Tại Hội nghị về khuôn khổ ổn định và giám sát tài chính sắp tới đây, các quốc gia
sẽ bắt đầu bàn thảo về quá trình áp dụng tiêu chuẩn an toàn Basel III đối với ngành ngân
hàng.
Tuy nhiên trong trường hợp của Việt Nam, việc đạt tiêu chuẩn Basel I đã là một thử thách
rất lớn. Do đó, cần tăng tốc quá trình áp dụng và giám sát các tiêu chuẩn an toàn theo yêu
cầu và tiêu chuẩn quốc tế (Basel II và III đối với ngành NH) vào hoạt động kinh doanh và
quản lý tín dụng Việt Nam. Ðặc biệt, cần tăng mạnh hơn hàng chục lần mức chế tài xử
phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ - NH theo mức tỷ lệ thuận tương xứng
với quy mô và lợi nhuận thu được từ sự vi phạm mới thật sự có giá trị răn đe, cảnh báo
cao và giúp ngăn ngừa tái diễn cố ý các vi phạm trong lĩnh vực này.
Bên cạnh các quy định hạn chế tỷ lệ sở hữu giữa các NH với nhau, cũng nh ư yêu
cầu các TÐNN phải thoái vốn khỏi các tổ chức tài chính, tín dụng theo lộ trình đến năm
2015, Chính phủ cần sớm nghiên cứu và thành lập thêm những định chế tổ chức, những
bộ phận độc lập để cảnh báo, kiểm soát và điều tra những vấn đề liên quan đến ngành NH,
tách biệt và kiểm soát chặt chẽ giữa chức năng, nhiệm vụ của NH đầu tư và NHTM ở Việt
Nam nhằm chỉ đạo kịp thời, chính xác việc giảm thiểu SHC không cần thiết theo mục tiêu
được nhấn mạnh trong Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10-2012. Ngoài
ra, lợi ích nhóm là nguyên nhân làm gia tăng SHC, đồng thời cũng là rào cản lớn nhất,
thao túng và ảnh hưởng đến cả hệ thống trong quá trình xử lý, tái cơ cấu NH
27 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2689 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sở hữu chéo ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TP. Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
ĐỀ TÀI
SỞ HỮU CHÉO NGÂN HÀNG
GVHD: PGS.TS: TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG
LỚP: NH Đêm 1 – Khóa 22 –Nhóm 12
Danh sách nhóm:
Hồ Hữu Nghĩa
Trần Hà Minh Nguyệt
Nguyễn Mạnh Toàn
Võ Thị Bích Trâm
Đặng Thị Cẩm Uyên
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 2
MỤC LỤC
Chương 1: LÝ THUYẾT VỀ SỞ HỮU CHÉO ........................................................... 3
1.1 Khái niệm ................................................................................................................ 3
1.2 Phân loại sở hữu chéo .............................................................................................. 3
Chương 2: THỰC TRẠNG SỞ HỮU CHÉO TẠI VIỆT NAM ................................. 4
2.1 Thực trạng sở hữu chéo tại Việt Nam. ...................................................................... 4
2.2 Tác động của sở hữu chéo đến hoạt động kinh doanh ngân hàng .............................. 10
2.2.1 Tác động tích cực. .............................................................................................. 10
2.2.2 Tác động tiêu cực. ............................................................................................... 11
2.3. Nguyên nhân của sở hữu chéo tại Việt Nam. ............................................................ 17
Chương 3: LIÊN HỆ VÀ GIẢI PHÁP ......................................................................... 22
3.1 Liên hệ sở hữu chéo ngân hàng với một số nước ....................................................... 22
3.2 Giải pháp .................................................................................................................. 24
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 3
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ SỞ HỮU CHÉO
1.1. Khái niệm:
Sở hữu chéo là 2 tổ chức sở hữu cổ phần lẫn nhau. Sở hữu chéo là các khoản đầu
tư tài chính do các định chế tài chính hoặc các doanh nghiệp thực hiện để sở hữu chéo vốn
của nhau. Và tùy vào bối cảnh, sở hữu chéo rất đa dạng khi kết hợp mọi thành phần tham
gia kinh tế: ngân hàng - doanh nghiệp sản xuất - công ty bảo hiểm - các quỹ đầu tư...
Nhưng trong nhiều mối quan hệ chằng chịt đó, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh
nghiệp lại là đặc biệt hơn cả.
1.2. Phân loại sở hữu chéo:
Theo báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 của Ủy ban kinh tế Quốc hội thì trong hệ thống
ngân hàng Việt Nam hiện nay, đang tồn tại 6 hình thức sở hữu chéo. Bao gồm:
- Ba nhóm tích cực:
(1) Sở hữu của các NHTM nhà nước và NHTM nước ngoài tại các Ngân hàng liên doanh
(2) Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM
(3) Cổ đông tại các NHTM là các Công ty quản lý quỹ
- Ba nhóm đáng lo ngại:
(4) Sở hữu của NHTM nhà nước tại các NHTM cổ phần
(5) Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần
(6) Sở hữu NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng Công ty Nhà nước và tư nhân
(Nguồn: Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 của Ủy ban Kinh tế Quốc hội)
Trong đó, nổi bật là việc sở hữu ngân hàng thương mại cổ phần bởi các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước và tư nhân.
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 4
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỞ HỮU CHÉO TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng sở hữu chéo tại Việt Nam
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có quá trình phát triển vượt bậc cả
về số lượng các ngân hàng lẫn về tổng mức tín dụng trong những năm qua. Quy mô tín
dụng ngân hàng so với GDP đã tăng từ 20% vào cuối những năm 1990 lên đến 136% vào
cuối năm 2010. Sự tăng trưởng nhanh chóng của các ngân hàng thương mại cổ phần đã đi
kèm với việc hình thành cấu trúc sở hữu chéo, và điều đó làm cho mối quan hệ giữa ngân
hàng thương mại cổ phần với các tập đoàn tư nhân ngày càng trở nên phức tạp. Nhiều
ngân hàng có thể được sở hữu bởi rất nhiều công ty gia đình hoặc các thành viên gia đình
vốn đồng thời lãnh đạo ở các doanh nghiệp khác.
Hệ thống Ngân hàng đã hình thành một mạng lưới sở hữu chéo và cho vay theo
quan hệ rất phức tạp, nhằm mục đích thâu tóm ngân hàng, thu xếp vốn cho những dự án
đầu tư chưa minh bạch. Theo đó, rất nhiều công ty lớn, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế
Nhà nước và các tập đoàn cổ phần, dù không thuộc lĩnh vực tài chính nhưng hiện đang
đầu tư dài hạn với vai trò nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến lược trong các Ngân hàng thương
mại. Chưa kể, các Ngân hàng cũng sở hữu cổ phần lẫn nhau, cổ đông tại các Ngân hàng
thương mại là các công ty quản lý quỹ đầu tư vốn vào những Ngân hàng khác có tiềm
năng. Hiện không ít tập đoàn, tổng công ty Nhà nước và tư nhân cũng đang đầu tư, sở hữu
chéo khi họ có trong tay khá nhiều Ngân hàng.
