Hình thức của hợp đồng tín dụng phải phù hợp với luật ngân hàng. Đối với hợp đồng tín dụng, do tính chất rủi ro cao cho quyền lợi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng này nên pháp luật ngân hàng đòi hỏi hình thức của hợp đồng tín dụng phải được xem là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, ngoài ra hợp đồng có hiệu lực bằng văn bản phải được công chứng tại các cơ quan có thẩm quyền (đối với trường hợp luật quy định cần phải có công chứng/ chứng thực hoặc trường hợp các bên có thoả thuận ).
Do đó, nên mọi sửa đổi của hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được các bên chấp thuận bằng văn bản. Đó chính là tính hợp pháp về hình thức của hợp đồng tín dụng.
Các tài liệu phụ lục kèm theo hợp đồng này (như giấy nhận nợ, văn bản sửa đổi các điều khoản trong hợp đồng này, giấy điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc gia hạn nợ, và các văn bản cam kết) của bên vay là bộ phận không thể tách rời của hợp đồng này, các bên có nghĩa vụ thực hiện.
Thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tín dụng là mốc thời gian mà kể từ lúc đó quyền và pháp lý của các bên tham gia hợp đồng tín dụng bắt đầu phát sinh. Trên thực tế, pháp luật của mỗi nước có quy định khác nhau về việc phát sinh hiệu lực hợp đồng.
52 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3121 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài So sánh, phân tích, đánh giá Luật các tổ chức tín dụng 1997 và 2010 về hợp đồng tín dụng cho vay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài sản bảo đảm, tài sản bảo đảm tiền vay phải được xác định giá trị tại thời điểm ký kết HĐBĐ; việc xác định giá trị tài sản tại thời điểm này chỉ để làm cơ sở xác định mức cho vay của TCTD, không áp dụng khi xử lý tài sản để thu hồi nợ. Trước đây, khi cho vay có bảo đảm bằng tài sản, giá trị tài sản bảo đảm tiền vay phải luôn lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm. Điều này gây ra những khó khăn nhất định cho những khách hàng muốn vay một khoản tiền lớn để đầu tư kinh doanh nhưng không tìm được tài sản cầm cố, thế chấp, hoặc là có nhưng giá trị của các tài sản này lại nhỏ hơn giá trị mà họ muốn vay, mặc dù dự án đầu tư là rất hấp dẫn và khả thi. Nhưng ở Nghị định 163 thì khách hàng có nhiều lợi ích hơn, bởi Nghị định cho phép khách hàng và TCTD được phép thỏa thuận với nhau về tài sản được dùng để cầm cố, thế chấp, do đó giá trị của tài sản này có thể nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn vốn vay.
Cho vay bảo đảm bằng tài sản cầm cố
Việc cầm cố tài sản Theo điều 326 BLDS, cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
phải được lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Theo Nghị định 163 thì tài sản cầm cố phải được chuyển giao cho bên nhận cầm cố, bên nhận cầm cố có thể trực tiếp giữ tài sản cầm cố này hoặc ủy quyền cho bên thứ ba nắm giữ.
Trong trường hợp bên nhận cầm cố trực tiếp giữ tài sản cầm cố thì điều này đồng nghĩa với việc bên nhận cầm cố được thực hiện quyền “chiếm hữu thực tế” cùng với quyền “chiếm hữu pháp lý” đối với tài sản cầm cố. Do đó, đối với những tài sản cầm cố mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì TCTD cần phải giữ luôn cả những giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu đó.
Nếu tài sản cầm cố được chuyển giao cho bên thứ ba nắm giữ, bên nhận cầm cố vẫn phải chịu trách nhiệm trước bên cầm cố về việc thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật như: bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố; nếu làm mất hoặc làm hư hỏng tài sản cầm cố thì phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố, chứ không phải là bên thứ ba. Về việc chọn bên thứ ba nắm giữ tài sản cầm cố thì cả hai bên, bên cầm cố và nhận cầm cố đều phải thỏa thuận trước với nhau khi chọn bên thứ ba.
Khi áp dụng các quy định về cầm cố tài sản cần lưu ý tới thời hạn cầm cố. Thông thường nếu không có thỏa thuận nào khác thì thời hạn cầm cố được tính bằng thời hạn thực hiện nghĩa vụ của bên vay theo hợp đồng vay. Nghĩa là cho đến khi bên vay trả toàn bộ số tiền gốc đã vay cùng lãi suất do các bên thỏa thuận.
Cho vay đảm bảo bằng tài sản thế chấp
Cũng như cho vay bằng hình thức cầm cố tài sản, việc thế chấp tài sản Theo khoản 1, điều 342, thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.
về nguyên tắc phải được lập thành văn bản riêng hoặc được ghi là một điều khoản trong hợp đồng chính. Điểm khác nhau cơ bản nhất của một tài sản thế chấp đối với một tài sản cầm cố đó là, nếu như tài sản cầm cố được chuyến giao cho bên nhận cầm cố hay ủy quyền cho bên thứ ba nắm giữ thì tài sản thế chấp vẫn phải do bên thế chấp hoặc ủy quyền cho bên thứ ba nắm giữ, do đó tài sản thế chấp thường có giá trị lớn và thường là bất động sản (ngoài ra trong BLDS 2005 và Nghị định 163 thì tài sản thế chấp còn có thể là các tài sản hình thành trong tương lai).
Vì đặc điểm cơ bản như vậy nên quyền của bên nhận thế chấp cũng được đảm bảo, nhưng không phải là biện pháp bảo đảm an toàn tuyệt đối. Nghĩa là, bên nhận thế chấp chỉ thực hiện quyền “chiếm hữu pháp lý” đối với tài sản thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong trường hợp tài sản thế chấp được giao cho bên thứ ba nắm giữ thì bên thế chấp không phải chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thay cho bên thứ ba như trường hợp cầm cố mà bên thứ ba phải chịu trách nhiệm đối với bên nhận thế chấp theo thỏa thuận trong hợp đồng và quy định của pháp luật.
Cho vay bảo đảm bằng bảo lãnh của bên thứ ba
Để tạo điều kiện cho TCTD và khách hàng có thể giao kết HĐTD mà vẫn đảm bảo được quyền lợi cho TCTD ngay cả trong trường hợp người đi vay không có tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì pháp luật vẫn cho phép người khác đứng ra cam kết với TCTD về việc thay thế người vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Trong trường hợp này đã hình thành hai quan hệ nghĩa vụ, trong đó quan hệ giữa người thứ ba (bên bảo lãnh) với TCTD được hình thành nhằm mục đích bảo đảm cho quan hệ nghĩa vụ giữa TCTD với người vay được thực hiện. Bên thứ ba sẽ dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay nếu đến kỳ hạn mà bên đi vay không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.
Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ đối với nghĩa vụ của bên đi vay (Điều 363 BLDS 2005).Việc bảo lãnh toàn bộ hay một phần phải được ghi cụ thể trong hợp đồng, các nội dung thỏa thuận cần được ghi nhận cụ thể là bảo lãnh tiền nợ gốc, tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt hay tiền bồi thường thiệt hại. Tùy từng trường hợp cụ thể mà phạm vi bảo lãnh trong các HĐTD có thể khác nhau.
Trong trường hợp có nhiều người cùng bảo lãnh cho một người vay thì những người bảo lãnh phải liên đới chịu trách nhiệm. TCTD có thể yêu cầu bất kỳ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Thỏa thuận liên đới bảo lãnh phải được ghi nhận cụ thể trong hợp đồng. Tuy nhiên, những người bảo lãnh có thể thỏa thuận bảo lãnh theo những phần độc lập nếu bên đi vay vay làm nhiều đợt khác nhau (Điều 365 BLDS 2005).
Về xử lý tài sản bảo đảm trong cầm cố, thế chấp
Việc xử lý tài sản bảo đảm trong cầm cố, thế chấp được quy định tại điều 95 của luật các TCTD 2010. Theo đó khi đến hạn phải thanh toán nghĩa vụ trả nợ nhưng vì lý do nào đó mà bên cầm cố, thế chấp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng theo thỏa thuận thì tài sản này được xử lý theo những điều khoản đã thỏa thuận trước từ hai bên về xử lý tài sản cầm cố, thế chấp chứ không nghiễm nhiên thuộc về bên nhận cầm cố. Do đó không như trong luật 1997 là bên nhận cầm cố có quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ thì trong luật 2010 quy định bên nhận cầm cố không được tự ý bán, cho thuê hoặc sử dụng tài sản cầm cố, thế chấp theo mục đích riêng của mình.
Sở dĩ có sự khác nhau về quyền lợi của bên nhận cầm cố, thế chấp như vậy là vì tại thời điểm áp dụng Nghị định số 178/1999/NĐ-CP, hệ thống pháp luật về bảo đảm còn chưa đầy đủ và đồng bộ, các biện pháp quản lý nhà nước khác (như kiểm toán, thuế, thanh tra, kiểm tra…) chưa thực sự kiểm soát được hoạt động kinh doanh của các DN nên Nghị định số 178/1999/NĐ-CP đã có những quy định trên để ổn định thị trường tiền tệ (trong đó có tín dụng ngân hàng), bảo vệ vốn và tài sản của Nhà nước tại các ngân hàng thương mại nhà nước. Còn ở thời điểm áp dụng Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, khi mà nhiều văn bản pháp luật quan trọng đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thông lệ quốc tế và cam kết của Việt Nam với các tổ chức quốc tế, như: BLDS năm 2005, Luật Thương mại năm 2005, LDN 2005…, thì những quy định mang tính ưu ái dành cho các TCTD như trong Nghị định số 178/1999/NĐ-CP không còn phù hợp nữa. Vì vậy, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã có những quy định đề cao nguyên tắc thỏa thuận, bình đẳng và quyền tự chủ của các bên tham gia giao dịch bảo đảm.
Trong trường hợp hai bên không có thỏa thuận gì trước về xử lý tài sản cầm cố, thế chấp thì tài sản đó được bán đấu giá theo quy định của Pháp luật để thực hiện nghĩa vụ và bên nhận cầm cố, thế chấp được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản cầm cố.
Bảo đảm tiền vay không có bảo đảm bằng tài sản
Cho vay tín chấp
Cho vay tín chấp là một hình thức vay tiền của TCTD mà được bảo đảm bằng sự tín nhiệm, không có tài sản thế chấp. Như vậy, vay tín chấp không phải là việc cho vay không có bảo đảm mà cao hơn, tài sản bảo đảm chính là sự tín nhiệm giữa người cho vay (các TCTD) và người đi vay, thường là các DN. Các đặc trưng cơ bản của cho vay tín chấp là:
Vay tín chấp không thể thực hiện được trong giai đoạn đầu của mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Để có được sự tín nhiệm, quan hệ vay – cho vay phải trải qua một thời gian nhất định.
Người đi vay đóng một vai trò to lớn trong quá trình tạo ra sự tín nhiệm để có thể vay tín chấp.
Quyền chủ động xem xét có cho vay hay không thuộc về phía người cho vay, là các TCTD.
Tài sản thế chấp ở đây thực chất là uy tín của bên đi vay do đó tài sản này không thể đo lường một cách chính xác được.
Như vậy có thể xem cho vay tín chấp là đỉnh cao của tín dụng, vì tính thực tế của nó. Cho vay tín chấp có nhiều ưu điểm hơn so với cho vay có bảo đảm bằng tài sản, thể hiện ở chỗ:
Cho vay có bảo đảm thường không thể cho vay với số lượng lớn được vì theo quy định thì tài sản bảo đảm phải được định giá thấp hơn so với giá thị trường và giá trị của số tiền mà khách hàng được vay phải nhỏ hơn giá trị của tài sản bảo đảm (theo Nghị định 178).
Việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp hiện nay còn khắt khe, chồng chéo, trải qua nhiều thủ tục, tốn thời gian mà chưa chắc đã mang lại lợi ích tốt nhất cho cả bên cầm cố, thế chấp, bên nhận cầm cố, thế chấp cũng như bên thứ ba nếu có.
Các TCTD phải tốn nhiều chi phí (nhân lực, vật lực) cho việc tổ chức đòi tài sản bảo đảm.
Hơn nữa, nếu một ngân hàng cho vay bằng tín chấp thay vì cho vay bằng tài sản bảo đảm chắc chắn sẽ thu được nhiều thiện cảm hơn từ phía khách hàng.
Cho vay tín chấp có nhiều ưu điểm như vậy nhưng hiện nay ở nước ta, cho vay tín chấp không thực sự phát triển và vẫn đang chiếm một tỉ trọng rất nhỏ trong hoạt động cho vay của các TCTD so với cho vay có tài sản bảo đảm. Các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải chứng minh khả năng trả nợ của mình bằng tài sản bảo đảm chứ không quan tâm đến lý lịch tín dụng của khách hàng đó là như thế nào. Bởi thị trường vốn ở nước ta còn nhỏ bé, cạnh tranh trong hoạt động tín dụng còn chưa gay gắt, chỉ với hình thức cho vay có tài sản thế chấp, các ngân hàng và TCTD đã yên tâm và thu lợi nhuận khá cao. Các ngân hàng cũng không mạo hiểm cho vay tín chấp trong điều kiện thông tin thị trường còn chưa minh bạch như hiện nay.
