Đề tài Rủi ro ở thị trường chứng khoán Việt Nam

Vì thế, trong điều kiện hiện nay các cơ quan quản lý cần khuyến khích việc thành lập các quỹ đầu t¬ư chứng khoán. Điều này đặc biệt phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay vì số lư¬ợng nhà đầu tư¬ nhỏ tham gia thị tr¬ường chứng khoán chiếm tỷ lệ lớn. Các quỹ đầu tư¬, với vai trò là nhà đầu tư¬ có tổ chức sẽ thu hút rất tốt những nguồn vốn nhỏ tham gia thị trư¬ờng thông qua quỹ. Thị tr¬ường khi đó sẽ hoạt động chuyên nghiệp hơn, quy mô hơn và công bằng hơn. Đồng thời chính quy luật cạnh tranh của thị tr¬ường khi đó sẽ thúc đẩy các công ty niêm yết hoạt động hiệu quả hơn và có trách nhiệm hơn trong việc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư¬. Như vậy, vấn đề thông tin không cân xứng sẽ được giải quyết phần nào và nhờ đó, rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch cũng dần giảm theo.

doc54 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6456 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro ở thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vọng của một chứng khoán có quan hệ đồng biến với rủi ro của chứng khoán đó , nghĩa là nhà đầu tư kỳ vọng vào chứng khoán có rủi ro cao thì sẽ có lợi nhuận cao và ngược lại. Nói 1 cách khác nhà đầu tư chỉ giữ những chứng khoán có rủi ro cao khi lợi nhuận kỳ vọng của nó đủ lớn để bù đắp rủi ro .Như ta đã biết hệ số beta là hệ số đo lường rủi ro của một chứng khoán .Như vậy lợi nhuận kỳ vọng của một chứng khoán có quan hệ đồng biến với hệ số của nó. Bây giờ ta giả sử rằng thị trường tài chính hiệu quả và nhà đầu tư đa dạng hóa danh mục đầu tư sao cho rủi ro phi hệ thống được loại bỏ. Khi đó, chỉ còn rủi ro hệ thống ảnh hưởng đến lợi nhuận của cổ phiếu . Cổ phiếu có beta càng cao thì độ rủi ro càng cao vì vậy cần một lợi nhuận kỳ vọng đủ lớn để bù đắp. Như đã nói ở trên , theo mô hình CAPM mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro được diễn tả bới công thức : Rj = Rf +( Rm – Rf ) βj Phương trình trên biểu diễn nội dung mô hình CAPM , có dạng hàm số bậc nhất y = ax + b với biến phụ thuộc ở đây là Rj, biến độc lập là βj và hệ số góc là ( Rm – Rf ). Xét về mặt hình học , mối quan hệ giữa lợi nhuận kỳ vọng cổ phiếu và hệ số rủi ro beta được biểu diễn bằng đường thẳng : đường thị trường chứng khoán SML ( security market line ) ĐƯỜNG SML Từ công thức và đồ thị ở trên ta có thể thấy : Beta = 0 : Lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán có beta = 0 chính là lợi nhuận không rủi ro và bằng Rf , Tại đây tỷ suất lợi nhuận của nó bằng lãi suất trái phiếu chính phủ . Beta =1 : Lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán khi đó bằng lợi nhuận của thị trường Quan hệ tuyến tính giũa lợi nhuận kỳ vọng và beta được biễu diễn bằng đường SML với hệ số góc là Rm – Rf. Mô hình CAPM vẫn đúng với trường hợp danh mục đầu tư nhiều cổ phiếu . Để có thể hiểu rõ vấn đề này ta giả sử có 2 loại cổ phiếu là A và Z có hệ số beta lần lượt là 1,5 và 0,7. Lãi suất trái phiếu chính phủ là 13,4. Áp dụng mô hình CAPM chúng ta có lợi nhuận kỳ vọng của các cổ phiếu như sau : Cổ phiếu A : Rj = Rf + (Rm – Rf)βj = 7+(13,4 – 7)1,5=16.6% Cổ phiếu Z :Rj = 11,48% Ta cho rằng nhà đầu tư này kết hợp 2 loại cổ phiếu với tỷ trọng bằng nhau trong danh mục đầu tư .Khi đó lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư là R = 0,5*16,6 + 0,5* 11,48 = 14,04% Nếu áp dụng mô hình CAPM để xác định lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư , chúng ta có hệ số beta của danh mục đầu tư :Β =∑Wjβj trong đó Wj và βj lần lượt là tỷ trọng và beta của cổ phiếu j trong danh mục đầu tư . Như vậy theo ví dụ hệ số beta của danh mục đầu tư sẽ là β =0,5*1,5 + 0,5*0,7 = 1,1 Áp dụng mô hình ta tính được lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư là R = Rf + ( Rm – Rf)β =14,04 Như vậy ta thấy 2 cách tính khác nhau nhưng cung 1 kết quả như nhau chứng tỏ rằng mô hình CAPM vẫn có thể áp dụng cho 1 danh mục đầu tư nhiều cổ phiếu 5. Một số phát hiện bất thường khi sử dụng mô hình CAPM Rát nhiều học giả kinh tế khi áp dụng mô hình CAPM đã phát hiện ra một số điểm bất thường khiến cho mô hình không còn đúng như bình thường.Những điểm bất thường bao gồm: Ảnh hưởn của quy mô công ty : Người ta phát hiện rằng cổ phiếu của công ty có giá trị thị trường nhỏ đem lại lợi nhuận cao hơn cổ phiếu của công ty có giá trị thị trường lớn.Các yếu tố khác như nhau Ảnh hưởng của các tỷ số PR và MB : Người ta cũng thấy rằng cổ phiếu của những công ty có tỷ số PE và tỷ số MB thấp đem lại lợi nhuận cao hơn cổ phiếu của những công ty có tỷ số PE và MB cao Ảnh hương tháng giêng : Những người nào nắm giữ số cổ phiếu trong khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 1 thường có lợi nhuận cao hơn so với những người khác. Tuy vậy , không phải năm nào cũng xảy ra hiện tượng này CHƯƠNG II : RỦI RO TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Quá trình hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Sự ra đời của Ủy ban chứng khoán nhà nước : Xây dựng và phát triển TTCK là mục tiêu đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 (thế kỷ 20) nhằm xác lập một kênh huy động vốn mới cho đầu tư phát triển. Việc nghiên cứu, xây dựng đề án thành lập TTCK đã được nhiều cơ quan Nhà nước, các Viện nghiên cứu phối hợp đề xuất với Chính phủ. Một trong những bước đi đầu tiên có ý nghĩa khởi đầu cho việc xây dựng TTCK ở Việt Nam là việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn thuộc Ngân hàng Nhà nước (Quyết định số 207/QĐ-TCCB ngày 6/11/1993 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước) với nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị các điều kiện để thành lập TTCK theo bước đi thích hợp. Theo sự uỷ quyền của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức nghiên cứu về các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của TTCK, đề xuất với Chính phủ về mô hình TTCK Việt Nam, đào tạo kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK cho một bộ phận nhân lực quản lý và vận hành thị trường trong tương lai; nghiên cứu, khảo sát thực tế một số TTCK trong khu vực và trên thế giới… Tuy nhiên, với tư cách là một tổ chức thuộc NHNN nên phạm vi nghiên cứu, xây dựng đề án và mô hình TTCK khó phát triển trong khi TTCK là một lĩnh vực cần có sự phối hợp, liên kết của nhiều ngành, nhiều tổ chức. Vì vậy, tháng 9/1994, Chính phủ quyết định thành lập Ban soạn thảo Pháp lệnh về chứng khoán và TTCK do một đồng chí Thứ trưởng Bộ Tài chính làm Trưởng Ban, với các thành viên là Phó Thống đốc NHNN, Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Trên cơ sở Đề án của Ban soạn thảo kết hợp với đề án của NHNN và ý kiến của các Bộ, ngành liên quan ngày 29/6/1995, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 361/QĐ-TTg thành lập Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng TTCK ở Việt Nam. Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK có nhiệm vụ: - Soạn thảo các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK; - Soạn thảo Nghị định của Chính phủ về thành lập Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước; - Chuẩn bị cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ  quản lý nhà nước, quản lý thị trường, kinh doanh về chứng khoán; - Hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế trong việc tổ chức TTCK ở Việt Nam; Đây là bước đi có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình hình thành TTCK, làm tiền đề cho sự ra đời cơ quan quản lý nhà nước với chức năng hoàn chỉnh và đầy đủ hơn. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc thành lập cơ quan quản lý thị trường chứng khoán (TTCK) trước khi thị trường ra đời là bước đi phù hợp với chủ trương xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam, có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời của TTCK sau đó hơn 3 năm. Với vị thế là cơ quan quản lý chuyên ngành về chứng khoán và TTCK, UBCKNN có vai trò rất quan trọng trong việc chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của TTCK, đồng thời tổ chức và quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK với mục tiêu chính là tạo môi trường thuận lợi cho việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. Sự ra đời của các trung tâm giao dịch chứng khoán : a. Trung tâm giao dich chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh * Quá trình hình thành và phát triển : Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh (TTGDCK TP.HCM) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg  ngày 11/07/1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng  trong đời sống kinh tế- xã hội của đất nước. Sự ra đời của TTGDCK TP.HCM có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra một kênh huy động và luân chuyển vốn mới phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là sản phẩm của nền chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhà nước ta. Là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân  sách nhà nước cấp, Trung tâm được Chính phủ giao một số chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán tập trung tại Việt Nam. Đó là: tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán; quản lý điều hành hệ thống giao dịch; thực hiện hoạt động quản lý niêm yết, công bố thông tin, giám sát giao dịch, hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán và một số hoạt động khác. Để thực hiện tốt các chức năng, Trung tâm có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ, bao gồm: một Giám đốc và hai Phó giám đốc, trong đó có một Phó giám đốc thường trực và 9 phòng, ban (Phòng Quản lý niêm yết, Phòng Quản lý thành viên, Phòng Giám sát giao dịch, Phòng Đăng ký - Lưu ký - Thanh toán bù trừ, Phòng Công nghệ thông tin, Phòng Thông tin Thị trường, Phòng Hành chính Tổng hợp, Phòng Kế toán và Ban quản lý Dự án).             Có thể nói, tại thời điểm ra đời, TTGDCK TP.HCM gặp rất nhiều khó khăn như: hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung chưa được hoàn thiện, các văn bản điều chỉnh hoạt động trên thị trường chứng khoán còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa thống nhất...., đội ngũ cán bộ quản lý điều hành chưa có kinh nghiệm thực tiễn, sự hiểu biết của công chúng về đầu tư chứng khoán và TTCK còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, TTGDCK khai trương và chính thức đi vào hoạt động trong bối cảnh đất nước chưa thoát khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực, mức đầu tư cho nền kinh tế giảm sút, nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp chưa cao, thu nhập bình quân đầu người còn quá thấp...Tuy vậy, sự quan tâm rất lớn của Chính phủ, các Bộ ngành, đặc biệt là sự chỉ đạo kịp thời, hiệu quả của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), qua hơn 4 năm hoạt động TTGDCK TP.HCM đã phát triển về nhiều mặt, thực hiện tốt vai trò tổ chức và vận hành các hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung thông suốt, an toàn và hiệu quả. Cụ thể các mặt đạt được như sau:              Hoạt động quản lý, điều hành thị trường: Tính đến thời điểm ngày 31/08/2004, TTGDCK TP.HCM đã tổ chức thành công 864 phiên giao dịch.Các hoạt động giao dịch được diễn ra liên tục, thông suốt. Bên cạnh đó, Trung tâm luôn nghiên cứu các giải pháp, kiến nghị Chính phủ và UBCKNN ban hành những chính sách, quy định kịp thời để điều tiết thị trường cho phù hợp với xu hướng phát triển và tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, công bằng, đúng pháp luật đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư. Đó là việc điều chỉnh biên độ dao động giá để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường; tăng phiên giao dịch từ 3 phiên/tuần lên 5 phiên/tuần; áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới như: Tăng từ một đợt khớp lệnh lên 2 đợt trong một phiên giao dịch, áp dụng lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh (lệnh ATO), chia nhỏ lô giao dịch cổ phiếu từ 100CP xuống còn 10 CP, giảm tỷ lệ ký quỹ tiền mua chứng khoán từ 100% xuống 70%; tăng tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài từ 20% lên 30% trên tổng khối lượng cổ phiếu niêm yết của một tổ chức phát hành, không giới hạn đối với trái phiếu; thay đổi phương thức giao dịch trái phiếu, theo đó trái phiếu chỉ được giao dịch theo phương thức thoả thuận, không quy định khối lượng giao dịch, biên độ dao động giá, đơn vị giao dịch và đơn vị yết giá và nhiều chính sách giải pháp khác. Bên cạnh  đó, hoạt động giám sát giao dịch của Trung tâm cũng được tiến hành thường xuyên nhằm phát hiện và đề xuất Thanh tra UBCKNN xử lý kịp thời các hành vi vi phạm.             