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 5
(Nguồn: FETP tổng hợp từ báo cáo tài chính của các ngân hàng, thời điểm tháng 6/2011)
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 6
Sở hữu của các NHTM nhà nước và NHTM nước ngoài tại các NH liên doanh:
Hiện tại có 6 NHLD trong hệ thống các tổ chức tín dụng của Việt Nam. Thông thường
một ngân NHLD được sở hữu bởi một ngân hàng nước ngoài và một ngân hàng trong
nước. Chẳng hạn ngân hàng Việt Thái là NHLD giữa 3 đối tác lớn: Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT), Ngân hàng Thương mại Siam
của Thái Lan và Tập đoàn Charoen Pokphand (CP) của Thái Lan với tỉ lệ vốn góp tương
ứng là 34%, 33% và 33%; ngân hàng Việt Nga là liên doanh giữa Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng VTB (trước là Ngân hàng Ngoại thương Nga
Vneshtorgbank) với mức góp vốn điều lệ ngang nhau
Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM, cả nhà nước lẫn cổ phần: đứng
trước nhu cầu thu hút vốn và kỹ năng quản trị từ các định chế tài chính có kinh nghiệm
nước ngoài, NHNN đã có chủ trương khuyến khích các NHTM trong nước tìm kiếm các
đối tác nước ngoài làm cổ đông chiến lược. Đến nay, có khoảng 10 NHTM có đối tác
chiến lược là các tập đoàn tài chính nước ngoài
(Nguồn: Reuters tổng hợp, báo Cafef.vn)
Cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý quỹ: Từ năm 2005 trở lại đây, các
quỹ quản lý vốn bắt đầu xuất hiện nhiều ở Việt Nam. Các quỹ này thường đầu tư vốn vào
những NHTM cổ phần có tiềm năng phát triển tốt. Chẳng hạn, Vinacapital đầu tư vốn vào
Sacombank, VOF đầu tư vào Eximbank, quỹ Dragon đầu tư vào ACB …
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 7
Sở hữu của các NHTMN nhà nước tại các NHTM cổ phần: quan hệ sở hữu này
hình thành chủ yếu việc yếu kém nghiệp vụ ngân hàng của các NHTM cổ phần trong giai
đoạn đầu thành lập cũng như trong giai đoạn khủng hoảng 1997-1998. Tính đến nay, có
gần 8 NHTM cổ phần có quan hệ cổ phần với 4 NHTM nhà nước. Tiêu biểu là
Vietcombank, hiện đang sở hữu 11% tại Ngân hàng Quân đội, 8,2% tại Eximbank, 4,7%
tại Ngân hàng Phương đông, 5,3% tại Ngân hàng Sài Gòn, Eximbank nắm 9,7% STB;
Phương Nam nắm 4,8% STB; MSB nắm 9,4% STB... Một số ngân hàng như NHTMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
(VCB), Ngân hàng TMCP Công thương (VietinBank) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn (Agribank) đều sở hữu các ngân hàng khác. Chẳng hạn Ngân hàng TMCP
Hàng Hải (Maritime Bank) được sở hữu bởi Agribank, trong khi đó Maritime Bank lại
đang sở hữu MB và Ngân hàng Phát triển Mê Kông (MDB), ngày 19/6/2012, Ngân hàng
TMCP Hàng hải Việt Nam (Maritime Bank - MSB) chi khoảng 220 tỷ đồng mua thêm
15,228 triệu cổ phiếu MBB của Ngân hàng TMCP Quân đội. Sau giao dịch này, Maritime
Bank nâng tổng số lượng cổ phần nắm giữ lên 94.114.630 cổ phiếu, tương đương tỷ lệ
9,411% vốn điều lệ của MBB. Trước đó, Nghị quyết ĐHCĐ Maritime Bank hồi tháng 4
cũng đã thông qua việc ủy quyền cho HĐQT góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp, tổ
chức tín dụng (TCTC) có giá trị trên 20% vốn điều lệ của Maritime Bank (tương đương
1.600 tỷ đồng).
Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần: Hiện tượng sở hữu lẫn nhau giữa các
NHTM cổ phần cũng khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Từ những thông tin công bố của
các ngân hàng, hiện có ít nhất sáu NHTM cổ phần có cổ đông là một NHTM cổ phần
khác. Chẳng hạn, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) đang sở hữu Ngân hàng TMCP Xuất
nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), 6.1 % Kienlongbank ( ACBS nắm giữ ),10.8 % Đại Á
Bank và Vietbank, còn Eximbank hiện sở hữu 10,6% cổ phần tại Sacombank, 8,5% cổ
phần tại Ngân hàng Việt Á. Điều này cho thấy một hiện tượng sở hữu chồng chéo lẫn
nhau giữa các ngân hàng thương mại, tạo nên tháp ngân hàng mà nguy cơ của nó có thể
dẫn đến sự đổ vỡ của toàn hệ thống nếu không được quản lý chặt chẽ.
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 8 Sở hữu NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân: trong
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 9
giai đoạn bùng nổ các NHTM cổ phần và quỹ đầu tư tài chính, rất nhiều tập đoàn và tổng
công ty nhà nước đã tham gia góp vốn hình thành các tổ chức tín dụng này. Mới đây Ủy
ban Kinh tế đã điểm mặt 40 tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân đổ vốn vào các
ngân hàng thương mại với cổ phần trên 5%. Nhìn vào các bản báo cáo cơ cấu cổ đông của
các NHTMCP ở VN, có thể thấy khá đầy đủ các gương mặt từ các tổng công ty đến các
tập đoàn DNNN bỏ vốn đầu tư vào các NH. Có thể điểm mặt được các tập đoàn lớn đang
mạnh tay chi tiền trái ngành như: Tập đoàn Bảo Việt sở hữu BaoVietBank; TCông ty
Petrolimex đầu tư vào PG Bank; Tập đoàn Viettel thì sở hữu NH Quân đội (MBB); PVN
bỏ vốn vào OceanBank, NH Dầu khí Toàn cầu; Tập đoàn Dệt - May VN (Vinatex) đầu tư
vào NH Nam Việt; Tập đoàn CNThan-Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) và Tập đoàn
Caosu Việt Nam sở hữu SHB, Điện lực Việt Nam (EVN) là cổ đông của ABBank...Công
ty thông tin di động (MobiFone thuộc VNPT) và Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV Gas)
thuộc PVN là cổ đông chiến lược của SeABank; VNPT tham gia góp vốn vào NH
LienVietBank... Rồi FPT - tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin và Tập
đoàn Doji bỏ vốn vào Tienphong Bank... Dễ thấy, đây là một hoạt động đầu tư đa ngành.
Về bản chất, đầu tư đa ngành không phải là xấu, và đây là hoạt động nhằm tối đa hóa lợi
nhuận của các ông chủ. Nhưng vấn đề trở nên đáng chú ý, khi hoạt động đầu tư đa ngành
nhắm tới ngân hàng. Và điều đáng lo ngại ở chỗ, rất có thể các ông chủ ngân hàng bằng
một đồng vốn tự có, có thể huy động cả chục đồng vốn để đổ vốn cho các dự án sân sau
một cách dễ dãi. Một trong những điểm nóng gầnÔng Đặng Thành Tâm nắm 23,69% cổ
phần Công ty Cổ phần Viễn thông Sài Gòn (SGT), nắm 34,94% cổ phần của Tổng công
ty Phát triển nhà Kinh Bắc (KBC). Mối quan hệ sở hữu gián tiếp là: SGT trực tiếp sở hữu
9,41% cổ phần Western Bank; còn KBC đầu tư 483 tỷ đồng tại Công ty Cổ phần năng
lượng Sài Gòn - Bình Định, vốn chiếm 9,85% vốn sở hữu tại Western Bank và 11,93% tại
Navibank.
