Đề tài Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam

Trong thời kỳ nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, chúng ta còn phải đối mặt với nhiều thử thách và những rủi ro không thể lường trước được. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn quá non trẻ và chưa có những hiểu biết nhất định về nền thị trường lớn này. Và một vấn đề được đặt ra ở đây là những thiệt hại do rủi ro pháp lý mang lại. Mỗi quốc gia đều có hệ thống luật pháp của riêng mình. Nếu một nhà quản trị kinh doanh quốc tế chỉ thông hiểu pháp luật nước mình mà ít am tường hệ thống pháp luật khác thì rất dễ gặp rủi ro. Trong trường hợp ngay cả pháp luật nước mình cũng không nắm vững, thì thật vô cùng nguy hiểm. Do đó, cần nghiên cứu để nắm vững pháp luật nước mình và nước đối tác, cùng những luật có liên quan. Nhưng nghiên cứu luật pháp là vấn đề phức tạp, không thể nắm vững luật pháp của tất cả các nước. Thực tế thời gian qua cho thấy, do chưa có sự am hiểu về các yếu tố luật pháp nước ngoài và quốc tế, việc quản lý các rủi ro trong quan hệ thương mại quốc tế chưa được thực hiện tốt nên các doanh nghiệp đã phải đối mặt với các rủi ro và chịu các thiệt hại không đáng có về tài chính và uy tín của doanh nghiệp.

doc73 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4816 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế của LĐBĐ VN. Lần lại “lịch sử” lựa chọn cũng như nguyên nhân sa thải HLV Letard, ông Lân Trung nói: "Ông Letard do HLV danh tiếng Aime Jacque giới thiệu nên LĐ hoàn toàn tin tưởng. Nhưng sau 5 tháng hành nghề tại VN, HLV Letard đã bộc lộ nhiều điểm yếu, đặc biệt có những quan điểm trái ngược với LĐ về chọn cầu thủ, ví dụ điển hình nhất là ông ta đã dựa vào bài testcooper để loại Văn Quyến. Mặc dù không ưng ý nhưng tôn trọng hợp đồng, LĐ vẫn phải tiếp tục cho HLV Letard dẫn dắt đội U23 VN và đã thất bại nặng nề tại LG Cup 2002". LĐ đã phải hỏi ý kiến một số tổ chức ngoài VN và được cố vấn rằng, LĐ chỉ phải đền 3 tháng lương để HLV Letard đi tìm việc, thậm chí nếu ông Letard tìm được việc trong thời gian này, LĐ còn không phải trả một đồng nào. Sau đó LĐ còn được Ủy ban tư cách kỷ luật FIFA đồng ý cho bồi thường ông Letard chỉ có 35.000 USD". Thế nhưng, đến cuối tháng 10/2004, lúc nhận được trát của tòa án trọng tài thể thao quốc tế trên cơ sở đơn kiện của ông Letard với kết luận, lý do sa thải HLV Letard của VN không chính đáng vì HLV chỉ chịu một phần trách nhiệm trong thất bại của đội tuyển U23 VN và buộc LĐBĐ VN phải bồi thường trước ngày 10/1, nếu không thực thi đội tuyển VN sẽ bị cấm thi đấu quốc tế 2 năm. LĐ đã quá ngỡ ngàng và "chết lặng". Cách đây 2 ngày, LĐ mới gửi đơn cứu xét đến tòa án. Ông Lân Trung mếu máo: "Chúng tôi rất mong tòa án thông cảm cho LĐBĐ VN vì lý do sa thải của LĐ rất chính đáng. LĐ sẽ làm mọi cách nhưng chưa biết được giảm bao nhiêu và liệu có được giảm hay không". Chính chánh văn phòng đoàn luật sư Nguyễn Huy Thiệp đã tỏ ra rất dè dặt, mặc dù không nói thẳng nhưng ông đã lộ ra một ý rằng, vụ này LĐ rất khó tránh khỏi thất bại. Việc sa thải HLV Letard cách đây 2 năm hoàn toàn được công luận ủng hộ nhưng điều đáng quan tâm nhất ở đây là hợp đồng do LĐBĐ VN soạn thảo có quá nhiều sơ hở nên đã để xảy ra hậu quả khó lường. Khoản 10.2 của bản hợp đồng này chỉ ghi rất chung chung rằng, nếu HLV Letard không đạt được kết quả tốt trong công việc và làm tổn hại uy tín của LĐ trước công luận thì LĐ có thể chấm dứt trước thời hạn và mọi tranh chấp giữa hai bên sẽ được giải quyết tại Ủy ban Tư cách cầu thủ FIFA. LĐ đã không có điều khoản bắt buộc HLV Letard không được phép gửi đơn kiện đến địa chỉ có thẩm quyền cao hơn (ở đây là tòa án trọng tài thể thao quốc tế). Bản thân ông Lân Trung cũng cay đắng thừa nhận: "Ông Letard có quá thừa "kinh nghiệm" còn LĐ thì không!". Và sau khi sự cố của đội tuyển U23 xảy ra tại LG Cup, LĐ lại quá vội vàng ngưng hợp đồng mà không tìm hiểu kỹ hơn về luật. Trong cuộc họp để đi đến quyết định sa thải HLV Letard của LĐ chỉ có 3 nhân vật: Phó chủ tịch thường trực Trần Duy Ly, Tổng thư ký Phạm Ngọc Viễn và trưởng ban thi đua khen thưởng Vũ Hạng. Các nhà báo rất muốn chất vấn người có trách nhiệm chính là ông Viễn nhưng ông không có mặt trong cuộc họp và không nghe điện thoại. Ông Lân Trung ra sức bênh vực đồng nghiệp: "Ông Viễn đã thực hiện rất đúng quy trình lựa chọn HLV và không hề "cắt" đi một công đoạn nào cả. Ông Viễn chỉ thay mặt LĐ ký vào hợp đồng mà thôi, chứ nếu lỗi do ông Viễn thì hơi oan”. Vậy cá nhân nào chịu trách nhiệm chính trong vụ việc này? Ông Trung nhấn mạnh: "Quyết định sa thải HLV là quyết định tập thể". Khi được hỏi: "Vụ việc gần đây nhất liên quan đến HLV Tavares dẫn tới thất bại thảm hại của VN tại Tiger Cup 2004 cũng có nguyên nhân chính là hợp đồng không được tính toán kỹ. Và từ vụ việc HLV Letard, tất cả cũng đều liên quan đến ông Viễn là người được phân công chịu trách nhiệm chính. Vậy LĐ chẳng lẽ cứ rút kinh nghiệm mãi?". Ông Lân Trung đáp: "Sau mỗi lần va vấp, mỗi cá nhân trong LĐ lại thêm một bài học. LĐ thiếu hiểu biết về luật quốc tế. Trong cuộc hội nhập bóng đá thế giới, LĐ phải học hỏi nhiều hơn, đặc biệt về luật pháp để tránh rủi ro trong tương lai". Việt Báo (Theo-Ngoisao) DNTN Duy Lợi NHIỀU DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI TÌM HIỂU LUẬT ĐỂ “VÒI” TIỀN DN VIỆT NAM 09:04' 06/06/2003 (GMT+7) Võng Duy Lợi Đại diện nhóm Johnson Miki của Nhật tháng 8/2002 đã yêu cầu Doanh nghiệp tư nhân Duy Lợi (DNTN) hoặc ngừng ngay việc sản xuất khung mắc võng, hoặc phải đóng "phí bản quyền" sáng chế cho nhóm với mức 4 USD đối với mỗi chiếc võng xuất sang Nhật Bản. Nếu không, nhóm Miki sẽ kiện Duy Lợi vì "xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (SHCN)". Miki đưa ra lý lẽ là giải pháp hữu ích "Khung võng tiện dụng" họ đăng ký đã được Cơ quan sáng chế Nhật Bản cấp văn bằng số 3081528 vào ngày 22/8/2001. Từ một lá thư đòi... "phí bản quyền"... DNTN Duy Lợi (www.duyloi.com) là cơ sở sản xuất võng xếp nổi tiếng và uy tín của Việt Nam. Chỉ tính từ đầu năm đến nay, số lượng võng Duy Lợi xuất sang Nhật vượt cả năm 2002. Duy Lợi cũng đã ký được hợp đồng dài hạn với tập đoàn siêu thị Keyio. Do đó, lời đe dọa của Miki đặt ra một nguy cơ: Hàng Duy Lợi không những không được tiêu thụ tại Nhật (vì bị cáo buộc là xâm phạm quyền SHCN), mà còn không thể bán ra tại 112 quốc gia thành viên của Hiệp hội Sáng chế Quốc tế. Trước tình hình đó, tháng 11/2002, Duy Lợi với đại diện pháp luật là công ty luật Phạm&Associates đã tiến hành khiếu nại yêu cầu Cơ quan Sáng chế Nhật hủy bỏ văn bằng số 3081528. Hành trình tìm kiếm sự công bằng kéo dài hơn 6 tháng. Phía bị