Đề tài So sánh chế định chủ tịch nước theo Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992

Sau khi nghiên cứu chế định Chủ tịch nước quan hai bản Hiến pháp 1980 và 1992, ta đều nhận thấy dù Chủ tịch nước là một cá nhân hay tập thể đều thể hiện vị trí chính trị pháp lý là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội đối ngoại. Tuy nhiên, để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn cách mạng, bảo đảm cho việc thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng và nhà nước, chế định Chủ tịch nước qua hai bản hiến pháp đều có những đặc điểm, tính chất và vị trí không giống nhau, nhưng không phải vì thay đổi mà chúng hoàn toàn phủ định nhau. Rõ ràng, Chế định chủ tịch nước theo Hiến pháp 92 là sự kế thừa nguyên tắc tập quyền triệt để của Chế định theo Hiến pháp 80, nhưng linh hoạt hơn và phù hợp hơn với tình hình thời đại. Những thiếu sót, hạn chế của giai đoạn trước như các quyết định đưa ra chậm chạp, không phân định được hoạt động tập thể của cơ quan thường trực và chức trách cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động đại diện nhà nước được Hiến pháp 92 khắc phục bằng cách tách Chủ tịch nước thành một thiết chế riêng, cơ cấu chủ tịch nước cá nhân quay trở lại, đồng thời quy định lại và bổ sung về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước khác. Lịch sử lập hiến Việt Nam đã để lại nhiều bài học quý báu trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước, trong đó có chế định Chủ tịch nước (nguyên thủ quốc gia). Có thể nói Chế định chủ tịch nước theo Hiến pháp 92 ra đời trong thời kỳ đất nước đang có những đổi mới sâu sắc và toàn diện là phù hợp và cần thiết. Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 nói riêng và pháp luật hiện hành nói chung cũng chỉ mới quy định rất khái quát nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan Nhà nước khác. Vấn đề đặt ra là sự nghiên cứu toàn diện đi từng bước vững chắc, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để cụ thể hoá dần dần các quy định của Hiến pháp và pháp luật, làm cho thể chế Chủ tịch nước ngày càng phát huy được vai trò, vị trí, chức năng quan trọng của mình trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội.

docx8 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7797 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài So sánh chế định chủ tịch nước theo Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI LÀM PHẦN MỞ ĐẦU: Từ khi Cách mạng tháng Tám thành công, với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 2/9/1945, nước ta đã là một nước cộng hòa mang chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, bộ máy nhà nước ta nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng cũng được tổ chức theo mô hình này, thể hiện rõ nét đặc trưng của chính thể. Trong cơ chế nhà nước ta, thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau qua các bản Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và 1959 là Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng nhà nước ( hay hình thức Chủ tịch nước tập thể), và hiện nay, tại Hiến pháp năm 1992 trở lại hình thức Chủ tịch nước. Vị trí, tính chất của các thiết chế này cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước, tuy nhiên trong từng Hiến pháp vẫn có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. Việc nghiên cứu, làm rõ nội dung của chế định Chủ tịch nước qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc nói chung, và đặc biệt là qua hai mốc trọng đại: Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1993 nói riêng, giúp ta có cái nhìn hoàn thiện về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, về một mảng kiến thức quan trọng trong ngành luật hiến pháp. Tìm hiểu Chế định chủ tịch nước qua hai bản Hiến pháp 80 và 92 giúp ta so sánh, đồng thời tìm ra những điểm kế thừa, phát triển, bổ sung khuyết thiếu, sửa đổi sai sót của thời kỳ trước trong pháp luật hiện hành. PHẦN NỘI DUNG: Cơ sở lý luận về chế định chủ tịch nước: Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng, tuy nhiên, ở mỗi nước, nó lại có một tên gọi khác nhau: vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng liên bang, hội đồng nhà nước, chủ tịch nước. Những cơ cấu này tuy có vị trí khác nhau trong bộ máy của từng nước, nhưng đều là có ý nghĩa là người đại diện cho nước về đối nội và đối ngoại. Về bản chất, nguyên thủ quốc gia là một chế định thuần túy của bộ máy nhà nước tư sản. Với nguyên tắc nghị viện là cơ quan nắm quyền lực nhà nước đồng thời là “ nguyên thủ quốc gia”, nhung do nhiều nguyên nhân, giai cấp tư sản vẫn để vua tồn tại hoặc lập một cơ cấu mới là tổng thống, có vị trí tương tự