Có thể thấy, bản thân các tập đoàn DNNN, tư nhân đã bỏ vốn vào NH, nhưng chính
các NH cũng đang đầu tư chéo, sở hữu lẫn nhau. Điều đó làm cho hệ thống NH VN như
một mạng nhện bùng nhùng với những mảng đầu tư chồng chéo, sở hữu lẫn nhau, khó mà
phân định được ai là cổ đông chính, ai là cổ đông phụ...
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 10
2.2. Tác động của sở hữu chéo đến hoạt động kinh doanh ngân hàng
2.2.1. Tác động tích cực:
Trong các mối quan hệ trên, ba nhóm sở hữu chéo đầu tiên có tính tích cực vì các
mối quan hệ này chủ yếu hướng đến việc tăng cường thúc đẩy hoạt động thương mại giữa
Việt Nam và quốc tế, nâng cao năng lực quản trị và thúc đẩy việc sử dụng vốn một cách
có hiệu quả. Nó góp phần làm tăng hiểu biết giữa ngân hàng với DN, nâng cao năng lực
quản trị, tài chính, công nghệ, nhân sự, mở rộng quy mô, thị phần, cải thiện sức cạnh
tranh và hiệu quả kinh doanh, nhất là đối với DN và NH nhỏ; hình thành nên một cơ cấu
sở hữu và quản trị ổn định trong các DN và NH. Các ngân hàng có thể hỗ trợ nhau về mặt
quản trị về mặt công nghệ, nhất là các ngân hàng lớn, lâu năm có khả năng về vốn, khả
năng quản trị tốt có thể thông qua mua cố phiếu của một ngân hàng nhỏ khác tham gia
vào quản trị ngân hàng đó giúp ngân hàng phát triển tốt hơn. Ngân hàng Tokyo-
Mitsubishi UFJ - thuộc tập đoàn tài chính Mitsubishi UFJ Financial Group Inc (MUFG),
dự kiến sẽ chi 60 tỷ Yên (tương đương khoảng 720 triệu USD) để nắm 20% cổ phần của
Vietinbank.
Hơn nữa, sở hữu chéo cho phép công ty khai thác được các cơ hội và tiềm năng
kinh doanh có lợi trên thị trường; đa dạng hóa hoạt động và phân tán rủi ro kinh doanh;
đồng thời, cho phép đạt hiệu quả khống chế, chi phối thị trường cao với một lượng vốn cổ
phần nhỏ theo “mô hình kim tự tháp”. Một ví dụ điển hình là trường hợp của Masan và
Techcombank. Xuất phát từ công ty hàng tiêu dùng sản xuất mì ăn liền, nước chấm, với
sự góp sức của các nguồn tài chính nước ngoài, Masan đã mở rộng đa ngành với 3 lĩnh
vực là hàng tiêu dùng, ngân hàng và khoáng sản thông qua Masan Consumer (tiêu dùng),
Ngân hàng Techcombank (tài chính) và Masan Resources (khai thác khoáng sản) Mối
quan hệ này dựa trên cả 2 con đường: sở hữu cổ phần và những người điều hành nằm
trong hội đồng quản trị lẫn nhau. Chẳng hạn, Masan sở hữu 19,71% vốn điều lệ của
Techcombank. Đồng thời, nếu như ở Masan, ông Nguyễn Đăng Quang và Hồ Hùng Anh
lần lượt giữ vị trí Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị thì ở Techcombank, vị trí
này đảo ngược lại khi ông Hồ Hùng Anh là Chủ tịch và ông Quang là Phó Chủ tịch.Sự
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 11
gắn kết bền chặt này đã mang lại lợi ích cho cả 2 bên. Techcombank là ngân hàng có tốc
độ tăng trưởng nhanh trong giai đoạn hiện nay. Còn Masan phát triển mạnh mẽ với doanh
thu Masan Consumer năm 2011, trước khi mua Vinacafe, đạt 7.057 tỉ đồng, lợi nhuận
2.254 tỉ đồng.
2.2.2. Tác động tiêu cực
Khi các NHTMNN là cổ đông lớn của các NHTM cổ phần, các NHTM nhà nước
có thể ảnh hưởng đến các ngân hàng thuộc nhóm sau trong việc cung cấp vốn cho các
doanh nghiệp nhà nước.
Vấn đề thứ nhất: Tình trạng nợ xấu
Ở tầm vi mô, sở hữu chéo ngân hàng là một trong những nguyên nhân quan trọng
nhất gây ra tình trạng nợ xấu hiện nay.
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 12
Xét về cơ cấu:
Qua biểu đồ trên cho thấy, thực trạng nợ xấu đang là vấn đề đáng lo ngại đối với
nền kinh tế của Việt Nam. Nhóm NHTMNN bao gồm 4 ngân hàng lớn nhưng lại chiếm
gần 1 nửa phần nợ xấu. Trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, bong bóng bất động sản
bùng nổ thì tình trạng sở hữu chồng chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam là một
trong những nguyên nhân chính làm cho nợ xấu ngày càng gia tăng. Thị trường liên NH
vốn là nơi vay mượn lẫn nhau giữa các NH, thường là NH lớn cho NH nhỏ vay, nhất là
các NH nhỏ thuộc sở hữu của chính những NH lớn này. Sau đó, các NH nhỏ hơn sử dụng
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 13
nguồn tài trợ thường xuyên từ thị trường liên NH để cho những công ty ủy thác đầu tư
vay (như các công ty đầu tư tài chính, công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán...).
Những công ty ủy thác đầu tư thì lại chủ yếu thuộc sở hữu của các NH. Theo vòng luẩn
quẩn này, dòng tiền cứ chảy lòng vòng giữa các NH, công ty với nhau rồi tuồn vào bất
động sản, chứng khoán… Đến khi thị trường bất động sản đóng băng, chứng khoán sụt
giảm mạnh và kéo dài cũng là lúc các công ty ủy thác đầu tư thua lỗ, tạo ra những khoản
nợ xấu cho chính các NH. Nợ xấu hiện nay chiếm khoảng 10% trong toàn hệ thống, tương
đương với 258.000 tỉ đồng (khoảng 12 tỉ USD); đây là một tỷ lệ rất cao và rủi ro.
Sở hữu chéo cũng cho phép ngân hàng A giấu nợ xấu của mình bằng cách không
khai báo nợ xấu mà nhờ ngân hàng B (mà ngân hàng A có sở hữu) cho vay, qua đó giảm
được mức nợ xấu phải khai báo và không phải trích dự phòng rủi ro tương ứng. Thêm vào
đó, các quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro có thể bị làm sai lệch: Khi
khách hàng không trả được nợ, thay vì xếp khoản vay thành nợ xấu và trích dự phòng rủi
ro theo quy định, ngân hàng A có thể cho vay đảo nợ… Sở hữu chéo cũng cho phép ngân
hàng A giấu nợ xấu của mình bằng cách không khai báo nợ xấu mà nhờ ngân hàng B
(ngân hàng A có sở hữu) cho vay, qua đó giảm được mức nợ xấu phải khai báo và không
phải trích dự phòng rủi ro tương ứng. Đó cũng là một trong những lý do khiến NHNN khó
nắm được chính xác số nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Theo số liệu của NHNN,
đến ngày 20/8/2012, tiền gửi vào ngân hàng tăng khá mạnh, tới 10,26%, nhưng dư nợ chỉ
tăng 1,4%, vậy tiền còn lại chạy vào đâu? Không ngân hàng nào dại ôm tiền vào cho vào
tủ, rồi cuối tháng lôi tiền đó ra trả lãi. Nhiều khả năng tiền đã chảy những doanh nghiệp
sân sau, thông qua công ty con để vay hàng nghìn tỷ đồng. Hoặc tiền chỉ chảy loanh
quanh trong thị trường 2 để các ngân hàng đảm bảo thanh khoản của nhau. Như vậy là các
NH vẫn tiếp tục huy động, nhưng để nuôi nợ xấu chứ không thể cấp vốn cho sản xuất.
