Nguyên tắc 1: Mỗi ngân hàng cần thống nhất vềmột chiến lược quản lý khả
năng thanh khoản hàng ngày. Chiến lược này cần được truyền đạt trong toàn ngân 
hàng. 
Nguyên tắc 2: Hội đồng quản trịcủa một ngân hàng cần là cơquan duyệt chiến 
lược và các chính sách cơbản liên quan đến quản lý khảnăng thanh khoản của ngân 
hàng. Hội đồng quản trịcũng cần đảm bảo là các cán bộquản lý cao cấp của ngân 
hàng thực hiện những biện pháp cần thiết đểtheo dõi và kiểm soát rủi ro thanh khoản. 
Hội đồng quản trịcần được thông báo thường xuyên vềkhảnăng thanh khoản của 
ngân hàng và được thông báo ngay lập tức nếu có những thay đổi lớn vềkhảnăng 
thanh khoản hiện tại hoặc trong tương lai của ngân hàng. 
Nguyên tắc 3: Mỗi ngân hàng cần có một cơcấu quản lý đểthực hiện có hiệu 
quảchiến lược vềkhảnăng thanh khoản. Cơcấu này cần bao gồm sựtham gia thường 
xuyên của các thành viên thuộc nhóm cán bộquản lý cao cấp. Các cán bộquản lý cao 
cấp cần đảm bảo là khảnăng thanh khoản của ngân hàng được quản lý một cách hiệu 
quảvà có các chính sách phù hợp đểkiểm soát và hạn chếrủi ro thanh khoản trong 
một thời gian cụthể. 
Nguyên tắc 4: Một ngân hàng cần có hệthống thông tin đầy đủcho việc đo 
lường, theo dõi, kiểm soát và báo cáo rủi ro thanh khoản. Các báo cáo cần được cung 
cấp kịp thời cho hội đồng quản trịcủa ngân hàng, các cán bộquản lý cao cấp và các 
cán bộcó thẩm quyền khác.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 85 trang
85 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3558 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro thanh khoản của thị trường tài chính Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 nói chung, từ đó làm mất đi lòng tin của các thành phần tham 
gia trong thị trường vào cương vị lãnh đạo của một NHTW thực sự. 
Với mức độ rủi ro được trình bày trong chương 3, và những hạn chế trong việc 
quy định và giám sát mà chúng tôi vừa giới thiệu trong chương này, việc cần thiết tiếp 
theo là đưa ra những giải pháp thích hợp cho Việt Nam. Các giải pháp đó có thể được 
vận dụng từ chính những bài học mà các nhà lãnh đạo và các nhà kinh tế học trên thế 
- 60 - 
- 60 - 
giới đã rút ra từ cuộc khủng hoảng vừa qua, đó cũng có thể là những suy nghĩ riêng 
của nhóm nghiên cứu về các vấn đề khác biệt của Việt Nam. Tất cả cùng phục vụ cho 
một mục đích “tăng cường vai trò của tính thanh khoản trong việc ổn định hệ thống tài 
chính hiện nay”. 
- 61 - 
- 61 - 
Chương 5:Tăng cường vai trò của tính 
thanh khoản trong việc ổn định hệ thống 
tài chính. 
1. Xu hướng tương lai: 
 Một lần nữa chúng tôi muốn điểm lại những xu hướng tương lai mà thị trường 
tài chính tiền tệ và hệ thống ngân hàng Việt Nam đang hướng đến, trước khi đưa ra 
những gợi ý về các nhóm giải pháp thích hợp. 
 Thế giới đang toàn cầu hóa, Việt Nam đang mở cửa, rồi đây, khi hệ thống tài 
chính bước vào hội nhập, các ngân hàng và các công ty tài chính nước ngoài được 
phép cạnh tranh trực tiếp cùng với các TCTD trong nước, rủi ro thanh khoản hẳn sẽ 
phức tạp hơn bây giờ. Rồi Việt Nam cũng sẽ phát triển các sản phẩm tài chính đa dạng 
hơn phục vụ cho những nhu cầu ngày càng cao của các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân 
muốn kiếm lời trên đồng vốn của mình. Hoạt động của thị trường tài chính và các 
TCTD cũng sẽ linh hoạt và tinh vi hơn… Đó là một bức tranh sáng lạng và nhiều màu 
sắc, hứa hẹn những triển vọng phát triển không ngừng cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy 
nhiên bên cạnh đó cũng có những mảng tối mà nếu không kịp thời ngăn chặn và giới 
hạn, có thể sẽ lấn át và ảnh hưởng tồi tệ đến toàn cảnh của bức tranh. Đó là khi sự 
phức tạp hệ thống tài chính nói chung và rủi ro thanh khoản nói riêng vượt quá khả 
năng kiểm soát của những người điều hành, quản lý và giám sát cũng như các thành 
phần tham gia trong thị trường. 
 Tất cả đã đưa đến một yêu cầu cấp thiết hiện nay là nâng cao trách nhiệm và 
năng lực của bộ máy vận hành hệ thống tài chính từ vi mô đến vĩ mô, từ các doanh 
nghiệp đến nhà nước. Có như vậy, sự phát triển của nền kinh tế tài chính mới lành 
mạnh và bền vững. 
2. Lựa chọn mẫu hình chung về quản lý rủi ro thanh khoản cho Việt Nam – “Mô 
hình mệnh lệnh hành chính”: 
 2.1. Lý do đưa ra sự lựa chọn này: 
 Mỹ và Anh là hai cường quốc trên thế giới với tốc độ phát triển kinh tế nhanh, 
thu nhập trên đầu người cao,v.v… quan trọng hơn hết là cả hai đều sở hữu một hệ 
- 62 - 
- 62 - 
thống tài chính vững mạnh, thị trường chứng khoán hiện đại, nắm giữ những ngoại tệ 
cơ sở, và là đầu não đưa ra những chính sách tài chính có khả năng “lan tỏa” trên toàn 
cầu. Tuy nhiên, có một đặc điểm tạo nên sự khác biệt riêng cho hai “đế chế” này, đó 
chính là phong cách điều hành và giám sát thị trường tài chính của những nhà lãnh 
đạo ở hai đất nước này. Nếu nhìn lại, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng, trong 
khi Mỹ luôn chủ trương “tự do hóa” mọi thứ, để “thị trường cạnh tranh và thị trường 
tự quyết định tất cả”, sự can thiệp chỉ mang tính chất “cứu hộ” khi quy luật này đi 
trệch hướng và quá xa rời điểm cân bằng; thì ở Anh luôn tồn tại một phong cách thận 
trọng và bảo thủ, những hệ thống luật lệ được quy định cụ thể, nghiêm ngặt luôn là 
cách để quốc gia này ngăn chặn và đối phó với những sự cố và rủi ro ngẫu nhiên trên 
thị trường. 
 Rất khó để nói mô hình nào tốt hơn mô hình nào, bởi mỗi mô hình quản lý trên 
đều có những ưu nhược điểm riêng và trong thực tế cả hai quốc gia này đều phát triển 
hai hệ thống tài chính mạnh như nhau. Cũng cần lưu ý rằng, nói như thế không có 
nghĩa là hai phương pháp điều hành và giám sát của Mỹ và Anh ở hai trạng thái “hoàn 
toàn đối lập nhau”; không có gì là tuyệt đối và bởi đôi khi sự tuyệt đối quá luôn đem 
lại thiệt hại nhiều hơn là lợi ích, nên luôn có một sự dung hòa. Chỉ là trong xu hướng 
thì Mỹ thiên về việc đề cao tính tự quyết và tính chủ quan của các thành phần tham 
gia trong thị trường hơn; còn Anh thì ngược lại, Anh thiên về mẫu hình hơi mệnh lệnh 
hành chính. Quay trở lại với Việt Nam, tại sao chúng tôi đưa ra lựa chọn một mẫu 
hình “thận trọng và bảo thủ” như nước Anh? Xin đưa ra một vài lý do giải thích như 
sau: 
 Thứ nhất, chúng ta nhận thấy rất rõ một điều rằng, vai trò của những nhà giám 
sát là duy trì sự ổn định bằng cách hạn chế tối đa khả năng cũng như sự ảnh hưởng 
của những cá nhân ngân hàng sụp đổ có thể đe dọa đến toàn bộ chức năng của hệ 
thống tài chính một cách rộng rãi hơn thông qua “hiệu ứng lây nhiễm” hay những tác 
động tương tự nguy hại mạng lưới tài chính. Nhưng không có một động cơ nào thúc 
đẩy những ngân hàng tư nhân tự động chi trả thêm những khoản chi phí để duy trì sự 
ổn định này, bởi trách nhiệm của những giám đốc điều hành hay ban quản lý là phục 
vụ cho mục tiêu sinh lời của những cổ đông nhiều hơn là phục vụ cho đông đảo những 
người dân và tổ chức sử dụng hệ thống tài chính. Nếu để họ tự giác chung tay ổn định 
- 63 - 
- 63 - 
hệ thống tài chính, liệu họ có hành động không? Ưu điểm của “mẫu hình mệnh lệnh 
hành chính” này là nó khắc phục những sự lệch lạc trong nhận thức đó, làm dung hòa 
những động cơ cá nhân và những mục tiêu chính sách bằng cách buộc các ngân hàng 
phải tuân theo những tiêu chuẩn quản lý rủi ro thanh khoản cao hơn và xây dựng 
những công cụ phòng chống mạnh hơn là những ý chí chủ quan của họ. 