đơn lập luận: Đăng ký thứ nhất của Duy Lợi về kiểu dáng "Khung mắc võng" bị Cục SHCN Việt Nam từ chối ngày 25/6/2001 chính vì kiểu dáng này đã được phía bị đơn nộp đăng ký vào ngày 9/7/1996. Đây cũng là giải pháp bị đơn đăng ký ở Nhật và được cấp văn bằng giải pháp hữu ích. Nhưng trên thực tế, giải pháp của Duy Lợi đã được công bố trên Công báo SHCN số 147, tập A, trang 84-85 (với số công bố 3787) trước khi có đơn đăng ký giải pháp hữu ích của nhóm Johnson Miki tại Nhật. Vì thế chiểu theo Điều 3, khoản 1, mục 3 trong Luật Sáng chế thì giải pháp "Khung võng tiện dụng" không thể được đăng ký. Sau một thời gian xem xét, nghe nguyên đơn lập luận và bị đơn biện hộ, Cơ quan Sáng chế Nhật đã ra phán quyết: Văn bằng giải pháp hữu ích "Khung võng tiện dụng" của nhóm Johnson Miki vi phạm quy định Điều 3, khoản 2 Luật Sáng chế, nên phải bị hủy bỏ theo Điều 37, khoản 1, mục 2 của luật này. Bên bị đơn cũng phải gánh chịu tất cả án phí. Một bài học quý giá cho các doanh nghiệp Việt Nam Tuy DNTN Duy Lợi thắng kiện, nhưng vụ khiếu nại trên cho thấy có rất nhiều vấn đề các doanh nghiệp phải lưu tâm, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ông Lâm Tấn Lợi cho biết, doanh nghiệp ở các nước nắm vững về luật. Họ cũng tìm hiểu rất kỹ hoạt động của những cơ sở sản xuất và doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể, nhóm Miki và đại diện của họ ở Việt Nam đã tìm hiểu và biết Duy Lợi đang gặp khó khăn trong việc đăng ký kiểu dáng "Khung mắc võng". Khi biết Duy Lợi mới chỉ đăng ký kiểu dáng thì họ đăng ký sáng chế tại Nhật. Đây là điều mà Duy Lợi chưa tính đến. Dù văn bằng giải pháp hữu ích của nhóm Miki bị tuyên hủy bỏ, Duy Lợi giờ cũng không thể tiếp tục đăng ký sáng chế cho giải pháp của mình, vì Luật Sáng chế không chấp nhận đăng ký cho những giải pháp đã được sử dụng rộng rãi trước khi nộp đơn đăng ký. Ông Lợi nói: "Qua trường hợp của mình, tôi mong các doanh nghiệp Việt Nam khi có những sáng tạo, cần nhờ các công ty luật chuyên ngành tư vấn và đăng ký bản quyền ngay để tránh bị rơi vào các vụ bị ăn cắp bản quyền, và những cuộc kiện tụng kéo dài tiền mất tật mang". Nếu không, các doanh nghiệp Việt Nam có thể sẽ phải trả giá đắt từ những cuộc tranh chấp SHCN với công ty nước ngoài cho dù họ không sai. (Theo Lao Động - Trung Nguyên HIGHLANDS COFFEE BỊ TỐ CÁO DÙNG TÊN MIỀN TRUNG NGUYÊN Ngày đăng: 09/01/2010 02:36 Công ty cà phê Trung Nguyên cho rằng Công ty cổ phần Việt Thái Quốc tế đã ăn cắp tên miền trungnguyen của mình, vì website trungnguyen.com.au có giao diện và thông tin về sản phẩm Highlands Coffee của Việt Thái. Mới đây, khi đăng ký sở hữu tên miền “trungnguyen” trên Internet tại Australia, Công ty cà phê Trung Nguyên phát hiện Công ty The trustee for Hinchliffe Trust đã đăng ký tên miền này dưới hình thức một website giao dịch thương mại “trungnguyen.com.au”. Đặc biệt, truy cập vào tên miền này dẫn đến website phân phối trực tuyến các sản phẩm mang thương hiệu Highlands Coffee của Công ty cổ phần Việt Thái Quốc tế (VTI), trụ sở tại Việt Nam. Giao diện chính trang trungnguyen.com.au. Ảnh chụp màn hình. Theo đại diện Trung Nguyên, nội dung website trungnguyen.com.au này được hiển thị bằng tiếng Anh, giống hoàn toàn về nội dung, hình ảnh, hệ thống sản phẩm, hình ảnh bao bì được thể hiện bằng tiếng Việt trên website của Công ty Việt Thái Quốc tế. trungnguyen.com.au cũng có giao diện và thông tin y hệt website highlandscoffee.com.au. Công ty Trung Nguyên cho rằng, sự giống nhau này gây ngộ nhận cho nhiều khách hàng quốc tế khi truy cập vào website. Trung Nguyên cũng nhận được nhiều thắc mắc của khách hàng tại thị trường Australia là tại sao bán cà phê Highlands trên website của Trung Nguyên. Bản thân Trung Nguyên đã bị cơ quan cấp tên miền tại Australia từ chối cấp tên miền “trungnguyen” với lý do là đã có công ty khác đăng ký sở hữu, mặc dù doanh nghiệp đã chứng minh rằng sản phẩm phân phối trên website thuộc công ty khác. Sự việc đang được các cơ quan pháp lý tại Australia xem xét. Trung Nguyên cho rằng, VTI thông qua Công ty The trustee for Hinchliffe Trust tại Australia đăng ký sử dụng tên miền trungnguyên để làm tên website thương mại, là hành động có chủ đích và được ngụy trang rất khéo léo bằng việc đăng ký sử dụng hợp pháp tên miền nêu trên. Trao đổi với VnExpress.net, đại diện VTI khẳng định mình không phải là chủ sở hữu hay điều hành trang web trungnguyen.com.au. Sản phẩm Highlands Coffee của VTI tại Australia có website chính thức highlandscoffee.com.au. Trang web trungnguyen.com.au do Công ty Dynamic Food Brokers (DFB), từng là nhà phân phối sản phẩm cà phê Trung Nguyên tại Australia trước đây, sở hữu và điều hành. VTI cũng tiết lộ, DFB đã nhiều lần liên hệ với Trung Nguyên về việc chuyển nhượng tên miền này. Tuy nhiên việc thương lượng đã không thành công. Trong thời gian đó, DFB cũng thay đổi nhà cung cấp sản phẩm cà phê Việt Nam, đó là Highlands Coffee. VTI đã ra công văn yêu cầu DFB ngừng việc đưa các thông tin về sản phẩm Highlands Coffee lên trang web www.trungnguyen.com.au để tránh những hiểu nhầm không đáng có. Trong khi đó đại diện Trung Nguyên cho biết, DFB chưa hề là nhà phân phối các sản phẩm Trung Nguyên, và DFB cũng chưa từng đề cập đến việc bán lại tên miền cho Trung Nguyên. Vài năm trước, Trung Nguyên đã phát hiện một doanh nghiệp nước ngoài dùng tên thương hiệu của mình. Công ty này đăng ký sở hữu trí tuệ tên và logo cà phê Trung Nguyên với Tổ chức bảo hộ trí tuệ thế giới (WIPO), để kinh doanh cà phê tại thị trường Mỹ. Phải mất rất nhiều thời gian đàm phán và hợp tác, chứng minh, Trung Nguyên mới đòi lại tên thương hiệu của mình tại thị trường Mỹ. Ngay sau đó doanh nghiệp này đã tiến hành đăng ký bảo hộ thương hiệu hơn 60 quốc gia trên thế giới. (Hà Mai - Theo vnexpress.net) RẮC RỐI QUANH TÊN MIỀN trungnguyen.com.au 09/01/2010 Công ty cà phê Trung Nguyên vừa phát hiện tại thị trường Úc, tên miền của mình đã bị một doanh nghiệp cà phê lớn khác giành mất. Trong lúc tiến hành các thủ tục để đăng ký sở hữu tên miền trên internet nhằm quảng bá thương hiệu ra thế giới, Trung Nguyên phát hiện tại thị trường Úc, tên miền trungnguyen.com.au đã được đăng ký với cơ quan quản lý ở Úc. Điều đáng ngạc nhiên là đơn vị đã nhanh tay “xí” trước tên miền này lại là một thương hiệu khá quen thuộc tại VN: cà phê Highlands. Thông thường, việc “xí” tên miền kiểu này do các cá nhân hoặc doanh nghiệp nhỏ nào đó thực hiện với mục đích sau này bán lại với giá cao cho “chính chủ” để kiếm lời. PV Thanh Niên đã truy cập vào tên miền nêu trên và nhận thấy đây là website quảng bá các sản phẩm mang thương hiệu Highlands Coffee của Công ty cổ phần quốc tế