Chúng ta đều biết sở hữu chéo cho phép một doanh nghiệp (hay ngân hàng) có tỷ
lệ cổ phần lớn trong các ngân hàng thương mại có thể gây áp lực (một cách hợp pháp như
qua bỏ phiếu trong hội đồng quản trị với vị thế cổ đông chiến lược) để ngân hàng này cấp
vốn đầu tư vào những dự án (dưới chuẩn ) của doanh nghiệp hay ngân hàng “sân sau” của
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 14
mình. Nguy cơ là quy định bị “vượt rào”, bộ máy sàng lọc theo tiêu chí hiệu quả đầu tư
vốn rất nghiêm ngặt của hệ thống ngân hàng thương mại có thể bị tê liệt hay trở nên hình
thức, gây ra một loạt các hệ lụy. Chẳng hạn theo báo cáo tài chính 2011, một ngân hàng
thuộc nhóm 3, dư nợ tín dụng cuối năm 2011 khoảng 13.000 tỷ đồng nhưng tổng số vốn
cung cấp cho các DN liên quan đến cổ đông là 2.035 tỷ đồng. Ngoài ra gần 1.000 tỷ đồng
vốn của ngân hàng này cũng đang được cho các cá nhân liên quan vay. Hay một ngân
hàng khác, tổng dư nợ cho vay đạt hơn 8.854 tỷ đồng. Trong đó, 2.510 tỷ đồng (chiếm
28% tổng dư nợ) có đích đến là các DN liên quan đến cổ đông của ngân hàng này.
Thông tư 13/2010/TT-NHNN cũng quy định hoạt động ngân hàng đầu tư phải
được tách bạch khỏi hoạt động của ngân hàng thương mại. Theo đó, ngân hàng không
được cấp tín dụng cho công ty trực thuộc hoạt động kinh doanh chứng khoán. Sử dụng
quyền sở hữu chéo, ngân hàng A có thể dễ dàng lách quy định này bằng cách tác động
qua các kênh khác nhau để ngân hàng B (mà ngân hàng A đang đồng sở hữu) mua trái
phiếu của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ của ngân hàng A. Tình trạng “rối
loạn” tài chính đã trở thành hiện thực.
Như vậy, sở hữu chéo làm cho “bong bóng” nợ xấu ngày một phình to hơn và nguy
hiểm hơn là nó che giấu những con số thực về nợ xấu của các ngân hàng thương mại, hệ
lụy của nó là có thể làm đổ vỡ cả một hệ thống ngân hàng nếu như tình trạng này không
được giải quyết kịp thời.
Vấn đề thứ hai: Vốn ảo
Sở hữu chéo không chỉ khiến vốn trong các ngân hàng (NH) – cũng là tiền gửi bị “
tuần” ra “sân sau” của các cổ đông lớn. Nghiêm trọng hơn, nó tạo ra một dòng vốn ảo
trong hệ thống NH.
Với mục tiêu nâng cao năng lực tài chính, NHNN qui định,tới cuối năm 2010, các
NHTM phải có vốn điều lệ tối thiểu 3000 tỷ đồng. Các NH hoàn toàn có thể tận dụng tối
đa sở hữu chéo để thực hiện việc tăng vốn trong thời điểm thị trường tài chính cực kỳ khó
khăn. Với sở hữu chéo này, các NH có thể “ lách” thông qua việc vay vốn từ NH này gớp
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 15
cho NH kia và ngược lại. Như vậy, cả 2 NH liên quan đều báo cáo tăng vốn, các ông chủ
NH cũng tăng sở hữu nhưng thực chất là tăng ảo. Nhiều trường hợp lại tăng vốn qua trung
gian. Cụ thể, một công ty đầu tư tài chính là cổ đông lớn của 2 NH, NH này ủy thác cho
vay một nguồn vốn vào Nh kia qua công ty đầu tư. NH được vay nghiễm nhiên vượt ải
tăng vốn còn NH cho vay được tính là tăng trưởng tín dụng dù vốn không hề đưa vào sản
xuất. Như vậy, số vốn thực tế giữa 2 NH vẫn giữ nguyên nhưng thể hiện trên sổ sách đã
tăng lên.
Sau quyết định 141 của NHNN ra đời thì kéo theo dó là một cuộc đua tăng vốn
điều lệ ồ ạt. Hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn được nâng cấp lên
thành đô thị đã tăng vốn kỷ lục, chỉ trong vòng 5-8 năm, vốn điều lệ tăng 9-15 lần, có
ngân hàng trong 7 năm, vốn điều lệ tăng từ 17 tỷ đồng lên tới 1.000 tỷ đồng. Điển hình là
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Á, trong hơn 4 năm (2006-2012) tăng vốn gấp 6 lần
từ 500 tỷ lên tới 3.098 tỷ đồng. Việc tăng vốn quá nhanh của hệ thống ngân hàng thương
mại chủ yếu nhờ vốn ảo, nghĩa là các cổ đông, quỹ đầu tư, công ty đi vay vốn ngân hàng
hàng ngàn tỷ đồng từ ngân hàng này để góp vốn vào ngân hàng khác.
Từ “ ma trận” vốn ảo của các NHTM, gây ra sự mù mờ vè sở hữu thực, làm sai
lệch việc đánh giá rủi ro của hệ thống ngân hàng, vì có rất nhiều chỉ số dựa trên số vốn sở
hữu mà ngân hàng đang nắm, trong khi vốn đó là vốn ảo. Các chỉ số không chính xác sẽ
dẫn đến những sai lệch, cả về quản trị ngân hàng lẫn giám sát hệ thống tài chính.
Vấn đề lợi ích nhóm gây bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp:
Sử dụng lợi thế sở hữu và kiểm soát vận hành ngân hàng để cấp vốn giá rẻ cho các cơ sở
kinh doanh có lợi ích liên quan của giới chủ ngân hàng không còn là chuyện mới với công
chúng Việt Nam. Đó cũng là lý do mà hàng loạt các tập đoàn lớn thành lập nên những
ngân hàng con của họ để huy động vốn giá rẻ đầu tư vào các dự án kinh doanh riêng của
họ. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhỏ không những khó tiếp cận với nguồn vốn vay của
ngân hàng mà còn phải trả chi phí lãi vay cao hơn. Điều này gây ra tình trạng cạnh tranh
không công bằng. Bên cạnh đó, nó còn làm cho hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội thấp
bởi vì nhiều dự án quy mô lớn, không có hiệu quả kinh tế thì lại được đầu tư, trong khi
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 16
những dự án tốt thì lại khó tiếp cận với vốn vay. Có thể thấy rõ qua trường hợp của tập
đoàn đóng tàu lớn nhà nước là Vinashin với số tiền thất thoát lên tới hàng chục ngàn tỷ
đồng để đầu tư vào những dự án kém hiệu quả như: mua tàu Hoa Sen với giá trị 1.300 tỷ
về để rồi với mỗi chuyến chạy lỗ 1,5 tỷ và trả lãi mỗi năm 80 tỷ, rồi đầu tư nhà máy điện
diasel Cái Lân với vốn đầu tư hơn 700 tỷ và những khoản lỗ khổng lồ, rồi hàng loạt các
dự án bất động sản bị bỏ rơi gây lãng phí tài sản...