Hoạt động quản lý niêm yết: Khi mới đi vào hoạt động, tại TTGDCK TP.HCM chỉ có 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Số lượng chứng khoán niêm yết đã tăng dần qua các năm. Tính đến ngày 28/07/2004, toàn bộ thị trường đã có 128 loại chứng khoán được niêm yết với tổng giá trị niêm yết là 19.025.029 triệu đồng. Trong đó có 24 cổ phiếu với tổng giá trị niêm yết đạt 1.241.991 triệu đồng và 101 trái phiếu Chính phủ, 2 trái phiếu doanh nghiệp và một trái phiếu chính quyền địa phương tương đương với giá trị niêm yết là 17.783.038 triệu đồng (chiếm 93,47% trên tổng giá trị niêm yết toàn thị trường). Dự kiến thời gian tới, số cổ phiếu niêm yết tại Trung tâm được tăng lên rất nhiều do Chính phủ đã có chủ trương đưa cổ phiếu của một số tổng công ty lớn, các ngân hàng thương mại quốc doanh cổ phần hoá vào niêm yết trên thị trường. Nhìn chung, phần lớn các công ty có cổ phiếu niêm yết trên thị trường đều hoạt động kinh doanh có lãi. Mức thu nhập bình quân trên cổ phiếu (EPS) trong năm 2003 khoảng 3.610 đồng/cp; mức cổ tức trung bình chia cho cổ đông là 1.580đồng/cp. Đa số các công ty niêm yết đều thực hiện tốt các nghĩa vụ công bố thông tin đúng theo quy định, chỉ có một số ít chưa thật sự ý thức được ý nghĩa và tầm quan trọng cũng như lợi ích mang lại từ việc công bố thông tin nên đã có một vài trường hợp châm trễ, vi phạm công bố thông tin và được xử lý kịp thời.   Hoạt động quản lý thành viên:  Qua 4 năm hoạt động, số Công ty chứng khoán thành viên TTGDCK TP.HCM không ngừng tăng về số lượng, quy mô và chất lượng dịch vụ. Từ lúc chỉ có 6 Công ty chứng khoán thành viên vào thời điểm đầu, đến nay toàn thị trường đã có 12 công ty chứng khoán đăng ký làm thành viên TTGDCK TP.HCM với tổng số vốn đăng ký là 584,75 tỷ đồng. Các Thành viên của TTGDCK TP.HCM hầu hết được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh với 05 nghiệp vụ gồm: Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư. Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư mở tại các công ty chứng khoán thành viên tăng liên tục qua từng năm và cho đến ngày 28/7/2004 có khoảng hơn 19 ngàn tài khoản được mở, trong đó có 153 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Hoạt động quản lý giao dịch: Trước hết, phải nói rằng hoạt động quản lý giao dịch là một trong những nghiệp vụ quan trọng của TTGDCK TP.HCM. Xác định được tầm quan trọng đó, thời gian qua Trung tâm luôn nghiên cứu và kiến nghị các giải pháp kỹ thuật cũng như các quy chế, quy trình nhằm từng bước hoàn thiện và tạo điều kiện thuạn lợi để các nhà đầu tư tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường. Từ thời điểm ban đầu Trung tâm chỉ thực hiện một đợt khớp lệnh trong một phiên giao dịch và mỗi tuần chỉ tổ chức 3 phiên giao dịch (Hai, Tư, Sáu) thì nay Trung tâm đã tăng lên 2 đợt khớp lệnh trong một phiên và mỗi tuần thực hiện 5 phiên giao dịch. Bên cạnh đó, nếu như trước đây, trái phiếu được tổ chức giao dịch thông qua 2 phương thức là khớp lệnh và thoả thuận, có quy định biên độ giao động, đơn vị yết giá thì nay, căn cứ vào tình hình thị trường và kinh nghiệm quốc tế, trái phiếu được giao dịch chỉ  qua phương thức thoả thuận, không quy định biên độ và đơn vị yết giá.              Hoạt động công bố thông tin thị trường: Hoạt động công bố thông tin thị trưòng chiếm vị trí khá quan trọng trong việc xây dựng một thị trường chứng khoán hoạt động công khai, minh bạch nhằm tạo ra một môi trường đầu tư công bằng, cung cấp kịp thời các thông tin, dữ liệu cần thiết cho các nhà đầu tư. Nhận thức được điều đó, một mặt TTGDCK TP.HCM tăng cường, kiểm tra giám sát việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin của công ty niêm yết, mặt khác nâng cao chất lượng, nội dung và đa dạng hoá các phương tiện công bố thông tin theo phương châm: Đầy đủ, kịp thời, chính xác và dễ tiếp cận. Hiện nay các thông tin về hoạt động chứng khoán và hoạt động của các tổ chức niêm yết được công bố thông tin  đúng theo quy định và qua nhiều phương tiện như: trang Web, bản tin Thị trường Chứng khoán, màn hình điện tử đặt tại TTGDCK TP.HCM và các công ty Chứng khoán thành  viên, thông qua mạng Internet gửi đến các địa chỉ E-mail đăng ký, Fax và các ấn phẩm thường niên của Trung tâm. Hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: Qua hơn 4 năm hoạt động, hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ của TTGDCK TP.HCM không ngừng được cải thiện, nâng cao và luôn đảm bảo quy trình thanh toán các giao dịch được diễn ra thông suốt an toàn. Đồng thời, TTGDCH TP.HCM đã triển khai thực hiện các nghiệp vụ cho các loại trái phiếu chính phủ đang lưu ký của các tổ chức tín dụng, Ngân hàng thương mại... như quản lý các giao dịch trái phiếu cầm cố, chiết khấu, các trái phiếu được đưa vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tham gia thị trường  mở và các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước. Các giao dịch trái phiếu Chính phủ qua hệ thống lưu ký của Trung tâm đã mang lại những thuận lợi nhất định như thực hiện được nhanh chóng, hiệu quả, tiết kiệm chi phí do sự cách trở về địa lý và giảm được chi phí rút, in ấn chứng chỉ chứng khoán, vận chuyển cũng như đảm bảo an toàn cho quá trình thực hiện. Nhằm thực hiện tốt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt nam từ nay đến năm 2010 đã được Chính phủ thông qua, trong thời gian tới, TTGDCK TP.HCM sẽ tập trung thực hiện một số nội dung quan trong sau đây:  - Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đã được hoạch định, đặc biệt là nâng TTGDCK TP.HCM lên Sở giao dịch; - Nghiên cứu phát triển mạnh thị trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu chính phủ; - Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và nâng cấp hệ thống giao dịch, giám sát, công bố thông tin, đăng ký - lưu ký - thanh toán bù trừ ở mức độ tự động hoá. Kết nối mạng hệ thống diện rộng giữa TTGDCK TP.HCM với các Công ty Chứng khoán; - Không ngừng nâng cao năng lực vận hành, quản lý và giám sát thị trường; - Nghiên cứu phát triển các định chế tài chính trung gian cho thị trường, các nhà đầu tư có tổ chức, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. b. Trung tâm giao dịch thành phố Hà nội Sự ra đời của TTGDCK Hà Nội: Ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QÐ-TTg thành lập hai Trung tâm giao dịch chứng khoán trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Theo đó, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách Nhà nước cấp. Biên chế của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thuộc biên chế của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. TTGDCK Hà Nội có các nhiệm vụ chủ yếu sau: 1. Tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán; 2. Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán; 3. Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng khoán; 4. Thực hiện đăng ký chứng khoán. Quá trình xây dựng mô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội: Việc xây dựng mô hình hoạt động cụ thể cho Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có ý nghĩa rất quan trọng, vừa phải đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của nền kinh kế, vừa phải phù hợp với quy mô và lộ trình phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngày 05/8/2003 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến 2010. Theo đó, xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội, chuẩn bị điều kiện để sau 2010 chuyển thành Thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC). Tháng 6/2004, Bộ tài chính ra Thông báo số 136/TB/BTC nêu kết luận của Lãnh đạo Bộ về mô hình tổ chức và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Trong đó, định hướng xây dựng Trung tâm GDCK Hà Nội thành một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) đơn giản, gọn nhẹ, theo đó, Trung tâm GDCK Hà Nội sẽ phát triển theo hai giai đoạn: Giai đoạn đầu, từ 2005 đến 2007 - thực hiện đấu giá cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và đấu thầu trái phiếu chính phủ đồng thời tổ chức giao dịch chứng khoán chưa niêm yết theo cơ chế đăng ký giao dịch. Giai đoạn sau 2007 - Phát triển TTGDCKHN thành thị trường phi tập trung phù hợp với quy mô phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Mô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã từng bước được cụ thể hoá. Gần đây, Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 244/2004/QÐ-BTC ban hành Quy chế tạm thời tổ chức giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội. Như vậy, có thể nói cơ sở pháp lý ban đầu cho hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã được thiết lập. Theo đó, có thể khái quát các nội dung hoạt động chính trong giai đoạn đầu của TTGDCK Hà Nội như sau: 1. Tổ chức đấu giá cổ phần cho các doanh nghiệp : TTGDCKHN cung cấp các phương tiện để thực hiện đấu giá cổ phần, đặc biệt là cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, theo tinh thần Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần vừa được Chính phủ ban hành và thông tư số 126/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NÐ-CP. Trong đó quy định các doanh nghiệp khi cổ phần hoá phải bán đấu giá công khai ra bên ngoài tối thiểu 20% vốn điều lệ. Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hóa có khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng phải tổ chức đấu giá cổ phần tại TTGDCK để thu hút người đầu tư, các trường hợp khác cũng được khuyến khích đấu giá qua TTGDCK. 2. Tổ chức đấu thầu trái phiếu : TTGDCKHN tổ chức đấu thầu trái phiếu, bao gồm các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công trình … 3. Tổ chức giao dịch chứng khoán theo cơ chế đăng ký giao dịch: Hàng hoá giao dịch trên TTGDCK Hà Nội: - Các loại chứng khoán của các công ty cổ phần có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên, chưa thực hiện niêm yết tại TTGDCKTP. HCM, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký giao dịch phải có lãi, số cổ đông tối thiểu là 50 người (kể cả trong và ngoài doanh nghiệp). - Các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương Phương thức giao dịch áp dụng tại TTGDCKHN: + Phương thức giao dịch thoả thuận. + Phương thức giao dịch báo giá trung tâm. Ngày 8.3.2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam.  II. Rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Những rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam a. Thông tin không đối xứng : * Định nghĩa : Trong thị trường tài chính luông vốn luôn di chuyển từ những người có nguồn vốn nhàn rỗi đên những nhà đầu tư cần vốn để phát triển từ đó thúc đẩy nền kinh tế . Tuy nhiên sẽ không đơn giản để các giao dịch tài chính đạt đến mục tiêu hiệu quả .Nguyên nhân bởi thông tin là rào cản cho sự hoàn thiện. Từ phía người cho vay , với tư cách là người sử hữu vốn yếu tố rủi ro là sự tác động lớn đến khả năng cho vay, tính an toàn cho đồng vốn của họ là yếu tố đặt lên hàng đầu .Họ yêu cầu người vay vốn phải đưa ra được những tư liệu chứng minh được sự an toàn của đồng vốn và đảm bảo được thời hạn thanh toán mặt khác người sở hữu vốn cũng yêu cầu thu được lãi suất kỳ vọng và lãi suất này phải cao hơn lãi suất phi rủi ro Từ phía người đi vay họ cần vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình như vậy yêu cầu đặt ra đối với họ là huy động được một nguồn vốn đáp ứng đủ quy mô , có lãi suất và thời gian hợp lý.Do đó người đi vay muốn huy động được nguồn vốn cần đáp ứng đủ các yêu cầu của người cho vay. Do vậy 1 giao dịch được thực hiện phụ thuộc vào người đi vay . Tuy nhiên trong hoạt động tài chính luôn có một mâu thuẫn cơ bản và cố hữu giữa người cho vay và người đi vay một vấn đề tạo nên các cơ sở sự tồn tại của các điều kiện cho vay trong các tổ chức tài chính , đó là sự không cân xứng về thông tin giữa người cho vay và người đi vay. Đối với người đi vay thông tin của họ về người cho vay là tương đối đồng nhất và đôi khi không thật sự không quan trọng.Điều mà họ quan tâm là các điều kiện cho vay, lãi suất và thời hạn thanh toán chỉ cần vay được là hoàn toàn hoàn thành mục tiêu của mình trong giao dich tài chính. Nhưng mọi chuyện lại hoàn toàn khác đối với người cho vay .Họ có quyền lựa chọn người được vay và ngay lúc nay họ có quyền quyết định , quyền sử dụng vốn tức là có quyền sở hữu . Nhưng ngay khi một giao dịch tài chính được thực hiện ,quyền sử dụng vốn được chuyển sang cho người đi vay Nếu không có vật thế chấp hoặc bảo lãnh của một tổ chức tài chính người cho vay chỉ có sự thừa nhận về mặt pháp lý. Như vậy đồng nghĩa với việc rủi ro trong quá trình thu hồi vốn và độ rủi ro này phụ thuộc hoàn toàn vào người vay vốn. Do vậy những gì người cho vay phải làm để hạn chế rủi ro là phải thu thập và phân tích các thông tin liên quan đến người vay vốn .Cần biết người đi vay sử dụng đồng vốn như thế nào , mức độ rủi ro cao hay thấp và năng lực tài chính… tuy nhiên những thông tin như thế đến với người cho vay thường không đầy đủ hoặc thiếu chính xác dẫn đến những quyết định sai hoặc dẫn đến ‘lựa chọn đối nghịch’. Tóm lại trong các giao dịch tài chính thường có sự chênh lệch về thông tin giữa các bên tham gia , đây được gọi là hiện tượng thông tin không cân xứng. Theo nhà kinh tế học Markusk K , đại học boston : “Thông tin không cân xứng là hiện tượng