Việt Thái (VTI) đặt trụ sở tại Việt Nam. Nội dung thông tin bằng tiếng Anh hoàn toàn trùng khớp các nội dung thể hiện trên website của VTI tại địa chỉ www.highlandscoffee.com.vn. Không chỉ giống về nội dung, hình ảnh, hình thức... 2 website này còn giống hoàn toàn về hệ thống sản phẩm, hình ảnh bao bì. Ông Lê Tuyên - Giám đốc truyền thông và tiếp thị Công ty Trung Nguyên - bức xúc: “Vụ việc đã gây nhầm lẫn cho rất nhiều khách hàng quốc tế khi truy cập vào website này. Trung Nguyên đã nhận được nhiều thắc mắc của khách hàng tại thị trường Úc là tại sao lại bán cà phê Highlands trên website của Trung Nguyên. Bản thân Trung Nguyên đã bị cơ quan cấp tên miền tại Úc từ chối cấp tên miền “trungnguyen” với lý do là đã có công ty khác đăng ký sở hữu, mặc dù chúng tôi đã chứng minh rằng sản phẩm đang được phân phối trên website này không phải của Trung Nguyên”. Trong khi đó, ngày 8.1, đại diện Công ty VTI khẳng định họ không phải là chủ sở hữu hay điều hành tên miền và trang web www.trungnguyen.com.au; sản phẩm Highlands Coffee của VTI tại Úc có website chính thức là www.highlandscoffee.com.au. VTI đồng thời cho biết trang web www.trungnguyen.com.au do Công ty Dynamic Food Brokers (DFB), từng là nhà phân phối sản phẩm cà phê Trung Nguyên tại Úc trước đây, sở hữu và điều hành. DFB đã nhiều lần liên hệ với Trung Nguyên về việc chuyển nhượng tên miền này, tuy nhiên việc thương lượng đã không thành công. Trong thời gian đó, DFB cũng thay đổi, trở thành nhà phân phối cho Highlands Coffee. VTI cho biết đã có công văn yêu cầu DFB ngừng việc đưa các thông tin về sản phẩm Highlands Coffee lên trang web www.trungnguyen.com.au và DFB đồng ý tiến hành thực hiện trong ngày 8.1.2010. (Q.T-N.T.T-Nguồn:TNO. /2010 /01/rac-roi-quanh-ten-mien-trungnguyen-com-au.aspx) Vifon DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRƯỚC BIỂN LỚN WTO: Nhận diện những rủi ro pháp lý! (11/12/2006 15:29) Công ty Kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam (Vifon) là chủ sở hữu nhãn hiệu "Vifon và hình chiếc lư" đã được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam từ năm 1990. Với khả năng xâm nhập thị trường châu Âu mạnh mẽ, đến năm 1995 Công ty Vifon nộp đơn đăng ký nhãn hiệu của mình tại Ba Lan. Tuy nhiên, phía bạn thẳng thừng từ chối vì lý do phần hình "chiếc lư" tương tự gây nhầm lẫn phần hình "chiếc lư" trong nhãn hiệu "Kim Lan và hình" đăng ký trước cho sản phẩm cùng loại. Và như vậy vì chậm chân tại thị trường này, Vifon mất sở hữu nhãn hiệu phần hình chiếc lư của mình. (Báo Hải Quan) Vinataba DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRƯỚC BIỂN LỚN WTO: Nhận diện những rủi ro pháp lý! 11/12/2006 15:29 Nhãn hiệu Vinataba, vốn đã được Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam đăng ký bảo hộ từ năm 1990 và tại 10 quốc gia khác theo Thỏa ước Madrit từ năm 2001. Tuy nhiên, cách đây 3 năm, qua tra cứu, Tổng công ty này đã nhận thấy nhãn hiệu Vinataba đã bị một số công ty thuộc tập đoàn Sumatra của Indonesia nộp đơn đăng ký tại 14 nước và vùng lãnh thổ trong khu vực, đã được cấp đăng ký tại  Campuchia, Lào, Hồng Kông, Thái Lan, Indonesia và đang được xem xét tại Trung Quốc, Philippines, Myanma, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan. Điều đáng nói là sau khi các chuyên gia luật nghiên cứu hồ sơ cũng như tại các nước thì mới thấy các công ty của Indonesia biết nhãn hiệu Vinataba là của Tổng công ty Thuốc lá VN. Và mục đích đăng ký tại các nước này là nhằm lôi kéo Tổng công ty Thuốc lá VN vào các cuộc kiện tụng kéo dài, tốn kém để gây sức ép trong đàm phán nhằm bán lại nhãn hiệu này cho Tổng công ty Thuốc lá VN. (báo Hải quan) HIỂU BIẾT PHÁP LUẬT ĐỂ TRÁNH RỦI RO TRONG GIAO THƯƠNG 10:01, Thứ 4, 06/12/2006 (GMT+7) Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam cũng đã từng hứng chịu những rủi ro pháp lý trong thương mại quốc tế khi bị nước ngoài đăng ký mất bản quyền nhãn hiệu trên thị trường quốc tế. Nhãn hiệu Vinataba tuy đã được đăng ký trong nước nhưng chưa đăng ký ở nước ngoài, khi tiến hành đăng ký ở nước ngoài thì phát hiện đã bị một công ty của Indonesia chiếm đoạt tại 13 quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này đã gây tác hại ngiêm trọng đến quyền lợi của DN. Sản phẩm Vinataba không thể xuất khẩu sang các nước đã bị đăng ký tước đoạt thương hiệu. Đồng thời, công ty tại những nước này có thể sản xuất Vinataba giả để đưa vào Việt Nam. Ngoài ra, những ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu của DN và ngành thuốc là Việt Nam không phải là nhỏ. Tổng Công ty Thuốc lá đã thực hiện việc đòi lại nhãn hiệu của mình nhưng đến nay mới chính thức thành công trên thị trường Campuchia, thị trường Lào và Trung Quốc đang trong quá trình xử lý. Việc khiếu kiện để đòi lại nhãn hiệu mới chỉ thực hiện ở 3 nước nhưng đã rất khó khăn và tốn kém. (Phước Hà, Rủi ro pháp lý do yếu tố khách quan Tranh chấp hợp đồng mua bán bông LẠI TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN BÔNG 22/03/2009 Doanh nghiệp dệt Việt Nam không nắm hết các quy định, điều khoản trong giao dịch mua bán bông nên khi có tranh chấp rất dễ bị thiệt. Cuối năm 2008, một số công ty Việt Nam bị một công ty Mỹ phản ứng vì “xù” hợp đồng mua bông. Mới đây, đến lượt một công ty Ấn Độ phản ứng với nội dung tương tự. Đặt mua khi giá cao... Ông Nguyễn Văn Tuấn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Sợi Việt Nam cho biết sự vụ lần này liên quan đến ba doanh nghiệp dệt sợi Việt Nam. Đầu năm 2008, ba doanh nghiệp này đã đặt mua khoảng 3.000 tấn bông từ Công ty D.D Cotton (Ấn Độ), giá bông lúc đó còn cao và trên đà tăng giá, cao điểm đến 1.750 USD/tấn bông. Tuy nhiên, trong lúc chưa chuyển hàng, nhận hàng gì thì giá bông thế giới tụt rất nhanh, còn 1.400 USD/tấn. Vì vậy mà doanh nghiệp dệt sợi không muốn tiếp tục hợp đồng. Nếu doanh nghiệp vẫn tiếp tục hợp đồng và nhận bông thì phải thanh toán cho Công ty D.D Cotton số tiền tương ứng với giá bông thời điểm ký hợp đồng trước đây (giá cao). Sau khi nhận, nếu doanh nghiệp bán sang tay số bông này cho doanh nghiệp khác thì phải bán theo giá thị trường sau này (giá thấp). Nếu không sang tay mà dùng bông này làm ra sợi hoặc dệt vải và bán cho các doanh nghiệp dệt may thì cũng phải bán theo giá thị trường (giá thấp), nếu bán giá cao thì công ty dệt may sẽ tìm mối hàng khác giá rẻ. Như vậy, tính đường nào cũng chịu lỗ, cứ nhận về mỗi tấn bông thì doanh nghiệp sẽ lỗ khoảng 300 USD. Như vậy, 3.000 tấn bông sẽ lỗ 900.000 USD, tương đương 15,3 tỷ đồng. Vào lúc khác thì cũng có thể bấm bụng thanh toán cho xong, coi như rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên, năm 2008-2009 là