Sở hữu chéo và lợi ích nhóm làm ra đời các thế lực độc quyền. Cộng đồng doanh
nghiệp thì từ lâu đã hiểu rõ lợi ích của sở hữu chéo giữa tài chính- ngân hàng và sản xuất-
thương mại. Nhóm doanh nghiệp nhận được dòng vốn lớn với chi phí thấp sẽ có năng lực
cạnh tranh vượt trội mà không cần tới bất kỳ cải thiện nào trong quản lý, hay tiến bộ trong
công nghệ sản xuất. Cùng lúc đó, phần còn lại của nền kinh tế phải gánh chịu chi phí vốn
cao và bị bào mòn năng lực cạnh tranh. Tựu chung lại, sức cạnh tranh của toàn bộ nền
kinh tế suy giảm. Để bù đắp năng lực kinh doanh yếu, nhóm doanh nghiệp thân hữu ngày
càng đòi hỏi lượng vốn đầu vào lớn hơn. Điều này khiến nguồn vốn sẵn sàng đáp ứng nhu
cầu đầu tư, mở rộng sản xuất-kinh doanh với phần còn lại của xã hội trở nên khan hiếm
và đẩy chi phí vốn lên cao hơn. Trong vòng xoáy này, đại bộ phận doanh nghiệp đi tới
chỗ không thể đạt được hiệu suất lợi nhuận đủ trang trải chi phí đầu vào (trong đó, chi phí
vốn có tỷ trọng đáng kể nhất). Hệ quả là tình trạng co hẹp sản xuất, thua lỗ và phá sản
tràn lan. Lúc này xuất hiện cơ hội để các doanh nghiệp dồi dào tài chính triển khai mạnh
mẽ các hoạt động thâu tóm. Các thế lực độc quyền ra đời. Như vậy, sở hữu chéo gây ra sự
bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hình thành nên các thế lực độc
quyền đồng thời làm phá sản các doanh nghiệp nhỏ, gây ra những bất ổn trong nền kinh tế
hiện nay và khiến cho những đồng vốn trong nền kinh tế không được sử dụng một cách
hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực của đất nước.
Vấn đề thứ ba: thâu tóm ngân hàng: Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) Nguyễn Văn Bình, qua kết quả NHNN thanh tra 27 tổ chức tín dụng trong năm
2012, nhiều tổ chức tín dụng bị chi phối bởi một nhóm cổ đông, thông qua sự chi phối ở
các khoản vay, ở nhiều ngân hàng có 70 - 90% dư nợ là để phục vụ cho nhóm cổ đông đó.
Các cá nhân, nhóm cổ đông thâu tóm ngân hàng không phải bằng tiền thật của mình mà
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 17
dùng các khoản đi vay để thâu tóm ngân hàng khác sẽ gây nên những hệ quả vô cùng lớn
như méo mó trong nên kinh tế, gây nên những tiêu cực dư luận trong xã hội. Sở hữu chéo
còn khiến dòng vốn huy động đi lòng vòng giữa các ngân hàng, mà không tới nơi cần
thiết phục vụ mục tiêu của Chính phủ và yêu cầu phát triển bền vững và là một trong
những công cụ để một số cá nhân tổ chức thu lợi riêng cho mình. Ví dụ những gói cứu trợ
mà nhà nước tung ra để hỗ trợ các doanh nghiệp, nhưng có bao nhiêu phần trong số đó
đến tay các doanh nghiệp có khả năng nhưng lại thiếu vốn. Đó là nạn tham nhũng mà sở
hữu chéo đang góp phần che đậy thực tế đó.
Một rủi ro khá lớn khác là khi các ngân hàng hình thành một “mạng nhện” thì sẽ
nảy sinh sự độc quyền nhóm và thâu tóm hệ thống ngân hàng. Liên minh ngân hàng này
có thể đủ sức mạnh để chi phối lãi suất, tỷ giá và kể cả chính sách. Điều này có thể gây
xáo trộn trên thị trường và thiệt hại cho nền kinh tế, đồng thời gây rủi ro cho thị trường tài
chính, điều đó có tác động đến sự bất ổn kinh tế vĩ mô.
Sở hữu chéo ảnh hưởng xấu đến sự nhìn nhận của xã hội, tức là liên quan vấn đề
xã hội. Vì sở hữu chéo giảm tính minh bạch, giảm khả năng giám sát và tăng khả năng đổ
vỡ của một định chế tài chính. Khi đó người gửi tiền sẽ chịu thiệt hại. Hơn nữa, hệ thống
ngân hàng là nơi nắm giữ của cải lớn nhất của xã hội, nắm giữ mồ hôi công sức lao động
của người dân, và điều gì sẽ xảy ra khi những ngân hàng ấy sử dụng tiền không đúng mục
đích, điều gì sẽ xảy ra khi niềm tin của công chúng mất đi, khi tháp ngân hàng sụp đổ?
Kinh nghiệm của các nước vào những thời điểm khủng hoảng, cần cải tổ hệ thống
tài chính cho thấy, họ đều nâng mạnh số tiền bảo hiểm, thậm chí bảo hiểm 100% giá trị
khoản tiền gửi nhằm có được sự ổn định trong quá trình tái cấu trúc hay cải cách để làm
lành mạnh hệ thống ngân hàng.
2.3. Nguyên nhân của sở hữu chéo tại Việt Nam
Sở hữu chéo có nguyên nhân khách quan và cả chủ quan, do yêu cầu có thực của
đời sống kinh tế - xã hội và còn do cả những kẽ hở của luật định. Quá trình tái cấu trúc hệ
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 18
thống NH cần phát huy được mặt tích cực và chủ động giảm thiểu các vấn đề hệ lụy từ sở
hữu chéo nêu trên.
Nguyên nhân thứ nhất: Sự quản lý lỏng lẻo của cơ quan giám sát và những lỗ hổng trong
luật quản lý ban hành.
Chính sách quản lý và hệ thống thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng chưa có
hiệu quả và hiệu lực cao trong bối cảnh các TCTD phát triển nhanh về số lượng và quy
mô, đồng thời hội nhập quốc tế sâu rộng. Nhiều quy định, chuẩn mực về an toàn hoạt
động ngân hàng đã được đổi mới theo hướng tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, tuy nhiên
vẫn còn rất chậm so với các hệ thống ngân hàng trong khu vực và tụt hậu so với sự tiến bộ
của các chuẩn mực quốc tế. Các tiêu chuẩn cấp phép, các chuẩn mực an toàn chưa chặt
chẽ, chưa kiềm chế mức độ rủi ro gia tăng trong hoạt động ngân hàng và chưa được bảo
đảm tuân thủ nghiêm đã thúc đẩy quy mô hệ thống các TCTD tăng nhanh cùng với sự tích
lũy ngày càng lớn rủi ro.
- Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định một cổ đông cá nhân không được sở
hữu quá 5% và một tổ chức không quá 15% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, trước
đó tỷ lệ này lần lượt là 10% và 20%.
- Tại Thông tư 13/2010/TT-NHNN, quy định “Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của
tổ chức tín dụng và các công ty con, công ty liên doanh, công ty liên kết của tổ
chức tín dụng trong cùng một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, tổ chức tín
dụng khác không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự
án đầu tư, tổ chức tín dụng khác đó”.