CIC và sự ảnh hưởng đến cho vay tín chấp
Như đã phân tích ở trên, việc các TCTD chưa mạo hiểm cho vay tín chấp một phần là vì các TCTD chưa biết được thông tin rõ ràng về các khách hàng của mình cũng như lý lịch tín dụng của khách hàng đó ra sao. Hiện nay ở nước ta, thông tin của khách hàng được cung cấp bởi chính khách hàng đó và được cung cấp bởi CIC (Credit Information Center) - tổ chức sự nghiệp Nhà nước thuộc NHNN Việt Nam, có chức năng thu nhận, lưu trữ, phân tích, xử lý, dự báo thông tin tín dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước của NHNN; thực hiện các dịch vụ thông tin ngân hàng theo quy định của NHNN và của pháp luật.
Nhiệm vụ chủ yếu của CIC có thể được hiểu là tổ chức này sẽ thu thập thông tin tín dụng của các khách hàng của mọi TCTD, xây dựng được một lý lịch tín dụng của từng DN, cá nhân. Sau đó lưu trữ có hệ thống, xếp loại và cung cấp những thông tin này cho những TCTD có nhu cầu tra khảo thông tin tín dụng của các khách hàng sắp cho vay. Thông tin mà CIC thu thập được có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hạn chế rủi ro cho vay đối với các TCTD. Bên cạnh thông tin do chính khách hàng cung cấp thì thông tin của CIC còn là cơ sở để các TCTD xác định xem có nên cho khách hàng vay-chủ yếu là vay tín chấp hay không.
Do tính quan trọng của CIC trong việc bảo đảm an toàn của các các TCTD, làm minh bạch, công khai tình hình tài chính của từng công ty nên yêu cầu đặt ra đối với CIC là thông tin mà cơ quan này cung cấp phải kịp thời, chính xác, khách quan, trung thực. Nhưng ở nước ta hiện nay, vì CIC mới chỉ được thành lập trên 10 năm, kinh nghiệm thu thập chưa thực sự nhiều, đội ngũ của CIC chưa đông đảo, chưa áp dụng được nhiều tiến bộ trong khoa học công nghệ vào những phần mềm chuyên quản lý thông tin nên nhiều khi thông tin mà CIC cung cấp còn chưa đầy đủ, cụ thể, phản ánh một cách chính xác tình hình của công ty. Hơn nữa do luật pháp nước ta không bắt buộc các TCTD phải công khai báo cáo tình hình tín dụng của mình nên nhiều khi dù muốn nhưng CIC cũng không thể thu thập thông tin một cách hiệu quả nhất. Hơn nữa, người Việt Nam ta lại có tâm lý không thích công khai về vấn đề tài chính, điều này cũng là một trở ngại đối với sự hoạt động của CIC, hạn chế sự đóng góp của CIC vào hoạt động của các TCTD.
Mặt khác theo nhiều chuyên gia nhận định thì đánh giá của CIC nhiều khi còn rất khắt khe, gây khó khăn cho nhiều DN muốn vay vốn để đầu tư kinh doanh, có phương án đầu tư hiệu quả nhưng lý lịch tín dụng không thật hoàn hảo.
Do đó để việc tín dụng được phát triển mạnh mẽ, đáp ứng được nhu cầu vốn tức thời của khách hàng là những cá nhân, DN thì hoạt động của CIC cần hiệu quả hơn nữa, cần chủ động và tích cực chuẩn bị nội lực để đáp ứng với những yêu cầu mới, hoàn cảnh mới, nâng cao năng lực hoạt động phát triển nhanh hơn nữa kho dữ liệu thông tin tín dụng quốc gia để đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời cho người sử dụng; Đồng thời, phát triển hệ thống sản phẩm và dịch vụ thông tin đa dạng, đáp ứng yêu cầu của hệ thống ngân hàng và khách hàng vay.
Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
Luật CTCTD 1997 là luật đầu tiên quy định về CTCTD, luật hiện hành đã tạo ra một khung pháp lý cho các TCTD thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, giúp cho việc bảo đảm tiền vay trước khi quyết định cấp tín dụng. Tuy nhiên, luật hiện hành không còn phù hợp với điều kiện hội nhập của Việt Nam hiện nay nữa, thể hiện ở:
Luật hiện hành quy đinh tại Khoản 1 Điều 53 Điều 53 luật các TCTD 1997
là các TCTD được yêu cầu (có thể yêu cầu hoặc không yêu cầu) khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án sử dụng vốn khả thi, khả năng tài chính của mình và của người bảo lãnh; chính vì sự thiếu chặt chẽ này, trong hoàn cảnh hiện nay đã không còn phù hợp vì vậy luật các TCTD 2010 đã quy định chặt chẽ hơn, cụ thể tại Khoản 1, Điều 94 (Luật các TCTD 2010): “TCTD phải yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án sử dụng vốn khả thi, khả năng tài chính của mình, mục đích sử dụng vốn hợp pháp, biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi quyết định cấp tín dụng”.
Như vậy trách nhiệm của bên cho vay cũng gia tăng hơn, các TCTD không còn “được yêu cầu…” mà bắt buộc là “phải yêu cầu…”. Điều này cho thấy được sự chặt chẽ hơn, rõ ràng hơn của Luật các TCTD năm 2010 so với năm 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2004).
Ngoài ra tại Khoản 4, Điều 94: “TCTD có quyền yêu cầu khách hàng vay báo cáo việc sử dụng vốn vay và chứng minh vốn vay được sử dụng đúng mục đích vay vốn”.
Đây là một điểm mới trong Luật CTCTD 2010, điều luật này làm gia tăng quyền kiểm tra giám sát của TCTD về hoạt động sử dụng vốn của khách hàng vay. Từ đó có thể giúp hạn chế việc sử dụng vốn sai mục đích, sử dụng vốn thiếu hiệu quả… Qua đó giúp gia tăng hiệu quả hoạt động tín dụng, cũng như tăng tính an toàn cho hệ thống ngân hàng.
Trong Khoản 4, Điều 95 Luật các TCTD 2010 quy định: “TCTD có quyền quyết định miễn, giảm lãi suất, phí cho khách hàng theo quy định nội bộ của TCTD”.
Trong khi đó tại Khoản 4, Điều 54, Luật các TCTD 1997 thì việc miễn, giảm lãi suất, phí; gia hạn nợ; mua bán nợ theo quy định của NHNN hay đảo nợ lại được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Điều luật này càng thể hiện rõ ràng hơn về sự gia tăng quyền tự chủ của các TCTD trong Luật các TCTD 2010 so với Luật các TCTD 1997 và phù hợp với quy định về “lãi suất thỏa thuận”. Các TCTD được quyền thỏa thuận lãi suất, và ở đây, đương nhiên họ cũng được phép miễn, giảm lãi suất, phí cho khách hàng theo “quy định nội bộ” của TCTD.