người đi vay có thông tin tốt hơn người cho vay”. Theo hai nhà kinh tế học Udo Schmidt Mỏh và J. Miguel Villas-boas (University of califonia at Berkeley) : “Thông tin không cân xứng là tình trạng trong đó người mua và người bán có thông tin khác nhau trong cung 1 giao dịch”. Có rất nhiều định nghĩa về thông tin không đối xứng theo cách khác nhau nhưng tất cả đều có những đặc điểm chung cơ bản : Thứ nhất có sự khác biệt về thông tin giữa các bên tham gia giao dịch. hứ hai có nhiều sự trở ngại trong việc chuyển thông tin giữa hai bên . Thứ ba trong hai bên luôn có một người có thông tin chính xác hơn. b. Rủi ro đạo đức : * Rủi ro đạo đức là hậu quả của vấn đề thông tin không đối xứng.Rủi ro đạo đức chỉ xuất hiện sau khi một giao dịch được hoàn thanh và một bên có hành động ẩn giấu và tác động tới lợi ích của bên kia .Do đó ta có thể hiểu rủi ro đạo đức là : - Một bên tham gia thị trường không thể giám sát hành động của bên kia.Vì lý do này rủi ro đạo đức còn gọi là hành động ẩn giấu (hidden action) - Rủi ro đạo đức phát sinh khi những người sở hưu thông tin riêng thực hiện những hành động có tác động đối lập từ đó có xác suất tạo ra những hậu quả xấu. Như vậy ta thấy được rằng rủi ro đạo đức luôn xuất hiện một bên có những hành động ẩn giấu và ù vô tình hay cố ý thì những hành động đó làm tăng xác suất của rủi ro . c. Rủi ro chứng khoán do suất hiện của thông tin không đối xứng và rủi ro đạo đức. Công bố thông tin chậm : Việc chậm công bố thông tin thể hiện rất rõ của những năm đầu hình tành thị trường chứng khoán . Cụ thể hóa ở trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh , tờ bản tin chứng khoán được truyền qua fax tới các công ty chứng khoán rồi sau đó mới tới tay các nhà đầu tư . Còn việc công bố thông tin qua mạng Internet , trừ kết quả giao dịch ra các thông tin còn lại rất chậm gây ra sự bất bình đẳng của nhà đầu tư ở gần và ở xa trung tâm giao dịch chứng khoán . Đối với nghĩa vụ công bố thông tin của các công ty niêm yết , Ủy an chứng khoán Nhà nước đã có quy định khá rủi ro trong luật chứng khoán năm 2005 .Tuy nhiên , tình hình công bố thông tin của các công ty này chưa hoàn toàn đúng với các quy định .Các công ty đều tuân thủ nhưng vẫn có biểu hiện nộp báo cáo chậm và nhiều khi số liệu báo cáp chưa thực sự chính xác . Điển hình cho điều này có thể kể đến các công ty như Bibica , Halong Canfoco khi các công ty này viện ra rất nhiều lý do thiếu thuyết phục để giải thích cho việc chậm trễ công bố thông tin : công ty có nhiều chi nhánh ,kế toán trưởng đi vắng , công ty kiểm toán chậm ra báo cáo …Đối với thông tin và nghị quyết đại hội đồng cổ đông hay hội đồng quản trị ,các kế hoạch , dự án , hợp đồng kinh doanh , hợp tác làm ăn , thay đổi nhân sự …cũng không công bố một cách nhanh chóng và đôi khi còn không công bố ra cho công chúng. Thông tin không đầy đủ và không rõ ràng. Hiện tượng thông tin liên quan đến giao dịch còn thiếu rõ ràng la điều đã được các nha đầu tư và báo chí đề cập nhiều. Sự thiếu minh bạch này chủ yếu diễn ra ở các giao dịch thỏa thuận, giao dịch cổ phiếu quỹ , giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài . Giao dịch mua bán cổ phiếu quỹ của chính tổ chức niêm yết la một thông tin quan trọng bởi thông tin này liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của tổ chức và ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường . Tuy nhiên , việc công bố những thông tin này của trung tâm giao dịch chứng khoán còn chưa đầy đủ va tăng rủi ro cho nhà đầu tư . Điển hình là trong bản báo cáo của công ty cổ phần và chế biến hàng xuất khẩu Long An (LAFOOCO) có ghi rõ cơ cấu sở hữu cổ phần của công ty như sau : Nhà nước :30% Cán bộ công nhân viên trong công ty: 16.43% Cổ đông noài công ty :23.57% Cổ đông nước ngoài 30% Trong cơ cấu sở hữu này không có công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An , như vậy LAFACOO không có cổ phiếu quỹ . Tuy vậy , LAFACOO lại đăng ký và thực hiện bán lại 30470 cổ phieeusquyx và thông tin này được đăng trên tờ bản tin thị trường của trung tâm giao dịch chứng khoán . LAFACOO không phải là một công ty cá biệt mà tại nhiều doanh nghiệp cổ phần hiện tượng số lượng cổ phiếu quỹ tại thời điểm niêm yết lại khác xa với thông tin công bố trong bản báo cáo .Qua đó ta có thể thấy thông tin ở đây không hoàn toàn chính xác , bản báo cáo bạch đôi khi không còn đáng tin cậy cho những nhà đầu tư . Bên cạnh đó , thông tin diễn biến giao dịch cũng không được cung cấp đầy đủ đặc biệt là những năm 2005 trở về trước.Theo cách công bố thông tin nhà đầu tư khi đó chỉ có thể biết được 3 mức giá giao dịch tốt nhất , toàn bộ các mức giá còn lại không được hiển thị và nhà đầu tư chỉ có thể căn cứ vào mức giá và khối lượng khớp lệnh dự kiến để đánh giá thị trường . Đặc biệt trừ giá dự kiến khớp lệnh là chính xác , khối lượng khớp lệnh dự kiến lại là con số có thể không chính xác , không đây đủ và không cập nhật .Lý do là công ty chứng khoán lấy được thông tin về giá dự kiến khớp lệnh , còn lại các thông tin về khối lượng dự kiến khớp lệnh các công ty chứng khoán phải tự nhập vao theo thông tin của đại diện thông báo nên nhiều khi không được cập nhật kịp thời . Sự không nhất quán trong cách sắp xếp thông tin của tờ bản tin thị trường mà thông tin quan trọng nhất thường được đặt ra ngoài danh mục cũng là điều cần bàn tới . Quản lý công bố thông tin và giám sát các công ty niêm yết còn yếu . Thị trường chứng khoán Việt Nam đã xảy ra nhiều vụ tai tiếng, đặc biệt là vụ gian lận thuế giá trị gia tăng của công ty HaLong Canfoco, khoản lỗ bất nơ của công ty REE , khúc mắc về tài chính của công ty BiBiCa , chia cổ tức sai nguyên tắc của công ty cơ khí Bình Triệu và sự giảm vốn cổ đông một cách khó hiểu tại Công ty GiLimex vào những năm 2005-2006 là một dấu hiệu cho thấy việc giám sát các công ty niêm yết còn nhiều yếu kém . Nguyên nhân bởi việc giám sát và quản lý hoạt động của các tổ chức niêm yết vẫn còn phụ thuộc nhiều vào báo cáo của các tổ chức niêm yết mà thiếu đi các nghiệp vụ giám sát , kiểm tra để đối chiếu ,từ đó thiếu những phát hiện hoặc cảnh báo kịp thời cho các nhà đầu tư về những sai phạm hoặc khúc mắc trong hoạt động của các tổ chức niêm yết. Bằng chứng là hầu hết nhueng vụ sai phạm iêu biểu kể trên đều do các công ty chứng khoán , báo chí và nhà đầu tư phát hiện rồi sau đó cơ quan quản lý mới biết và mới có biện pháp. Và một điểm đáng lưu ý là trước khi các vụ việc xảy ra ,UBCKNN cũng đã cử đoàn thanh