Riêng phần giám sát và hành pháp thì còn rất sơ sài và vì vậy đã có những lỗ hổng
lớn. Sở dĩ Luật các tổ chức tín dụng và thông tư quy định giảm tỷ lệ sở hữu cá nhân và tổ
chức xuống là nhằm làm cho ngân hàng có tính đại chúng hơn. Ngoài ra, các nhà quản lý
lo ngại sự mất an toàn của hệ thống do tình trạng sở hữu chéo hoặc khi một cá nhân hoặc
tổ chức sở hữu tỷ lệ lớn có thể lũng đoạn ngân hàng. Tuy nhiên, luật vẫn còn những lỗ
hổng chưa chắt chẽ, vì những người muốn sở hữu tỷ lệ lớn hơn quy định không khó.
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 19
Người chủ sở hữu thực sự có thể không cần đứng tên mà vẫn chi phối ngân hàng thông
qua một người thứ ba.
Bên cạnh những lỗ hổng về luật quản lý là sự mập mờ về thông tin sở hữu trên sổ
sách của ngân hàng, việc tìm thông tin về các tổ chức tín dụng mua cổ phần của các tổ
chức tín dụng khác là điều hết sức khó. Rất ít ngân hàng công khai tỷ lệ đầu tư vào các tổ
chức tín dụng khác. Những trường hợp công bố chính thức như Vietcombank, Vietinbank
không nhiều. Không những vậy, những con số cũng có thể chưa phản ánh hết thực tế việc
sở hữu giữa các ngân hàng.
- Văn bản qui định của Chính phủ, cơ quan quan lý, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
về yêu cầu tăng vốn điều lệ tối thiểu đối với các ngân hàng thương mại cổ phần,
các ngân hàng đã phải chạy đua nhằm đáp ứng được yêu cầu về vốn tối thiểu theo
luật định là 1.000 tỷ và 3.000 tỷ tương ứng vào năm 2008 và 2010 (theo Nghị định
141-CP/2006 và Thông tư 13/2010-TT/NHNN liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu).
- Theo Quyết định 13/2008/QĐ-NHNN về mạng lưới hoạt động của ngân hàng
thương mại (NHTM), các ngân hàng phải đảm bảo vốn điều lệ đạt mức trên 100 tỷ
đồng/chi nhánh nếu chi nhánh được mở tại TP. HCM và Hà Nội, trên mức 50 tỷ
đồng/chi nhánh nếu chi nhánh được mở tại các địa phương khác
Vào thời điểm Việt Nam được chấp thuận gia nhập WTO vào năm 2007, khi đó
các cơ quan quản lý nhà nước và ngành Ngân hàng dự đoán: sẽ có một cuộc xâm nhập
của các ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam khi Việt Nam mở cửa ngành Ngân
hàng vào năm 2011, vì thế các ngân hàng thương mại trong nước đã có cuộc đua tăng
vốn điều lệ/vốn chủ sở hữu nhiều hơn nữa nhằm đảm bảo năng lực tài chính, giữ thị phần
trước sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam.
Yêu cầu tăng vốn đối với các ngân hàng Việt Nam chủ yếu xuất phát từ quy mô về tài sản
và vốn chủ sở hữu của các ngân hàng Việt Nam là quá nhỏ so với các ngân hàng trong
khu vực và trên thế giới. Điều này dẫn đến cuộc đua tăng vốn điều lệ trong hệ thống ngân
hàng Việt Nam và kéo theo đó là cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng nhỏ khát vốn.
Trong khi nhóm các ngân hàng lớn đã gia tăng vốn điều lệ nhanh chóng để tăng năng lực
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 20
tài chính và chiếm lĩnh thị phần, đặc biệt là tăng trưởng nóng về tín dụng và giành thị
phần huy động vốn... thì các ngân hàng nhỏ phải tìm mọi cách để tăng vốn của mình
không bằng chính thực lực của mình mà thực hiện thông qua luân chuyển vốn lòng vòng,
phát hành cổ phần, dẫn đến tình trạng sở hữu chồng chéo, thâu tóm ngân hàng của một số
nhóm cổ đông, tập đoàn, công ty. Thêm nữa là việc các ngân hàng thương mại nông thôn
được chuyển đổi thành các ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, và khuyến nghị của
các nhà kinh tế cũng như của các cơ quan quản lý nhà nước về sáp nhập các ngân hàng
nhỏ để tạo ra những ngân hàng lớn hơn đã không được thực hiện vào thời gian đó. Cùng
với đó, các ngân hàng phải mở rộng các chi nhánh, phòng giao dịch nhằm tăng nhanh
nguồn vốn huy động, tăng nhanh cho vay để đảm bảo hiệu quả hoạt động
Điều kiện tăng vốn thiếu chặt chẽ tạo điều kiện cho hiện tượng sở hữu chéo, góp
vốn lẫn nhau giữa các ngân hàng; giữa ngân hàng với các định chế tài chính phi ngân
hàng; giữa ngân hàng với các doanh nghiệp diễn ra khá phổ biến. Việc cho phép một ngân
hàng mua cổ phiếu ngân hàng khác, các cổ đông được sở hữu cổ phiếu nhiều ngân hàng
khác nhau là cần thiết; nhưng cũng cần thiết phải bổ sung các quy định giới hạn nghiêm
ngặt hơn về mức sở hữu cổ phần và quyền tham gia lãnh đạo của mỗi cá nhân, kiên quyết
chấm dứt tình trạng tồn tại những ngân hàng chỉ do một, hai cổ đông hoặc một nhóm cổ
đông chi phối..
Điều 118 của Luật Doanh nghiệp quy định, các đối tượng là thành viên HĐQT,
ban kiểm soát, ban tổng giám đốc và những người có liên quan (người thân) phải công bố
về tỷ lệ sở hữu của mình và người có liên quan ở các tổ chức khác, dù tỷ lệ sở hữu cổ
phần lớn hay nhỏ; đồng thời phải công bố lợi ích có liên quan. Ngoài ra, để chống chuyển
giá, Luật Thuế yêu cầu doanh nghiệp phải tự công bố tất cả lợi ích thuế có liên quan đến
ban tổng giám đốc doanh nghiệp đó. Như vậy, có những quy định pháp lý rất cụ thể để cổ
đông, nhà đầu tư và thị trường có thể giám sát được vấn đề sở hữu chéo và các lợi ích liên
quan đến sở hữu chéo.
Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua trên thị trường không có doanh nghiệp hay cá
nhân nào công bố những thông tin này và cũng không có ai giám sát để xử phạt vi phạm
trong lĩnh vực này. Và hơn nữa việc giám sát quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 21
hay minh bạch hóa thông tin vẫn bị buông lỏng dẫn đến những kẻ lợi dụng vốn ảo thâu
tóm ngân hàng.
Nguyên nhân thứ hai : đó là do nạn tham nhũng móc ngoặc, nạn tư bản thân tộc bao che
cho nhau.
Các nhà quản lý nắm trong tay quyền lực kinh tế chính trị phân vùng kinh doanh
với nhau và chi phối các tập đoàn kinh tế nhà nước. Các tập đoàn đó có thể lập ra ngân
hàng thương mại cổ phần với danh hiệu là tư nhân mà về thực chất thì do một tay chân
thân tín của lãnh tụ đứng làm chủ. Các cá nhân làm chủ ngân hàng này mới lại lập thêm
các công ty đầu tư hay cơ sở tài chính để đứng tên vay tiền của ngân hàng mẹ. Bước kế
tiếp, công ty đầu tư hay cơ sở tài chính mới đi tìm các dự án tài trợ thật ra có sẵn trên
giấy. Đây là loại dự án ảo về chế biến, thương mại hay bất động sản với trị giá được ước
tính rất cao để vay tiền thật nhiều mà giá trị kinh tế hay kinh doanh thì rất đáng ngờ. Để
rồi, cuối cùng những khoản tiền đầu tư ấy lại quay trở lại túi của những cá nhân nắm
quyền lực kinh tế chính trị này.