 Thứ hai, do nhận thức của chúng ta về rủi ro nói chung và rủi ro thanh khoản 
nói riêng còn kém nên việc để các ngân hàng tự xây dựng và phát huy hệ thống kiểm 
soát nội bộ, quyết định và xử lý mọi vấn đề rủi ro là chưa đủ, nếu không nói là quá 
mạo hiểm. Thực trạng ở Việt Nam mà chúng tôi đã trình bày cho thấy vẫn còn khá 
nhiều những bất cập, tư tưởng chạy theo lợi nhuận, lối cạnh tranh “không nhìn xa 
trông rộng”, những hoạt động phối hợp kiểm tra với các cơ quan chức năng chỉ mang 
hình thức đối phó, hệ thống nội bộ “thụ động”, tất cả những nhược điểm đó liệu có 
cho phép chúng ta buông lỏng những quy định thận trọng hay không? 
 Thứ ba là trình độ và kỹ thuật của chúng ta cũng chưa cho phép phát triển theo 
khuynh hướng tự do hóa hay linh động trong quyết định quản trị rủi ro. 
 Tuy rằng mọi vấn đề đều có hai mặt, để trả giá cho một tấm đệm thanh khoản 
“khắt khe” có thể sẽ làm mất đi phần nào tính hiệu quả và khả năng đầu tư sinh lợi 
nhưng nếu duy trì và thực hiện đúng đắn thì chúng tôi tin rằng “mẫu hình mệnh lệnh 
hành chính” là phù hợp với Việt Nam. Chỉ lưu ý một điều rằng đừng để những vấn 
nạn khác như “sự rườm rà trong thủ tục”, “luật định chồng chéo”, “chỉ đạo chậm trễ, 
thiếu cập nhật tình hình thị trường”,… làm cho chúng ta hiểu sai về những ưu điểm 
của mẫu hình này. Cụ thể hơn, chúng tôi xin giới thiệu mẫu hình và những giải pháp 
mà Anh đã biến đổi qua từng thời kỳ khó khăn. 
2.2. Mô hình của Anh: 
Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu chi tiết hơn về kinh nghiệm của nước Anh 
trong lĩnh vực quản lý rủi ro thanh khoản suốt gần 200 năm qua. Vào giữa thế kỷ 19, 
những ngân hàng Anh nắm giữ trung bình 60 % tài sản thanh khoản là tiền gửi tiết 
kiệm, một chỉ số quá cao được lý giải bởi tần số xuất hiện khủng hoảng thanh khoản 
quanh thời điểm đó. Ngay sau khi năm 1866 khủng hoảng Overend và Gurney, 
NHTW Anh đảm nhận vai trò người cho vay cuối cùng, giúp cho các ngân hàng nới 
lỏng phương pháp thanh khoản quá bảo thủ và thận trọng (lại không hiệu quả) của họ. 
- 64 - 
- 64 - 
Chỉ số thanh khoản trung bình giảm xuống khoảng 30% trong tổng tiền gửi tiết kiệm. 
Hiệp định đầu tiên về tính thanh khoản giữa NHTW Anh và những ngân hàng tư nhân 
xuất hiện vào năm 1947, liên quan đến một nhu cầu nắm giữ chỉ số tài sản thanh 
khoản tốt thiểu là 32% (giàm 28% so với sáu năm trước). Hiệp định này được vận 
hành đến 1971, khi Trung tâm quản lý quy định tín dụng và tính cạnh tranh 
(Competition and Credit Controls Act – CCC) giới thiệu một chỉ số dự trữ tối thiểu là 
12,5%. CCC có hai mục tiêu: thứ nhất, nó hướng đến việc làm mạnh thêm khả năng 
điều hành chính sách tiền tệ, bằng cách tạo ra một cơ sở tiền tệ vững chắc để làm trụ 
cột, nền móng cho chính sách tiền tệ. Thứ hai, nó nhắm đến việc thống nhất những 
giới hạn cạnh tranh trong ngành ngân hàng. Chỉ số dự trữ tối thiểu được định ra với 
mục tiêu mong muốn áp đặt một tấm đệm dự trữ thanh khoản thận trọng. 
Trong thời gian CCC để cho thành phần ngân hàng Anh tự do và từ đó hỗ trợ 
sự cải thiện trong tính cạnh tranh và tính hiệu quả, nó đã dẫn đến một sự sụt giảm 
trong việc nắm giữ tài sản thanh khoản chất lượng cao của các ngân hàng này. Sau khi 
giảm một nửa yêu cầu dự trữ tối thiểu, NHTW Anh cuối cùng đã thay thế hệ thống chỉ 
số dự trữ bằng hệ thống tỷ lệ tiền mặt / tiền gửi vào năm 1981, chỉ số này không yêu 
cầu trực tiếp một tỷ lệ tài sản thanh khoản tối thiểu nào cả. Hệ thống thanh khoản 
đồng Sterling năm 1996 chú trọng vào việc nắm giữ tính thanh khoản đầy đủ để đối 
mặt với một trường hợp đặc biệt căng thẳng về dòng tiền. Nó được xác định để bảo 
đảm rằng một ngân hàng có đủ tài sản có tính thanh khoản cao để đáp ứng cho những 
dòng chi ra trong tuần đầu của cuộc khủng hoảng mà không cần trông cậy vào thị 
trường nối lại tổng nguồn vốn, hệ thống này cũng được thiết kế với mục đích cho 
phép những nhà cầm quyền thời gian để khảo sát, thăm dò những lựa chọn về một giải 
pháp mang tính mệnh lệnh. Nó được tạo lập như là một phần của hệ thống quản lý 
khủng hoảng rộng hơn, chứ không chỉ là một công cụ để các ngân hàng quản lý tấm 
đệm dự trữ của mình trước sự cạn kiệt tính thanh khoản đang diễn ra. 
Gần đây nhất trong cuộc khủng hoảng 2008, Anh vẫn tiếp tục đưa ra một kênh 
truyền dẫn tính thanh khoản “thận trọng” hoàn toàn khác so với các nước và chúng tôi 
nghĩ rằng Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi. Xưa nay, chúng ta bơm thêm tính thanh 
khoản vào hệ thống chủ yếu là “tiền mặt”, lúng túng không biết mức độ bao nhiêu là 
đủ và cuối cùng lại đau đầu giải quyết bài toán “lạm phát” sau đó v.v… Đối với 
- 65 - 
- 65 - 
NHTW Anh, họ đưa ra một “chương trình thanh khoản đặc biệt”, cho phép các ngân 
hàng ở Anh “hóa lỏng” một phần những tài sản không thể chuyển thành tiền của mình, 
bằng cách hoán đổi chúng thành những chứng khoán của chính phủ với tính thanh 
khoản rất cao, trong khi vẫn bảo đảm những rủi ro tín dụng đó được duy trì trong các 
ngân hàng. Hành động này làm xoa dịu áp lực vốn gần đây. Điều hay nhất là những 
rủi ro tín dụng đó cuối cùng vẫn thuộc về trách nhiệm của mỗi ngân hàng, hành động 
“cứu nguy” đó chỉ làm mọi việc tránh đi vào sự tồi tệ hơn, nó không làm cho các ngân 
hàng thoát tội và cũng không bắt hệ thống phải chịu những chi phí điều chỉnh nặng nề 
của nền kinh tế. 
2.3. Mẫu hình mệnh lệnh của Việt Nam: 
Như chúng tôi luôn nhấn mạnh, việc vận dụng cần sự sáng tạo và phù hợp. Khi 
Việt Nam muốn đưa ra những tiêu chuẩn cao hơn cần suy xét thêm về một số khía 
cạnh, chứ không phải là “khắt khe” toàn bộ, tạo thêm áp lực cho các NHTM. Những 
khía cạnh đó bao gồm: Nâng cao nhận thức, Đánh giá đúng rủi ro và Duy trì tấm đệm 
thanh khoản an toàn. 