Một điểm khác là Luật các TCTD 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2004) ra đời trong bối cảnh áp dụng lãi suất cơ bản, trong khi đó Luật các TCTD 2010 thì ra đời khi áp dụng lãi suất thỏa thuận, do đó một điểm khác biệt rõ rệt phải kể đến trong luật mới đó là quy định về lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh của TCTD. Đây là điểm hoàn toàn mới, thể hiện trong Khoản 1,2 Điều 91 Điều 91, Luật các TCTD 2010.
:
1. TCTD được quyền ấn định và phải niêm yết công khai lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của TCTD.
2. TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD theo quy định của pháp luật.
Tóm lại: Nhìn chung Luật các TCTD 2010 thể hiện rõ ràng hơn quyền của bên cho vay, nâng cao hơn vai trò của TCTD, phù hợp với bối cảnh kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ mới. Theo Luật các TCTD 2010, các TCTD đã được tăng thêm một số quyền tự chủ như: được quyền ấn định lãi suất, thỏa thuận lãi suất với khách hàng, tăng thêm quyền giám sát kiểm tra đối với khách hàng vay… Đồng thời, luật các TCTD 2010 cũng quy định chặt chẽ hơn đối với hoạt động vay vốn, sử dụng vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như nâng cao tính an toàn cho hệ thống tín dụng.
Quyền và nghĩa vụ của bên đi vay
Quyền và nghĩa vụ của khách hàng vay được quy định tại điều 56 luật các TCTD 1997 (sửa đổi bổ sung 2004) như sau:
Khách hàng vay có những quyền sau đây:
Từ chối các yêu cầu của TCTD không đúng với các thoả thuận trong HĐTD.
Khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ và các vi phạm HĐTD theo quy định của pháp luật.
Khách hàng vay có những nghĩa vụ sau đây:
Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin, tài liệu này.
Sử dụng tiền vay đúng mục đích và thực hiện đúng các nội dung khác được thoả thuận trong HĐTD.
Trả nợ gốc và lãi tiền vay theo thoả thuận trong HĐTD.
Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng HĐTD.
Tuy nhiên, trong điểm b khoản 1 điều 56 quy định quyền khởi kiện việc TCTD từ chối cho vay không có căn cứ là không phù hợp vì HĐTD là sự thảo thuận tự nguyện, quy định này chỉ phù hợp với loại hình ngân hàng chính sách. Ngân hàng chính sách hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận, được nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, thực hiện mối quan hệ tín dụng giữa nhà nước và các chủ thể trong xã hội. Do đại diện cho uy tín của nhà nước, nên khi từ chối cho vay phải có thông báo bằng văn bản một cách rõ ràng.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ đã giao NHNN chủ trì xây dựng Luật các TCTD mới cho phù hợp với điều kiện hội nhập của Việt Nam, trình Quốc hội thông qua năm 2008. Và cho đến nay Luật các TCTD 2010 đã được xem xét và thông qua, tuy chưa có hiệu lực nhưng Luật các TCTD 2010 đã quy định rõ ranh giới hoạt động, giữa các TCTD là ngân hàng và các TCTD không phải là ngân hàng (TCTD phi ngân hàng). Chính sự thay đổi này đã phân rõ các nghiệp vụ TCTD đương nhiệm, đồng thời làm rõ hơn quyền và nghĩa vụ của khách hàng – không chỉ khách hàng vay, đối với các TCTD như:
Về quyền của khách hàng :
Quyền được bảo mật thông tin quy định trong khoản 2, 3 điều 14 Điều 14 luật các TCTD 2010.
, tuy không được quy định một cách rõ ràng nhưng những khoản trong điều này đã giúp cho người đi vay và người gửi tiền đảm bảo được thông tin cá nhân vì đó là sở hữu cá nhân theo quy định của pháp luật cụ thể ở BLDS 2005 đã đưa ra một số quy định nguyên tắc về bảo vệ thông tin cá nhân tại Điều 31 “Quyền của cá nhân đối với hình ảnh” và Điều 38 “Quyền bí mật đời tư”.
Quyền được thoả thuận về lãi suất, quy định trong khoản 2 điều 91 Điều 91 luật các TCTD 2010.
:
2. TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD theo quy định của pháp luật.
Chính điều này đã giúp khách hàng tiếp cận vốn một cách dễ dàng hơn, tạo điều kiện thúc đẩy và phát triển hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả.
Về nghĩa vụ của khách hàng thì không được quy định rõ như trong luật các TCTD năm 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2004) nhưng thông qua quyền của các TCTD, chúng ta cũng có thể xác định nghĩa vụ của khách hàng, như khoản 1 và 4 điều 94 luật các TCTD 2010 yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án sử dụng vốn khả thi, khả năng tài chính của mình, khách hàng vay phải báo cáo việc sử dụng vốn vay và chứng minh vốn vay được sử dụng đúng mục đích vay vốn.
Ngoài ra, trong từng loại hình TCTD khác nhau thì cũng có những điều luật quy định về việc đi vay của các thành viên như trong khoản 3 điều 78 và khoản 5 điều 79 luật các TCTD 2010 về quyền và nghĩa vụ vay vốn của các thành viên trong TCTD là hợp tác xã.
Từ những điểm thay đổi trong luật mới so với hiện hành này, giúp khách hàng có thể xác định được quyền và nghĩa vụ của mình trong từng hoạt động tín dụng cụ thể. Nhưng việc không có một điều luật riêng và rõ ràng đã một phần nào đó gây khó khăn cho việc tìm hiểu của khách hàng trong qúa trình đi vay, tạo ra rào cản tiếp cận vốn và gây khó khăn cho việc thi hành pháp luật sau nay.
Cam đoan của bên vay
Bên vay cam đoan với bên cho vay về các vấn đề sau đây :
Tư cách pháp nhân
Các pháp nhân và cá nhân Việt Nam gồm:
Pháp nhân: là các DN nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, DN có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác có đủ các điều kiện quy định tại Điều 84, BLDS 2005 như sau:
Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Bên vay là cá nhân:
Theo quy định chung của pháp luật, bên vay (là cá nhân) phải là người có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự Điều 7, quy chế cho vay, Số: 1627/2001/QĐ-NHNN
. Nghĩa là: người đó đã đủ 18 tuổi, không bị các bệnh tâm thần, mất trí hoặc không bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự Điều 14,17,19,22,23 BLDS 2005 quy định về năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của cá nhân
. Cá nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 17 BLDS 2005 “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Một cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không có năng lực hành vi dân sự, hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự vẫn có thể trở thành bên vay với điều kiện phải có người giám hộ hợp pháp (quy định về người giám hộ từ Điều 58 - 73 BLDS 2005).
