Đề tài Rủi ro tín dụng và các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp

Công việc của cán bộ tín dụng khá phức tạp, bởi cán bộ tín dụng là người trực tiếp quan hệ với khách hàng, là người thường xuyên tiếp xúc, trao đổi và kiểm tra khách hàng nên mối quan hệ giữa cán bộ tín dụng và khách hàng là rất mật thiết. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng cần có những phẩm chất, đặc điểm nhất định như trung thực, liêm khiết và có trách nhiệm. Ngoài phẩm chất tốt, trình độ nghiệp vụ và ý thức tuân thủ là những yếu tố cần thiết để tránh được những sơ hở trong khâu thẩm định, kiểm tra và giám sát, từ đó có thể sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Không những cán bộ tín dụng tự trao dồi kiến thức và trao đổi học hỏi kinh nghiệm, mà Ngân hàng cần phải tạo điều kiện để các cán bộ tín dụng này có thể tiếp xúc học hỏi kinh nghiệm từ những chi nhánh khác, những cán bộ tín dụng khác. Đồng thời Ngân hàng cũng nên thường xuyên mở các lớp đào tạo để nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao trình độ hiểu biết và khả năng phán đoán cho cán bộ nhân viên. Định kỳ tổ chức kiểm tra trình độ của nhân viên để bổ sung kịp thời những kiến thức còn hạn chế, hoặc có thể tổ chức thi đua công tác tốt, khen thưởng đúng lúc, kịp thời nhằm khuyến khích cán bộ nhân viên làm việc tốt hơn. Phải có biện pháp khen thưởng hợp lý, rõ ràng. Có như vậy công việc mới được hoàn thành một cách tốt nhất.

doc76 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2518 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro tín dụng và các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bước tiến nhanh và vững vàng hơn. Nhìn chung qua ba năm 2004 - 2006 các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đang có chiều hướng chuyển biến tốt và đáp ứng được những yêu cầu đã đặt ra. 4.5.1. Hệ số thu nợ Có những biến động nhỏ qua 3 năm nhưng nhìn chung vẫn ở mức cao. Năm 2004 hệ số thu nợ là 91,95%. Năm 2005 hệ số thu nợ là 97,37%. Năm 2006 hệ số thu nợ là 95,41%. Hệ số thu nợ cho ta biết khả năng thu nợ của Ngân hàng so với vốn cho vay. Trong 3 năm qua hệ số thu nợ trung bình của Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp là 94,91% có nghĩa là khi Ngân hàng cho vay 100 đồng thì khi đến kỳ hạn thu nợ sẽ thu được 94,91 đồng. Năm 2004 hệ số thu nợ thấp nhất qua ba năm do nhiều nguyên nhân làm cho hệ số thu nợ chưa đạt cao như những năm sau nhưng chủ yếu vẫn là do những nguyên nhân khách quan từ khách hàng, do sản xuất theo mùa vụ, nông sản bị rớt giá dẫn đến việc một bộ phận khách hàng chậm trả nợ cho Ngân hàng. Bên cạnh đó do nhiều hộ nông dân do trình độ hạn chế kém hiểu biết về khoa học kỹ thuật, về kinh nghiệm sản xuất dẫn đến làm ăn thua lỗ, hoặc do những nguyên nhân khác như do thiên tai, dịch bệnh dẫn đến việc chậm trả nợ vay cho Ngân hàng. Trong khi đó theo quyết định 67/CP là cho vay hộ nông dân từ 10 triệu trở xuống không cần dùng tài sản thế chấp làm cho nguồn vốn cho vay đối tượng này tăng lên do không có thế chấp tài sản nên Ngân hàng gặp phải rủi ro lớn khi có tình huống xấu xảy ra ảnh hưởng đến hệ số thu nợ của Ngân hàng. Bên cạnh đó còn có một số nguyên nhân từ phía bản thân Ngân hàng do nguồn vốn cho vay trung và dài hạn trong năm chưa đến kỳ thu hồi nợ, thông cảm với hoàn cảnh khó khăn của khách hàng như Ngân hàng cho khách hàng đóng lãi khi đến hạn còn nợ gốc thì cho gia hạn lại. Mặt khác do đội ngũ cán bộ tín dụng còn thiếu, một cán bộ tín dụng phải quản lý nhiều địa bàn nên việc đôn đốc giám sát việc sử dụng vốn đúng mục đích chưa được thực hiện một cách triệt để và sâu sát, từ đó dẫn đến kết quả của việc thu nợ chưa cao. Thấy được những hạn chế và những khó khăn đó nên Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp đã kịp thời chỉ đạo nhằm đưa ra những giải pháp tích cực nhằm làm cho doanh số thu nợ ngày càng cao, giảm nợ quá hạn. Kết quả là làm cho doanh số thu nợ tăng lên mạnh ở năm 2005 đó là kết quả của sự cố gắng của Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp bằng những giải pháp thích hợp như khen thưởng kịp thời đối với những cán bộ tín dụng có những thành tích xuất sắc trong công việc. Đến năm 2006 hệ số thu nợ có giảm đi chút ít vào khoảng 1,96% nhưng khách quan mà nói hệ số thu nợ vẫn đạt được ở mức cao đáp ứng được yêu cầu đề ra. 4.5.2. Vòng quay vốn tín dụng Vòng quay vốn tín dụng cho ta thấy được tốc độ luôn chuyển vốn tín dụng tại Ngân hàng ở mức tương đối cao qua ba năm năm 2004 và 2005 vòng quay vốn tín dụng là 2,6 vòng, năm 2006 tăng lên 3,91 vòng tăng 1,31 vòng so với năm 2005. Trong phần phân tích hệ số thu nợ ta thấy doanh số thu nợ của năm 2004 đạt tỷ lệ thấp hơn so với những năm tiếp theo. Với việc điều hành sáng suốt và chỉ đạo kịp thời của Ngân hàng đã làm cho doanh số thu nợ tăng lên liên tục qua hai năm 2005, 2006. Sự cải thiện trong công tác thu hồi nợ đã làm cho vòng quay vốn tín dụng tăng lên vượt bậc ở năm 2006. Còn ở năm 2005 mặc dù doanh số thu nợ có tăng lên, tuy nhiên dư nợ bình quân cũng tăng theo tốc độ của doanh số thu nợ do đó làm cho vòng quay vốn tín dụng không đổi so với năm 2004. Tóm lại vòng quy vốn tín dụng qua ba năm là tương đối cao cho ta thấy tốc độ luân chuyển vốn tại Ngân hàng là tương đối nhanh đạt được yêu cầu đã đặt ra. Công tác thu hồi nợ ngày càng đạt được hiệu quả cao, tốc độ luân chuyển vốn ngày càng cao, quy mô hoạt động ngày càng được mở rộng, hiệu quả từ đồng vốn tín dụng mang lại cao. 4.5.3. Dư nợ trên tổng nguồn vốn huy động Đây là chỉ tiêu khả năng cho vay của Ngân hàng so với nguồn vốn huy động tại chỗ. Qua bảng số liệu (bảng 8) ta thấy dư nợ trên tổng nguồn vốn huy động có nhiều biến động. Năm 2004 dư nợ trên tổng vốn huy động là 3,44 lần. Năm 2005 dư nợ trên tổng vốn huy động là 2,86 lần. Năm 2006 dư nợ trên tổng vốn huy động là 2,61 lần. Năm 2005 dư nợ trên tổng vốn huy động giảm 0,58lần, ta thấy được năm 2005 tỷ lệ dư nợ tăng lên với tốc độ nhanh so với năm 2004 BẢNG 8: HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm So sánh tăng giảm 2005/2004 2006/2005 2004 2005 2006 Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Vốn huy động (VHD) 336.725 443.764 588.613 107.039 31,79 144.849 32,64 Tổng dư nợ (TDN) 1.157.852 1.270.179 1.533.889 112.327 9,7 263.710 20,76 Doanh số cho vay 2.846.406 4.278.330 5.747.479 1.431.924 50,30 1.469.149 34,34 Doanh số thu nợ 2.617.128 4.166.003 5.483.769 1.548.875 59,18 1.317.766 31,63 Nợ quá hạn (NQH) 5.983 7.117 7.289 1.134 18,95 172 2,42 Dư nợ bình quân (DNBQ) 1.006.587 1.214.016 1.402.034 207.429 20,61 188.018 15,49 Hệ số thu nợ (%) 91,95 97,37 95,41 5,42 -1,96 DN/VHĐ 3,44 2,86 2,61 -0,58 -0,25 NQH/TDN(%) 0,52 0,56 0,48 0,04 -0,08 Vòng