¾ Nâng cao nhận thức 
Những ngân hàng và những nhà cầm quyền đều cần phải phát triển một nhận 
thức đầy đủ hơn, sâu hơn về những dạng rủi ro thanh khoản đa dạng có thể xảy ra. 
Điền này yêu cầu sự phân tích cẩn thận về những nguồn gốc rủi ro tiềm tàng luôn tồn 
tại cũng như về những rủi ro mới có thể xuất hiện dưới điều kiện thị trường xấu đi. 
Trong môi trường tài chính ngày nay, rủi ro thanh khoản không chỉ xuất phát từ sự 
hoán đổi kỳ hạn thanh toán giữa tiền gửi và các khoản cho vay nữa. Bên cạnh đó còn 
có những rủi ro tăng thêm, chẳng hạn như hoạt động ngoại bảng, hay là việc rút lại 
những phương tiện ủy nhiệm mở rộng đến các khách hàng doanh nghiệp. Rủi ro ngẫu 
nhiên cũng có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, từ những công cụ trao 
đổi phức tạp như đã được Viện tài chính quốc tế (IIF) liệt kê chi tiết năm vừa qua. 
Tuy nhiên có nhiều áp lực tiềm tàng hơn trong hoạt động của thị trường vốn, chẳng 
hạn như rủi ro lưu thông vốn phát sinh khi ngân hàng bị ứ đọng những khoản nợ có 
đòn bẩy và những khoản cho vay “tồn kho” chờ chứng khoán hóa khi mà điều kiện thị 
trường không thuận lợi. Và các ngân hàng cũng bị lệ thuộc vào rủi ro khi những “khả 
năng thiệt hại tài chính” được chuyển tiếp cho bên thứ ba trước đây quay ngược 
- 66 - 
- 66 - 
về họ, lấy một ví dụ, khi những chứng khoán được ký quỹ bằng bất động sản dưới 
chuẩn được hoàn trả lại cho người phát hành, họ sẽ nhận ra chúng đã bị vi phạm 
những tiêu chuẩn tín dụng chuẩn xác. Cuối cùng, các ngân hàng cũng nhạy cảm trước 
rủi ro sụt giảm tính thanh khoản thị trường, sự giảm giá của những tài sản ký quỹ 
hay những nhu cầu dự trữ số dư. Những rủi ro này thực tế buộc các ngân hàng phải 
gia tăng mức độ vốn căn bản hằng ngày. 
¾ Đánh giá đúng rủi ro 
Một khuyến nghị thiết thực là những tổ chức tài chính nên phát triển và áp 
dụng một chính sách tính phí cho rủi ro thanh khoản trong toàn hệ thống nội bộ. Cụ 
thể, các ngân hàng cần đảm bảo rằng những quyết định rủi ro của những nhân viên 
quan hệ khách hàng (Relationship Manager – RM) của mình sẽ định giá thích đáng rủi 
ro thanh khoản phát sinh từ những sản phẩm mới và những hoạt động kinh doanh mới. 
Tránh trường hợp, họ sáng tạo ra những sản phẩm mới hấp dẫn với những khoản lợi 
cao hơn nhưng không nhìn thấy những rủi ro tăng thêm luôn song hành, họ xem rủi ro 
như những món hàng “miễn phí”. Việc tìm kiếm khách hàng cần lâu dài, tránh vì 
những lợi ích trước mắt mà các ngân hàng định giá quá thấp rủi ro, điều đó sẽ đem lại 
những hậu quả nghiêm trọng cho cả ngân hàng, khách hàng và toàn hệ thống tài chính. 
¾ Duy trì tấm đệm thanh khoản an toàn 
Một câu hỏi luôn bị bỏ ngỏ bấy lâu nay là “Làm thế nào nâng cao khả năng hồi 
phục của các tổ chức tài chính sau một cơn khủng hoảng thanh khoản?”. Để tìm câu 
trả lời trước tiên cần có một sự cân bằng giữa tính an toàn và tính hiệu quả. Nếu tấm 
đệm thanh khoản quá yếu, rủi ro hồi phục sự ổn định của hệ thống sẽ rất chậm, còn 
nếu quá cao, tính hiệu quả của các trung gian tài chính sẽ bị ảnh hưởng. Đối với Việt 
Nam, đây là một khía cạnh cần có sự quy định rõ ràng và thận trọng, bởi nếu để các 
NHTM lựa chọn thì chắc chắn họ sẽ ưu tiên cho tính hiệu quả trong hoạt động của 
mình. Cuối cùng, kết hợp với những bài học phong phú về sự giám sát và điều hành 
của thế giới, chúng tôi xin đưa ra những nhóm giải pháp cụ thể hơn tiếp sau đây. 
3. Gợi ý về các nhóm giải pháp cho NHNN và các tổ chức tài chính: 
 3.1. Giải pháp đối với NHNN: 
¾ Nâng cao tính độc lập của NHNN và xây dựng một chính sách tiền tệ năng 
động hơn: 
- 67 - 
- 67 - 
Rắc rối lớn nhất mà NHNN hiện nay gặp phải chính là sự mâu thuẫn giữa tính 
phụ thuộc và khả năng linh hoạt trong việc điều chỉnh thị trường. Cũng chính từ sự 
mâu thuẫn đó đã dẫn đến những “thất thường” trong phong cách điều hành và là 
nguyên nhân chính làm suy giảm lòng tin của các NHTM và cộng đồng đối với một 
NHTW. Giải quyết vấn đề này là cả một lộ trình cần nhiều tranh cãi và thời gian, ở 
đây, chúng tôi chỉ xin đưa ra những nhận định khách quan. 
 Theo chúng tôi, NHNN nên nâng mức độ độc lập của mình lên mức “Độc lập 
trong việc sử dụng các công cụ điều hành” nhưng vẫn phục vụ cho các mục tiêu mà 
Quốc hội và Chính phủ đề ra, điều này có thể sẽ dung hòa các mối quan hệ. Về lâu dài 
thì hệ thống tài chính – tiền tệ vẫn hướng theo con đường phát triển chung của nền 
kinh tế Việt Nam, nhưng trong từng giai đoạn ngắn hạn thì NHNN vẫn có thể có 
những quyết định tức thời và mạnh dạn để bảo đảm thị trường tài chính có thể quay về 
điểm cân bằng nhanh chóng, ít thiệt hại trước những biến cố xảy ra. Bên cạnh đó, 
NHNN cũng nên có những động thái truyền tải tín hiệu đến các NHTM về những 
quyết định của mình trong tương lai, điều đó sẽ thể hiện sự nhất quán giữa lời nói và 
hành động, các NHTM sẽ yên tâm hơn khi đưa ra chiến lược phát triển cho riêng 
mình. 
 Điều quan trọng nhất trước khi đưa ra câu trả lời có nên để NHNN độc lập 
trong việc quản lý thị trường tiền tệ và điều hành chính sách tiền tệ hay không, đó 
chính là năng lực và sự am hiểu của NHNN về hệ thống tài chính Việt Nam cũng như 
trên thế giới đến đâu? Điểm cuối cùng cũng dừng lại ở vấn đề nhân lực, bộ máy “đầu 
tàu” luôn phải học hỏi và rút kinh nghiệm trước những thành công và thất bại của 
mình cũng như của các nước trên thế giới. Có thể thị trường tài chính của chúng ta 
còn non trẻ, còn nhiều bỡ ngỡ trước mỗi một tình huống căng thẳng phát sinh, nhưng 
cũng chính vì lý do đó mà chúng ta cần phải nhìn ra thế giới và học hỏi nhiều hơn, 
những nền kinh tế lớn mạnh, những hệ thống có hàng trăm năm tuổi, những gì họ trải 
qua và vấp ngã hẳn phải nhiều hơn mình là chắc chắn, những kinh nghiệm họ để lại sẽ 
vô cùng quý giá nếu chúng ta biết chắt lọc và soi rọi vào chúng. 
 Để kết thúc vấn đề, chúng tôi xin lấy những bài học trên thế giới mà chúng tôi 
cho là thích hợp với Việt Nam để làm những dẫn chứng: 
¾ Sự phát triển theo mô hình “Dàn hàng ngang hay đi hàng dọc” 
- 68 - 
- 68 - 
Để quản lý và giám sát hiệu quả buộc bất kỳ một bộ máy nào cũng phải tổ chức 
“phân công, phân quyền”, NHNN cũng vậy. Nhưng bộ máy càng dàn trải, sự quản lý 
càng khó khăn và không hiệu quả. Bài học châu Âu cho chúng ta thấy sự phối hợp 
nhịp nhàng giữa 2 mô hình “dàn hàng ngang” và “hàng dọc” là như thế nào, mỗi quốc 
gia có một chính sách riêng nhưng vẫn bảo đảm sự chia sẻ thông tin và hoàn thành 
nghĩa vụ chung với cả khối EU. Đây là bài học mà NHNN có thể học hỏi trong việc 
phối hợp giữa các cấp, NHNN các tỉnh, thành phố; giữa bộ phận giám sát từ xa và 
thanh tra tại chỗ vốn còn nhiều bất cập như đã phân tích trong phần thực trạng. 