Bên vay là hộ gia đình:
Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định. Điều 106, BLDS 2005
Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, chủ hộ hoặc người đại diện theo ủy quyền của chủ hộ sẽ là đại diện hợp pháp trong quan hệ vay Điều 107, BLDS 2005
.
Bên vay là tổ hợp tác:
Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn của từ 3 cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, cùng sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong quan hệ pháp luật Điều 111, BLDS 2005
.
Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, theo quy định tại Điều 113,BLDS 2005.
Bên vay là DN tư nhân:
Chủ DN tư nhân theo quy định tại khoản 1, Điều 141, LDN 2005 “DNTN là DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DN”, DN tư nhân không phải là một pháp nhân, như vậy người đại diện trong quan hệ vay chính là chủ DN phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
Bên vay là công ty hợp danh:
Công ty hợp danh là công ty phải có ít nhất 2 thành viên trở lên là chủ sở hữu của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Điều 130, LDN 2005
Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
Các pháp nhân và cá nhân nước ngoài:
Điểm b khoản 1 Điều 7 quy chế cho vay số: 1627/2001/QĐ-NHNN quy định về điều kiện vay vốn đối với khách hàng vay là các pháp nhân và cá nhân nước ngoài: Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài đó được BLDS của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
Hợp pháp và ràng buộc
Các điều khoản và các qui định trong HĐTD là hợp pháp, hợp lệ, ràng buộc và có tính bắt buộc thi hành. TCTD và bên đi vay có quyền tự do thỏa thuận hợp đồng, nhưng những thỏa thuận đó không được trái với pháp luật. Nếu trái với pháp luật thì những thỏa thuận đó vô hiệu.
Thông tin chuẩn xác và đầy đủ
Các thông tin thực tế nêu trong phương án vay vốn và các văn bản khác do bên vay cung cấp cho bên cho vay là đúng đắn và chuẩn xác về mọi khía cạnh quan trọng vào ngày cung cấp thông tin đó. Bên vay phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gửi cho bên cho vay. Trường hợp ngân hàng cho vay theo phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng, bên vay chỉ làm hồ sơ vay vốn lần đầu, còn những lần vay sau, bên vay phải gửi đến cho ngân hàng các giấy tờ thanh toán, chứng từ hàng hóa, hợp đồng kinh tế.
Báo cáo tài chính
Các báo cáo tài chính của bên vay phải thể hiện đúng đắn và khách quan về tình trạng tài chính và hoạt động của bên vay trong năm tài chính liên quan (cần phải minh bạch vấn đề tài chính). Các báo cáo tài chính như: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, phân tích thu, chi tài chính … của kỳ gần nhất so với ngày xin vay và được lập theo đúng pháp lệnh kế toán, thống kê của Nhà nước. Tài chính của DN phải lành mạnh, minh bạch có độ tin cậy cao với ngân hàng, đảm bảo mọi khoản vốn và tài sản được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Để thực hiện được, DN cần phải có một hệ thống kiểm soát nội bộ, các quy trình, quy tắc quản trị… và kiểm toán nội bộ cũng như kiểm toán dịch vụ từ bên ngoài.
Dựa trên khả năng tài chính, cũng như các báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán, những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng, ngân hàng xem xét khách hàng có đủ điều kiện, đáng tin cậy để cấp tín dụng, đầu tư hay không, có khả năng để thực hiện các trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện các khoản tín dụng và đầu tư không, đưa ra kết luận về số tiền có thể cho vay hoặc mức dự nợ tối đa (hạn mức tín dụng), tiến độ giải ngân, thu nợ tiền vay sao cho phù hợp với khả năng thực tế và chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Các DN nhỏ và vừa của Việt Nam thường xây dựng báo cáo tài chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế. Báo cáo chính thức thường thấp hơn tình trạng thực tế, khi đi vay ngân hàng thì DN thường đưa ra báo cáo tài chính được lập theo báo cáo thuế (vì sợ bị truy thu thuế), căn cứ vào những báo cáo này thì một số DN sẽ không đủ điều kiện vay vốn ngân hàng.
Nếu DN chứng minh được với các nhà cho vay về khả năng quản lý, kỹ năng hoạt động, năng lực tài chính cũng như sự nhạy bén trong kinh doanh thì sẽ rất thuận lợi trong việc cho vay bởi năng lực DN là một trong những yêu tố nhất thiết mà người cho vay sẽ phải xem xét và cân nhắc trước khi có quyết định cho vay hay không.
Cam kết chung, xử lí vi phạm
Căn cứ BLDS năm 2005 được Quốc Hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt nam thông qua ngày 14/6/2005;
Căn cứ Luật Các TCTD ban hành ngày 12/12/1997
Cam kết chung
Các bên cam kết thực hiện đúng và đầy đủ nội dung HĐTD, các quy định của NHNN và các quy định Pháp luật khác có liên quan.
Xử lý vi phạm:
Căn cứ xác định vi phạm hợp đồng tín dụng:
Về phương diện lý thuyết, một hành vi được coi là vi phạm HĐTD khi thỏa mãn các điều kiện sau:
Người thực hiện hành vi là các bên tham gia HĐTD.
Vi phạm các điều khoản đã cam kết trong HĐTD.
Xử lý vi phạm:
Các vi phạm sẽ được giải quyết bằng những con đường sau:
Tự thương lượng,hòa giải giữa các bên tranh chấp
Việc quy định này nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên giúp cho các bên vay tránh được những chi phí không cần thiết do phải theo kiện trước tòa.
Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế tài phán:
+ Giải quyết theo Tòa Án:
TAND cấp huyện giải quyết tranh chấp HĐTD giữa TCTD với cá nhân, tổ chức không có đăng ký kinh doanh và nhằm mục đích sinh hoạt, tiêu dùng Quy định tại khoản 3 Điều 25 của BLTTDS
.
Tòa kinh tế TAND cấp tỉnh giải quyết tranh chấp HĐTD giữa TCTD với cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh, có mục đích lợi nhuận.
Khi giải quyết tranh chấp về HĐTD, Thẩm phán phải áp dụng Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng của NHNN ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN, Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN và các văn bản quy phạm pháp luật của Ngân hàng có liên quan trong bản chỉ dẫn.
Lưu ý:
Khi giải quyết tranh chấp HĐTD, trong bản án, quyết định của Toà án phải tuyên rõ tổng số nợ của cá nhân, tổ chức phải trả cho TCTD là bao nhiêu, trong đó nợ gốc phải trả là bao nhiêu, lãi tính đến ngày xét xử là bao nhiêu. Kể từ ngày tiếp theo ngày Tòa án xét xử, bên phải thi hành án còn phải chịu lãi suất nợ quá hạn (cần xác định cụ thể, căn cứ vào mức lãi các bên thỏa thuận trong HĐTD nhân với 150%) trên số nợ gốc cho đến khi trả hết nợ gốc.