như vua. Sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia ở nhà nước tư bản với nhiều vẻ khác nhau, từ đó có tính chất, nhiệm vụ, chức năng khác nhau, nhưng đều đóng vai trò nhất định trong tổ chức quyền lực nhà nước, đặc biệt là vai trò biểu tượng cho dân tộc, liên kết phối hợp các nhánh quyền lực thể hiện quan điểm thỏa hiệp giai cấp ở các nước tư bản. Đến nhà nước XHCN, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chế độ tập quyền, về nguyên tắc, thiết chế nguyên thủ quốc gia riêng là không cần thiết. Một số nước XHCN, do truyền thống lịch sử của mình, còn lưu giữ thiết chế chủ tịch nước thì chủ tịch nước, thì chủ tịch nước tuy được coi là nguyên thủ quốc gia song phái sinh từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cùng cơ quan này thực hiện các chức năng nguyên thủ. Sự hiện diện các biểu hiện nguyên thủ quốc gia phần nhiều là do thông lệ quốc tế, để thuận lợi trong việc thực hiện một số hoạt động nhà nước có tính long trọng, hình thức và trong chừng mực nhất định, để phối hợp các hoạt động của các cơ quan trong cơ chế nhà nước. Với cơ sở lý luận và nguyên tắc chung như trên, thiết chế nguyên thủ quốc gia ở nhà nước ta đã được xây dựng qua 4 bản Hiến pháp, trong đó với HP 80 là chế định Hội đồng nhà nước (Chủ tịch nước tập thể) và HP 92 là chế định Chủ tịch nước, với vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn, mối quan hệ với các cơ quan khác được quy định khác nhau, nhưng vẫn thể hiện sự kế thừa, phát triển. Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1992: Hoàn cảnh ra đời: Chế định Chủ tịch nước theo HP 1980: Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân đã hoàn thành trong phạm vi cả nước. Đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước cùng xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, tổ chức và hoạt động Nhà nước cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ và quan điểm mới. 18/12/1980 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI chính thức thông qua Hiến pháp 1980. Chủ tịch nước, theo quy định của Hiến pháp năm 1980, nằm trong hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước ở trung ương với tên gọi là Hội đồng Nhà nước. Hiến pháp năm 1980 đã “sát nhập” hai chức năng của Ủy ban thường vụ quốc hội với chức năng của Chủ tịch nước là cá nhân trong Hiến pháp 1959 vào một cơ quan duy nhất là Hội đồng nhà nước. Chế định Chủ tịch nước theo HP 1992: Trên thế giới, hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Đất nước ta bước vào thời kỉ khủng hoảng trầm trọng bởi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, yêu cầu bức thiết được đặt ra, đó là phải đổi mới, đổi mới trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. Hiến pháp năm 1980 đã tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước. Trong quá trình hoạt động, chế định Hội đồng nhà nước bộc lộ nhiều hạn chế. 15/4/1002, Quốc hội khóa VIII thông qua Hiến pháp 1992. Tổ chức bộ máy Nhà nước có nhiều thay đổi căn bản, trong đó thiết chế Chủ tịch nước được xây dựng lại, vừa tiếp thu những ưu điểm của mô hình Chủ tịch nước của Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, vừa giữ được sự gắn bó giữa Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện các chức năng nguyên thủ quốc gia trong thể chế Hội đồng Nhà nước, đồng thời cũng có thêm những đặc điểm mới. Vị trí, tính chất của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước: Theo HP 80: Điều 98 quy định: “Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước CHXHCN Việt Nam”. Như vậy, Hội đồng nhà nước giữ hai vị trí: nguyên thủ tập thể của nước ta, đồng thời là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của cơ quan có quyền lực cao nhất – Quốc hội”. Theo HP 92: Điều 101 quy định: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại”, nghĩa là Chủ tịch nước chỉ giữ vai trò nguyên thủ quốc gia. Sự hiện diện trở lại của thiết chế Chủ tịch nước cá nhân trong HP 92 vừa kế thừa sự gắn bó tạo thành khối thống nhất quyền lực nhà nước của chế định Chủ tịch nước theo HP 80, vừa đảm bảo sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Con đường hình thành, cơ cấu tổ chức: HP 80, Điều 99 quy định: “Hội đồng Nhà nước, được bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, gồm có: chủ tịch Hội đồng Nhà nước, các Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước, tổng thư ký Hội đồng Nhà nước, các ủy viên Hội đồng nhà nước. Số Phó Chủ tịch và Uỷ viên Hội đồng nhà nước do Quốc hội định. Thành viên của Hội đồng nhà nước không thể đồng thời là thành viên của Hội đồng Bộ trưởng”. Điều 101: "Nhiệm kỳ của Hội đồng Nhà nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội.Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Hội đồng Nhà nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Hội đồng Nhà nước mới." HP 92, Điều 102 quy định: “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới". HP 92 tiếp tục kế thừa quy định con đường hình thành của Chủ tịch nước là được bầu ra trong số đại biểu Quốc hội, cơ cấu tổ chức có quan hệ mật thiết với Quốc hội. Điều này đảm bảo tính thống nhất quyền lực nhà nước, sự gắn bó và tính chịu trách nhiệm của Chủ tịch nước trước Quốc hội. Thể chế chủ tịch nước tập thể trong thực tiễn đã thể hiện những ưu điểm của nó, là các vấn đề quan trọng của đất nước đều được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, như vậy thường vững vàng hơn so với một người quyết định, nhưng tồn tại nhược điểm là do mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể nên công việc nhiều khi chậm chạp, trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước không rõ ràng. HP 92 xây dựng lại thiết chế chủ tịch nước cá nhân đã khắc phục được những hạn chế trên, nhanh nhạy, linh hoạt và đảm bảo việc đối ngoại. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước: Theo HP 80, do vị trí vừa là cơ quan thường trực Quốc hội, vừa là Chủ tịch nước tập thể, nên thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước là rất rộng, sự phân công thực hiện nhiệm vụ không cụ thể dẫn đến tình trạng HP80 quy định nhiệm vụ của Hội đồng nhà nước là nặng nề, ôm đồm, điều này dẫn đến nhiều mặt hạn chế trong khi hoạt động. Tuy chức năng, nhiệm vụ giao cho Hội đồng Nhà nước là rất lớn nhưng cơ cấu thành viên lại hầu hết là những người kiêm nhiệm. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Nhà nước được quy định tại Điều 100 HP 80 tương đương với thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và thẩm quyền của chủ tịch nước trong HP 59. Trong số các quyền thì việc quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, các ủy ban nhà nước, cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng, các bộ trưởng và chủ nhiệm Uỷ ban nhà nước; việc tuyên bố tình trạng chiến tranh, Hội đồng nhà nước phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội. Ngoài những nhiệm vụ quyền hạn đã được xác định, tại khoản 21 Điều 100 HP 80 còn ghi nhận: “Quốc hội có thể giao cho Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết”. Theo HP 92: Chủ tịch nước giữ vị trí nguyên thủ quốc gia, đại diện cho đất nước về đối nội và đối ngoại, Chủ tịch nước có mối quan hệ gắn bó mật thiết với cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, hỗ trợ, điều phối hoạt động của các cơ quan đó. Những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định cũng thể hiện rõ ràng vị trí này. Thẩm quyền của Chủ tịch nước được HP 92 quy định ở Điều 103 (gồm 12 vấn đề) và ở một số điều khoản khác có liên quan (như Điều 135, Điều 139). Có thể phân chia nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước làm 2 nhóm: Nhóm 1: các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nhà nước về đối nội và đối ngoại như: Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt nam, tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài, tiến hành đảm phán, ký kết nhân danh Nhà nước CHXNCN Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác, quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình quốc hội (khoản 10 điều 103 HP 92); Quyết định cho nhập, thôi hoặc tước Quốc tịch VN (khoản 11 điều 103 HP 92); Quyết định đặc xá; Quyết định phong hàm cấp sĩ quan cao cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp ngoại giao hoặc hàm cấp nhà nước khác… Nhóm 2: các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Lập pháp: trình dự án luật, bổ sung luật hiện hành, kiến nghị về luật, công bố luật, hiến pháp, pháp lệnh, đề nghị UBTVQH xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày. Hành pháp: tham gia thành lập, giám sát hoạt động của chính phủ, đề nghị Quốc hội bầu, bổ nhiệm,miễn nhiệm thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; chấp thuận việc từ chức đối với các Phó thủ tướng, bộ trưởng, và các thành viên khác của chính phủ, trong thời gian Quối hội không họp, theo đề nghị của Thủ tướng, Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,… Tư pháp: Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC; Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó chánh án, thẩm phán TANDTC, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSN; Quyết định đặc xá; Trong thời gian QH không họp, Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC chịu trách nhiệm, báo cáo trước UBTVQH và CTN… Để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, HP quy định Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của UBTVQH, khi xét thấy cần thiết có thể tham dự các phiên họp của Chính phủ. Như vậy, đến HP 1992, do Hội đồng Nhà nước lại tách ra làm hai cơ quan là chủ tịch nước và Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nên nhiệm vụ, quyền hạn đã không còn được quy định như trước đây. Thay vào đó là những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn đặc trưng của vị trí nguyên thủ quốc gia, thể hiện sự phân công quyền lực nhà nước chuyên nghiệp hơn, mỗi cơ quan có cơ hội thực hiện chức năng của mình tốt hơn, đồng thời pháp luật cũng quy định mối liên hệ mật thiết giữa Chủ tịch nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm đảm bảo tính liên kết, thống nhất quyền lực. Việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong HP 92 đã giải quyết được hai vấn đề: kế thừa những ưu việt của chế định Chủ tịch nước tập thể của HP 80, đồng thời khắc phục những hạn chế trong quá trình hoạt động của nó. Quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước khác: Với Quốc hội: Theo HP 80: Chủ tịch nước tập thể có mối liên hệ trực tiếp và mật thiết với Quốc hội, thể hiện từ trật tự hình thành, cơ cấu tổ chức, vị trí, vận hành hoạt động: Hội đồng nhà nước được bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội; Là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội; Hội đồng nhà nước thực hiện các nhiệm vụ và sử dụng những quyền hạn được Hiến pháp, các luật và nghị quyết của Quốc hội giao cho; Giám sát việc thi hành Hiến pháp, các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội; Hội đồng nhà nước tuyên bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội, triệu tập các kỳ họp Quốc hội. Theo HP 92: Do Hội đồng nhà nước thời kỳ này được tách thành hai cơ quan: Chủ tịch nước và UBTVQH nên phải xét cả mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và UBTVQH. Mối quan hệ này cũng hết sức mật thiết được thể hiện như sau: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu (trong số đại biểu Quốc hội), miễn nhiệm và bãi nhiệm, với nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội; Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước; Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; Chủ tịch nước trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành; Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội; Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch nước phải trả lời trước Quốc hội tại kì họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kì họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản; Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của UBTVQH; Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày được thông qua. Tuy nhiên, Chủ tịch nước có quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; nếu Pháp lệnh, Nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất. Thống nhất về quan điểm trong chính thể XHCN, các chức năng đứng đầu nhà nước cũng thuộc về chính cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hội đồng nhà nước nằm trong Quốc hội là Chủ tịch tập thể, nay HP 92 tách Chủ tịch nước thành thiết chế riêng song vẫn nghiêng về quốc hội, gắn bó chặt chẽ với Quốc hội. Một mặt, chế định Chủ tịch nước HP 92 kế thừa những quy định thể hiện mối liên hệ mật thiết, nhưng vẫn độc lập tương đối của Chủ tịch nước với Quốc hội, mặt khác phát triển mối quan hệ này bằng việc tiếp tục quy định thêm cụ thể và thêm những quy định mới nhằm xây dựng mối quan hệ ngày càng bền vững, đảm bảo nguyên tắc tập trung quyền lực. Với Chính phủ: Theo HP 80:Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước tập thể với Chính phủ được thể hiện như sau: Hội đồng Nhà nước giám sát hoạt động của Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ); Đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết, nghị định, quyết định của Hội đồng bộ trưởng trái với Hiến pháp, luật và pháp lệnh; Trong thời gian Quốc hội không họp, Hội đồng Nhà nước quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ, các Uỷ ban Nhà nước, cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, các bộ trưởng, các chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước. Theo HP 92: Mối quan hệ này được Hiến pháp năm 1992 (có sửa đổi, bổ sung vào năm 2001) và Luật tổ chức Chính phủ hiện hành quy định như sau:Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, quy định này được sửa lại tại Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, theo đó thì Chủ tịch nước chỉ phải căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội để thực hiện những vấn đề này; Trong thời gian Quốc hội không