¾ Hệ thống Việt Nam cần một “nhạc trưởng” 
Và có lẽ người “nhạc trưởng” đó bây giờ không ai khác ngoài NHNN. Quan 
niệm “nên để thị trường tự điều hòa” đã được chứng tỏ là không phù hợp trong những 
tình huống nền kinh tế vượt quá xa điểm cân bằng của nó. Cuộc khủng hoảng vừa qua 
đã làm thay đổi suy nghĩ đó ở chính các nước được mệnh danh là “tự do hóa thị 
trường” như Mỹ. Huống gì với một nước chưa có nền kinh tế thị trường như Việt 
Nam, hệ thống tài chính còn chưa kiện toàn thì người “nhạc trưởng” là yếu tố quyết 
định trong công cuộc đổi mới và phát triển ngày nay. 
¾ “Nhạc trưởng là người đứng quay lưng lại với đám đông” 
Chúng ta thấy một hiện tượng ở Việt Nam là NHNN không ít lần thay đổi 
quyết định trước sự bình luận của báo đài và các cơ quan ngôn luận… Đôi lúc “người 
nhạc trưởng” lại là người đứng quay mặt với đám đông, bài học này có thể thấy rất rõ 
ở FED, FED rất kiên quyết với những hành động của mình, chịu rất nhiều sự chỉ trích 
và bình luận, nhưng quan trọng hơn cả FED hiểu rằng mình đang thực hiện mục tiêu 
gì. Vì chúng ta hiểu rằng, những mục tiêu kinh tế đôi lúc luôn tồn tại sự mâu thuẫn, 
trong từng giai đoạn cần có sự lựa chọn và khi đã lựa chọn thì cần sự nhất quán, lúc 
này dư luận là yếu tố không cần thiết phải quan tâm quá nhiều. 
¾ Xây dựng một BCBS (Ủy ban giám sát Basel) riêng cho hệ thống ngân hàng 
Việt Nam: 
Đây là một ý tưởng riêng của nhóm nghiên cứu chúng tôi, chúng ta hoàn toàn 
có thể xây dựng một cơ quan giám sát riêng của ngành tài chính với thành phần tham 
gia là đại diện của tất cả các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác như công ty bảo 
hiểm, quỹ đầu tư v.v… Hằng năm cơ quan này cũng tiến hành những diễn đàn và ban 
- 69 - 
- 69 - 
hành những văn bản như Hiệp định Basel 2 để làm cơ sở cho từng tổ chức, từng ngân 
hàng dựa vào đó mà xây dựng một chiến lược phát triển cho riêng mình. Diễn đàn đó 
sẽ là một nơi chia sẻ những thông tin và những kinh nghiệm hữu ích, cũng đồng thời 
là cơ hội để các TCTD nhìn lại mình, nhìn lại diễn biến thị trường và đưa ra những dự 
báo sát thực hơn trong tương lai. 
Cơ quan này có thể đặt dưới sự lãnh đạo chung của NHNN, nhưng cần tách 
bạch thành một cơ quan giám sát mang tính chất ngành nghề nhiều hơn là một cơ quan 
hành chính nhà nước. Theo chúng tôi, chính những chuyên gia trong ngành sẽ đưa ra 
những định hướng tốt hơn và khả thi hơn. Đồng thời, diễn đàn này cũng đưa lại sự gắn 
bó và liên kết chặt chẽ hơn giữa các cá nhân NHTM và tổ chức tài chính, đưa sự cạnh 
tranh theo hướng tích cực và lành mạnh hơn. Ưu điểm cuối cùng là văn bản do cơ 
quan và diễn đàn này đưa ra sẽ được cập nhật và thay đổi thường xuyên, kịp thời hơn 
các văn bản luật chính thức. Hy vọng ý tưởng này sẽ gợi ý cho một chính sách thực tế 
trong tương lai. 
¾ Thị trường OTC và quá trình mở cửa thông tin: 
Thị trường OTC Việt Nam vẫn còn hoạt động tự phát và manh mún, chưa đi 
vào khuôn khổ tổ chức. Nhưng đây là một thị trường có tính thanh khoản kém, đặc 
biệt là trong những tình huống căng thẳng về tài chính. Nên thiết nghĩ, bên cạnh việc 
ban hành dự thảo xây dựng luật cho thị trường OTC thì điều quan trọng hơn hết đối 
với thị trường tài chính Việt Nam vẫn là nâng cao tầm quan trọng và vị thế của thị 
trường có tổ chức, nơi đảm bảo cung cấp cho các nhà đầu tư những sản phẩm đã được 
chuẩn hóa và những thông tin minh bạch về nhà phát hành cũng như chất lượng sản 
phẩm. Đó cũng chính là xu hướng của thế giới sau cuộc khủng hoảng vừa qua, ngay 
cả ở những nước có nền kinh tế phát triển và một thị trường chứng khoán sôi động 
nhất như Mỹ, Châu Âu v.v… 
Hiện nay, số lượng công ty được niêm yết chính thức trên sàn giao dịch vẫn 
còn quá ít so với tổng số công ty đang tồn tại và hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam. 
Nguyên nhân không hẳn là do những cá nhân tổ chức này không đủ tiêu chuẩn niêm 
yết mà một phần lý do lại nằm ở chỗ các công ty e dè với sự giám sát kỷ luật của thị 
trường chính thức, những bản báo cáo tài chính công khai và những con số phải được 
đảm bảo chứng thực rõ ràng. Bài học về quá trình “mở cửa để tự do hóa thông tin” mà 
- 70 - 
- 70 - 
Basel 2 đã đề cập sẽ đánh trúng vào ngay yếu điểm này của một bộ phận các công ty 
Việt Nam. Nhưng thiết nghĩ nếu yếu điểm đó được khắc phục thì nó sẽ là một bệ 
phóng giúp cho thị trường chứng khoán Việt Nam tiến nhanh và xa hơn một cách 
vững chắc chứ không chỉ là những “bong bóng” như thời gian vừa qua. 
Quá trình đưa “sự giám sát kỷ luật” và “minh bạch hóa thông tin” không chỉ 
diễn ra trong thị trường chứng khoán hay thị trường OTC mà nó cũng là một yêu cầu 
cần thiết trong việc điều hành hệ thống ngân hàng. Một tin vui, một tín hiệu đáng 
mừng là tháng 11 năm 2010 này sẽ công bố báo cáo giám sát tài chính quốc gia đầu 
tiên. 
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia đã cho biết sẽ công bố báo cáo giám sát tài 
chính đầu tiên của Việt Nam theo chuẩn quốc tế trong tháng 11 này. Báo cáo được 
dựa trên các số liệu đã kiểm toán do các ngân hàng cung cấp và được xử lý trong vòng 
6 tháng qua. Ông Lê Xuân Nghĩa - Phó chủ tịch Ủy ban này cho hay, tình hình sức 
khỏe của các ngân hàng sẽ được cung cấp tương đối rõ ràng, ví dụ như tỷ lệ nợ xấu, 
tổng dư nợ… Trong đó các ngân hàng cổ phần và nước ngoài cũng như các ngân hàng 
quốc doanh và liên doanh đều được đối xử công bằng, và sẽ bị xử lý như nhau trước 
những vi phạm bị phát hiện. 
¾ Cuộc kiểm tra sức ép đối với toàn hệ thống tài chính: 
Đây là một trong những công cụ mà các tổ chức tài chính và nhất là các NHTM 
thường áp dụng tiến hành hằng năm nhằm tìm ra những yếu điểm của mình và khắc 
phục trước khi có những tình huống căng thẳng thực sự xảy ra. Nói cách khác, đó là 
một cách “bắt mạch” và phát hiện sớm những dấu hiệu không tốt có thể xảy ra trong 
hoạt động tiền tệ trong tương lai. Nhưng tại sao các cuộc kiểm tra này vẫn thất bại 
trong cuộc khủng hoảng vừa qua, chẳng lẽ họ không phát hiện được điều gì? 