Cần xử lý tài sản trong giao dịch bảo đảm (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, ký quỹ…) theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm, BLDS và Nghị định 163/2006/NĐ-CP, trong trường hợp bên phải thi hành án không trả được nợ cho TCTD.
+ Giải quyết theo Pháp lệnh trọng tài thương mại thực hiện thủ tục tố tụng trọng tài.
So sánh lại, các biện pháp chế tài của Luật TCTD 2010 không có gì mới so với luật hiện hành. Các biện pháp xử lý nêu ra trong Luật TCTD2010 hầu hết mang tính hành chính như hạn chế mở rộng mạng lưới, hạn chế hoặc đình chỉ một số nghiệp vụ hoạt động, thu hồi giấy phép...Ví dụ Đ 28,Đ 37 hay Đ54 trong Luật TCTD 1997
Tuy nhiên ,theo luật TCTD 2010 xử lý vi phạm chặt chẽ hơn luật TCTD 1997 ở chỗ luật TCTD 2010 quy định rõ quyền hạn của Ban Kiểm Soát đặc biệt và của NHNN khi xử lý vi phạm Đ 148,149.Thêm vào đó Luật TCTD 2010 quy định việc phong tỏa vốn ,tài sản của chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Điều 157).
Tóm lại,những quy định xử lý vi phạm trong luật TCTD 2010 được cụ thể hóa trong từng trường hợp, tạo một khung pháp lý để các bên tham gia hợp đồng phải thực hiện đúng những gì đã cam kết trong hợp đồng và phù hợp với thực tế trong nền kinh tế hiện nay.
Điều khoản thi hành
Với tư cách là bên cấp tín dụng, đồng thời là chủ nợ trong quan hệ tín dụng, bên cho vay phải nghĩa vụ và quyền hạn phải thi hành đó là mở một tài khoản vay cho bên vay nhằm giám sát theo dõi việc rút vốn vay và trả nợ của bên vay.
Theo khoản 3 điều 53 Luật Các tổ chức tín dụng 1997 (có sửa đổi 2004) và khoản 3 điều 2010 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định về việc bên cho vay có quyền thi hành theo dõi và rút vốn vay và trả nợ của bên vay.
Kiểm soát, theo dõi chặt chẽ việc rút vốn vay và trả nợ của bên cho vay (các tổ chức tín dụng) có ý nghĩa rất quan trọng, vì nó tránh tình trạng chỉ đánh giá khách hàng trong quá trình thẩm định. Việc kiểm soát, theo dõi trong giai đoạn này có tác dụng:
Đảm bảo việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng như mục đích đã thoả thuận.
Cập nhật thường xuyên thông tin của khách hàng, kể cả khách hàng tốt.
Phát hiện kịp thời những rủi ro và đưa ra những biện pháp xử lý thích hợp.
Kiểm tra, theo dõi trong quá trình phát tiền vay cho khách hàng
Theo dõi tình hình thực hiện hợp đồng tín dụng: số tiền đã giải ngân, và số tiền còn rút tiếp theo hơp đồng tín dụng.
Kiểm tra việc thực hiện dự án và đối chiếu số dư nợ vay với giá trị dự án đã thực hiện có tương đương hay không. Nếu khách hàng sử dụng sai mục đích, dự án kinh doanh chậm có thể ảnh hưởng đến quá trình thu hồi nợ, thì cán bộ trực tiếp cho vay có quyền lập báo cáo trình Bộ phận trực tiếp cho vay trình lên Người quyết định cho vay có những biện pháp xử lý :
+ Đình chỉ giải ngân số tiền còn lại và tập trung vào quá trình thu nợ. Khoản 1, Điều 54 Luật Các TCTD 1997, và khoản 1 Điều 95 Luật 2010
+ Có giải pháp như yêu cầu khách hàng có bảo đảm trả nợ bằng nguồn khác. Khoản 2b, Điều 54 Luật Các TCTD 1997
Kiểm tra, theo dõi sau khi kết thúc việc phát tiền vay
Trong quá trình theo dõi, kiểm tra nếu thấy phát sinh những điểm bất lợi đến tình hình sử dụng vố, tình hình dự án, tình hình hoàn trả nợ của khách hàng thì cán bộ trực tiếp cho vay có quyền lập báo cáo trình Bộ phận trực tiếp cho vay trình lên Người quyết định cho vay có những biện pháp xử lý các phát sinh:
+ Điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ,
+ Chuyển nợ quá hạn,
+ Miễn giảm lãi suất. Khoản 4, Điều 54 Luật Các TCTD 1997, và khoản 4 Điều 95 Luật 2010
Tuy nhiên, có sự khác biệt về Khoản 4 Điều 95/2010 và Khoản 4 Điều 54/1997 về việc đảo nợ. Không biết việc “đảo nợ” theo Luật các TCTD hiện hành sẽ bị cấm hay được làm có điều kiện, vì không hề được nhắc đến ở Luật các TCTD 2010.
Hình thức của hợp đồng tín dụng phải phù hợp với luật ngân hàng. Đối với hợp đồng tín dụng, do tính chất rủi ro cao cho quyền lợi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng này nên pháp luật ngân hàng đòi hỏi hình thức của hợp đồng tín dụng phải được xem là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, ngoài ra hợp đồng có hiệu lực bằng văn bản phải được công chứng tại các cơ quan có thẩm quyền (đối với trường hợp luật quy định cần phải có công chứng/ chứng thực hoặc trường hợp các bên có thoả thuận ). . Xem thêm Điều 51 Luật Các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi 2004) và Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001).
Khoản 1,2 Điều 124 BLDS 2005 quy định về hình thức hợp đồng.
Do đó, nên mọi sửa đổi của hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được các bên chấp thuận bằng văn bản. Đó chính là tính hợp pháp về hình thức của hợp đồng tín dụng. . Xem thêm Điều 423, BLDS 2005 về sửa đổi, bổ sung hợp đồng.
Các tài liệu phụ lục kèm theo hợp đồng này (như giấy nhận nợ, văn bản sửa đổi các điều khoản trong hợp đồng này, giấy điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc gia hạn nợ, và các văn bản cam kết) của bên vay là bộ phận không thể tách rời của hợp đồng này, các bên có nghĩa vụ thực hiện.
Thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tín dụng là mốc thời gian mà kể từ lúc đó quyền và pháp lý của các bên tham gia hợp đồng tín dụng bắt đầu phát sinh. Trên thực tế, pháp luật của mỗi nước có quy định khác nhau về việc phát sinh hiệu lực hợp đồng.
Nếu đối với Việt nam, hợp đồng tín dụng được dựa trên quan điểm là là loại hợp đồng ưng thuận thì thời điểm của hợp đồng tín dụng là thời điểm cà hai bên cùng ký tên và đóng dấu vào văn bản hợp đồng tín dụng.