Nguyên nhân thứ ba đó là: Ngân hàng trong những năm qua là ngành có tốc độ
phát triển nhanh đã thu hút các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đầu tư vốn kinh
doanh trong lĩnh vực ngân hàng. Đặc biệt, nhiều tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà
nước đầu tư, nắm giữ cổ phiếu và là cổ đông lớn hoặc chủ sở hữu của ngân hàng và
TCTD phi ngân hàng
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 22
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ VÀ GIẢI PHÁP
3.1. Liên hệ vấn đề sở hữu chéo ngân hàng với một số nước.
Sở hữu chéo là một chủ đề nghiên cứu lớn trong giới học thuật trên thế giới, được
giới thiệu như là một chiến lược quản trị của doanh nghiệp. Các nghiên cứu thường tập
trung nhiều ở các quốc gia có mức độ sở hữu chéo cao. Ở phương Tây là Đức, còn ở
phương Đông là Nhật, Hàn Quốc.
Các nghiên cứu trên thế giới đều thừa nhận sự thành công của quá trình công
nghiệp hóa ở Đức có sự đóng góp đáng kể của liên minh ngân hàng - doanh nghiệp. Hệ
thống tài chính của Đức lúc bấy giờ đi theo định hướng dựa vào ngân hàng. Đồng thời,
lĩnh vực ngân hàng cũng có mức tập trung rất cao. Có 4 ngân hàng lớn chiếm 20% quy
mô doanh thu toàn ngành: Deutsche Bank, Dresdner Bank và Commerzbank (thành lập từ
đầu thế kỷ XVIII vào thời kỳ công nghiệp hóa đầu tiên của người Đức) và Ngân hàng
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 23
Bayerische Hypo-und Vereinsbank. Các ngân hàng này có thể đóng nhiều vai trò trong
quá trình phát triển: nhà cho vay, cổ đông, đại diện ủy quyền hoặc là nhà tư vấn. Đồng
thời, đại diện của ngân hàng có thể có mặt trong hội đồng giám sát công ty, cho dù không
phải là cổ đông. Đây là một dấu hiệu cho thấy sự ảnh hưởng mạnh mẽ của lĩnh vực tài
chính lên sự quản trị của các ngành công nghiệp khác. Đặc biệt, sức mạnh của sự giám sát
này thể hiện qua 2 con đường: tỉ lệ sở hữu cổ phần và mối quan hệ của người đại diện
nằm trong ban quản trị công ty và ngược lại. Chính các mối quan hệ lâu dài, tập trung này
đã dẫn đến sự ổn định, gần gũi, phụ thuộc lẫn nhau và hỗ trợ đáng kể trong chiến lược
phát triển vì lợi ích chung của các bên liên quan.
Bài học thứ hai đến từ Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, các doanh
nghiệp Nhật tỏ ra khắng khít hơn với một ngân hàng trọng tâm và chủ đạo. Các ngân hàng
sau đó đã cho vay và mua lại cổ phần của doanh nghiệp. Một nghiên cứu cho thấy 65-
70% tỉ lệ cổ phiếu các công ty đại chúng niêm yết trên sàn chứng khoán là đều nằm dưới
dạng sở hữu chéo lẫn nhau, cho thấy mối quan hệ giữa các doanh nghiệp Nhật cũng
không kém phần “chằng chịt”.
Còn ở Hàn Quốc Chính tình trạng sở hữu chéo cộng với sự quản lý trực tiếp từ gia
đình sáng lập gần như không tạo ra một cơ chế điều hành hiệu quả. Các Công ty hoạt
động kinh doanh hiệu quả sẽ phải trợ cấp cho các Công ty hoạt động không hiệu quả
trong nội bộ chaebol thông qua hoạt động đầu tư và bảo lãnh chéo. Vấn đề “giải quyết nội
bộ” như vậy khiến cho các Công ty mạnh bị yếu đi và trên bình diện chung gây nên tình
trạng thiếu lành mạnh về cơ cấu vốn, thậm chí tạo nên dòng “vốn ảo”.
Rõ ràng, bằng chứng từ Đức và Nhật cho thấy sở hữu chéo không hoàn toàn mang
ý nghĩa tiêu cực như mọi người vẫn thường nghĩ. Thậm chí, đây là yếu tố quan trọng thúc
đẩy sự thành công của quá trình công nghiệp hóa ở cả 2 quốc gia phát triển ở 2 châu lục
khác nhau. Còn ở Việt Nam hình thức sở hữu chéo được thừa nhận là khá phổ biến nhưng
chưa có một nghiên cứu khoa học nào để xác nhận cũng như chứng minh được thành quả
từ mối quan hệ sở hữu chéo này. Sở dĩ như vậy là vì mức độ sở hữu chéo ở Việt Nam rất
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 24
khó đánh giá. Nguyên do là không minh bạch thông tin và các kế sách lách luật sở hữu
một cách hợp pháp.
Quay trở lại với câu chuyện của Đức và Nhật, từ sau thập niên 1990, mô hình quan
hệ tương trợ giữa ngân hàng và doanh nghiệp dường như đã giảm đi nhiều. Đức đang
chuyển dần sang định hướng thị trường thay vì dựa vào ngân hàng. Còn đối với Nhật,
nhiều nghiên cứu khẳng định mối quan hệ này không còn phù hợp. Đúc kết từ bài học
Nhật cho thấy các ngân hàng không thực hiện tốt vai trò giám sát các doanh nghiệp có
liên quan. Một lượng tín dụng lớn và kém chất lượng vẫn được cung cấp cho các doanh
nghiệp này. Hậu quả là ngân hàng phải gánh chịu những khoản nợ xấu và dẫn đến việc
giảm tài sản. Tình hình này đã buộc các ngân hàng phải tái cấu trúc và mức độ sở hữu
chéo đã giảm. Bài học khác lớn hơn từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 cho
thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ xấu là việc các công ty gia đình ở châu Á
đều nắm quyền kiểm soát ở các ngân hàng thương mại và sử dụng những ngân hàng này
tài trợ cho các dự án của mình và các công ty có liên quan. Và những bài học này đang
hiện hữu ở nền kinh tế Việt Nam.
3.2. Giải pháp:
Mặc dù Chính phủ và Ngân hàng nhà nước đã đưa ra quy định hạn chế tỉ lệ sở hữu
giữa các ngân hàng với nhau cũng như yêu cầu các tập đoàn nhà nước phải thoái vốn khỏi
các tổ chức tài chính, tín dụng nhưng dường như NHNN vẫn chưa động chạm gì được
nhiều đến mối quan hệ giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp tư nhân. Việc cho phép
một NH mua cổ phiếu NH khác, các cổ đông được sở hữu cổ phiếu nhiều NH khác nhau
là cần thiết; nhưng cũng cần thiết phải bổ sung các quy định giới hạn nghiêm ngặt hơn về
mức sở hữu cổ phần và quyền tham gia lãnh đạo của mỗi cá nhân; cần bổ sung quy định
mỗi cá nhân không được dùng những người được ủy quyền để mua hay khống chế cổ
phần tại NH và một người không thể tham gia đồng thời ban quản lý của hai NH trở lên.
Nếu điều này có xảy ra, cũng phải được tiến hành minh bạch và được giám sát chặt chẽ.
