thị trường Mỹ; Nhà xuất bản thông kê, Hà Nội.
TS. Nguyễn Hữu Khải (2005); Hàng rào phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế; Nhà xuất bản lao động – xã hội, Hà Nội.
TS Vũ Thị Bạch Tuyết (2003); Các rào cản thương mại quốc tế mới; Tạp chí tài chính số 11/2003.
Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý (2003); Thuế – thủ tục hải quan trong xuất nhập khẩu; Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Rào cản và Giải pháp vượt rào cản trong xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.doc