quay tín dụng (vòng) 2,6 2,6 3,91 0,00 1,31 (Nguồn: Phòng thống kê) nhưng tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động giảm xuống chứng tỏa nguồn vốn huy huy động tại chổ ngày càng tăng, khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của Ngân hàng được cải thiện, Ngân hàng đã có quan tâm nhiều đến công tác huy động vốn tại chỗ bằng nhiều biện pháp tích cực. Tuy nhiên nếu không đẩy mạnh hơn nữa công tác huy động vốn tại chỗ trong khi nhu cầu vay vốn của khách hàng ngày càng lớn thì dễ dẫn đến việc thiếu hụt vốn đầu tư, Ngân hàng sẽ bị động trong việc đầu tư vốn mới cho khách hàng, cũng như việc mở rộng tín dụng đảm bảo dư nợ năm sau luôn cao hơn năm trước. Năm 2006 dư nợ trên vốn huy động giảm 0,25 lần so với năm 2005, trong khi dư nợ tiếp tục tăng mạnh vào năm 2006 thì đây có thể nói là một tín hiệu đáng mừng trong công tác huy động vốn, do tốc độ tăng của vốn huy động tăng nhanh hơn tốc độ tăng của dư nợ cho vay nên làm cho chỉ số trên giảm, cho ta thấy được sự cố gắng, nổ lực của đội ngũ cán bộ Ngân hàng trong công tác huy động vốn, Ngân hàng cũng có nhiều hình thức huy động vốn hấp dẫn với nhiều kỳ hạn linh động với lãi suất cao đã thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến gởi tiền tại Ngân hàng. Năm 2006 Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp đã phát hàng nhiều đợt kỳ phiếu trúng thưởng, tiết kiệm dự thưởng, tặng quà khuyến mãi, áp dụng lãi suất huy động hấp dẫn nên nguồn vốn huy động được tăng nhanh so với năm trước. 4.6. Nguyên nhân dẫn đến những rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp Trong bất cứ hoạt động nào cũng vậy, hiệu quả đạt được và rủi ro luôn luôn song hành với nhau, một vấn đề đặt ra là làm sao để đạt được mức lợi nhuận mong muốn trong khi rủi ro gây ra được hạn chế ở mức thấp nhất. Đây là một điều không dể dàng thực hiện được đặc biệt là rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng của một Ngân hàng bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Qua quá trình phân tích thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp trong thời gian qua, ta rút ra được những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng tại chi nhánh như sau: 4.6.1. Nguyên nhân từ khách hàng vay vốn 4.6.1.1. Đối với khách hàng là cá nhân Khi cá nhân vay vốn gặp phải các nguy cơ sau thường không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng đầy đủ cả vốn lẫn lãi - Thu nhập hàng tháng không ổn định, thường xuyên thay đổi công việc nên khi gặp khó khăn sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho Ngân hàng. -Bị tai nạn lao động: trong quá trình làm việc có thể họ bị tai nạn làm giảm hoặc mất đi khả năng lao động, từ đó thu nhập cũng giảm hoặc không còn thu nhập để trả nợ. - Đồng Tháp là tỉnh hằng năm phải chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai lũ lụt gây ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế của đồng bào vùng lũ nên gay khó khăn cho việc trả nợ Ngân hàng. Bên cạnh đó hoàn cảnh gia đình khó khăn do mất mùa hoặc làm ăn không hiệu quả khiến gia đình trở nên khó khăn. - Sử dụng vốn sai mục đích: Rủi ro này xuất hiện một phần là do nguyên nhân chủ quan từ phía khách hàng khi họ tự ý chuyển mục đích vay, cố ý sử dụng vốn vay sai mục đích không theo hợp đồng tín dụng đã ký hoặc do Ngân hàng không có sự theo dõi, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng để phát hiện kịp thời những trường hợp nhằm tránh thất thoát cho Ngân hàng. 4.6.1.2. Đối với khách hàng là doanh nghiệp Các doanh nghiệp thường không trả được nợ vay của Ngân hàng đầy đủ cả gốc lẫn lãi khi gặp phải các trường hợp sau: - Cán bộ lãnh đạo thiếu năng lực quản lý, năng lực chuyên môn dẫn đến tình trạng kinh doanh kém hiệu quả ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho Ngân hàng - Sử dụng vốn sai mục đích. - Thị trường kinh doanh không ổn định, bị cạnh tranh gay gắt và mất thị trường tiêu thụ. - Sự thay đổi trong chính sách, mục tiêu phát triển của tỉnh. - Những tai nạn bất ngờ: hỏa hoạn, công nhân đình công ... 4.6.2. Tình trạng quá tải của cán bộ tín dụng Ta thấy trong những năm qua doanh số cho vay của Ngân hàng tăng lên liên tục, là người trực tiếp thực hiện quy chế cho vay của Ngân hàng đối với khách hàng cán bộ tín dụng phải thực hiện các công việc sau: - Tiếp nhận đơn xin vay của khách hàng. - Kiểm tra tính chính xác, đầy đủ và phù hợp của hồ sơ vay và các điều kiện khi vay vốn. - Thẩm định kiểm tra đối tượng vay vốn và tính khả thi, tính hiệu quả của dự án xin vay. - Kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng, đôn đốc việc trả lãi và nợ gốc đúng hạn. Một khi thực hiện xong các công việc đó, thu đủ gốc và lãi cho Ngân hàng thì cơ bản coi như đã hoàn thành một khoản cho vay. Do đó, cường độ làm việc của cán bộ tín dụng rất lớn, phải thường xuyên bám sát khách hàng trong việc sử dụng vốn và quản lý tài sản thế chấp, thông thạo các vấn đề pháp lý và giá cả thị trường của tài sản, hàng hoá đảm bảo nợ vay,… do số lượng người vay ngày càng đông nên khối lượng công việc các cán bộ tín dụng phải thực hiện càng nhiều, song do số lượng công việc chỉ có thể thực hiện được trong khoảng thời gian làm việc trong ngày và ngày làm việc trong tuần nên dễ dẫn đến tình trạng quá tải của cán bộ tín dụng, do khối lượng công việc quá nhiều trong khi số lượng cán bộ tín dụng có hạn. Đôi khi, họ buộc phải làm thêm ngoài giờ, làm cả buổi tối và ngày chủ nhật. Vì vậy, đôi khi một số cán bộ tín dụng không thực hiện đúng với quy trình đề ra, sơ xuất trong hồ sơ cho vay, dễ dẫn đến phát sinh nợ quá hạn, chất lượng tín dụng sẽ bị giảm sút. 4.6.3. Những nguyên nhân liên quan đến việc đảm bảo tín dụng 4.6.3.1. Liên quan đến người bảo lãnh Nếu người bảo lãnh gặp phải những tình huống chủ quan hay khách quan đều có thể dẫn đến người bảo lãnh không có khả năng thực hiện những lời cam kết của mình, tức là không có khả năng thay mặt người vay trả nợ cho Ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi. 4.6.3.2. Liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố a) Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh Cầm cố, thế chấp tài sản để vay vốn Ngân hàng là vấn đề luôn được Ngân hàng quan tâm đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Về tài sản cầm cố, thế chấp hiện nay Ngân hàng đang thực hiện theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của chính phủ về tài sản bảo lãnh tiền vay của các tổ chức tín dụng. Trong đó thế chấp cầm cố là một trong những biện pháp để phòng chống rủi ro của Ngân hàng trong cho vay. Người đi vay bắt buộc phải đem tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo cho số nợ vay và cam kết trong trường hợp không trả được nợ vay thì Ngân hàng tiến hành phát mãi tài sản để thu nợ. Mặc dù vậy cho đến nay việc thế chấp vẫn mang lại rủi ro cho Ngân hàng do những nguyên nhân sau: - Tài sản thế chấp tại Ngân hàng chủ yếu được đảm bảo bằng bất động sản vì có giá trị lớn và luật đất đai đã được ban hành, nhưng việc phát mãi tài sản còn nhiều khó khăn phức tạp, thủ tục rườm rà, rắc rối, còn phải phụ thuộc vào các ngành có liên quan như: Sở Vật Giá, Sở Tài Chính, Toà Án,… và vì thế không thể xác định chính xác thời gian phát mãi tài sản, làm cho thời gian xử lý tài sản thường kéo dài, tạo cơ hội cho người vay dây dưa trong việc hoàn trả nợ vay. - Tài sản thế chấp bị mất giá, do thời gian xử lý các khoản nợ của Trung ương quá lâu, khi tiến hành bán tài sản trên thị trường thì giá bán thực tế thấp hơn so với giá do Ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận trước đây. - Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa đồng bộ, kịp thời trong công tác quản lý của chính quyền nên dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng. - Khi khách hàng thế chấp tài sản để vay vốn, Ngân hàng chỉ giữ lấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản,… về phía khách hàng vẫn được phép sử dụng tài sản đó. Do đó, một khi tài sản bị hư hỏng hoặc bị giảm giá trị do lạc hậu sẽ gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc phát mãi tài sản trong trường hợp khách hàng không còn khả năng thanh toán cho Ngân hàng. - Có nhiều khách hàng trước khi đem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến Ngân hàng xin vay vốn đã cầm cố đất cho người khác đã được sự chứng nhận của chính quyền địa phương, vì vậy khi Ngân hàng không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng, thì rất khó khăn cho Ngân hàng trong việc phát mãi tài sản để thu hồi vốn. b) Cầm cố, thế chấp tài sản đối với doanh nghiệp quốc doanh Đối với thành phần kinh tế quốc doanh, khi cho vay Ngân hàng chủ yếu dựa vào kế hoạch sản xuất kinh doanh, hợp đồng thi công các công trình xây dựng cơ bản và bảng tổng kết tài sản của đơn vị vay vốn. Đây là hình thức cho vay tín chấp, việc cho vay như vậy đã dẫn đến rủi ro không nhỏ cho Ngân hàng. Bên cạnh đó, theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 21/12/2001 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng và Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của chính phủ về tài sản đảm bảo tiền vay, các doanh nghiệp Nhà Nước khi vay vốn Ngân hàng có thể thoả thuận với Ngân hàng về việc phải thế chấp tài sản đảm bảo cho khoản vay hay không và mức độ cho vay tối đa không được quá mức quy định của Ngân hàng Nhà nước (tối đa 70% giá trị tài sản thế chấp, trong một số trường hợp đơn vị có tài sản đảm bảo chắc chắn thì Ngân hàng có thể xét duyệt cho vay tối đa 80% giá trị tài sản thế chấp). Đây là vấn đề nan giải đối với ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp nói riêng. Bởi lẽ, nếu thực hiện tốt theo nghị định này thì khả năng rủi ro có thể xảy ra, vì hầu hết các đơn vị xây lắp có giá trị tài sản cố định và nguồn vốn tự có rất thấp so với nhu cầu vốn kinh doanh, nhu cầu bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng thi công xây dựng cơ bản. Khi đó nếu số tiền Ngân hàng cho vay vượt quá mức quy định thì Ngân hàng phải ngưng ngay việc cho vay và tiến hành thu nợ để giảm dư nợ đến mức cho phép. Điều này sẽ gây khó khăn rất lớn cho các đơn vị xây lắp, do trong tiến trình thi công rất cần Ngân hàng cho vay bổ sung nguồn vốn xây dựng cơ bản. Nếu Ngân hàng không tiếp tục phát vay thì các đơn vị này phải ngưng hoạt động hoặc giải thể, thanh lý tài sản để trả nợ cho Ngân hàng vì không đủ khả năng về mặt tài chính để tiếp tục hoạt động (nguồn thu chủ yếu của các đơn vị này là thu tiền thanh toán khối lượng thi công). Nếu Ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay theo tiến độ thi công của công trình, thì khi các đơn vị này không trả được nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ gánh chịu rủi ro vì cơ quan pháp lý chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật khi xử lý. Bên cạnh đó, tài sản thế chấp của doanh nghiệp Nhà nước phần lớn là văn phòng, nhà xưởng, máy móc thiết bị, đất đai có giá trị lớn nhưng khó có thể bán được dễ dàng trên thị trường địa phương. Mặt khác, các doanh nghiệp quốc doanh thường có tính ỷ lại, dựa dẫm vào Nhà nước vì đã có Nhà nước bảo hộ nguồn trả nợ, khi các đơn vị này làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng thì xin Trung ương cho gia hạn nợ, rồi khoanh nợ và có thể được Trung ương cho xoá nợ. Điều này đã gây thất thoát không nhỏ cho Ngân hàng trong thời gian qua. Những khó khăn nêu trên chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp trong thời gian qua. Bên cạnh đó, vẫn còn rất nhiều nguyên nhân tiềm ẩn khác chưa phát sinh. Tuy nhiên, dù ở hình thức nào thì rủi ro tín dụng cũng gây ra những thiệt hại nhất định đến quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 4.6.4. Những nguyên nhân liên quan đến yếu tố pháp lý - Về vấn đề xác định chủ sở hữu tài sản bảo đảm: trong một số trường hợp, việc thẩm định hồ sơ chưa xác định được đầy đủ các thành viên đồng chủ sở hữu như xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, con cái; tài sản đồng thừa kế, dẫn đến thiếu sót các chữ ký cần thiết trên hợp đồng thế chấp, bảo lãnh và hợp đồng tín dụng. Đây là yếu tố bất lợi khi khởi kiện và thường kéo dài thời gian khởi kiện. - Đối với hồ sơ vay vốn doanh nghiệp: trong khi thẩm định, đôi lúc cán bộ tín dụng chưa đọc kỹ điều lệ công ty, hoặc chưa quan tâm đến ý chí vay vốn của các thành viên trong công ty. Do đó việc quyết định cho vay của Ngân hàng đôi lúc chưa phù hợp với điều lệ hoạt động của công ty hoặc chưa đồng thuận ý chí vay vốn của các thành viên dẫn đến tranh chấp, hoặc tranh chấp giữa các thành viên trong công ty làm kéo dài thời gian trả nợ, hoặc gây bất lợi cho Ngân hàng khi tranh tụng tại Tòa án. - Trường hợp khách hàng ly hôn hoặc tạo ra vụ ly hôn giả làm kéo dài thời gian trả nợ. Việc xử lý ly hôn thường kéo dài do liên quan đến nhiều vấn đề như trách nhiệm tài sản, sự đóng góp tài sản, phân chia tài sản hoặc chối bỏ trách nhiệm các khoản nợ cá nhân..từ đó kéo dài thời gian thu hồi nợ và khó phát mãi tài sản để thu nợ vì còn đang tranh chấp. 4.6.5. Những nguyên nhân khách quan 4.6.5.1. Từ tình hình kinh tế trong nước Hoạt động cho vay của Ngân hàng là một hoạt động rất nhạy cảm với những biến động của nền kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều thời cơ cho các doanh nghiệp bên cạnh đó cũng tồn tại những khó khăn do áp lực cạnh tranh dẫn đến nhiều doanh nghiệp thua lỗ và phá sản, từ đó có các khoản tiền vay Ngân hàng không trả được. Điều này