thời điểm khó khăn tài chính, mất một đồng cũng đau lòng xót dạ, nói gì 15,3 tỷ đồng. Do đó, các doanh nghiệp này mới muốn hủy hợp đồng, không mua bông nữa. Trì hoãn giao hàng, chờ giá thấp? Tình trạng tương tự cũng đã xảy ra với nhà cung cấp bông ở Mỹ (Công ty Louis Grewfus). Cuối năm ngoái, nhà cung cấp này đã sang Việt Nam làm việc với Bộ Công thương để yêu cầu mười doanh nghiệp mua bông giải quyết. Mười doanh nghiệp này đã đặt mua khoảng 6.000 tấn bông (doanh nghiệp mua nhiều nhất là 1.000 tấn, ít nhất là 200 tấn) vào thời điểm giá cao. Ông Tuấn cho biết nhà cung cấp bông của Mỹ đã thực hiện việc mua bán khá uy tín. Do đó, khi sự việc xảy ra, dù biết phải chịu lỗ nhưng doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải chấp nhận rủi ro. Hiện đã có tám trong số mười doanh nghiệp đàm phán thống nhất phương pháp giải quyết tranh chấp. Theo đó, nhà cung cấp cũng đồng ý giảm giá bán để bên này đỡ lỗ hoặc là họ sẽ không giao hàng nữa nhưng bên mua phải đền một khoản tiền, dù sao cũng nhẹ hơn khoản lỗ nếu nhận hàng... Hơn nữa, nếu doanh nghiệp dệt sợi “xù” hợp đồng mua bông thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp khác. Ngoài ra, ở Mỹ, ngành bông liên kết chặt chẽ với ngành dệt may, nếu nhà cung cấp bông liên kết với nhau và gây tác động trong ngành, phản ứng với doanh nghiệp dệt may Việt Nam thì sẽ ảnh hưởng đến lượng dệt may xuất khẩu sang thị trường này. Trong khi Mỹ là một trong những thị trường xuất khẩu chính của dệt may Việt Nam thì các doanh nghiệp dệt sợi khó có thể để mất uy tín, gây ảnh hưởng cả ngành. Tuy nhiên, ông Nguyễn Hồng Quang - Tổng Thư ký Hiệp hội Sợi Việt Nam cho biết trong vụ tranh chấp với nhà cung cấp Ấn Độ, khi hiệp hội yêu cầu doanh nghiệp giải trình thì các doanh nghiệp cho biết phía nhà cung cấp đã từng trì hoãn, từ chối giao hàng khi giá bông lên cao hơn giá ký hợp đồng, giao không đủ số lượng, không đúng chất lượng... Không rành pháp lý, khó mà thắng kiện Trên thế giới có khoảng 100 quốc gia trồng bông, tổng sản lượng đạt 24 triệu tấn/năm. Trong đó có một số quốc gia cung cấp chính. Trung Quốc trồng tám triệu tấn nhưng nhu cầu đến chín triệu tấn nên phải nhập khẩu một triệu tấn; Ấn Độ trồng năm triệu tấn, nhu cầu chỉ bốn triệu, có thể xuất khẩu một triệu tấn; Mỹ xuất khẩu hai triệu tấn; Brazil xuất khẩu một triệu tấn... Ông Nguyễn Văn Tuấn cho biết về mặt pháp lý, phải thừa nhận rằng doanh nghiệp dệt Việt Nam còn rất yếu, không nắm hết các quy định, điều khoản trong giao dịch mua bán bông nên khi có tranh chấp rất dễ bị thiệt. Các nhà cung cấp bông luôn dựa vào các văn bản, các thỏa thuận mà Hiệp hội Bông quốc tế (ICA - International Cotton Association) soạn sẵn. Các văn bản này có rất nhiều điều khoản bảo vệ quyền lợi của nhà cung cấp bông nhưng doanh nghiệp ta không hiểu hết. Một ví dụ, khi không có tàu để chở bông thì nhà cung cấp bông có quyền giao hàng trễ mà không bị bắt lỗi. Chính vì vậy, khi doanh nghiệp Việt Nam cho rằng nhà cung cấp bông đã từng cố tình trễ hẹn giao hàng khi giá cao thì nhà cung cấp lại cho rằng trễ đó là trễ chính đáng do không có tàu, không có container. Doanh nghiệp Việt Nam lại không có điều kiện đi chứng minh là nhà cung cấp cố tình trì hoãn chứ không phải do kẹt tàu... Hơn nữa, khi nhà cung cấp trễ giao hàng, giao hàng không chất lượng... thì doanh nghiệp Việt Nam cũng không làm thủ tục khiếu kiện gì cả nên bây giờ cũng khó “bắt giò”. Quả thật, ngày 19-3, Công ty D.D Cotton đã có văn bản gửi cho Hiệp hội Sợi “vặn” lại các doanh nghiệp dệt sợi với lập luận như trên. Công ty này cho rằng vào tháng 2, tháng 3-2008, tại các cảng bốc hàng, tình hình thiếu container rất nghiêm trọng. Hơn nữa, nếu bên mua cho rằng chất lượng bông không đạt thì bên mua phải thông báo cho bên bán ngay lập tức trong thời hạn quy định theo Luật ICA nhưng bên mua chưa từng có thông báo nào... Vì không nắm rõ luật lệ, các doanh nghiệp Việt Nam đang ở vào thế kẹt, nợ nặng vì bông. ( Áp thuế chống phá giá đèn huỳnh quang, tinh bột sắn ĐÈN HUỲNH QUANG, TINH BỘT SẮN BỊ ÁP THUẾ CHỐNG PHÁ GIÁ (Theo Tiền Phong) Đèn huỳnh quang tiết kiệm năng lượng của VN sẽ bị áp mức thuế 66,1% khi xuất khẩu sang châu Âu trong khi tinh bột sắn khi vào thị trường Ấn Độ sẽ bị áp mức giá 33%. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết: Đèn huỳnh quang xuất khẩu vào châu Âu và tinh bột sắn bán sang Ấn Độ vừa bị các nước này áp dụng thuế chống bán phá giá. Điều đáng nói là hàng hoá Việt Nam phải gánh chịu đòn trừng phạt này bắt đầu từ những vụ kiện mà bị đơn không phải là doanh nghiệp Việt Nam. VCCI cho biết, trong kết luận cuối cùng của Tổng vụ Thương mại Uỷ ban châu Âu về cuộc điều tra lẩn tránh thuế chống bán phá giá đối với đèn huỳnh quang tiết kiệm năng lượng có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc, cơ quan này đã quyết định sẽ mở rộng việc áp thuế chống bán phá giá sang các sản phẩm tương tự được xuất khẩu từ Việt Nam, bất kể các lô hàng đó có khai nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam hay không. Mức thuế áp dụng đối với đèn huỳnh quang tiết kiệm năng lượng của VN khi xuất khẩu vào cộng đồng châu Âu sẽ tính tương đương với mức thuế đã được áp đặt cho các công ty khác không phải là bị đơn bắt buộc của Trung Quốc là 66,1%.  Đối với mặt hàng tinh bột sắn, Tổng vụ Tự vệ của Ấn Độ đã có thông báo kết luận cuối cùng về cuộc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với các nước xuất khẩu mặt hàng bột sắn, tinh bột sắn và tinh bột cao cấp vào thị trường Ấn Độ, trong đó có VN. Theo đó thuế hiện hành là 30% được tăng lên mức 33% trong năm thứ nhất. Mức thuế này không áp dụng với tinh bột sắn (mã số 1903) và tinh bột cao cấp (mã số 3505). (tintuc.xalo.vn/.../den_huynh_quang_tinh_bot_san_bi_ap_thue_chong_pha_gia.html) Chống bán phá giá dây curoa THỔ NHĨ KÌ ÁP THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ DÂY CUROA NHẬP KHẨU TỪ VIỆT NAM, TRUNG QUỐC, ẤN ĐỘ Ngày đưa tin: 3/5/2007 Tổng cục Ngoại Thương Thổ Nhĩ Kỳ đã có thông báo về việc kết thúc quá trình điều tra và ra quyết định áp thuế chống bán phá giá chính thức đối với mặt hàng dây dẫn truyền lực lõi thép có thiết diện hình chữ V (dây curoa) có xuất xứ từ Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ. STT Năm Nước Mặt hàng Kết luận cuối cùng của phía nước ngoài. 1 1994 Colombia Gạo Không đánh thuế vì dù có bán phá giá ở mức 9,07% nhưng không gây tổn hại cho ngành trồng lúa gạo của Colombia 2 1998 EU Mì chính Đánh thuế chống bán phá giá, mức 16,8% 3 1998 EU Giày dép Không đánh thuế vì thị phần gia tăng nhỏ so với Trung Quốc 4 2000 Ba Lan Bật lửa Đánh thuế chống bán phá giá, mức: 0,09% euro/chiếc. 