Trong các phần trước, chúng tôi cũng đã trình bày với người đọc câu trả lời đã 
được các nhà chuyên gia rút ra như sau: “Các cuộc kiểm tra sức ép đó đã bỏ qua 
những mối liên kết quan trọng, chúng chỉ tập trung vào những đặc tính và những cú 
sốc cụ thể của từng doanh nhiệp, từng tổ chức”. Bài học chính ở đây là việc kiểm tra 
sức ép nên tập trung vào sự kết hợp của những đặc tính và những cú sốc trên thị 
trường, để chọn ra những gợi ý của sự gián đoạn thị trường rộng hơn. 
- 71 - 
- 71 - 
Có thể, nếu cứ để từng tổ chức, từng ngân hàng tự tiến hành những cuộc kiểm 
tra sức ép như vậy, sẽ không phát hiện được những “hiện tượng lây nhiễm” hay những 
yếu điểm chung của cả hệ thống tài chính. Mà chính những yếu điểm này mới là nguy 
cơ gây ra những khủng hoảng trầm trọng hơn. Nên đối với vấn đề này, chúng tôi 
muốn gợi ý đến một cuộc kiểm tra với quy mô rộng hơn và nội dung tổng quan hơn, 
nghiêm ngặt hơn. Và điều đó thì cần những cơ quan phối hợp với những ngân hàng, 
những tổ chức tài chính thực hiện chứ không một cá nhân nào đủ sức tiến hành. 
Một điều quan trọng nữa cũng cần cân nhắc nhiều hơn ngoài những “tác động 
qua lại” trong hệ thống, như hiện tượng “giao dịch theo đám đông” đã nói ở trên đó là: 
Những kịch bản căng thẳng cần kiểm tra chính xác thời điểm kết thúc của thị trường, 
và khảo sát khả năng một vài thị trường bị đóng cửa cùng một lúc. Cuối cùng, cuộc 
kiểm tra cần được tiến hành trong một kỳ hạn dài hơn, để ứng phó cho trường hợp một 
cuộc khủng hoảng thực sự cũng có thể kéo dài một thời gian như vậy. Đó cũng chính 
là nhiệm vụ của những người giám sát như NHNN đây cần thực hiện. 
Trên đây là những gợi ý về những bài học trên trường quốc tế, còn rất nhiều 
những bài học khác về hệ thống luật đồng dạng hơn cho các thành phần tham gia thị 
trường bao gồm cả ngân hàng và định chế phi ngân hàng, việc mở rộng quỹ dự trữ 
v.v… mà trong các phần trước, nhóm nghiên cứu cũng đã chia sẻ. Hy vọng với một 
hàng rào chắc chắn như vậy sẽ luôn bảo đảm rủi ro thanh khoản ở mức kiểm soát 
được. 
 3.2. Giải pháp đối với các NHTM và các TCTD khác: 
Rủi ro thanh khoản được đánh giá là rủi ro nguy hiểm nhất trong 36 rủi ro mà 
một ngân hàng phải đối mặt trong quá trình hoạt động và tồn tại của mình. Nói như 
vậy để thấy được việc cấp thiết đối với các ngân hàng bây giờ là xây dựng và không 
ngừng củng cố một mô hình quản trị rủi ro cho riêng mình. Sau đây, chúng tôi cũng 
xin được đưa ra những gợi ý, đó có thể là những mô hình, những giải pháp mà các 
ngân hàng và các tổ chức tài chính trên thế giới đang áp dụng hiệu quả hoặc những bài 
học từ một vài cá nhân NHTM ở Việt Nam đã vận dụng sáng tạo và thành công. 
¾ Hệ thống giám sát nội bộ (ICAAP): 
Đây là một bài học mà Basel 2 đã khuyến cáo các TCTD nên áp dụng bằng 
cách thiết lập cho riêng mình một hệ thống giám sát nội bộ và không ngừng nâng cao 
- 72 - 
- 72 - 
vai trò cũng như năng lực của bộ phận này. Bởi hơn ai hết, chỉ có nội bộ mỗi một 
ngân hàng, một tổ chức tài chính mới nắm rõ những điểm mạnh, điểm yếu của bản 
thân mình nhất, hiểu rõ những khó khăn, những rủi ro mà mình gặp phải trong quá 
trình hoạt động. 
Những quy định chung của NHNN hay Chính phủ ban hành nhằm mục đích 
hạn chế những rủi ro hệ thống và những tổn hại tài chính có thể xảy ra trong thị 
trường. Nhưng nếu chỉ tuân thủ những chỉ tiêu đó cũng không hẳn là hoàn toàn an 
toàn, bởi trong các thực thể doanh nghiệp nói chung và các TCTD nói riêng luôn tồn 
tại các rủi ro phi hệ thống bên cạnh những rủi ro thị trường. Lấy ví dụ, ngoài việc tuân 
thủ về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hệ thống giám sát nội bộ hoàn hoàn có thể yêu cầu tổ 
chức nâng cao vốn dự trữ của mình nhằm đối phó với những rủi ro mà họ nhận định là 
đang gia tăng trong quá trình hoạt động. 
Tuy nhiên như hạn chế mà Basel 2 đã nhận định thì hệ thống giám sát nội bộ 
này là một hệ thống đề cao tính chủ quan và tính phán đoán nên cũng đòi hỏi một 
năng lực chuyên môn cao và bản lĩnh của những cán bộ tham gia trong bộ phận này. 
Trở lại với Việt Nam, nhiều ngân hàng hiện nay đã xây dựng cho mình những bộ phận 
mang trách nhiệm giám sát nội bộ tương tự như ICAAP, tuy nhiên vai trò và chức 
năng thực sự của họ vẫn còn mờ nhạt, giải pháp này cần được tiến hành một cách triệt 
để và nghiêm túc hơn. Sau đây, chúng tôi xin lấy một ví dụ cụ thể hơn. 
¾ Hội đồng ALCO: 
Bộ phận quản lý tài sản nợ và tài sản có hay còn được gọi là hội đồng ALCO 
(Assets and Liabilities Committee) cũng là một bộ phận quản trị rủi ro nội bộ của các 
NHTM. Bộ phận này đã ra đời từ rất lâu trên thế giới tuy nhiên nó mới chỉ bắt đầu ở 
Việt Nam trong thời gian gần đây và đi đầu chính là NHTM cổ phần Á Châu (ACB) – 
ngân hàng đầu tiên xây dựng Hội động ALCO trong bộ máy quản trị của mình. Nhiệm 
vụ của bộ phận này là gì? 
Hội đồng ALCO sẽ hỗ trợ, nâng cao năng lực điều hành của nhà quản trị ngân 
hàng, bộ phận quản lý tài sản nợ và tài sản có này có nhiệm vụ theo dõi và quản lý các 
danh mục trong bảng tổng kết tài sản, quản lý khả năng thanh toán và các rủi ro thị 
trường (rủi ro lãi suất, tỷ giá,…). Đặc biệt, bộ phận này còn làm nhiệm vụ thu thập, xử 
lý, quản trị thông tin để cung cấp cho cán bộ tín dụng khi họ có nhu cầu như: thông tin 
- 73 - 
- 73 - 
về khách hàng, thông tin về thị trường, thông tin cạnh tranh,… Bên cạnh đó, bộ phận 
này còn liên kết các hoạt động, các quyết định của các phòng nghiệp vụ giúp ban điều 
hành ngân hàng nắm được tổng thể và nhìn nhận bao quát hơn các hoạt động của ngân 
hàng. 
¾ Mối liên hệ giữa khả năng thanh toán và tính thanh khoản: 
Theo nhóm nghiên cứu nhận định, đây là một bài học rất thích hợp đối với các 
NHTM của Việt Nam. “Một cơ sở vốn mạnh là chưa đủ mà điều quan trọng là nguồn 
vốn này có tính thanh khoản trong những tình huống khẩn cấp hay không?”. Đây là 
kinh nghiệm mà thế giới đã rút ra trong cuộc khủng hoảng vừa qua. Nhưng như chúng 
ta thấy, vì chạy theo những hoạt động mang tính sinh lợi cao nên các NHTM Việt 
Nam vẫn còn quá xem nhẹ việc bảo đảm tấm đệm thanh khoản trong danh mục đầu tư 
mà họ nắm giữ. Cụ thể như chúng tôi đã trình bày trong chương 3, các NHTM nắm 
giữ rất ít những trái phiếu chính phủ vì họ cho rằng nó có tỷ suất sinh lợi quá thấp mà 
quên mất rằng đó lại là những chứng khoán có khả năng thanh khoản cao và an toàn, 
đặc biệt là trong những tình huống nguy cấp. 