làm cho nợ quá hạn trong Ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Trong thời gian qua nhìn chung tỷ lệ lạm phát ở nước ta tương đối cao trung bình khoảng 7,6%/năm nên khách hàng gửi tiền có tâm lý lo sợ rằng đồng tiền của mình bị mất giá khi gửi ở Ngân hàng, cho nên họ muốn rút tiền ra khỏi Ngân hàng. Trong khi đó những người đi vay thì lại muốn tăng nhu cầu vay vốn và muốn kéo dài thời hạn vay. Điều này cũng làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nguy cơ này có thể làm cho hoạt động cho vay của Ngân hàng bị phá sản. 4.6.5.2. Từ tình hình thế giới Trong thời đại toàn cầu hoá hoạt động kinh tế các nước đều có tác động ảnh hưởng lẫn nhau theo xu hướng của nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy, khi có những biến cố và tình hình kinh tế, chính trị, quân sự xảy ra ở bất kỳ một nước nào thì cũng có thể tác động mạnh đến các nước khác trên toàn thế giới, và sẽ dẫn đến biến động kinh tế trong nước và tác động xấu đến hoạt động của Ngân hàng. Qua các cuộc khủng hoảng kinh tế như ở Thái Lan (1997), nó ảnh hưởng mạnh đến cả những nền kinh tế mạnh như Nhật Bản và Hàn Quốc và làm cho hệ thống tài chính Ngân hàng ở những nước này bị suy yếu hàng loạt. Có thể nói những nguyên nhân trên là những nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng đối với Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp trong thời gian qua. Chương 5 MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HẠN CHẾ VÀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng vậy mục tiệu của nhà kinh doanh là làm sao đạt được lợi nhuận cao nhất trong khi rủi ro được hạn chế ở mức thấp nhất,trong hoạt động của Ngân hàng cũng vậy, nó cũng không nằm ngoài mục đích đó. Trong hoạt động Ngân hàng, bên cạnh việc mở rộng tín dụng, vấn đề chất lượng tín dụng luôn được đặt lên hàng đầu mất mát và rủi ro trong tín dụng Ngân hàng là điều rất khó tránh khỏi. Chính vì vậy, vấn đề phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân hàng luôn luôn được quan tâm một cấp đúng mức. Các nhà quản trị phải tìm được những giải pháp phòng ngừa và khắc phục rủi ro nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả hoạt động. Tuy chỉ có ba tháng ngắn ngủi thực tập ở Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp nhưng nhờ sự giúp đỡ tận tình của đội ngũ cán bộ công nhân viên Ngân hàng, cũng như sự góp ý của giáo viên hướng dẫn. Em xin đề ra một số biện pháp để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng trong trong phạm vi giới hạn sự hiểu biết của mình. 5.1. Cần phải hiểu rõ thông tin về khách hàng trước khi cho vay Thông tin về khách hàng có thể được thu nhập thông qua các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp vay vốn thường xuyên phải cung cấp cho Ngân hàng, hoặc thông qua các báo cáo kiểm toán, thông qua trung tâm thông tin tín dụng hoặc cũng có thể thông qua quan hệ bạn hàng, qua hội nghị khách hàng,… Việc nắm bắt kịp thời, chính xác các thông tin về khách hàng sẽ giúp cho Ngân hàng đề ra những chiến lược kinh doanh phù hợp, có thể hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Trên cơ sở các thông tin thu thập được, Ngân hàng cần tiến hành phân tích, đánh giá chính xác khách hàng trước khi quyết định cho vay. Đây là một trong những biện pháp quan trọng quyết định hiệu quả đầu tư và hạn chế rủi ro. Để hoạt động đầu tư của Ngân hàng có hiệu quả, cần phân tích, đánh giá khách hàng ở những nội dung sau: - Đối với khách hàng cá nhân cần phải đánh giá về năng lực pháp lý của khách hàng nhằm ràng buộc trách nhiệm của khách hàng trước pháp luật đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của Ngân hàng. - Đối với khách hàng là doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế. + Đánh giá khả năng điều hành sản xuất kinh doanh của người lãnh đạo doanh nghiệp. Bởi lẽ vị trí của người lãnh đạo, người điều hành trong doanh nghiệp một phần quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Có thể đánh giá trên một số khía cạnh như năng lực, trình độ chuyên môn, uy tín,… và khả năng hoạch định các chính sách trong kinh doanh của nhà lãnh đạo. Từ đó, Ngân hàng xác định được mức vốn đầu tư phù hợp cho doanh nghiệp. + Đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp nhằm giúp cho Ngân hàng nắm được thực trạng trong sản xuất kinh doanh cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp. + Đánh giá cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ của doanh nghiệp để có thể xác định thực trạng và triển vọng về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường, cũng như để khẳng định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Ngoài ra Ngân hàng cần phân tích thật kỹ lý do đề nghị vay vốn của khách hàng, để nắm bắt được mục đích sử dụng vốn có phù hợp với mục đích xin vay và có phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế của doanh nghiệp hay không, từ đó giúp Ngân hàng đưa ra quyết định đầu tư đúng mục đích, có hiệu quả. 5.2. Cần phải giám sát việc sử dụng nguồn vốn vay đúng mục đích của khách hàng Kiểm tra quá trình sử dụng vốn của khách hàng có đúng như thỏa thuận ban đầu không. Nếu không đúng có thể ngừng phát vay hoặc thu hồi nợ ngay mà không cần phải chờ đến hạn. Theo dõi tình hình trả nợ gốc và lãi của khách hàng để có thể nhắc nhở khách hàng trả đúng hạn, hoặc phát hiện những vấn đề khác như khách hàng không muốn trả nợ, hay có ý định bỏ trốn… Từ đó có hướng giải quyết kịp thời. Theo dõi tình hình của tài sản bảo đảm như thế nào, có bị hao hụt giá trị không, có bị tranh chấp, bị sang nhượng không… Tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng và diễn biến thị trường, khả năng cạnh tranh của khách hàng, tình hình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa… Để thực hiện việc theo dõi, giám sát ta có thể tiến hành như sau: Trước hết là phải thu thập thông tin: những tài liệu chứng minh quá trình sử dụng vốn của khách hàng từ phía người vay và từ những đối tác làm ăn của khách hàng, và từ những khách hàng quen biết. Để làm được điều này, cán bộ tín dụng phải thiết lập những mối quan hệ tốt với khách hàng mà mình đang chịu trách nhiệm quản lý, phải có kỹ năng giao tiếp tốt và nghệ thuật lấy thông tin giỏi. Sau mỗi lần kiểm tra, cán bộ tín dụng phải tiến hành phân tích và thiết lập báo cáo với trưởng phòng dịch vụ khách hàng và phòng quản lý tín dụng những nhận xét về tình hình, khả năng và mức độ rủi ro của từng hồ sơ vay. Đặc biệt là những món nợ lớn, những khoản vay bị quá hạn để các bên cùng phối hợp giải quyết. Nếu trong quá trình kiểm tra, cán bộ tín dụng phát hiện những điều bất thường xảy ra như khách hàng không cung cấp báo cáo tài chính hay các tài liệu không đúng như trong hợp đồng