Đối với một số nước khác (chẳng hạn như Pháp) họ dựa trên quan niệm hợp đồng tín dụng là hợp đồng thực tế, nên thời điểm phát sinh hiệu lực là khi bên cho vay chuyển giao số tiền cho bên vay.
Thời điểm hợp đồng chấm dứt hiệu lực (hay hợp đồng sẽ được đưa vào thanh lý) trong các trường hợp sau:
Nếu bên vay thực hiện các nghĩa vụ của mình, tức là nghĩa vụ hoàn trả nợ và lãi đúng hạn như các bên đã thoả thuận. . Xem thêm BLDS 2005, Khoản 1,2 theo Điều 424 quy định về chấm dứt hợp đồng dân sự.
Tài sản thế chấp đã được xử lý để thu hồi nợ theo quy định tại khoản 2 Điều 95/2010 và khoản 2a Điều 54/1997.
Các bên thoả thuận áp dụng biện pháp bảo đảm khác .
Các trường hợp khác mà pháp luật quy định.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Kiến nghị đối với những quy định về hạn chế đối với các đối tượng đi vay
Có ý kiến cho rằng quy định cấm cho vay đối với các cá nhân được nêu trong điều 126, luật các TCTD năm 2010 áp dụng với các TCTD nói chung sẽ dẫn đến việc cấm tất cả những đối tượng này không được tiếp cận với dịch vụ tín dụng tiêu dùng, thẻ tín dụng của chính tổ chức tín dụng mà họ đang công tác. Điều này là không cần thiết và không phù hợp với thực tế hiện nay. Nhóm chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến này, và đề nghĩ nên có văn bản hướng dẫn để các đối tượng này có thể dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ tín dụng nêu trên
Cần quy định cụ thể hơn về lãi suất cấp tín dụng đối với những đối tượng bị hạn chế cho vay, làm rõ những hạn chế cho vay đối với các cổ đông, người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng để việc hiểu và áp dụng luật được thực hiện dễ dàng hơn.
Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ cần ban hành những văn bản, những hướng dẫn, nghị định, thông tư hướng dẫn trước ngày có hiệu lực thi hành của luật các TCTD 2010, tức là trước 01/01/2011 để khi đưa vào thực hiện luật này có hiệu lực thi hành thì tất cả các yếu tố thực hiện đã được đầy đủ để luật này đưa vào áp dụng nhanh, vì những quy định này đòi hỏi tính pháp luật, tính an toàn rất cao.
Nên nới lỏng hạn chế quy định cho vay của ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng để tránh tình trạng thiếu hụt nguồn vốn ngoại tệ, tạo điều kiện cho mở cửa đầu tư từ nước ngoài.
Kiến nghị đối với những quy định về mục đích sử dụng vốn vay
Giải pháp ngắn hạn cho vấn đề này là thay vì cho phép đảo nợ, các ngân hàng nên xem xét cấu trúc lại danh mục các khoản nợ vay trước đây của các DN có lãi suất cao. Theo đó, các HĐTD có điều khoản lãi suất thả nổi hoặc điều chỉnh định kỳ nhưng chưa đến hạn thì nên sớm điều chỉnh lại lãi suất cho DN nhằm chia sẻ một phần khó khăn cho DN.
Đối với hợp đồng có điều khoản lãi suất cố định, ngân hàng cần tiến hành rà soát và đánh giá lại các phương án vay vốn, tái thẩm định lại các dự án đầu tư theo các tiêu chí hiện tại. Chỉ những dự án nào được đánh giá hiệu quả theo những tiêu chí mới, có triển vọng trả nợ thì đề xuất Chính phủ xem xét đưa vào diện được hỗ trợ lãi suất. Khoản lãi suất hỗ trợ sẽ chỉ được hoàn lại khi DN trả được nợ đầy đủ và đúng hạn cho ngân hàng theo cam kết trong HĐTD. Những dự án gặp khó khăn tạm thời thì cần phải cơ cấu lại thời hạn trả nợ, cho phép DN được giãn, hoãn trả nợ gốc và/hoặc lãi trong một giai đoạn nhất định hay thực hiện ân hạn, gia hạn nợ vay cho DN.
Ngân hàng cũng không nên quá thận trọng khi quy định DN phải hoàn trả nợ cũ trước khi vay mới nếu như khoản nợ cũ chưa đến hạn. Trong một số lĩnh vực (nông, lâm, ngư nghiệp, xuất khẩu… được sự khuyến khích của Chính phủ), nếu khoản nợ cũ đã đến hạn nhưng DN chưa có khả năng trả nợ do gặp khó khăn tạm thời hoặc khách quan thì có thể trình Chính phủ xem xét khoanh nợ và tiến hành cho vay mới nếu phương án sử dụng vốn vay mới được đánh giá khả thi và hiệu quả. Việc một DN có thể cùng lúc vay nhiều khoản vốn khác nhau tại một hoặc nhiều ngân hàng là điều bình thường. Mỗi khoản vay sẽ phải tuân thủ các quy định về điều kiện vay vốn theo Quy chế cho vay của NHNN một cách độc lập tương đối với nhau.
Ngoài ra, một trong những rào cản cố hữu làm hạn chế quyền tiếp cận vốn vay của DN, đặc biệt các DN nhỏ và vừa, là tài sản đảm bảo. Đã đến lúc các quỹ bảo lãnh DN nhỏ và vừa cần phải tích cực phát huy vai trò quan trọng của mình. Tuy nhiên, hơn ai hết các ngân hàng nên thực hiện đánh giá lại giá trị các tài sản đảm bảo nợ vay của các DN và tiến hành giải chấp hoặc cho vay bổ sung phần vốn tương ứng với phần giá trị tài sản đảm bảo dôi ra nếu có nhằm “giải phóng” lực cản tiếp cận vốn cho DN.
Kiến nghị đối với những quy định về lãi suất
Thứ nhất, NHNN có kế hoạch, lộ trình cụ thể dỡ bỏ chính sách trần lãi suất cũ, cân đối cung-cầu, cũng như bảo đảm tính thanh khoản trong hoạt động của các ngân hàng.
Thứ hai, cho vay theo lãi suất thỏa thuận nhưng không có nghĩa là sẽ thả lỏng. TCTD thực hiện cho vay bằng đồng Việt Nam phải niêm yết công khai lãi suất cho vay ở mức hợp lý, trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay, tiết kiệm chi phí hoạt động, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận vốn vay để phát triển sản xuất - kinh doanh.
Thứ ba, NHNN cần thúc đẩy hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm soát, xử lý các rủi ro tài chính - ngân hàng; tăng cường các hoạt động thanh tra, các hoạt động thông tin, chủ động phòng ngừa và xử lý các cạnh tranh không lành mạnh trong nội bộ ngành ngân hàng.