Theo các cán bộ lãnh đạo và những giám đốc của các ngân hàng nhận xét thì 
danh mục đầu tư hiện nay của các NHTM Việt Nam là lành mạnh, tuy nhiên theo 
chúng tôi, việc cần thiết là họ phải thay đổi nhận thức về vai trò của tính thanh khoản 
trong việc duy trì và phát triển của mình, nếu không, khi thị trường tài chính phát triển 
mạnh mẽ và các sản phẩm phái sinh ra đời thì những danh mục đó sẽ thay đổi theo 
chiều hướng xấu đi mà không ai ngờ tới. 
¾ Bộ phận quản lý thông tin và đối phó với các tin đồn: 
Nếu như các doanh nghiệp đã bắt đầu xây dựng bộ phận “quan hệ cộng đồng” 
PR – Public Relationship chuyên phụ trách thông tin truyền thông, quản lý thông tin 
và hình ảnh của doanh nghiệp trong mắt cộng đồng, thì để đối phó với các “tin đồn” 
trong lĩnh vực ngân hàng, thiết nghĩ các NHTM cũng nên xây dựng cho mình một bộ 
phận PR tương tự. 
Có thể việc chia sẻ thông tin là điều cấm kỵ của ngân hàng như chính nguyên 
tắc trong Basel cũng yêu cầu “tính bảo mật” cho thông tin của khách hàng. Nhưng nếu 
các thông tin về sức khỏe tài chính, vốn tự có và những tỷ lệ thanh khoản tối thiểu , 
- 74 - 
- 74 - 
quy trình tín dụng … được minh bạch hơn, công bố và chứng thực rõ ràng thì đó có 
thể sẽ không còn “tin đồn” nào được thổi phồng nữa. 
¾ Mua lại và sáp nhập – Hoạt động M&A: 
Đây là một xu hướng mà chúng tôi cho là cần thiết. Xét về mặt cạnh tranh, nó 
giúp cho các NHTM vừa và nhỏ của Việt Nam có thể đối phó trước làn sóng ồ ạt các 
chi nhánh và các ngân hàng nước ngoài được phép thành lập ở Việt Nam khi các điều 
khoản WTO được thực hiện đầy đủ trong tương lai. 
Điều quan trọng hơn cả là xét về mặt rủi ro thanh khoản và khả năng thanh toán 
thì rõ ràng một cơ sở vốn mạnh hơn cũng là một thuận lợi cho các ngân hàng như bài 
học về “mối liên hệ giữa khả năng thanh toán và tính thanh khoản” mà chúng tôi đã đề 
cập ở phần trước. 
¾ Lập quỹ dự phòng, tiến hành các cuộc kiểm tra sức ép: 
Các ngân hàng Việt Nam mà điển hình là ngân hàng ACB đã bước đầu học hỏi 
các công cụ quản trị tính thanh khoản như lập quỹ dự phòng và tiến hành các cuộc 
kiểm tra sức ép mà thế giới đang vận dụng thành công. 
Có điều các ngân hàng Việt Nam cần một danh mục tài sản dự phòng an toàn 
hơn, tránh hiện tượng chạy theo lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi quá cao như thời gian 
vừa qua. Cũng không nên tồn tại quan niệm “trông chờ vào NHNN” khi có các sự cố 
về thanh khoản xảy ra, vì chính những lúc đó, nếu NHNN bơm vào thị trường tính 
thanh khoản tăng thêm qua các kênh trung gian sẽ càng làm cho thị trường thêm méo 
mó và mọi việc có thể sẽ càng tồi tệ hơn. Đó là lý do tại sao các NHTM nên hỗ trợ 
nhau, trước khi gõ cửa NHNN, và lý do tại sao chúng ta gọi NHNN là “người cho vay 
cuối cùng”. 
 3.3. Giải pháp khác: 
 Đây là những gợi ý riêng của nhóm nghiên cứu xuất phát từ những đặc điểm 
riêng biệt của hệ thống tài chính và rủi ro thanh khoản của Việt Nam, bao gồm việc 
khủng hoảng những tin đồn xoay quanh ngành ngân hàng, việc hướng ra nước ngoài 
mà cụ thể là khu vực Asian để tìm sự liên kết vững mạnh hơn. 
¾ Mạnh tay hơn với các tin đồn – xây dựng trung tâm xử lý kịp thời: 
Không phải giống với bất kỳ những khó khăn nào trong hệ thống của nền kinh 
tế Việt Nam, việc bất cập trong kiểm soát thông tin hầu như xuất phát từ những tin 
- 75 - 
- 75 - 
đồn thất thiệt, làm xôn xao dư luận và ảnh hưởng đến các tồ chức tài chính như chúng 
tôi đã đề cập. Vậy làm sao nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng khắc phục được 
chuyện này? 
Trước hết chúng ta hãy cùng nhau nhìn nhận một việc rằng, lý do tại sao các 
phần tử xấu cứ mãi lợi dụng thời cơ và tung tin đồn ra thị trường để tạo nên làn sang 
xôn xao trong dư luận và làm thiệt hại cho các tổ chức tài chính. Phải chăng cũng 
chính các cơ quan nhà nước cũng còn quá thờ ơ trong việc quản lý và có biện pháp 
răng đe đối với các đối tượng này. Điều này chúng tôi thiết nghĩ, ngay bây giờ các cơ 
quan chính phủ nhà nước cần phải ban hành quy luật nghiêm ngặt trong việc trừng trị 
những kẻ tung tin thất thiệt trên thị trường. 
Hơn bao giờ hết, cùng với đó, chính phủ phải thiết lập một hệ thống trung tâm 
thông tin, và hệ thống trung tâm thông tin này có thể liên kết với tất cả các tổ chức tài 
chính lại để cập nhật thông tin thường xuyên về quá trình hoạt động của tất cả các tổ 
chức tài chính. Và ngay tại tổ chức tài chính cũng có tổ chức và trung tâm thông tin 
cập nhật cho chính mình . 
- 76 - 
- 76 - 
Và đặc biệt hơn hết, hệ thống trung tâm thông tin này sẽ được kết nối trực 
tuyến với từng đại diện của các tổ chức tài chính, và họ có thể trả lời trực tuyến với 
các cơ quan chính phủ, tổ chức tài chính khác và thậm chí với ngay cả khách hàng. 
Với giải pháp này, chúng tôi tin rằng, một khi có những thông tin bất ổn trên thị 
trường, thì khách hàng có thể truy cập để khẳng định lại thông tin đó. Cùng với đó, 
các khách hàng có thể tìm hiểu và hỏi những thắc mắc mà mình vướng, từ đó, có thể 
làm an lòng cho khách hàng hơn bao giờ hết. 
Còn đối với các tổ chức tài chính, họ phải biết “phản xạ nhanh” trước các luồng 
tin bất lợi cho mình. Đây là một vấn đề không phải đơn giản, bởi ngay cả các tổ chức 
tài chính khi họ bị vướng lấy những thông tin bất lợi, họ cũng không thể “kiềm 
chứng” một cách “tức thời”, vì thế thông thường sau một khoảng thời gian ngắn chúng 
ta mới có thể nghe họ lên tiếng để bảo vệ cho chính mình. Theo nhóm nghiên cứu để 
ít bị ảnh hưởng từ những luồng tin bất lợi trên thị trường, khi gặp trường hợp này các 
tổ chức tài chính phải biết lên tiếng khẳng định sự “tồn tại” và hoạt động của mình 
ngay lập tức, để cho khách hàng an tâm, và sau đó mới tiến hành tìm hiểu thực hư ra 
sao. 
Trung tâm 
thông tin 
Tổ chức tín dụng A 
Tổ chức tín dụng C Tổ chức tín dụng B 
Khách hàng Khách hàng 
Khách hàng 
- 77 - 
- 77 - 
Tuy nhiên một điều mà chúng ta cũng cần phải lưu ý rằng, không phải chỉ có 
các thông tin bất hợp lý trên thị trường mới làm cho việc hoạt động của các tổ chức tài 
chính gặp khó khăn, mà ngay cả chính bản thân của các tổ chức tài chính, việc quản lý 
và cập nhật những thông tin trong chính tổ chức của họ cũng đang gặp những bất cập, 
khó khăn và không được kiểm soát một cách cẩn thận từ phía các cấp lãnh đạo. Chính 
vì vậy, khi có một thông tin gây khó dễ cho họ, họ không thể kiểm chứng một cách 
kịp thời. Đứng trước tình hình này, nhóm nghiên cứu chúng tôi cho rằng, bản thân các 
tổ chức tài chính phải biết “kiểm soát” nguồn thông tin của chính mình, không nên để 
tổ chức của mình rơi vào thế bị động do chính các nguồn tin xuất phát từ nội bộ. Và 
để làm được việc này, không còn cách nào khác các tổ chức tài chính phải biết quản lý 
thông tin của mình thông qua việc thành lập một trung tâm thông tin tại chính tổ chức 
của mình. 