đã cam kết; không trả vốn và lãi vay, hoặc trả không đúng như trong hợp đồng tín dụng; làm hư hỏng, thay đổi tài sản thế chấp; tình hình tài chính không ổn định… Khi đó cán bộ tín dụng có trách nhiệm lập tờ trình với Ban Giám Đốc, các Trưởng phòng phụ trách để xem xét và đề xuất biện pháp xử lý thích hợp như: ngừng giải ngân, thu hồi vốn vay, gia hạn nợ, yêu cầu khách hàng cam kết trả nợ, xử lý tài sản bảo đảm hoặc biện pháp cuối cùng là khởi kiện nếu các biện pháp khác không có hiệu lực với khách hàng. + Khi xét duyệt cho vay, cán bộ tín dụng cũng như ban lãnh đạo cần xem xét kỹ mọi khía cạnh những vấn đề trước khi ra quyết định. Phải cương quyết từ chối những khoản vay không đảm bảo những yếu tố cần thiết. + Hồ sơ vay phải đầy đủ giấy tờ cần thiết như giấy đề nghị vay vốn, phương án sản xuất kinh doanh, bản sao chứng minh nhân dân, hộ khẩu, giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản bảo đảm… và phải đúng thủ tục trình ký, công chứng nhằm đảm bảo về mặt pháp lý yếu tố thực thi. + Xác định lãi suất vay, thời hạn trả nợ, gia hạn nợ sao cho phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng tận dụng nguồn vốn của đối tượng đi vay. 5.3. Cần phải xác định đúng giá trị thực của tài sản cầm cố thế chấp Ngân hàng cần lựa chọn hình thức đảm bảo phù hợp với yêu cầu của một khoản vay đồng thời phải đánh giá chính xác giá trị vật làm đảm bảo tại thời điểm khách hàng vay vốn. + Đối với đảm bảo bằng tài sản, Ngân hàng phải xác định chính xác được quyền sở hữu, quyền sử dụng, tính lưu thông và sự tồn tại thực tế của tài sản đó đối với người vay tiền. Bên cạnh đó cũng cần lưu ý đến thời hạn sử dụng của tài sản đảm bảo phải lớn hơn thời hạn vay tiền. + Đối với đảm bảo bằng bảo lãnh: Ngân hàng cần đánh giá chính xác năng lực pháp lý, năng lực tài chính, uy tín và trách nhiệm của người bảo lãnh. 5.4. Theo dõi những biến động bên ngoài có thể ảnh hưởng đến Ngân hàng Biện pháp này nhằm mục đích xây dựng chính sách cho vay hợp lý để đảm bảo an toàn cho hoạt động đầu tư của Ngân hàng, đặc biệt là tình hình tài chính tiền tệ trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp việc xây dựng chính sách tín dụng cho Ngân hàng. Nội dung nghiên cứu thể hiện ở các mặt như: Sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, diễn biến của thị trường vốn, quan hệ cung cầu vốn trên thị trường,… 5.5. Tăng cường công tác mua bảo hiểm tiền gửi Để đề phòng một số trường hợp dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng mà Ngân hàng không thể lường trước được như thiên tai, hỏa hoạn, hư hỏng công trình,… việc mua bảo hiểm tiền gửi sẽ giúp Ngân hàng hạn chế được tác hại của rủi ro, bởi lẽ toàn bộ những rủi ro này sẽ được chuyển cho cơ quan bảo hiểm, và đây cũng là nguồn trả nợ chính cho Ngân hàng khi rủi ro xảy ra. Vì vậy công tác mua bảo hiểm là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để phòng chống rủi ro khi cho vay. 5.6. Thực hiện tốt việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng Biện pháp này nhằm để xử lý kịp thời những rủi ro tín dụng xảy ra, đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được diễn ra bình thường, liên tục. Việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng phải theo đúng tỷ lệ quy định của Ngân hàng Nhà nước và đưa vào chi phí, tuy nhiên cũng phải phù hợp với kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nếu không sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng. 5.7. Tăng cường công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ trong hoạt động của Ngân hàng Công tác kiểm soát nội bộ hoạt động nhằm mục đích ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Phải kiểm tra chặt chẽ các cơ sở pháp lý khi thiết lập quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích cho chính bản thân Ngân hàng trước pháp luật. Nội dung kiểm toán nội bộ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có thể bao gồm: * Kiểm tra việc chấp hành quá trình cho vay vốn và kiểm tra việc thực hiện cơ chế đảm bảo tiền vay. * Kiểm tra hồ sơ cho vay để đánh giá những khoản đã cho vay còn có những vấn đề gì cần bổ sung, chỉnh sửa. * Phân tích, đánh giá chất lượng của các khoản cho vay để làm cơ sở chắc chắn cho những khoản vay tiếp theo. * Tiến hành phân loại các khoản nợ và phân loại dư nợ, tổ chức kiểm tra chéo, áp dụng các biện pháp cụ thể về xử lý các khoản nợ có vấn đề, tăng cường kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng, đồng thời giám sát việc thực hiện quá trình đầu tư vốn. 5.8. Thành lập bộ phận giám sát nguồn vốn vay của Ngân hàng độc lập với cán bộ tín dụng Nhìn vào thực tại ta có thể thấy được tình trạng quá tải của cán bộ tín dụng, bởi vì cán bộ tín dụng phải làm rất nhiều việc từ việc cho vay đến giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng, bên cạnh đó mỗi một cán bộ tín dụng phải quản lý một địa bàn tương đối rộng nên dẫn đến việc lơ là công việc giám sát việc sử dụng nguồn vốn của khách hàng nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tín dụng. Bộ phận giám sát này có trách nhiệm thường xuyên giám sát tình hình sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích hay không để báo cáo về chi nhánh, giúp cho Ngân hàng nắm bắt được những thông tin chính xác về khách hàng của mình góp phần hạn chế rủi ro. 5.9. Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất tại Ngân hàng Việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam (theo Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành) đã mang lại nhiều thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của cả hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp nói riêng. Trước hết, nó phù hợp cơ chế lãi suất của các nước trong khu vực và tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế mà Việt Nam đang định hướng hội nhập nền kinh tế của mình nói chung và hoạt động Ngân hàng nói riêng, giảm dần sự can thiệp và điều hành bằng các biện pháp hành chính của Ngân hàng Nhà nước vào công việc kinh doanh của các tổ chức tín dụng, đồng thời giúp cho Ngân hàng chủ động hơn trong việc quyết định lãi suất cho vay. Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, chi nhánh sẽ phải đối mặt với sự thay đổi thường xuyên của lãi suất thị trường. Và sự thay đổi của lãi suất sẽ dẫn đến rủi ro lãi suất. Ngoài ra trong lĩnh vực tín dụng thương mại, việc thực thi cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận sẽ gây sự cạnh tranh quyết liệt giữa các Ngân hàng. Do đó, để có thể đứng vững trên thị trường, Ngân hàng buộc phải đưa ra những mức lãi suất cho vay khá hấp dẫn để thu hút khách hàng và mở rộng thị phần. Tuy nhiên việc thực hiện cơ chế quản trị và điều hành lãi suất của mỗi Ngân hàng sẽ không hoàn toàn giống nhau do tính đặc thù của từng hệ thống Ngân hàng. Sau đây là một số giải pháp hoàn thiện cơ bản: - Cần thành lập một bộ phận chuyên theo dõi, nghiên cứu và đề xuất về lãi suất. Chức năng này cũng có thể giao cho bộ phận quản lý vốn khả dụng. Bộ phận này sẽ làm việc hằng ngày với giám đốc hoặc phó giám đốc phụ trách để luôn có quyết sách kịp thời. Đồng thời coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhân viên Ngân hàng, cán bộ quản lý vốn khả dụng. - Việc quản trị và điều hành lãi suất của Ngân hàng phải đảm bảo tính thống nhất trong toàn hệ thống, từ hội sở chính đến các chi nhánh. Lãi suất huy động vốn và cho vay được quy định thống nhất và linh hoạt từng ngày trên cơ sở diễn biến vốn khả dụng, sự thay đổi của thị trường tiền tệ, vận dụng lãi suất của Ngân hàng Nhà nước công bố, dự đoán nhu cầu cho vay và khả năng thu hút tiền gửi của Ngân hàng,… + Giao cho giám đốc chi nhánh một phạm vi tự chủ nhất định trong một biên độ cho phép, linh hoạt về lãi suất tiền gửi không kỳ hạn với số lượng lớn, tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Giám đốc chi nhánh có thể chủ động quyết định lãi suất cho vay cụ thể đối với các khách hàng tốt nhất trong phạm vi hạn mức tín dụng được quyền phán quyết. + Ngân hàng còn phải tính đến lãi suất đầu ra, lãi suất đầu vào, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và chiến lược khách hàng để có những quyết sách cụ thể 5.10. Nâng cao chất lượng trình độ cho cán bộ tín dụng Công việc của cán bộ tín dụng khá phức tạp, bởi cán bộ tín dụng là người trực tiếp quan hệ với khách hàng, là người thường xuyên tiếp xúc, trao đổi và kiểm tra khách hàng nên mối quan hệ giữa cán bộ tín dụng và khách hàng là rất mật thiết. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng cần có những phẩm chất, đặc điểm nhất định như trung thực, liêm khiết và có trách nhiệm. Ngoài phẩm chất tốt, trình độ nghiệp vụ và ý thức tuân thủ là những yếu tố cần thiết để tránh được những sơ hở trong khâu thẩm định, kiểm tra và giám sát, từ đó có thể sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Không những cán bộ tín dụng tự trao dồi kiến thức và trao đổi học hỏi kinh nghiệm, mà Ngân hàng cần phải tạo điều kiện để các cán bộ tín dụng này có thể tiếp xúc học hỏi kinh nghiệm từ những chi nhánh khác, những cán bộ tín dụng khác. Đồng thời Ngân hàng cũng nên thường xuyên mở các lớp đào tạo để nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao trình độ hiểu biết và khả năng phán đoán cho cán bộ nhân viên. Định kỳ tổ chức kiểm tra trình độ của nhân viên để bổ sung kịp thời những kiến thức còn hạn chế, hoặc có thể tổ chức thi đua công tác tốt, khen thưởng đúng lúc, kịp thời nhằm khuyến khích cán bộ nhân viên làm việc tốt hơn. Phải có biện pháp khen thưởng hợp lý, rõ ràng. Có như vậy công việc mới được hoàn thành một cách tốt nhất. Bên cạnh đó có thể bố trí cán bộ tín dụng phụ trách chính theo từng hình thức công việc như một người phụ trách chính về cho vay nông thôn, hoặc cho vay sản xuất kinh doanh… như vậy sẽ dễ dàng hơn trong khâu thẩm định cũng như kiểm tra. Vì một người chuyên môn về một lĩnh vực sẽ nắm rõ được đặc tính của từng sản phẩm, khi đó công việc sẽ được tiến hành nhanh chóng và chính xác hơn. + Trước hết cần cũng cố kiến thức, nâng cao trình độ cán bộ tín dụng để hiểu biết và sử dụng tốt công cụ dẫn xuất tín dụng nhằm kiểm soát rủi ro trong kinh doanh tín dụng tại Việt Nam đồng thời cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp trong từng thành viên của Ngân hàng, nhằm làm giảm các nguy cơ rủi ro về đạo đức trong giao dịch dẫn xuất tín dụng nói riêng và trong hoạt động tín dụng nói chung. + Chỉ thực hiện giao dịch dẫn xuất tín dụng để bảo hiểm nhằm quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng, không được lạm dụng, coi nó như một hướng đầu tư để hạn chế rủi ro. + Tiếp tục thúc đẩy các hoạt động bán nợ, bảo hiểm rủi ro tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro… nhằm đa dạng hoá các công cụ quản lý rủi ro. + Tham gia, kiểm nghiệm và mở rộng các hoạt động quản lý rủi ro thông qua dẫn xuất tín dụng trên các thị trường tài chính trong khu vực và quốc tế làm kinh nghiệm thực hiện trên thị trường tài chính Việt Nam. Trên đây là những biện pháp có thể áp dụng để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân Hàng. Tuy nhiên khi rủi ro thật sự xảy ra, ta phải tìm hiểu rõ nguyên nhân để từ đó áp dụng những giải pháp phù hợp. Chương 6 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 6.1. Kết luận Trong bối cảnh hoạt động đầy cạnh tranh và với một áp lực ngày càng cao từ những đối thủ không chỉ là những Ngân hàng trong nước mà cả với những Ngân hàng nước ngoài có tiềm lực mạnh hơn rất nhiều về tài chính một vấn đề đặt lên hàng đầu đối với Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp là hiệu quả kinh tế đạt được trong hoạt động kinh doanh trong khi đó làm thế nào để hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Tuy nhiên để đạt được hiệu quả kinh tế như mong muốn đòi hỏi Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp không ngừng nỗ lực hơn nữa, khắc phục những khó khăn và hạn chế của mình để vươn lên phát triển. Bằng chính nghị lực của mình Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp đã vượt qua bao khó khăn về biến động của nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng thương mại khác trên cùng địa bàn và giữ một vay trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế hiện nay của tỉnh. Trong ba năm qua Ngân hàng đã đạt được nhiều thắng lợi to lớn với tổng nguồn vốn huy động ngày càng tăng, đáp ứng được nhu cầu vốn của các thành phần kinh tế, đồng thời phục vụ ngày càng tốt hơn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp không ngừng đa dạng hoá, làm phong phú hơn các hình thức đầu tư không những giúp cho Ngân hàng phân tán được rủi ro mà còn làm cho lợi nhuận ròng qua ba năm liên tục tăng lên. Thông qua hoạt động tín dụng đã đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông, y tế, giáo dục, cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, góp phần ổn định kinh tế xã hội. Bên cạnh đó chi nhánh đã hạn chế được phần nào rủi ro tín dụng do thực hiện đúng quy trình tín dụng, từng bước mở rộng thêm đối tượng khách hàng mới thuộc mọi thành phần kinh tế trên cơ sở lựa chọn, sàng lọc kỹ khách hàng, tuyệt đối không chạy theo lợi nhuận trước mắt, chạy theo số lượng mà vi phạm nguyên tắc an toàn trong cho vay để dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng. Có được một thành quả như vậy một phần là do Ngân hàng có đội ngũ cán bộ dồi dào kinh nghiệm, được đào tạo qua các trường lớp nghiệp vụ, nhiệt tình trong công việc, có tinh thần đoàn kết, nhất