họp, Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng; Chính phủ mời Chủ tịch nước tham dự phiên họp của Chính phủ, trình Chủ tịch nước quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền Chủ tịch nước. Nhận xét: qua hai bản Hp 80 và 92, có thể thấy các quy định pháp luật càng ngày càng thể hiện sự tăng cường vai trò của chủ tịch nước đối với bộ máy hành pháp và bảo đảm cự phối hợp gắn bó giữ Quốc hội , Chủ tịch nước và Chính phủ. Với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Theo Hp 80: Ở Hiến pháp năm 1980, mối quan hệ này chưa rõ lắm, nhưng chúng ta vẫn có thể thấy được qua những quy định: Hội đồng Nhà nước giám sát công tác của Toà án Nhân dân Tối cao và của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; Hội đồng Nhà nước cử và bãi miễn các Phó Chánh án, thẩm phán và hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân tối cao; cử và bãi miễn các Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Theo HP 92: thể hiện mối quan hệ này trên tinh thần bảo đảm cho Chủ tịch nước liên kết, phối hợp với tất cả các cơ quan trong cơ chế nhà nước : Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó chánh án, thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó chánh án, thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương, Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. HP 92 đã quy định mối quan hệ này rõ ràng hơn, thể hiện sự ràng buộc giữa chủ tịch nước với các cơ quan tư pháp, qua đó cũng là một phương tiện để liên kết quyền lực của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Về hội đồng quốc phòng và an ninh: Với tư cách là người đứng đầu quốc gia, Chủ tịch nước là biểu tượng cho sự thống nhất và bền vững của Quốc gia, vì vậy, như một thông lệ, chủ tịch nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang, giữ gìn và bảo vệ tổ quốc. Để thực hiện chức năng này, nguyên thủ quốc gia thường có Hội đồng an ninh quốc gia và nguyên thủ là người đứng đầu hội đồng. Theo HP 80, khi Hội đồng nhà nước là Chủ tịch nước tập thể thì có Hội đồng quốc phòng và an ninh quốc gia nằm trong Quốc hội để giúp quốc hội và Hội đồng nhà nước hoạt động. HP 92 tiếp tục kế thừa những ưu việt của sự tồn tại Hội đồng quốc phòng và an ninh quốc gia, quy định thành lập Hội đồng này thuộc Chủ tịch nước, do Chủ tịch nước là chủ tịch Hội đồng. Hội đồng có Phó chủ tịch và các Uỷ viên do Chủ tịch nước đề nghị danh sách thành viên trình Quốc hội phê chuẩn. PHẦN KẾT LUẬN: Sau khi nghiên cứu chế định Chủ tịch nước quan hai bản Hiến pháp 1980 và 1992, ta đều nhận thấy dù Chủ tịch nước là một cá nhân hay tập thể đều thể hiện vị trí chính trị pháp lý là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội đối ngoại. Tuy nhiên, để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn cách mạng, bảo đảm cho việc thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng và nhà nước, chế định Chủ tịch nước qua hai bản hiến pháp đều có những đặc điểm, tính chất và vị trí không giống nhau, nhưng không phải vì thay đổi mà chúng hoàn toàn phủ định nhau. Rõ ràng, Chế định chủ tịch nước theo Hiến pháp 92 là sự kế thừa nguyên tắc tập quyền triệt để của Chế định theo Hiến pháp 80, nhưng linh hoạt hơn và phù hợp hơn với tình hình thời đại. Những thiếu sót, hạn chế của giai đoạn trước như các quyết định đưa ra chậm chạp, không phân định được hoạt động tập thể của cơ quan thường trực và chức trách cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động đại diện nhà nước được Hiến pháp 92 khắc phục bằng cách tách Chủ tịch nước thành một thiết chế riêng, cơ cấu chủ tịch nước cá nhân quay trở lại, đồng thời quy định lại và bổ sung về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước khác. Lịch sử lập hiến Việt Nam đã để lại nhiều bài học quý báu trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước, trong đó có chế định Chủ tịch nước (nguyên thủ quốc gia). Có thể nói Chế định chủ tịch nước theo Hiến pháp 92 ra đời trong thời kỳ đất nước đang có những đổi mới sâu sắc và toàn diện là phù hợp và cần thiết. Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 nói riêng và pháp luật hiện hành nói chung cũng chỉ mới quy định rất khái quát nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan Nhà nước khác. Vấn đề đặt ra là sự nghiên cứu toàn diện đi từng bước vững chắc, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để cụ thể hoá dần dần các quy định của Hiến pháp và pháp luật, làm cho thể chế Chủ tịch nước ngày càng phát huy được vai trò, vị trí, chức năng quan trọng của mình trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxSo sánh chế định chủ tịch nước theo Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992.docx
Luận văn liên quan