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 25
Ðặc biệt, cần nghiêm cấm việc các công ty và tập đoàn kinh tế đầu tư hoặc sở hữu NH, rồi
lại dùng NH đó để đầu tư vốn cho các dự án của mình không qua giám định hiệu quả kinh
doanh; bổ sung thêm quy định các công ty con không được phép nắm giữ cổ phiếu của
công ty mẹ và công ty mẹ cũng không được phép nắm giữ quá mức cổ phần của công ty
con. Ðồng thời, buộc các công ty muốn niêm yết phải có lượng tối thiểu (thí dụ, 1/4)
thành viên của Hội đồng quản trị là các thành viên độc lập từ bên ngoài; phải thành lập
một ủy ban bao gồm cả kiểm toán viên nội bộ, thành viên độc lập từ bên ngoài và các chủ
nợ để lựa chọn (hoặc gợi ý lựa chọn) kiểm toán viên bên ngoài nhằm tăng thêm tính minh
bạch cho hoạt động kiểm toán.
Tại Hội nghị về khuôn khổ ổn định và giám sát tài chính sắp tới đây, các quốc gia
sẽ bắt đầu bàn thảo về quá trình áp dụng tiêu chuẩn an toàn Basel III đối với ngành ngân
hàng.
Tuy nhiên trong trường hợp của Việt Nam, việc đạt tiêu chuẩn Basel I đã là một thử thách
rất lớn. Do đó, cần tăng tốc quá trình áp dụng và giám sát các tiêu chuẩn an toàn theo yêu
cầu và tiêu chuẩn quốc tế (Basel II và III đối với ngành NH) vào hoạt động kinh doanh và
quản lý tín dụng Việt Nam. Ðặc biệt, cần tăng mạnh hơn hàng chục lần mức chế tài xử
phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ - NH theo mức tỷ lệ thuận tương xứng
với quy mô và lợi nhuận thu được từ sự vi phạm mới thật sự có giá trị răn đe, cảnh báo
cao và giúp ngăn ngừa tái diễn cố ý các vi phạm trong lĩnh vực này.
Bên cạnh các quy định hạn chế tỷ lệ sở hữu giữa các NH với nhau, cũng như yêu
cầu các TÐNN phải thoái vốn khỏi các tổ chức tài chính, tín dụng theo lộ trình đến năm
2015, Chính phủ cần sớm nghiên cứu và thành lập thêm những định chế tổ chức, những
bộ phận độc lập để cảnh báo, kiểm soát và điều tra những vấn đề liên quan đến ngành NH,
tách biệt và kiểm soát chặt chẽ giữa chức năng, nhiệm vụ của NH đầu tư và NHTM ở Việt
Nam nhằm chỉ đạo kịp thời, chính xác việc giảm thiểu SHC không cần thiết theo mục tiêu
được nhấn mạnh trong Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10-2012. Ngoài
ra, lợi ích nhóm là nguyên nhân làm gia tăng SHC, đồng thời cũng là rào cản lớn nhất,
thao túng và ảnh hưởng đến cả hệ thống trong quá trình xử lý, tái cơ cấu NH
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 26
Vấn đề trước mắt thách thức của Việt Nam trong những năm tới vẫn là giải quyết
được vấn đề nợ xấu, nợ quá hạn trong hệ thống các tổ chức tín dụng để ổn định thanh
khoản toàn hệ thống. Theo đó, để thực hiện việc làm sạch các khoản nợ xấu và nợ quá hạn
của hệ thống các tổ chức tín dụng, rõ ràng Việt Nam cần phải có một dòng vốn ‘sạch’
tương đối lớn từ bên ngoài bơm vào, ước tính lên đến 250-300 nghìn tỉ (tương ứng với tỉ
lệ nợ xấu, nợ quá hạn khoảng 10-12% tổng dư nợ). Dòng vốn này có thể đến từ nước
ngoài hoặc từ ngân sách nhà nước. Nguồn vốn trong nước có thể hình thành từ việc có thể
thành lập hoặc cho phép thành lập các doanh nghiệp mua lại các khoản nợ quá hạn tại các
ngân hàng trực thuộc Ngân hàng nhà nước. Những khoản nợ quá hạn kém mà nhiều khả
năng khó có thể thu hồi được có tính chất tương tự nợ xấu sẽ được các ngân hàng thương
mại lựa chọn để bán cho các doanh nghiệp mua bán nợ này. Giải pháp được đưa ra là
Ngân hàng nhà nước cần đưa ra các văn bản pháp lý rõ ràng về các hoạt động mua bán
nợ, đặc biệt đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là một yêu cầu rất quan trọng để đẩy
nhanh việc giải quyết nợ xấu, nợ quá hạn trong thời gian tới.
Đồng thời, Chính phủ cần hình thành một quỹ tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
riêng do Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước cùng quản lý. Quỹ này chỉ nên sử dụng
tiền tiết kiệm từ chi tiêu chính phủ hoặc phát hành trái phiếu để vay từ nền kinh tế chứ
không phải là phát hành trái phiếu để Ngân hàng nhà nước mua lại. Quỹ cũng có thể được
hình thành từ các nguồn vốn vay từ Quỹ tiền tệ quốc tế hoặc các quỹ quốc tế khác mà
Việt Nam
Sáp nhập, giải thế các ngân hàng yếu kém, tránh tình trạng bao che cho các ngân
hàng, cho vay sai thì cũng phải chấp nhận phá sản, sáp nhập. Không thể có chuyện, NH
kinh doanh có lãi thì hưởng, nhưng nợ xấu cao lại được nhà nước đứng ra dọn dẹp hộ rồi
NH đó, các ông chủ NH đó, vẫn tiếp tục tồn tại, tiếp tục là ông chủ.
Động chạm đến vấn đề các nhóm lợi ích. Nhưng vấn đề này không chỉ dừng ở
nghịch lý việc lấy tiền thuế của dân phục vụ "sân sau" của các NH. Với vị trí độc quyền
cung cấp vốn cho nền kinh tế, "sức khỏe" của hệ thống NH có tác động trực tiếp tới sức
GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương Nhóm 12 – Lớp NH Đêm 1 –
K22
Trang 27
khỏe nền kinh tế. Nếu vẫn để tình trạng này tiếp diễn, rủi ro hệ thống là rất lớn. Xử lý nợ
xấu NH một cách minh bạch, sòng phẳng, công khai để thực hiện quyết tâm tái cơ cấu NH
của Chính phủ, người dân đang chờ đợi câu trả lời từ NHNN.
Ngoài ra, cần khống chế tỷ lệ sở hữu tại các tổ chức tài chính tín dụng bởi cá nhân
cũng như DN cần phải tính đến cả những sở hữu gián tiếp giữa cá nhân này với các Công
ty con, Công ty cháu của họ. Mặc dù Chính phủ và NHNN đã đưa ra quy định hạn chế tỷ
lệ sở hữu giữa các ngân hàng với nhau cũng như yêu cầu các tập đoàn nhà nước phải thoái
vốn khỏi các TCTD nhưng dường như NHNN vẫn chưa lường hết mối quan hệ giữa các
NHTM với các DN tư nhân.
Bên cạnh đó, chỉ những quy định của Nhà nước thôi là không đủ, mà cần có cơ chế
để các cổ đông có tiếng nói trong giám sát hoạt động của HĐQT và đảm bảo tính độc lập
của công tác kiểm toán vì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của từng cổ đông. Chỉ khi
đó, tính bền vững mới được đảm bảo.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- sng_7736.pdf