tra xuống kiểm tra tình hình của các tổ chức niêm yết. c. Rủi ro chênh lệch giữa giá phát hành lần đầu với giá giao dịch trên thị trường là rất lớn. Hiện tượng này rất dễ nhận thấy đối với những nhà đầu tư chứng khoán và những người quan tâm đến thị trường chứng khoán việt nam . Nguyên nhân của hiện tượng này là do : Hiệu ứng loãng cổ phiếu : Nếu cổ phiếu được xác định giá chính xác thì việc mua bán nó sẽ là những giao dịch phi lợi nhuận ròng ( Zero- NPV transactions ). Kết quả là các cổ đông nhận được một mức giá công bằng cho những cô phần nhỏ hơn. Do vậy , giá cổ phiếu phát hành phải thấp hơn khi định giá. Tác động của thông tin nội bộ : Mô hình Myers-Majuf Chúng ta biết rằng giá trị của một doanh nghiệp V= A + NPV Trong đó A : là giá trị hiện tại của doanh nghiệp NPV: Giá trị hiện tại ròng của các cơ hội đầu tư . Giả sử các nhà đầu tư không biết giá trị A và họ ước đoán là Ai với xác suất là p và Aj có xác suất 1- p Vậy giá trị kỳ vọng của A là : E(A) = pAi + (1 – p)Aj Những người quản lý công ty biết rõ giá trị thực sự của doanh nghiệp . Các cơ hội đầu tư cần số vốn là I và tao ra giá trị la R à NPV= R – I . NPV > 0 rõ ràng đây la một dự án tốt. Giả sử công ty không còn vốn để tự tài trợ do đó phát hành cổ phiếu , do vấn đề thông tin không đối xứng , doanh nghiệp cần phát hành thêm n cổ phiếu sao cho n.(A + R ) / (n + N ) = I N là số cổ phiếu đang có . Vì các nhà đầu tư không biết giá trị tài sản đích thực của công ty nên họ ước đoán giá trị đó ở mức E(A) . Do đó công ty phải phát hành một lượng cổ phiếu n’ như sau n’ phụ thuộc vào E(A) chứ không phải là A nên bán cổ phiếu ở một mức giá trung bình đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp có tài sản cao hơn mức trung bình phải bán ở mức giá thấp hơn trong thực tế , trong khi đó các doanh nghiệp có tài sản thấp hơn mức trung bình lại bán ở mức giá cao hơn thực tế . Do vậy , trong điều kiện thông tin không cân xứng sẽ xảy ra hiện tượng không cân bằng trong việc xác định cổ phiếu. Từ đó ta thấy rằng rủi ro thông tin khi 1 công ty phát hành cổ phiếu đã bộc lộ rằng cổ phiếu đó được định giá cao hơn thực tế. d. Giá cả cổ phiếu và chỉ số Việt Nam- Index không phản ánh đúng tình hình sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết va thực tế giao dịch trên thị trường . Một thực tế nữa được các nhà đầu tư thực sự quan tâm đó là hiện tượng biến động cổ phiếu không phản ánh đúng tình hình sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết. Theo quy luật thị trường giá cả biểu hiện giá trị của hàng hóa nhưng bao giờ cũng xoay quanh giá trị . Tuy nhiên , trên thị trường chứng khoán Việt Nam giá cả và giá trị nhiều khi không theo quy luật trên . Mặc dù , giá cả còn phụ thuộc vào cung cầu của thị trường tuy nhiên điều đáng quan tâm là có những trường hợp khi công ty niêm yết công bố những thông tin tốt và đưa ra kế hoạch đầu tư khả thi thì giá cả cổ phiếu lại không hề tăng . Công ty cơ khí Bình Triệu và công ty bánh kẹo Biên Hòa , Công ty Savimex là những minh chứng cụ thể. Đối với chỉ số Việt Nam-Index , do khối lượng giao dịch quá thấp nên chỉ cần có vài lô cổ phiếu được khớp lệnh đã có thể làm thay đổi chiều hướng của cả một phiên giao dịch .Chẳng hạn vào phiên giao dịch ngày 25/11/2002 chỉ có 5 lô cổ phiếu GMD khớp lệnh tại giá 35900 đồng (giám 1100 đồng so với phiên trước ) đã kéo chỉ số Việt Nam-Index xuống còn 175,24 điểm giảm 1,23 điểm . Ngày hôm sau cũng chỉ cần 2 lô GMD khớp lệnh tại giá 36900 đã đưa chỉ số Vn-Index lên đến 176.47 điểm , tăng 1.23 điểm so với phiên trước đó. e. Giao dịch nội gián- rủi ro đạo đức đối tượng quan trọng nhất của các công ty niêm yết luôn là những người có quyển lợi và trách nhiệm đối với công ty. những người này bao gồm: cổ đông sáng lập,cổ đông kiểm soát, những người có liên quan trực tiếp về hiệu quả kinh doanh của công ty như kế toán trưởng, hoặc những người có quan hệ huyết thống, thân thiện với những đối tượng trên. do những người này luôn có thể biết trước những thông tin liên quan đến cổ phiếu niêm yết mà công chúng không thể biết hoặc không thể biết sớm được nên họ là những người rất quan trọng đối với các cổ đông. bên cạnh đó, một số đối tượng là nhân sự của các cơ quan quản lý thị trường cũng có khả năng tiếp cận và xử lý thông tin từ doanh nghiệp trước khi công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. những thông tin dạng này đợc gọi là thông tin nội gián (nội bộ). giao dịch liên quan đến việc sử dụng thông tin này gọi là giao dịch nội gián. giao dịch nội gián là hậu quả của thông tin không cân xứng. nói cách khác, đó chính là rủi ro đạo đức mà các cổ đông của công ty niêm yết phải gánh chịu hậu qủa. trên thị trường chứng khoán việt nam, đã có nhiều dấu hiệu của hiện tượng này. có nhiều dấu hiệu cho thấy xuất hiện giao dịch nội gián cổ phiếu REE. một tuần trước khi trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ chí Minh đăng thông tin về báo cáo tình hình hoạt động năm 2002 của REE, khối lợng giao dịch cổ phiếu REE có chiểu hướng giảm và các lô chào bán lớn đều rơi vào các mức giá thấp hơn giá tham chiếu. sau đó, báo cáo tài chính năm 2002 của REE trở thành một trong những vụ gây nhiều thắc mắc nhất trong những năm hoạt động của thị trờng chứng khoán Việt Nam. Điều đáng nói là sau khi REE gây ra thất vọng trong đại họi cổ đông thường niên và công bố lợi nhuận năm 2003 chỉ bằng 1/3 so với cùng kỳ năm 2002, thì khối lượng chào bán cổ phiếu REE không tăng nhiều như dự đoán. ngoài ra, trong năm 2002 báo cáo tài chính hàng quý của REE đã công bố số doanh thu và lợi nhuận trước thuế như sau (với số làm tròn, đơn vị : tỷ vnđ. nguồn: www.fsc.com.vn): doanh thu lợi nhuận trước thuế quý 1 75 11,6 quý 2 115,5 16,6 quý 3 109,7 12,9 như vậy, tổng ba quý công ty đạt 300,2 tỷ đồng doanh thu, tăng 33% và lợi nhuận trớc thuế 41,1 tỷ đồng, tăng 11.5%. so với kế hoạch của năm 2002, doanh thu đạt 93%, lợi nhuận trước thuế đạt 84,3%. tuy nhiên, trong báo cáo tài chính quý 4, REE báo lỗ 4,6 tỷ đồng với nguyên nhân thua lỗ trong mảng thầu cơ điện lạnh (me) (trong khi kế hoạch dự tính sẽ lãi 20 tỷ đồng). Rõ ràng sự chênh lệch lớn như vậy là điều không bình thường. nó hàm chứa hai điều nghi ngờ: hoặc là những báo cáo tài chính ba quý đầu của ree có dụng ý đẩy giá cổ phiếu giả tạo nhằm tạo điều kiện có lợi cho công ty, hoặc là khoản lỗ trong mảng thầu ME là để che giấu những hoạt động tài chính không lành mạnh. dù như thế nào thì các cổ đông REE cũng hoàn toàn