trí trong tập thể cùng với sự thống nhất điều hành trong ban giám đốc. Qua quá trình phân tích đã giúp ta hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng như tầm quan trọng của việc phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển, Ngân hàng cần có những phương pháp quản trị rủi ro thích hợp, phải biết đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro nhằm đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro tới mức thấp nhất. 6.2. Kiến nghị Qua một thời gian thực tập tạI Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp, cùng với sự chỉ dẫn tận tình của các anh chị trong Ngân hàng, em đã hiểu biết thêm về lĩnh vực hoạt động tín dụng tại Ngân hàng từ những quy chế quy định về thủ tục vay, phương pháp thực hiện đến những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng như thế nào… Qua phân tích và tìm hiểu quá trình hoạt động tín dụng tại Ngân hàng, em nhận thấy rằng tuy hoạt động tín dụng của Ngân hàng vẫn đạt hiệu quả và tương đối an toàn, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại không ít khó khăn làm ảnh hưởng đến tiến trình phát triển. Để hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp, em xin nêu ra một số kiến nghị sau: 6.2.1. Về phía bản thân Ngân hàng * Đầu tư xây dựng trụ sở khang trang để tăng vị thế cạnh tranh. * Trang bị máy rút tiền tự động (ATM), nhanh chóng áp dụng hiện đại hoá trong Ngân hàng. Cần có sự liên kết thẻ với các hệ thống Ngân hàng khác. * Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ hiện có, đồng thời coi trọng phát triển sản phẩm, dịch vụ mới triển khai các hình thức gửi tiền tiết kiệm mới như đồng sở hữu sổ tiết kiệm, cho phép chuyển nhượng sổ tiết kiệm, cho phép gửi tiền thay cho chủ sở hữu sổ tiết kiệm, gửi tiền ở một nơi rút tiền ở nhiều nơi… trên cơ sở ứng dụng nhiều thành tựu mới của công nghệ và thực hiện quy trình giao dịch một cửa nhằm rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng, góp phần thu hút thêm nhiều khách hàng mới bên cạnh duy trì quan hệ tốt đẹp với những khách hàng truyền thống. Bởi lẽ, trong điều kiện của cơ chế thị trường như hiện nay, hoạt động của Ngân hàng luôn có sự cạnh tranh gay gắt để tìm kiếm khách hàng. Song sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại chủ yếu là dựa trên cung cách phục vụ của nhân viên ,chất lượng sản phẩm mà Ngân hàng cung cấp. Hiện nay các dự án lớn của các ngành như hàng không, bưu chính viễn thông, dầu khí,… đang và có thể sẽ bị các Ngân hàng nước ngoài thu hút bởi hệ thống các dịch vụ phong phú, đa dạng, bên cạnh đó các khách hàng là cá nhân có thu nhập cao cũng bị lôi cuốn bởi dịch vụ chuyển tiền cho con đi du học hoặc người thân đi chữa bệnh,… * Cân đối giữa khả năng huy động và sử dụng vốn trung và dài hạn, đồng thời tăng cường công tác quản lý rủi ro nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng an toàn và hiệu quả bền vững. * Tăng cường công tác tiếp thị các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để thu hút nguồn ngoại tệ. * Tăng cường số lượng và chất lượng cán bộ tín dụng nhằm đảm bảo an toàn chất lượng tín dụng, đủ nhân lực để nắm bắt các cơ hội kinh doanh mới, đây được xem là nhiệm vụ cấp thiết của các Ngân hàng thương mại trong giai đoạn mới. Ngân hàng cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, phổ biến kiến thức mới và kinh nghiệm cho vay đến cán bộ tín dụng, chú ý rèn luyện và nâng cao khả năng ngoại ngữ để có thể tiếp cận nhóm khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài; gửi cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài tạo cơ hội học hỏi kinh nghiệm của các Ngân hàng có uy tín trong khu vực và trên thế giới về thẩm định dự án và cho vay theo dự án,… - Thường xuyên tổ chức cuộc họp giữa cán bộ tín dụng và các trưởng phòng tín dụng để trao đổi những kinh nghiệm, những vấn đề khúc mắc, những khuyết điểm trong quá trình thực hiện của từng cán bộ tín dụng… Từ đó vừa nâng cao trình độ, kinh nghiệm cho các cán bộ tín dụng vừa hạn chế, khắc phục những sai lầm đã mắc phải đảm bảo an toàn cho những khoản nợ vay. - Ngân hàng có thể vừa thu hút thêm khách hàng, gia tăng mức độ cạnh tranh, vừa hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra bằng cách cung cấp dịch vụ chuyển tiền mặt đến tận nhà cho khách hàng với mức phí hợp lý. Vì phần lớn những người đi vay rút bằng tiền mặt, với số lượng tiền lớn mang ra ngoài sẽ rất nguy hiểm, nếu có rủi ro xảy ra thì chẳng những gây thiệt hại cho khách hàng mà Ngân hàng cũng có thể bị mất vốn. Do đó việc vận chuyển tiền cho khách hàng vừa đảm bảo an toàn qua đó Ngân hàng cũng sẽ có thêm khoản doanh thu từ phí dịch vụ này. - Bố trí việc tiếp nhận hồ sơ vay của khách hàng theo khu vực, địa bàn mà cán bộ tín dụng sinh sống hoặc nắm rõ nhất. Theo cách bố trí này, việc kiểm tra thẩm định hồ sơ vay sẽ được tiến hành dễ dàng và chính xác hơn do cán bộ tín dụng có sự hiểu biết khá rõ về đặc tính của vùng, của khách hàng và đặc điểm sản xuất ở nơi đó, như vậy rủi ro cũng được giảm phần nào. - Hạn chế cán bộ tín dụng tiếp nhận hồ sơ của những khách hàng là người thân quen để tránh sự gian lận hoặc ý kiến chủ quan trong khâu thẩm định. - Để tránh trường hợp khách hàng bị tai nạn hoặc bị bệnh bất ngờ dẫn đến việc khách hàng bị giảm hay mất khả năng trả nợ, Ngân hàng có thể đề nghị khách hàng mua bảo hiểm trước khi vay. Như vậy khi rủi ro xảy đến khách hàng sẽ không dùng số tiền vay cho mục đích khác như điều trị bệnh và Ngân hàng vẫn có thể thu hồi đủ món nợ vay. - Đối với điều kiện trong hợp đồng cho vay cán bộ công nhân viên, ngoài điều kiện cán bộ đi vay phải có đơn vị liên kết đứng ra bảo lãnh cam kết trích lương của người vay để trả nợ, Ngân hàng cũng nên yêu cầu đơn vị bảo lãnh không được chuyển công tác đối với những cán bộ có vay vốn khi thời hạn hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Điều này vừa giúp cho Ngân hàng thu nợ được dễ dàng hơn, vừa ngăn chặn tình trạng khách hàng không muốn trả nợ vì đã thay đổi đơn vị khác mà đơn vị này lại không có cam kết bảo lãnh với Ngân hàng. - Tìm cộng tác viên tích cực phụ trách việc thu nợ tập trung tại đơn vị liên kết khi đến thời hạn, sau đó nộp lại cho Ngân hàng. Cộng tác viên, có thể là một cán bộ có uy tín tại đơn vị liên kết, sẽ được hưởng hoa hồng từ Ngân hàng. Với phương thức này sẽ giúp cho Ngân hàng thu nợ được kịp thời, đầy đủ đồng thời hạn chế được nợ quá hạn. - Hoàn thiện và đổi mới công nghệ Ngân hàng, thiết lập hệ thống quản lý và cung cấp thông tin trong nội bộ sử dụng chung, đồng thời xây dựng trang web riêng chi nhánh, nối kết Internet trong toàn Ngân hàng để tất cả cán bộ, nhân viên Ngân hàng có thể nắm bắt nhanh chóng thông tin kinh tế chính trị, xã