¾ Hướng ra khu vực tìm kiếm sự liên kết vững chãi: 
Thời gian qua, không thể phủ nhận một điều là nhà nước ta luôn tìm kiếm 
những sự liên kết và hỗ trợ tích cực từ các nước bạn mà đặc biệt là khu vực ASEAN 
trong mọi lĩnh vực từ kinh tế, tài chính đến văn hóa. Và nhìn vào những bài học của 
khối liên minh châu Âu EU và Ủy ban Basel BCBS thì rõ ràng những sự liên kết này 
luôn là một sức mạnh tiềm ẩn giúp cho các nước thành viên phát triển nhanh mà bền 
vững. 
Đối quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, chúng ta đang hướng đến Hội nghị Chiang 
Mai, để gia tăng khả năng bảo vệ đồng tiền nội tệ trước những biến cố các nhà đầu tư 
nước ngoài rút vốn đồng loạt khỏi thị trường Việt Nam. Hội nghị Chiang Mai đề nghị 
sự chia sẻ, nếu bất kỳ nước thành viên nào gặp khó khăn khi quỹ dự trữ ngoại hối 
không đủ để điều tiết tỷ giá thì các nước khác sẽ hỗ trợ. Đây là một Hội nghị mà Việt 
Nam đã và đang tiến hành tham gia cùng Nhật Bản, Trung Quốc và khối ASEAN. 
Thiết nghĩ, tại sao chúng ta không xây dựng nguồn dự trữ thanh khoản tương tự trong 
khu vực. Với quỹ dự trữ đa quốc gia, đa tiền tệ như vậy sẽ càng hỗ trợ tính thanh 
khoản của các thị trường, các hệ thống tài chính của các nước thành viên. Khi tính 
thanh khoản của một quốc gia nào rơi vào báo động thì chính phủ có thể tìm sự hỗ trợ 
từ nguồn quỹ này, điều đó chắc chắn sẽ hạn chế việc sụp đổ hàng loạt các tổ chức tài 
chính và gây ra khủng hoảng như chúng ta đã từng chứng kiến trong thời gian vừa rồi. 
- 78 - 
- 78 - 
 Nền kinh tế Việt Nam đang đi theo hướng thị trường hóa thì chu kỳ những đợt 
khủng hoảng rồi hồi phục và phát triển giống như bất kỳ các nước phát triển nào cũng 
là điều hiển nhiên. Những nguồn quỹ dự trữ trong khu vực như thế này sẽ đem lại một 
hành trang tốt nhất để chúng ta tự tin hơn trong công cuộc xây dựng và phát triển của 
mình, đồng thời cũng để tránh xảy ra những hậu quả nặng nề ảnh hưởng đến nền kinh 
tế và hệ thống tài chính. 
 * Tóm lược chương 5: 
Đến đây, chúng tôi xin khép lại chương cuối của đề tài nghiên cứu này với nội 
dung chính bao gồm những gợi ý về giải pháp cho các cơ quan giám sát điển hình như 
NHNN Việt Nam và các tổ chức tài chính mà điển hình là các NHTM. Các gợi ý 
hướng đến các chính sách vĩ mô của nhà nước cũng như các chiến lược phát triển vi 
mô của các ngân hàng. Tất cả nhằm phục vụ cho một mục đích cuối cùng là đi tìm câu 
trả lời cho vấn đề mà tên đề tài đã đặt ra “Làm thế nào tăng cường vai trò của tính 
thanh khoản trong việc ổn định hệ thống tài chính thế giới nói chung và Việt Nam 
chúng ta nói riêng?” 
- 79 - 
- 79 - 
Hạn chế của đề tài – Gợi ý những vấn đề 
nghiên cứu tiếp theo 
1. Hạn chế của đề tài: 
Như Crokett đã nói “Tính thanh khoản” mang tính trừu tượng cao nên khi phân 
tích nó mang nhiều tính chất định tính hơn là định lượng. Tuy nhiên chúng tôi tin rằng 
ở một mức độ tương đối nào đó, tính thanh khoản vẫn có thể định lượng được. Trong 
quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi luôn muốn cụ thể hóa các tính chất của thanh 
khoản mà chúng tôi đề cập thành các chỉ tiêu thuyết phục hơn như “Mức độ thanh 
khoản được đo lường bằng chỉ tiêu gì? Như thế nào là đáng báo động? Các yếu tố nào 
tác động đến tính thanh khoản? Chúng được lượng hóa bằng chỉ tiêu gì?” v.v… 
Nhưng do trình độ chuyên môn có hạn, và qua quá trình tìm kiếm, chúng tôi vẫn chưa 
thấy một đề tài nghiên cứu nào của các chuyên gia về việc đưa ra các mô hình định 
lượng này để kế thừa. Nên rất hy vọng ở các đề tài nghiên cứu tiếp theo, sẽ có những 
hướng phát triển rộng hơn, cụ thể là những gợi ý như sau. 
2. Gợi ý đề tài nghiên cứu tiếp theo: 
¾ Nghiên cứu chu kỳ khủng hoảng tài chính và những cuộc khủng hoảng thanh 
khoản để minh chứng cho mối quan hệ “nhân – quả” giữa rủi ro thanh khoản và 
khủng hoảng tài chính. Từ đó thuyết phục mọi người về việc tăng cường vai trò 
của tính thanh khoản hơn hiện nay. 
¾ Đưa ra mô hình lượng hóa các yếu tố tác động đến tính thanh khoản. Các yếu 
tố đó có thể là độ phức tạp của các sản phẩm tài chính, mức độ quản lý, số 
lượng ngân hàng, số lượng luật quy định, quỹ dự trữ v.v… Từ đó, đưa ra những 
giải pháp thiết thực và khả thi hơn để gia tăng tính thanh khoản trong hệ thống 
tài chính nói chung và ngân hàng nói riêng. 
- 80 - 
- 80 - 
Tóm tắt 
Mục đích của nghiên cứu này nhằm nhấn mạnh sự quan trọng của tính thanh 
khoản thị trường đối với sự ổn định của hệ thống tài chính, giải thích con đường từ rủi 
ro thanh khoản dẫn đến khủng hoảng tài chính như thế nào, cũng như chỉ ra những sai 
lầm trong việc qui định, giám sát hiện nay và tìm ra biện pháp cải cách chúng. 
Chúng tôi nghiên cứu sự mở rộng các khái niệm về tính thanh khoản và mối 
liên hệ giữa những biến đổi của hệ thống tài chính và tính “dễ bị tổn thương” của 
chúng đối với các rủi ro thanh khoản. Tiếp theo, chúng tôi tập trung vào các nguyên 
nhân gây ra rủi ro thanh khoản trong khủng hoảng tài chính vừa qua. Sau đó, chúng 
tôi đi vào phân tích những bài học rút ra được từ cuộc khủng hoảng về các qui định và 
việc giám sát thị trường tài chính. 
Cuối cùng quay trở lại với hệ thống tài chính Việt Nam, chúng tôi phân tích và 
đánh giá lại rủi ro thanh khoản, điểm giống và khác của Việt Nam so với thế giới, để 
đưa ra những gợi ý hữu ích về việc quản lý và giám sát hiện tại. 
Nhóm nghiên cứu 
- 81 - 
- 81 - 
Danh mục Tài liệu tham khảo 
1. Financial Crisis and New Dimensions of Liquidity Risk: Rethinking 
Prudential Regulation and Supervision – Elisabetta Gualandri, 
2. The management of liquidity risk in financial groups – Basel Committee 
on Banking Supervision – The Joint Forum – May 2006. 
3. Thực trạng hoạt động giám sát của ngân hàng nhà nước Việt Nam đối 
với ngân hàng thương mại – ThS. Nguyễn Thị Minh Huệ - Tháng 12 năm 2009. 
4. Thông lệ tốt nhất về quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng - 
Ủy ban Basel về giám sát Ngân hàng – Tháng 2 năm 2000. 
5. Bảng công bố thông tin – Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu 
(ACB) – Năm 2008. 
6. Tính độc lập của ngân hàng trung ương – Đỗ Thiên Anh Tuấn, Trần 
Thanh Hằng, Nguyễn Thanh Nhã – Tháng 7 năm 2009. 
7. Cùng với các trang web tham khảo như: 
www.vietbao.net 
www.imf.org 
- 82 - 
- 82 - 
Phụ Lục 
Các nguyên tắc đánh giá công tác quản lý khả năng thanh khoản của các 
ngân hàng 
Xây dựng cơ cấu cho việc quản lý khả năng thanh khoản 
Nguyên tắc 1: Mỗi ngân hàng cần thống nhất về một chiến lược quản lý khả 
năng thanh khoản hàng ngày. Chiến lược này cần được truyền đạt trong toàn ngân 
hàng. 