có quyền nghi ngờ về việc họ đang gánh chịu rủi ro đạo đức do lãnh đạo công ty REE gây ra. điều đáng nói thêm là trước khi REE gửi báo cáo quý 4 cho cơ quan quản lý, cổ phần REE liên tục xuống giá. do vậy, những dấu hiệu mua bán nội gián cổ phiếu REE là có cơ sở. hiện tượng tương tự cũng xảy ra đối với cổ phiếu SAV. khối lượng giao dịch SAV tăng đột biến (gấp 5-10 lần lượng giao dịch trung bình) trong những phiên giao dịch một tuần trước khi SAV công bố kết quả kinh doanh quý 1 năm 2003. điều đáng nói là lượng cung SAV cũng tăng xấp xỉ với lượng đặt mua trong thời điểm này. quan sát biểu đồ chứng khoán các công ty niêm yết ta có thể nhận thấy có không ít chứng khoán được giao dịch với số lượng tăng đột biến. hiện tượng này cho thấy dấu hiệu đầu có giao dịch nội gián. quan sát kỹ hơn, kết hợp với thu thập thông tin thị trường có thể nhận ra dấu hiệu giao dịch nội gián trong một số giao dịch đó bởi sự gia tăng số lượng giao dịch đó thường được theo sau bởi những thông tin quan trọng liên quan đến cổ phiếu đó. tuy nhiên cũng chưa có căn cứ chính xác để khẳng định chắc chắn các giao dịch trên là nội gián một phần vì tính chất biểu hiện chưa rõ, một phần vì giá cổ phiếu còn chịu sự chi phối của quá nhiều yếu tố khác. về phưong diện pháp luật, khung pháp lý hiện nay của thị trường chứng khoán Việt nam chưa ngăn chặn hiệu quả việc giao dịch bằng thông tin nội gián. theo quy chế công bố thông tin hiện hành, nhiều công ty niêm yết vẫn cho rằng có thể công bố thông tin cho giới báo chí những gì đã được trung tâm giao dịch công bố. thực tế là thời gian xử lý thông tin tại trung tâm giao dịch từ khi nhận đợc thông tin của doanh nghiệp đến khi đợc đưa lên website hoặc bản tin thị trường chứng khoán thường mất 2-3 ngày. Khoảng thời gian đó đủ để những thông tin chính thức trở thành thông tin nội gián cho một số cá nhân kiếm lời. f. Rủi ro về sức mua , ảnh hưởng của yếu tố lạm phát: Nền kinh tế Việt nam đang tăng trưởng một cách nhanh chóng và hết sức ấn tượng. Tốc độ phát triển hàng năm đạt trên 7%. Dự tính tron năm 2007 tốc độ tăng trưởng đạt trên 8% . Ta đã biết rằng tăng trưởng kéo theo lạm phát. Trong những năm gần đây tốc độ lạm phát đã khá cao .Dự tính trong năm 2007 sẽ kiềm chế lạm phát ở mức 8%-9% . Đây là mức tăng lạm phát khá cao từ khi nền kinh tế Việt Nam đi vào chuyển đổi và phát triển. Lạm phát tăng cao làm gia tăng rủi ro cho các nhà đầu tư chứng khoán . Lạm phát làm giảm lợi tức kỳ vọng của nhà đầu tư vào cổ phiếu .Ta có thể thấy nếu nhà đầu tư kỳ vọng với mức lợi tức kỳ vọng là 10% trong 1 năm đối với một loại cổ phiếu , tuy nhiên đó chỉ là giá trj kỳ vọng và bi ảnh hưởng bởi lạm phát ...Nếu lạm phát trên 10% thì khi đó nhà đầu tư đã gặp phải rủi ro và bị thiệt hại về sức mua. g. Rủi ro do quy mô thị trường quá nhỏ Thị trường chứng khoán Việt Nam mới được hình thành năm 2000 và tính đến nay mới được 7 tuổi đời ... bởi vậy quy mô của thị trường là vô cùng nhỏ bé. Thị trường nhỏ bé gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư về tính thanh khoản của chứng khoán . Khi một cổ phiếu ở thị trường chứng khoán Việt Nam tăng giá , khi đó nguồn cung là vô cùng hạn chế muốn mua cũng không được thế nhưng khi giảm giá muốn bán lại các khó .Nguyên nhân ở đây là do quy mô thị trường là quá nhỏ từ đó tạo nên rủi ro cho các nhà đầu tư chứng khoán. i. Rủi ro về mặt chính sách : Rủi ro này là không thể tránh khỏi đối với tất cả các thị trường chứng khoán mới hình thành. Tại VN, một ví dụ điển hình cho thấy khi chỉ số cổ phiếu tăng lên quá caoso với mức 1000 điểm thì Ủy ban quản lý chứng khoán sẽ ra chính sách giữ tỷ lệ cổ phiếu, hạn chế đầu tư nước ngoài. Khi chỉ số chứng khoán giảm mạnh xuống 900 điểm thì Ủy ban này lại ra chính sách mở rộng khuyến khích đầu tư nước ngoài khiến cho chỉ số cổ phiếu đàn hồi trở lại . k. Rủi ro về mặt góp vốn: Thị trường cổ phiếu VN thực hiện hình thức giao dịch T+3, nhưng có một số công ty chứng khoán và ngân hàng lại liên kết với nhau đưa ra dịch vụ ngoại ngạch, bao gồm: - Nhà đầu tư có thể nhận được tiền mặt ngay trong ngày mà họ bán ra cổ phiếu, trong khi đó ngân hàng vẫn thu lợi nhuận theo lãi suất thị trường (hiện nay là 1%/30, lãi suất gửi ở VN là 8%). - Thế chấp chứng khoán để vay tiền ngân hàng. Nhà đầu tư có thể thế chấp cổ phiếu đã hoặc chưa giao dịch trên thị trường chứng khoán để vay tiền, tỷ lệ vay là: 100% mệnh giá của cổ phiếu đã đem ra giao dịch hoặc 30% giá hết giờ giao dịch của ngày hôm đó, trong khi đó đối với các cổ phiếu chưa tham gia thị trường chỉ có thể thế chấp bằng 80% mệnh giá, thời hạn thế chấp từ 3 đến 6 tháng, có thể kéo dài 3 tháng, lãi suất được tính theo lãi suất thị trường trong thời hạn kéo dài, hiện nay lãi suất vay mỗi tháng là từ 0,85% - 0,90%. - Mua chứng khoán góp vốn. Theo quy định hiện hành của VN, khi nhà đầu tư mua chứng khoán trước hết cần gửi số tiền tương đương với giá của chứng khoán đó, nhưng chứng khoán góp vốn lại không cần phải gửi nhiều tiền như vậy, trước tiên ngân hàng sẽ cho nhà đầu tư vay khoản tiền mặt tương đương với 30%-40% giá của chứng khoán, sau đó sẽ lấy cổ phiếu sau khi mua làm vật cầm cố. l. Rủi ro về tỷ suất hối đoái: Hiện tại những điều luật liên quan đến việc quản lý ngoại hối của VN còn khá thô sơ, giao dịch ngoại hối về cơ bản dựa trên phương thức giao dịch bằng tiền mặt là chính. Các nhà đầu tư TQ gặp rất nhiều phiền toái trong việc giao dịch, hơn nữa việc đổi tiền mặt rất dễ gây biến động về tỷ giá hối đoái, khó có thể khống chế rủi ro. Ở trên là một số rủi ro mang tính đặc trưng cho thị trường chứng khoán Việt Nam một thị trường mới mở và nhỏ bé. Trên cơ sở đó kết hợp với thực tế hoạt động trên thị trờng chứng khoán Việt Nam đã được trình xin đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế các rủi ro . CHƯƠNG III : MỘT VÀI ĐỀ XUẤT GIẢM THIỂU RỦI RO TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1. Khuyến khích thành lập các công ty sản xuất và bán thông tin Giải pháp cho vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong các thị trường tài chính là đưa ra thông tin có tác dụng loại bỏ thông tin không cân xứng và cho phép những người cung cấp vốn có thông tin đầy đủ về những cá nhân hay những công ty cần tài trợ cho các hoạt động đầu tư. Một cách để thu thập thông tin này là có các công ty chuyên thu thập và đưa ra thông tin giúp phân biệt các công ty tốt với các công ty hoạt động kém. Đương nhiên, để các công ty như thế được thành lập và hoạt động một