hội, diễn biến tình hình thị trường trong và ngoài nước góp phần cải thiện và tiêu chuẩn hoá phương thức quản lý, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tạo ra được cách suy nghĩ, cách làm việc và quản lý khoa học dựa trên hệ thống thông tin chính xác, đầy đủ, đồng thời giúp cho công tác giao dịch đối ngoại được thuận tiện hơn (như các tiêu thức trong bảng tổng kết tài sản, trong báo cáo phục vụ kiểm toán,…). Như vậy rủi ro tín dụng là nhân tố quan trọng đối với Ngân hàng, nhà phát hành, nhà đầu tư trái phiếu. Các công cụ truyền thống nhằm quản lý rủi ro tín dụng như nâng cao chất lượng tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro, phân tán rủi ro, bán nợ và bảo hiểm tài sản mới chỉ đưa ra những giải pháp đơn lẻ nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng. Sự phát triển thị trường dẫn xuất rủi ro tín dụng đã đưa ra những công cụ mới đầy quyền năng để quản lý rủi ro tín dụng với chi phí thấp hơn và hiệu quả lớn hơn các công cụ truyền thống. Hiểu và vận dụng được điều này không chỉ giúp các Ngân hàng, các nhà đầu tư tài chính, nhà phát hành, kinh doanh chứng khoán, các quỹ tương hỗ có thể sử dụng dẫn xuất tín dụng để bảo hiểm cho những thay đổi bất lợi về chất lượng tín dụng của các khoản đầu tư, góp phần thúc đẩy thị trường tài chính Việt Nam phát triển, mang lại lợi ích cho bản thân các Ngân hàng tham gia thị trường này và cho toàn bộ nền kinh tế. 6.2.2. Về phía Ngân hàng Nhà nước Bổ sung thêm trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp về thời hạn được phép phát mãi tài sản thế chấp. Hiện nay, trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp tài sản chưa có điều khoản về thời gian phát mãi tài sản khi khách hàng không còn đủ khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Với điều khoản này, Ngân hàng có thể phân biệt những khách hàng nào có thiện chí trả nợ, đồng thời góp phần giảm được rủi ro, bởi vì khách hàng muốn vay vốn trước hết phải tính toán thật kỹ nguồn trả nợ từ phương án kinh doanh của mình. Cho phép trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro được phép tự do mua bán thông tin kinh tế tài chính doanh nghiệp. Đây không chỉ là nhu cầu cấp thiết của bản thân Ngân hàng mà còn của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế,… Để đảm bảo cho hoạt động Ngân hàng được an toàn và có hiệu quả thì Ngân hàng cũng cố và nâng cao vai trò của thông tin nhằm phòng ngừa rủi ro, tránh thiệt hại về tài sản và uy tín của Ngân hàng. Để thực hiện được mong muốn đó, trước hết Ngân hàng Nhà Nước cho phép trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro tự do mua bán thông tin tài chính kinh tế của doanh nghiệp. Vì hiện nay, việc cung cấp thông tin đầu vào cho trung tâm chưa đầy đủ kịp thời, chính xác dẫn đến hậu quả là thông tin đầu ra của trung tâm không thể phát huy hết tác dụng bởi do thiếu độ tin cậy cao. Tăng tính tự chủ của các Ngân hàng thương mại. Hiện nay, Ngân hàng Nhà Nước theo mô hình “Bộ chủ quản” đã còn can thiệp quá sâu vào tất cả các hoạt động của Ngân hàng thương mại từ bộ máy tổ chức đến các quan hệ về nghiệp vụ, tổ chức chính trị, đoàn thể, qua đó đã hạn chế quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các Ngân hàng thương mại. Do đó, các Ngân hàng thương mại đang không có điều kiện để có được chính sách kinh doanh độc lập, điều này càng thể hiện rõ đối với các hệ thống các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Các Ngân hàng cần được giải phóng khỏi các nhiệm vụ phải cho vay theo chính sách phát triển hoặc chính sách cơ cấu. Trong tương lai không nên có nhiều mức lãi suất khác nhau quy định cho các khu vực, địa phương hoặc ngành nào đó, mà các Ngân hàng sẽ tự quyết định lãi suất theo nguyên tắc kinh doanh Ngân hàng. Như vậy, để hoạt động tín dụng của Ngân hàng ngày càng hiệu quả hơn thì Ngân hàng cần có những biện pháp phòng chống rủi ro bổ sung, đồng thời cần có sự giúp đỡ của các ban ngành khác đặc biệt là Nhà nước. Nếu Ngân hàng thực hiện tốt những điều này thì có thể khắc phục được những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Đối với các cơ quan Nhà nước, các cấp, các ngành có liên quan Cần đơn giản hóa các thủ tục, các loại giấy tờ công chứng; hạn chế công chứng ở nhiều cơ quan; cần giải quyết nhanh các hồ sơ nhằm tạo thuận lợi và đảm bảo về mặt thời gian cho những người có nhu cầu vay vốn. Đứng trước sự phát triển của nền kinh tế trong nước và trên thế giới thì vấn đề đặt lên hàng đầu đối với mọi Ngân hàng là hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên để đạt được hiệu quả kinh tế như mong muốn đòi hỏi các Ngân hàng không ngừng nỗ lực hơn nữa, khắc phục những khó khăn và hạn chế của mình để vươn lên phát triển. Đây cũng chính là sự nỗ lực của Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp trong thời gian qua. Bằng chính nghị lực của mình, chi nhánh Ngân hàng đã vượt qua bao khó khăn về biến động của nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng thương mại khác trên cùng địa bàn, chi nhánh đã trở thành một trong những Ngân hàng quan trọng hàng đầu hiện nay. Trong ba năm qua chi nhánh đã đạt được nhiều thắng lợi to lớn với tổng nguồn vốn huy động ngày càng tăng, đáp ứng được nhu cầu vốn của các thành phần kinh tế, đồng thời phục vụ ngày càng tốt hơn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó chi nhánh không ngừng đa dạng hoá, làm phong phú hơn các hình thức đầu tư làm cho lợi nhuận ròng qua ba năm liên tục tăng lên. Trong những năm qua, hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã và đang góp phần quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển Đồng Tháp nói riêng và kinh tế cả nước nói chung. Thông qua hoạt động tín dụng đã đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông, y tế, giáo dục, cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, góp phần ổn định kinh tế xã hội. Bên cạnh đó chi nhánh đã hạn chế được phần nào rủi ro tín dụng do thực hiện đúng quy trình tín dụng từng bước mở rộng thêm đối tượng khách hàng mới thuộc mọi thành phần kinh tế trên cơ sở lựa chọn, sàng lọc kỹ khách hàng, tuyệt đối không chạy theo lợi nhuận trước mắt, chạy theo số lượng mà vi phạm nguyên tắc an toàn trong cho vay để dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng. Có được một thành quả như vậy một phần là do Ngân hàng có đội ngũ cán bộ dồi dào kinh nghiệm, được đào tạo qua các trường lớp nghiệp vụ, nhiệt tình trong công việc, có tinh thần đoàn kết, nhất trí trong tập thể cùng với sự thống nhất điều hành trong ban giám đốc.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docRủi ro tín dụng và các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công Thương Đồng Tháp.doc
Luận văn liên quan