5 2001 Canada Tỏi Đánh thuế chống bán phá giá, mức 1,48 đôla Canada/kg 6 2002 Canada Đế giày Đang điều tra 7 2002 EU Bật lửa ga Đang điều tra 8 2002 Mỹ Cá da trơn Đang chuẩn bị điều tra Ngày 13/5/2006, Tổng cục Ngoại thương Thổ Nhĩ Kỳ đã chính thức tiến hành điều tra chống bán phá giá đối với mặt hàng dây curoa nhập khẩu dựa trên Luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ. Theo quyết định chính thức, mức thuế chống bán phá giá được áp dụng đối mặt hàng này nhập khẩu từ Trung Quốc (mã CN: 4010.32.00.00.00) là 5,04 US$/Kg; Ấn Độ (mã CN: 4010.39.00.00.00) là 3,50 US$/Kg và Việt Nam (mã CN: 4010.34.00.00.00) là 4,55 US$/Kg. Kể từ năm 1991 đến nay, Việt Nam đã phải đối phó với 8 vụ kiện chống bán phá giá. Trong đó có 5 vụ kiện đã kết thúc và 3 vụ kiện đang trong quá trình điều tra. Những vụ kết thúc là Colombia kiện Việt Nam bán phá giá gạo năm 1994, kết quả là Việt Nam không bị đánh thuế dù bị kết luận có bán phá giá là 9,07% nhưng không gây tổn hại cho ngành trồng lúa gạo của Colombia. Vụ EU kiện Việt Nam bán phá giá mì chính vào năm 1998, kết quả doanh nghiệp Việt Nam bị đánh thuế chống phá giá ở mức 16,8%. Cùng năm này EU còn kiện doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá về giày dép, kết quả là không bị đánh thuế, vì phần hàng Việt Nam gia tăng rất nhỏ so với các nước Trung Quốc, Indonesia và Thái Lan. Năm 2000, vụ kiện bán phá giá bật lửa tại Ba Lan, kết quả doanh nghiệp Việt Nam phải chịu đánh thuế chống bán phá giá với mức 1,48 đô la Canada/ kg. Còn trong năm 2002 thì đối phó với ba vụ kiện bán phá giá về đế giày của Canada, bật lửa gas của EU và vụ kiện bán phá giá cá tra và cá ba sa của Mỹ . Các trường hợp hàng xuất khẩu Việt Nam bị kiện bán phá giá cũng tăng tỷ lệ thuận với việc mở rộng thị trường của Việt Nam. (Theo BTM) Chống bán phá giá giày, mũ da EU TIẾP TỤC ÁP THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ GIÀY MŨ DA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC: TRUNG QUỐC TRẢ ĐŨA EU – CÒN VIỆT NAM? Ngày 22/12, Liên minh châu Âu (EU) đã bỏ phiếu chính thức thông qua đề xuất của Ủy ban châu Âu (EC) kéo dài thêm 15 tháng thời hạn áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da nhập khẩu của Việt Nam và Trung Quốc. Đây là quyết định cuối cùng và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2010. Chỉ sau chưa đầy một ngày, ngày 23/12 Trung Quốc đã quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm ốc vít làm bằng thép cácbon của EU. Trong thông tin đăng trên trang điện tử, Bộ Thương mại Trung Quốc khẳng định các nhà sản xuất một số loại ốc vít, trong đó có đinh ốc, gioăng của nước này, đã bị thiệt hại nặng nề bởi tình trạng bán phá giá sản phẩm của một số công ty châu Âu. Do đó, Bộ Thương mại Trung Quốc sẽ tăng thuế đánh vào các sản phẩm ốc vít làm từ thép cácbon của EU dao động từ 16,8% đến 24,6%. Quyết định áp thuế mới sẽ bắt đầu có hiệu lực ngay từ ngày 28/12. Đối với Việt Nam thì việc áp thuế của EU lần này chủ yếu nhằm vào các sản phẩm chủ lực trong chiến lược phát triển của ngành giày da Việt Nam (giày da trung, cao cấp) để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước khác. Không thể có chuyện Việt Nam trợ giá cho ngành da giày để phá giá ở thị trường EU, đơn giản Việt Nam không có khả năng để làm việc này. Quyết định kéo dài thời hạn áp thuế chống bán phá giá của EU gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành công nghiệp giày da Việt Nam, tác động sâu sắc đến đời sống của hơn 650.000 lao động trong ngành này. Giá các sản phẩm giày da của Việt Nam rẻ là do đây là ngành thâm dụng lao động, mà lao động của Việt Nam rất rẻ. Lương trung bình công nhân da giày chỉ khoảng 200 USD/tháng, trong khi lương của công nhân da giày châu Âu là 3.000 - 4.000 nghìn USD/tháng. Chưa kể đến việc giày da là truyền thống, kỹ thuật ngày càng tiên tiến, lợi thế về nhân công rẻ giúp các sản phẩm giày da của Việt Nam có giá thấp hơn. EU là thị trường lớn của Việt Nam. Việc áp thuế này gây khó khăn rất lớn cho Việt Nam. Ngành da giày trước kia chưa bị áp thuế có tới 80% doanh nghiệp xuất sản phẩm sang thị trường EU, hiện chỉ còn 30%. (http//www.champhay.com/kéo-dài-thời-hạn-áp-thuế-chống-bán-phá-giá-đối-với-giày-da-vn) Các vụ kiện khác. DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG… PHÒNG VỆ Vụ Vinafood II (năm 1995) không thể thực hiện được việc giao gạo cho một đối tác phương Tây vì “phải thực hiện chỉ thị của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền”, dẫn đến phải đền bù 5 triệu USD theo phán quyết trọng tài của Phòng thương mại quốc tế (ICC). (Trích: báo nông thôn ngày nay - Số 243 (1.879) ra Thứ Tư 06.12.2006) III – Một số giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro pháp lý trong doanh nghiệp Việt Nam Hoàn thiện hành lang pháp l‎í, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho xuất khẩu. Rà soát lại hệ thống, điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa rõ ràng, trước hết là các luật như: Luật Thương mại, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài để có thể bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước khi giao thương với nước ngoài. Xây dựng hệ thống luật pháp minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế là giải pháp quan trọng để tránh rủi ro pháp lí cho doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Bên cạnh đó, một yêu cầu khác cũng quan trọng để phòng tránh những rủi ro trong hoạt động thương mại là việc nâng cao tinh thần tôn trọng luật pháp của doanh nghiệp Việt Nam. Thay đổi phương thức quản lí nhập khẩu. Tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế hợp lệ như hàng rào kỹ thuật, thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, khắc phục những bất hợp lí trong chính sách bảo hộ, cân đối lại đối tượng bảo hộ theo hướng chủ trọng bảo hộ nông sản. Bằng cách lập nên các hàng rào kỹ thuật (Hàng rào này liên quan tới việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật như tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, các biện pháp nhằm đảm bảo quá trình sản xuất hàng hóa phải an toàn, vệ sinh, bảo vệ môi trường, các vấn đề liên quan tới ghi nhãn, vận chuyển, bảo quản hàng hóa...), luật thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp ..để doanh nghiệp trong nước có thể tự bảo vệ mình trên thị trường quốc tế và có thể kiện các doanh nghiệp nước ngoài nếu họ vi phạm luật. Song song với việc thiết lập hàng rào kỹ thuật bảo vệ mình, ta cần phải san bằng cách khoảng cách của “chuẩn” Việt Nam và “chuẩn” quốc tế trong các quy định kỹ thuật. Ví dụ như nước tương, tiêu chuẩn về hàm lượng 3-MCPD của EU thấp hơn 50 lần so với tiêu chuẩn của Việt Nam, do đó nước tương Việt Nam cứ bị đưa vào danh sách các loại nước tương không đạt chuẩn 3-MCPD và bị công bố rộng rãi trên mạng internet. Nâng cao năng lực hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng thông qua việc tăng cường nguồn nhân lực có trình độ cao về pháp luật quốc tế và kinh doanh quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để các Hiệp hội tham gia vào các tổ chức hoặc Hiệp hội ngành hàng quốc tế. Từ đó, nâng cao năng lực thu thập và xử lí thông tin giúp các doanh nghiệp biết được cần phải vượt qua các rào cản gì, biện pháp khắc phục và đối phó ... phát huy hơn nữa vai trò điều hoà sản xuất và xuất khẩu, giá cả và chất lượng sản phẩm để hạn chế nguy cơ gặp phải các vụ kiện chống bán phá giá như vừa qua và hiện nay. Tăng cường thông tin về pháp luật và chính sách thương mại của các nước để có thể chủ động đối phó với những thay đổi chính sách của các nước một cách hiệu quả. Chủ động và sẵn sàng đối phó với các rào cản về “chống bán phá giá” do xu hướng các nước nhập khẩu sử dụng luật này như là một rào cản thương mại để bảo hộ sản xuất trong nước sẽ ngày càng gia tăng. Xây dựng hệ thống thông tin về các quốc gia (luật pháp, thị trường), thu thập cập nhật thông tin, diễn biến mặt hàng bị kiện hoặc áp thuế bán phá giá ở các quốc gia… Tăng cường đẩy mạnh công tác chống gian lận thương mại, quản lý và rà soát chặt chẽ liên quan đến việc cấp C/O. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật kế toán, kiểm toán Việt Nam liên quan đế vấn đề tài chính. Cơ quan Hải quan cần tăng cường công tác giám sát, kiểm tra chặt chẽ và phối hợp với các bộ ngành liên quan trong việc chống chuyển tải hàng hóa nhằm gian lận thương mại… DN cần xây dựng quy trình làm việc theo chuẩn mực và không để xảy ra tình trạng vụ kiện xảy ra thì mới xử lý… Tăng cường và thúc đẩy công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật chống bán phá giá. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng lực lượng luật sư, nâng cao kỹ năng giải quyết tranh chấp thương mại cho đội ngũ này. Trước hết là kỹ năng đàm phán và soạn thảo hợp đồng: trong mỗi cuộc đàm phán, các bên đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng bằng cách từ chối hay chấp nhận, chỉnh sửa hoặc đề nghị, vì vậy trước khi đàm phán cần chuẩn bị thật tốt như thu thập thông tin, xác định đối tác, thẩm định các thông tin để loại trừ đối tác đưa ra các thông tin giả, phân tích SWOT. Sau đó, kỹ năng soạn thảo hợp đồng là điều hết sức quan trọng, cần chú ‎ý các nội dung, điều khoản tiêu chuẩn, hình thức hợp đồng như ngôn ngữ, hiệu lực hợp đồng, luật áp dụng giải quyết tranh chấp .. tất cả phải thật cụ thể và rõ ràng. Vai trò của luật sư trong tranh chấp và giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương pháp trọng tài: Xu hướng hiện nay trong việc giải quyết tranh chấp thương mại là sử dụng phương pháp trọng tài. Đây là phương thức giải quyết có tính chất riêng tư, thủ tục mềm dẻo và linh hoạt, thời gian nhanh, tính bảo mật cao, nguyên tắc áp dụng linh động theo thoả thuận, giải quyết một lần. Vì vậy, vai trò của luật sư với việc lập thoả thuận trọng tài là rất quan trọng: lựa chọn hình thức trọng tài thích hợp, số lượng trọng tài viên, ngôn ngữ trọng tài, nơi tiến hành, luật áp dụng và thẩm quyền của trọng tài. Tuyên truyền, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thực hiện việc đăng kí‎ quốc tế nhãn hiệu để tránh các trường hợp bị tước đoạt thương hiệu dẫn đến tốn kém chi phí, công sức cho quá trình kiện tụng, đồng thời làm giảm uy tín của thương hiệu của doanh nghiệp. Tóm lại: Để tránh cho các doanh nghiệp trong nước phải chịu những thua thiệt khi gặp phải các vụ kiện, tranh chấp thương mại quốc tế, chúng ta cần phải xây dựng các hệ thống các quy định, luật kinh doanh minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời tuyên truyền ý thức tuân thủ pháp luật, sử dụng tư vấn luật của các luật sư khi thực hiện giao thương quốc tế để tránh vấp phải những sai lầm do thiếu hiểu biết luật dẫn đến các tranh chấp mà thường thua thiệt thuộc về các doanh nghiệp của ta. Ngoài ra, thực hiện bồi dưỡng lực lượng luật sư có kỹ năng giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế, nâng cao năng lực hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng, phát huy hơn nữa vai trò điều hoà sản xuất và xuất khẩu, giá cả và chất lượng sản phẩm để có thể tối thiểu hoá thiệt hại của các doanh nghiệp mỗi khi có kiện tụng xảy ra. Hơn nữa, việc thiết lập các hàng rào kỹ thuật, thiết lập hành lang pháp lí chặt chẽ cùng với sự hiểu biết luật sâu, các doanh nghiệp của ta cũng phải bắt đầu làm quen với việc học kiện và thực hiện kiện các đối tác nước ngoài nếu họ vi phạm những điều luật khi kinh doanh ở Việt Nam. HIỂU BIẾT PHÁP LUẬT ĐỂ TRÁNH RỦI RO TRONG GIAO THƯƠNG Cập nhật lúc 10:01, Thứ Tư, 06/12/2006 (GMT+7) Hạn chế rủi ro: trước hết DN phải tự lo Theo các luật sư, có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong thương mại quốc tế đối với DN Việt Nam như chưa có thói quen tuân thủ pháp luật và coi nhẹ yếu tố pháp lý trong kinh doanh; do không hiểu biết về pháp luật nước ngoài và thông lệ quốc tế; chưa có thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý và tư vấn của luật sư; không có sự chuẩn bị kỹ càng hoặc thiếu kinh nghiệm trong thương thảo hợp đồng; lựa chọn đối tác không có năng lực và tư cách pháp lý mà DN Việt Nam lại không hiểu biết và không có điều kiện kiểm tra... Theo ông Nguyễn Văn Du thì rủi ro pháp lý là một phần của hoạt động thương mại. Hay nói cách khác hoạt động trong nó đã chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn mà không có cách gì loại trừ hoàn toàn được. Tuy nhiên, để có thể giảm thiểu rủi ro và hạn chế tác động tiêu cực của nó lại là điều có thể làm được và phụ thuộc nhiều vào nỗ lực của DN và sự trợ giúp hữu hiệu của Nhà nước. Luật sư Quách Mạnh Hồng - Văn phòng Luật Ledaco cho rằng, hội nhập ngày càng sâu rộng thì các rủi ro pháp lý sẽ gia tăng. DN Việt Nam cần phải tỉnh táo hơn trong các giao dịch thương mại quốc tế. Trước hết, không ai khác ngoài chính bản thân DN phải tự ý thức được rủi ro và từ đó có biện pháp phòng tránh và khắc phục hiệu quả. Với quan điểm đó, Luật sư Đỗ Trọng Hải cho rằng, giải pháp quan trọng để phòng tránh rủi ro pháp lý cho DN trong quá trình hội nhập chính là việc xây dựng hệ thống luật pháp minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này là tất yếu, khi gia nhập WTO, mỗi DN Việt Nam trở thành một tổ chức kinh doanh trong môi trường pháp lý toàn cầu và buộc phải hoạt động theo môi trường pháp lý quốc tế. Bên cạnh đó, việc nâng cao tinh thần tôn trọng pháp luật của DN Việt Nam cũng là một yêu cầu quan trọng để phòng tránh những rủi ro trong hoạt động thương mại. Trong môi trường thương mại toàn cầu, việc nâng cao hiểu biết của các DN Việt Nam và pháp luật trong nước và quốc tế là một tất yếu. Không còn cách nào khác, DN phải tự trang bị cho mình những hiểu biết trước khi bước ra làm ăn với nước ngoài. Các DN cũng cần có thói quen sử dụng tư vấn của luật sự trong các quan hệ thương mại nhất là quan hệ có yếu tố nước ngoài. Đây là điều cần thiết, dù có thể tiêu tốn 1 ít chi phí nhưng lại ngăn chặn những rủi ro gây thiệt hại lớn về vật chất và uy tín.  (Phước Hà - ĐỪNG ĐỂ NƯỚC TỚI CHÂN MỚI NHẢY ! (TBKTSG) - Theo thống kê cuối năm 2008 thì các công ty tư vấn luật đứng đầu danh sách các doanh nghiệp trả thưởng cho nhân viên cao nhất. Từ giữa năm 2008 đến nay, trong khi phần lớn các doanh nghiệp hoạt động cầm chừng thì các văn phòng luật sư lại rất bận rộn. Thông thường vào thời điểm kinh tế nhạy cảm (dù là lạm phát cao hay suy thoái), các doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn, vì thế tình trạng tranh chấp có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp càng gia tăng. Tuy nhiên, ở Việt Nam số lượng luật sư còn quá ít không thể đáp ứng nhu cầu (cả nước chỉ có khoảng 5.000 luật sư cho hơn 80 triệu dân và hơn 500.000 doanh nghiệp!). Do đó, các luật sư hiện nay chủ yếu tham gia tư vấn cho doanh nghiệp khi có vấn đề phát sinh nhiều hơn là tham gia tư vấn xây dựng quy trình hoạt động tránh rủi ro cho doanh nghiệp. Hơn nữa, chính bản thân các doanh nghiệp Việt Nam thường ít quan tâm đến việc nghiên cứu các quy định của pháp luật để áp dụng vào hoạt động thực tiễn, giảm thiểu rủi ro. Tại Mỹ thì hầu như 100% doanh nghiệp đều có thuê luật sư tư vấn, và không ít các công ty có phòng pháp chế thuộc doanh nghiệp. Tại Việt Nam, qua khảo sát ngẫu nhiên 200 doanh nghiệp từ Bắc chí Nam hoạt động trong các lĩnh vực điển hình, chỉ có các doanh nghiệp nước ngoài nắm cổ phần chi phối và các tổng công ty nhà nước có thành lập phòng pháp chế. Với các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần... có 7,5% các doanh nghiệp được hỏi ở phía bắc, 5% các doanh nghiệp được hỏi ở phía nam là có ký hợp đồng tư vấn luật thường xuyên với văn phòng luật sư, theo đó luật sư tham gia soạn thảo các quy định và các mẫu hợp đồng cho công ty. Chủ doanh nghiệp của khoảng 20% các doanh nghiệp được hỏi ở phía bắc và 25% các doanh nghiệp được hỏi ở phía nam có quan tâm và tự tìm hiểu các pháp luật liên quan trong quá trình xây dựng doanh nghiệp. Còn lại (khoảng 65-70%) các doanh nghiệp liên hệ với văn phòng luật sư chỉ để tra cứu văn bản pháp luật khi cần thiết, và các doanh nghiệp này chỉ hợp đồng thuê luật sư tham gia tố tụng khi có vụ việc. Các chủ doanh nghiệp này thậm chí không hề có bất kỳ quyển sách luật nào trong tủ sách của doanh nghiệp! Chính do điều này mà khi có xảy ra tranh chấp thương mại, đầu tư hay lao động... các luật sư chỉ có thể tham gia sau khi “việc đã rồi”, luật sư có giỏi mấy cũng khó cứu doanh nghiệp thoát khỏi thiệt hại nếu việc đã sai từ khâu triển khai. Kết quả khảo sát này có thể làm “giật mình” các nhà hành pháp và tư pháp! Các chủ doanh nghiệp thường chủ quan, cho rằng việc “vô phúc đáo tụng đình” sẽ hiếm khi hoặc sẽ không xảy ra đối với doanh nghiệp của mình, vì vậy đa số ít quan tâm đến việc tìm hiểu luật. Đây chính là “con thiên nga đen” nguy hiểm, vì một khi sự vụ xảy ra, do không được dự liệu trước nên hậu quả mà nó mang đến sẽ khôn lường! Khi tình hình kinh doanh khó khăn, tình trạng nợ khó đòi gia tăng, các tranh chấp lao động và tranh chấp phát sinh trong nội bộ hội đồng quản trị doanh nghiệp, hội đồng thành viên ngày càng nhiều. Nếu không có điều kiện thành lập phòng pháp chế, các chủ doanh nghiệp cần quan tâm hơn đến việc tìm hiểu pháp luật để vận dụng vào hoạt động của doanh nghiệp. Để tránh rủi ro cho chính mình, các doanh nghiệp không nên để “nước đến chân mới nhảy”! Ngay cả một người lái xe khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đều phải có bằng lái xe và phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm Luật Giao thông của mình. Quyết định của doanh nghiệp thường có liên quan đến số đông người bao gồm nhân viên, khách hàng, đối tác, và trong một số trường hợp, đến cả xã hội, như vậy trách nhiệm lèo lái một doanh nghiệp tất nhiên phải nặng nề hơn người lái xe. Vì vậy việc chủ doanh nghiệp cần tìm hiểu sâu về các luật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp là điều rất cần thiết. Doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật sẽ vừa giúp được mình, vừa giúp được người. Bản thân doanh nghiệp đó sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí và thời gian giải quyết tranh chấp hợp đồng, tranh chấp lao động... Như vậy, số lượng vụ việc phải giải quyết bằng tố tụng tại tòa án sẽ không phải tăng lên tỷ lệ thuận với mức tăng số lượng doanh nghiệp, tòa án sẽ tránh được tình trạng bị quá tải và chất lượng tố tụng sẽ được cải thiện. Trong rất nhiều tranh chấp lẽ ra các bên có thể tự giải quyết nếu có hiểu biết cơ bản về pháp luật thì các bên lại mất thời gian đưa nhau ra tòa. Thậm chí có trường hợp một lãnh đạo doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng tại TPHCM tuyên bố hùng hồn “không cần biết luật là gì, miễn tự thấy mình đúng là được”! Những suy nghĩ kiểu như vậy là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc doanh nghiệp phải tốn quá nhiều thời gian đi giải quyết tranh chấp thay cho việc tập trung phát triển doanh nghiệp để tăng tính cạnh tranh. Đã có không ít lần lãnh đạo các doanh nghiệp có vốn nhà nước lấy cớ “kém hiểu biết về pháp luật” để xin được giảm nhẹ tội trong các vụ vi phạm kinh tế gây thất thoát tiền của Nhà nước! Vì vậy, nên chăng cần quy định các vị đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp có vốn nhà nước) làm cam kết tìm hiểu và thực hiện theo pháp luật trước khi nhận giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (cũng giống như người lái xe phải có bằng lái vậy!). Rất nhiều vụ tranh chấp trong thực tế xuất phát từ việc các bên không nắm vững các quy định của pháp luật. Ví dụ, các thành viên sáng lập công ty TNHH thay vì tự nghiên cứu Luật Doanh nghiệp để soạn thảo điều lệ công ty phù hợp với ý chí của mình, thì lại đi thuê dịch vụ sử dụng điều lệ có sẵn của công ty khác đi đăng ký kinh doanh. Khi có tranh chấp giữa các thành viên góp vốn thì mới đi tìm lại xem điều lệ công ty ghi như thế nào về số thành viên đại diện bao nhiêu phần trăm số vốn điều lệ để thông qua quyết định! Một số công ty thì tự ý soạn thảo nội quy công ty với các kiểu kỷ luật phạt vạ không phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động, đến khi có tranh chấp đình công, Liên đoàn lao động đến làm việc thì mới biết nội quy công ty không soạn thảo đúng theo Bộ luật Lao động. Các công ty đều tham gia kinh doanh nhưng Luật Thương mại lại ít được tìm hiểu. Có công ty mua thiết bị máy móc nhưng do chưa dùng đến ngay nên không kiểm tra, quá sáu tháng mang ra dùng thì mới biết thiết bị không đạt chất lượng theo yêu cầu hợp đồng, lúc đó đã hết thời hạn khiếu nại theo điều 318 Luật Thương mại. Cho đến thời điểm này, rất nhiều công ty vẫn còn sử dụng tiêu đề khi ký hợp đồng mua bán “căn cứ Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế” mặc dù Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã hết hạn từ ba năm nay! Các doanh nghiệp khi bị rối tung trong mạng nhện thủ tục hành chính, thay vì sử dụng luật khiếu nại tố cáo để tự bảo vệ mình thì do thiếu hiểu biết pháp luật nên phải chọn con đường lòng vòng tốn kém chi phí! Đây là thời điểm các doanh nghiệp cần tập trung cơ cấu lại doanh nghiệp, đối phó với khủng hoảng. Việc tìm hiểu các luật liên quan để áp dụng vào quá trình cơ cấu lại là việc cần làm ngay để xây dựng nền tảng hoạt động vững chắc cho doanh nghiệp. Làm được như vậy, các doanh nghiệp không những có thể tự giúp chính mình, mà còn giúp cho môi trường kinh doanh chung được lành mạnh hơn, phù hợp hơn với xu thế hội nhập quốc tế. (Nguyễn Thị Bảo Quỳnh - Thời báo Kinh tế Sài Gòn(14-03-2009)  Chủ tịch - Công ty Giải pháp thông minh I – SOLUTION) IV - Một số đề xuất của nhóm thực hiện nhằm giảm thiểu rủi ro về pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam. Về phía Doanh nghiệp: Tìm hiểu và xác định các nguyên nhân chính của các rủi ro mà bản thân DN hoặc các DN khác đã mắc phải để làm bài học kinh nghiệm cho mình, đảm bảo không lặp lại các nguyên nhân này trong hiện tại và tương lai. Đối với các DN lớn, có khả năng về tài chính và thường xuyên giao thương với các đối tác nước ngoài cần phải xây dựng Ban cố vấn về pháp luật trong nước và quốc tế. Nhiệm vụ của Ban cố vấn này là thường xuyên cập nhật thông tin để nắm rõ và theo dõi sự thay đổi về các luật, bộ luật trong nước và các nước đối tác có liên quan đến quá trình hoạt động của DN. Đối với các DN vừa và nhỏ khi có các hợp đồng quan trọng thì cần tham vấn các luật sư trước khi ký kết để giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất. Tạo điều kiện cho nhân viên có những hiểu biết sâu và chính xác về các luật. bộ luật có liên quan phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của DN bằng cách liên kết với các văn phòng luật sư hay Ban cố vấn về pháp luật cho DN tổ chức các buổi hội thảo hay gửi người đi học. Về phía Nhà nước: Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước cần kêu gọi sự hỗ trợ và giúp đỡ của các tổ chức Quốc tế về mặt con người và tài chính nhằm hoàn thiện luật pháp Việt Nam, bên cạnh đó cần cải thiện quá trình thi hành luật tại các DN và có các biện pháp mạnh tay khi có sai phạm sảy ra làm bài học cho các DN khác. Để xây dựng đội ngũ luật sư chuyên nghiệp Chính phủ cần đầu tư và cải thiện hệ thống giáo dục về pháp luật tại các trường Đại học và học viện. Cụ thể là: Đối với các sinh viên thuộc khối ngành luật thì phải được đào tạo chuyên sâu, có bài bản, biết ứng dụng một cách linh hoạt khi có tình huống không tốt xảy ra. Đối với các sinh viên thuộc khối ngành kinh tế cần bổ sung thêm kiến thức về luật của chuyên ngành mà sinh viên theo học. KẾT LUẬN Tóm lại có rất nhiều rủi ro phát sinh từ môi trường pháp lý. Luật pháp đề ra các chuẩn mực mà mọi người cần thực hiện và các biện pháp trừng phạt những ai vi phạm. Luật pháp đảm bảo sự công bằng cho các doanh nghiệp, chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh. Nhưng xã hội luôn phát triển, tiến hóa, nếu các chuẩn mực luật pháp không phù hợp với các bước tiến của xã hội thì sẽ gây ra nhiều rủi ro. Ngược lại luật pháp thay đổi quá nhiều, quá thường xuyên, không ổn định cũng gây ra những khó khăn rất lớn. Khi luật pháp thay đổi các tổ chức, cá nhân không nắm vững những đổi thay, không theo kịp những chuẩn mực mới chắc chắn sẽ gặp rủi ro. Trong kinh doanh quốc tế môi truờng pháp lý luôn phức tạp hơn rất nhiều, bởi chuẩn mực luật pháp của các nước khác nhau là khác nhau. Nếu chỉ nắm vững và tuân thủ các chuẩn mực luật pháp nước mình mà không hiểu luật pháp nước đối tác thì cũng sẽ gặp rủi ro. Điều cần thiết nhất mà doanh nghiệp cần chú trọng hiện nay là nâng cao tầm hiểu biết về luật pháp trong nước, đối tác và quốc tế. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật chặt chẽ, rõ ràng và phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; đào tạo đội ngũ luật sư chuyên nghiệp và ứng phó linh hoạt với các tình huống xảy ra trong doanh nghiệp và các doanh nghiệp cũng phải có thói quen học kiện và thực hiện kiện các đối tác nước ngoài khi họ vi phạm các điều luật trong giao thương. Với những đề xuất trên, nhóm chúng tôi hi vọng các doanh nghiệp Việt Nam sẽ hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại từ rủi ro do yếu tố pháp lý đem lại. TÀI KIỆU THAM KHẢO Quản trị rủi ro và khủng hoảng, GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân, NXB Lao động xã hội, năm 2009. Rủi ro trong kinh doanh, TS. Ngô Thị Ngọc Huyền, NXB Thống kê, năm 2001. Thời báo Kinh tế Sài Gòn – số ngày 14-03-2009. Báo Hải quan – số ngày 11-12-2006. Báo nông thôn ngày nay - Số 243 (1.879) ra Thứ Tư 06.12.2006. www.vnexpress.net. éo-dài-thời-hạn-áp-thuế-chống-bán-phá-giá-đối-với-giày-da-vn. MỤC LỤC Lời mở đầu 1 I – Rủi ro pháp lý trong doanh nghiệp 2 1)Khái niệm rủi ro 2 2)Phân loại rủi ro pháp lý 2 3)Nguyên nhân gây ra rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam 3 II – Những tình huống rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp 6 1)Rủi ro pháp lý do yếu tố chủ quan 6 a - Vụ việc của Vietnam Airlines 6 b – Vụ việc HLV Letard 10 c - DNTN Duy Lợi 13 d – Trung Nguyên 15 e – Vifon 19 f – Vinataba 19 2) Rủi ro pháp lý do yếu tố khách quan 20 a - Tranh chấp hợp đồng mua bán bông 20 b – Áp thuế chống bán phá giá đèn huỳnh quang, tinh bột sắn 23 c – Chống bán phá giá dây curoa 24 d- Chống bán phá giá giày, mũ da 26 e – Các vụ việc khác 27 III – Một số giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro pháp lý trong doanh nghiệp Việt Nam 27 IV - Một số đề xuất của nhóm thực hiện nhằm giảm thiểu rủi ro về pháp lý cho các Doanh nghiệp Việt Nam 35 1)Về phía doanh nghiệp 35 2)Về phía Nhà nước 36 Kết luận 37 Tài liệu tham khảo 38

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docRủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp VN.doc