Nguyên tắc 2: Hội đồng quản trị của một ngân hàng cần là cơ quan duyệt chiến 
lược và các chính sách cơ bản liên quan đến quản lý khả năng thanh khoản của ngân 
hàng. Hội đồng quản trị cũng cần đảm bảo là các cán bộ quản lý cao cấp của ngân 
hàng thực hiện những biện pháp cần thiết để theo dõi và kiểm soát rủi ro thanh khoản. 
Hội đồng quản trị cần được thông báo thường xuyên về khả năng thanh khoản của 
ngân hàng và được thông báo ngay lập tức nếu có những thay đổi lớn về khả năng 
thanh khoản hiện tại hoặc trong tương lai của ngân hàng. 
Nguyên tắc 3: Mỗi ngân hàng cần có một cơ cấu quản lý để thực hiện có hiệu 
quả chiến lược về khả năng thanh khoản. Cơ cấu này cần bao gồm sự tham gia thường 
xuyên của các thành viên thuộc nhóm cán bộ quản lý cao cấp. Các cán bộ quản lý cao 
cấp cần đảm bảo là khả năng thanh khoản của ngân hàng được quản lý một cách hiệu 
quả và có các chính sách phù hợp để kiểm soát và hạn chế rủi ro thanh khoản trong 
một thời gian cụ thể. 
Nguyên tắc 4: Một ngân hàng cần có hệ thống thông tin đầy đủ cho việc đo 
lường, theo dõi, kiểm soát và báo cáo rủi ro thanh khoản. Các báo cáo cần được cung 
cấp kịp thời cho hội đồng quản trị của ngân hàng, các cán bộ quản lý cao cấp và các 
cán bộ có thẩm quyền khác. 
Đo lường và theo dõi các yêu cầu cấp vốn ròng 
Nguyên tắc 5: Mỗi ngân hàng cần xây dựng một qui trình cho việc theo dõi và 
đo lường liên tục các yêu cầu cấp vốn ròng. 
Nguyên tắc 6: Các ngân hàng cần phân tích khả năng thanh khoản sử dụng 
nhiều tình huống dạng “nếu thì”. 
- 83 - 
- 83 - 
Nguyên tắc 7: Các ngân hàng cần xem xét một cách thường xuyên những giả 
thiết được sử dụng trong việc quản lý khả năng thanh khoản để xác định xem giả thiết 
đó còn giá trị hay không. 
Quản lý khả năng tiếp cận thị trường 
Nguyên tắc 8: Mỗi ngân hàng cần xem xét định kỳ các nỗ lực của mình trong 
việc xây dựng và duy trì quan hệ với những người nắm giữ tài sản nợ, để đa dạng hoá 
các tài sản nợ và đảm bảo khả năng bán được các tài sản có của mình. 
Lập kế hoạch dự phòng 
Nguyên tắc 9: Các ngân hàng cần có kế hoạch dự phòng bao gồm chiến lược 
xử lý các vấn đề về khả năng thanh khoản và qui trình xử lý sự suy giảm luồng tiền 
trong những tình huống khẩn cấp. 
Quản lý khả năng thanh khoản về ngoại tệ 
Nguyên tắc 10: Mỗi ngân hàng cần có một hệ thống đo lường, theo dõi và kiểm 
soát khả năng thanh khoản đối với các ngoại tệ mạnh mà ngân hàng có hoạt động. 
Ngoài việc đánh giá tính thanh khoản chung cho tất cả các ngoại tệ và những chênh 
lệch (mismatch) có thể chấp nhận được kết hợp với các cam kết về nội tệ, các ngân 
hàng cũng cần phân tích riêng rẽ chiến lược của mình đối với từng đồng tiền. 
Nguyên tắc 11: Dựa trên những phân tích được thực hiện theo nguyên tắc 10, 
khi cần thiết các ngân hàng cần xác định và xem xét thường xuyên trong một khoảng 
thời gian nhất định các giới hạn về quy mô của sự chênh lệch dòng tiền đối với toàn 
bộ các ngoại tệ và với từng ngoại tệ riêng lẻ mà ngân hàng có hoạt động. 
Kiểm soát nội bộ việc quản lý rủi ro khả năng thanh khoản 
Nguyên tắc 12: Mỗi ngân hàng cần có một hệ thống kiểm soát nội bộ phù hợp 
cho qui trình quản lý rủi ro về khả năng thanh khoản. Một thành phần cơ sở của hệ 
thống kiểm soát nội bộ là việc đánh giá và xem xét một cách độc lập tính hiệu quả của 
hệ thống và đảm bảo là việc kiểm soát nội bộ được tăng cường hoặc chỉnh sửa khi cần 
thiết. Kết quả của những đánh giá này cần được cung cấp cho các cơ quan giám sát. 
Vai trò của việc công khai thông tin trong việc cải thiện khả năng thanh 
khoản 
- 84 - 
- 84 - 
Nguyên tắc 13: Mỗi ngân hàng cần có một cơ chế đảm bảo một mức độ hợp lý 
về việc công khai thông tin về ngân hàng để đảm bảo uy tín của ngân hàng trong con 
mắt công chúng. 
Vai trò của các cơ quan giám sát 
Nguyên tắc 14: Các cơ quan giám sát cần thực hiện việc đánh giá các chiến 
lược, chính sách của ngân hàng có liên quan đến công tác quản lý khả năng thanh 
khoản một cách độc lập. Các cơ quan giám sát cần yêu cầu các ngân hàng phải có một 
hệ thống hiệu quả để đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro thanh khoản. Các cơ quan 
giám sát cũng cần được cung cấp các thông tin từ các ngân hàng một cách đầy đủ và 
kịp thời để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng và đảm bảo là ngân hàng có các kế hoạch 
dự phòng về khả năng thanh khoản đầy đủ. 
Xây dựng cơ cấu cho việc quản lý khả năng thanh khoản 
Nguyên tắc 15: Mỗi ngân hàng cần thống nhất về một chiến lược quản lý khả 
năng thanh khoản hàng ngày. Chiến lược này cần được truyền đạt trong toàn ngân 
hàng. 
Nguyên tắc 16: Hội đồng quản trị của một ngân hàng cần là nơi chấp thuận 
chiến lược và các chính sách có liên quan đến việc quản lý khả năng thanh khoản của 
ngân hàng. Hội đồng quản trị cũng cần đảm bảo là các cán bộ quản lý cao cấp của 
ngân hàng thực hiện những biện pháp cần thiết để theo dõi và kiểm soát rủi ro thanh 
khoản. Hội đồng quản trị cần được thông báo thường xuyên về khả năng thanh khoản 
và được thông báo ngay lập tức nếu có những thay đổi lớn về khả năng thanh khoản 
hiện tại hoặc trong tương lai của ngân hàng. 
Nguyên tắc 17: Mỗi ngân hàng cần có một cơ cấu quản lý để thực hiện có hiệu 
quả chiến lược về khả năng thanh khoản. Cơ cấu này cần bao gồm sự tham gia thường 
xuyên của các thành viên thuộc nhóm cán bộ quản lý cao cấp. Các cán bộ quản lý cao 
cấp cần đảm bảo là khả năng thanh khoản của ngân hàng được quản lý một cách hiệu 
quả và có các chính sách phù hợp để kiểm soát và hạn chế rủi ro thanh khoản trong 
một thời gian cụ thể. 
Nguyên tắc 18: Một ngân hàng cần có hệ thống thông tin đầy đủ cho việc đo 
lường, theo dõi, kiểm soát và báo cáo rủi ro thanh khoản. Các báo cáo cần được cung 
- 85 - 
- 85 - 
cấp kịp thời cho hội đồng quản trị của ngân hàng, các cán bộ quản lý cao cấp và các 
cán bộ có thẩm quyền khác. 
Đo lường và theo dõi yêu cầu cấp vốn ròng 
Nguyên tắc 19: Mỗi ngân hàng cần xây dựng một qui trình theo dõi và đo 
lường liên tục các yêu cầu cấp vốn ròng. 
Nguyên tắc 20: Các ngân hàng cần phân tích khả năng thanh khoản sử dụng 
nhiều tình huống dạng “nếu thì” 
Nguyên tắc 21: Các ngân hàng cần xem xét một cách thường xuyên những giả 
thiết được sử dụng trong việc quản lý khả năng thanh khoản để xác định xem giả thiết 
đó còn giá trị hay không. 
HẾT 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Rủi ro thanh khoản của thị trường tài chính Việt Nam.pdf Rủi ro thanh khoản của thị trường tài chính Việt Nam.pdf