cách có tổ chức và hiệu quả thì pháp luật phải đi trước một bước. Vì vậy, các cơ quan quản lý cần nghiên cứu, thử nghiệm và triển khai các văn bản pháp luật liên quan đến sự thành lập, tổ chức và hoạt động của các công ty cung cấp thông tin chuyên nghiệp. Việc làm này không chỉ có ý nghĩa trong việc hạn chế tác động tiêu cực của thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức mà còn giúp tăng cường tính chuyên nghiệp và hiệu quả cho thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng việc cung cấp thông tin theo cách này chưa giải quyết một cách triệt để vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán do sự tồn tại của hiện tượng “người đi xe không tốn tiền”. Đó là vấn đề xảy ra khi những ngời không chi tiền mua thông tin vẫn có thể hưởng lợi từ thông tin mà người khác đã mua bằng cách đầu tư theo. Vì vậy đây là biện pháp có tính lâu dài, làm nền tảng lý luận và thực tiễn để tăng cường hiệu quả cho các biện pháp áp dụng song song dưới đây. 2. Tăng cường sự điều hành của chính phủ để làm tăng thông tin trên thị trường chứng khoán. Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường tính công bằng về thông tin trên thị trường chứng khoán. Trong giai đoạn đầu, Chính phủ có thể tác động bằng các biện pháp mang tính hành chính như thanh tra, giám sát việc công bố thông tin chặt chẽ, lập ra các bộ phận thu thập, phân tích sơ bộ và công bố thông tin cho giới đầu tư… Tuy nhiên, sự can thiệp của Chính phủ cần theo xu hướng tăng dần các biện pháp có tính chất khuyến khích các công ty công bố thông tin chính xác và kịp thời và giảm dần các biện pháp hành chính không cần thiết. Một điều không thể thiếu đối với thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là Uỷ ban Chứng khoán Nhà Nước cùng các cơ quan liên quan cần ban hành những quy định chi tiết và đầy đủ hơn về việc công bố thông tin của các công ty niêm yết để đảm bảo tính chính xác và đầy đủ, kịp thời và thống nhất. Song song với điều đó là các biện pháp chế tài đảm bảo việc thực thi nghiêm chỉnh các quy định trên. Cụ thể, cần phải có một ban giám sát tài chính có trình độ chuyên môn cao và hoạt động độc lập để kiểm tra tình hình hoạt động và các báo cáo tài chính của các công ty niêm yết dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế từ đó phát hiện những điểm bất bình thường ở các công ty niêm yết để khuyến cáo và cảnh báo cho nhà đầu tư. Có như vậy lòng tin của nhà đầu tư, một yếu tố rất quan trọng trên thị trường chứng khoán, mới được khôi phục và duy trì. 3. Khuyến khích thành lập các trung gian tài chính, đặc biệt là các quỹ đầu tư chứng khoán. Đầu tư chứng khoán là một hoạt động đòi hỏi sự phân tích chính xác, kịp thời và chuyên nghiệp. Tuy nhiên một thực tế đang diễn ra trên thị trờng chứng khoán Việt Nam là các nhà đầu tư còn rất hạn chế về khả năng thu thập và xử lý thông tin. Điều này xuất phát từ hai nguyên nhân: Thứ nhất, nhà đầu tư tham gia thị trường phần lớn là có quy mô nhỏ nên việc tìm kiếm thông tin bị giới hạn. Thông tin thiếu cập nhật, thiếu chính xác và thiếu tính toàn diện. Thực ra, họ có thể giành đợc thông tin tốt hơn nhưng chi phí để đạt được điều đó thường không nhỏ so với quy mô vốn còn hạn hẹp. Kết quả là lợi nhuận thu về sẽ không xứng đáng với chi phí tìm kiếm thông tin. Nguyên nhân thứ hai là tính chuyên nghiệp của nhà đầu tư chưa cao khiến cho việc xử lý thông tin còn nhiều hạn chế. Đối với nhà đầu tư nhỏ phân tích tốt hơn thông tin là cả một vấn đề. Hai thực tế này cũng giải thích vì sao hình thức đầu tư giá trị hầu như chưa xuất hiện trên thị trường chứng khoán Việt Nam đồng thời đó cũng là nhân tố tăng thêm sự không cân xứng về thông tin trên thị trường. Một cách đơn giản và hiệu quả để giải quyết hạn chế trên là đầu tư qua các trung gian tài chính nh các quỹ đầu tư, các quỹ tương trợ, quỹ đầu tư chứng khoán… Các trung gian tài chính này hoạt động trên cơ sở huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi hoặc phát hành chứng khoán rồi dùng tiền thu được đầu tư vào các lĩnh vực khác, trong đó có thị trường chứng khoán. Do được chuyên môn hoá và hoạt động có tổ chức nên họ có nhiều ưu thế trong việc khai thác thông tin. Với trình độ chuyên môn cao, quan hệ rộng và khả năng tài chính mạnh, các trung gian tài chính luôn là những người có được thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và đầy đủ. Kết hợp với trình độ phân tích tài chính chuyên nghiệp, việc phân tích, tổng hợp số liệu và lựa chọn phương án đầu tư của các tổ chức này có chất lượng rất cao. Chính nhờ những lợi thế đó mà các tổ chức này luôn là những người hạn chế tốt hơn vấn đề thông tin không cân xứng và do đó giảm được đáng kể lựa chọn đối nghịch, và rủi ro đạo đức trong hoạt động đầu tư tài chính nói chung và đầu tư chứng khoán nói riêng. Do vậy, các nhà đầu tư nhỏ có thể đầu tư thông qua các tổ chức này (bằng cách cho vay, mua chứng chỉ quỹ đầu tư, thuê quản lý quỹ…) để tận dụng lợi thế về thông tin. Vì thế, trong điều kiện hiện nay các cơ quan quản lý cần khuyến khích việc thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán. Điều này đặc biệt phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay vì số lượng nhà đầu tư nhỏ tham gia thị trường chứng khoán chiếm tỷ lệ lớn. Các quỹ đầu tư, với vai trò là nhà đầu tư có tổ chức sẽ thu hút rất tốt những nguồn vốn nhỏ tham gia thị trường thông qua quỹ. Thị trường khi đó sẽ hoạt động chuyên nghiệp hơn, quy mô hơn và công bằng hơn. Đồng thời chính quy luật cạnh tranh của thị trường khi đó sẽ thúc đẩy các công ty niêm yết hoạt động hiệu quả hơn và có trách nhiệm hơn trong việc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư. Như vậy, vấn đề thông tin không cân xứng sẽ được giải quyết phần nào và nhờ đó, rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch cũng dần giảm theo. Mặc dù đã cố gắng nhiều trong việc tham khảo tài liệu, tìm kiếm thông tin và sự giúp đỡ của các thầy cô, bạn bè nhưng đề án vẫn còn những vấn đề chưa giải quyết xong. Một trong những hạn chế đó là việc vận dụng các mô hình toán kinh tế để tách riêng tác động của thông tin không cân xứng tới hoạt động của thị trwờng, trên cả phơng diện lý thuyết và thực tế. Dẫu sao, tôi hy vọng đề án sẽ đóng góp phần nào cho việc hoàn thiện công tác thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam và sẽ là một tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docRủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam.doc
Luận văn liên quan