Thứ tư, nhanh chóng chuẩn hoá và thống nhất cơ sở pháp lý liên quan đến các hoạt động ngân hàng, nhất là các quy định giữa LNH và LDS có liên quan về vay và cho vay về định danh các hành vi cho vay nặng lãi, huy động vốn có tính lừa đảo, nhằm có cơ sở định danh, xử lý và hạn chế tội phạm tài chính - ngân hàng. Cụ thể là:
Nếu thực hiện theo quy định của luật các TCTD 2010 thì các TCTD có thể tự ấn định mức lãi suất cho vay hoặc các TCTD và khách hàng có thể thỏa thuận lãi suất với nhau. Điều này đã giúp cho lãi suất được xác định phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường, giúp cho hoạt động tín dụng phù hợp hơn trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, có một sự mâu thuẫn giữa Luật các TCTD 2010 và BLDS 2005 là đôi khi xảy ra trường hợp mức lãi suất cho vay thỏa thuận hoặc niêm yết sẽ cao hơn 150% mức lãi suất cơ bản mà NHNN công bố. Điều này làm cho các TCTD vi phạm pháp luật nếu căn cứ theo BLDS 2005, và các TCTD sẽ bị xem là cho vay nặng lãi vì theo như quy định tại điều 476 BLDS 2005: “Lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng” do đó quy định này gây khó khăn vướng mắc đối với hoạt động của các TCTD do không phù hợp với cơ chế tự do hóa lãi suất.
Do đó, để tránh tình trạng mâu thuẫn giữa Luật các TCTD 2010 và BLDS 2005 thì NHNN cần đưa ra mức lãi suất cơ bản tương đối cao để mức lãi suất mà các TCTD cho vay không bị vi phạm theo quy định của BLDS 2005. Vì thế NHNN cần căn cứ vào tình hình thị trường, cung cầu vốn cũng như mức lãi suất hiện hành trên thị trường để đưa ra mức lãi suất cơ bản cho phù hợp.
Thứ năm, theo ý kiến của TS Mai Thanh Quế, Giám đốc Trung tâm đào tạo, Học viện Ngân hàng, cho biết hiện nay do thực hiện theo cơ chế lãi suất thỏa thuận nên mỗi NH đưa ra “nghệ thuật” cho vay khác nhau, ở các loại phí, dịch vụ. Vì vậy, khách hàng khi vay cũng phải tỉnh táo, biết được những khoản phí nào, cách tính lãi suất ra sao, nghiên cứu kỹ hợp đồng, hỏi rõ nhân viên tín dụng về hình thức vay, hình thức trả nợ... để thỏa thuận tránh thiệt thòi về quyền lợi của mình. Các văn bản hướng dẫn sau này quy định rõ hơn để bảo vệ quyền lợi khách hàng.
Kiến nghị đối với những quy định về bảo đảm tiền vay
Để giảm rủi ro cho các TCTD trong việc thu hồi nợ, luật nên quy định cho các TCTD được tự tổ chức đấu giá tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay dưới sự giám sát của một tổ chức có thẩm quyền cho khách quan và được nhận gán nợ khi cần thiết, giúp cho TCTD được chủ động và thu hồi nợ vay nhanh hơn. Vì hiện nay thủ tục phát mại tài sản còn rất phức tạp, phải qua nhiều cơ quan có thẩm quyền và nhiều quá trình
Để việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thuận lợi cần xây dựng hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm tập trung về một cơ quan để việc thực hiện đăng ký được thống nhất. Mở kênh riêng hoặc lập trang web thông tin pháp lý về tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở để các TCTD được quyền truy vấn các thông tin này nhằm tiết kiệm thời gian.
Cần quy định chặt chẽ hơn đối với các TCTD và các doanh nghiệp trong việc công khai hoạt động và tài sản của mình, phải hợp tác tích cực với CIC để hoạt động của CIC hiệu quả hơn, góp phần làm minh bạch thị trường, tăng cho vay tín chấp.
Kết luận
Sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào năm 2007, Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền kinh tế tài chính quốc tế, trong đó có lĩnh vực tài chính ngân hàng. Ngành ngân hàng có vai trò quan trọng và nhạy cảm trong nền kinh tế của một quốc gia nói chung, và Việt Nam nói riêng, do đó yêu cầu có một hành lang pháp lý chặt chẽ, cụ thể, hiện đại, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, và tạo điều kiện cho các tổ chức này phát triển đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Từ năm 2010, theo qui trình hội nhập kinh tế, không có sự phân biệt đối xử giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, tất cả đều có vai trò bình đẳng như nhau trong tổ chức cũng như hoạt động, Nhà nước cần phải dỡ bỏ các đặc quyền, đặc lợi dành cho các tổ chức tín dụng trong nước. Trước tình hình này, luật tổ chức tín dụng 1997 có sửa đổi, bổ sung 2004 tồn tại nhiều bất cập, có nhiều điểm bất hợp lý không còn phù hợp với điều kiện hiện nay, do đó quốc hội đã tiến hành dự thảo luật mới, đó là luật các tổ chức tín dụng năm 2010, có hiệu lực vào ngày 01/01/2011 để tiến hành thay thế cho luật tổ chức tín dụng 1997, có sửa đổi bổ sung 2004.
Nhằm giới thiệu cho các cán bộ, sinh viên …những người đã, đang và sẽ hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng cũng như những ai quan tâm tới lĩnh vực này biết được những điểm sửa đổi, điểm mới về hoạt động tín dụng theo luật tổ chức tín dụng 2010 để có thể vận dụng trong thời gian tới- khi luật này có hiệu lực thi hành, nhóm chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “So sánh, phân tích, đánh giá luật các tổ chức tín dụng 1997 và 2010 về hợp đồng tín dụng cho vay’’. Thông qua việc so sánh, đối chiếu các nội dung có liên quan đến điều khoản trong hợp đồng tín dụng như: đối tượng cho vay, lãi suất, đồng tiền cho vay, thời hạn giải ngân khoản vay…để thấy các điểm tích cực, tiến bộ mà luật mới mang lại; trên cơ sở ý kiến của các chuyên gia, các nhà làm luật đưa ra ý kiến của cá nhân về những điều mà luật mới còn chưa đáp ứng được theo yêu cầu thực tế hay còn tồn tại những điểm bất hợp lý; đưa ra những kiến nghị cá nhân nhằm giải quyết các vấn đề còn thiếu sót.
Tuy còn nhiều thiếu sót nhưng đề tài của chúng tôi về cơ bản đã đạt được những thành công sau:
Cung cấp những thông tin khái quát về hợp đồng tín dụng như các nguyên tắc kí kết hợp đồng tín dụng, các tiêu chí để phân loại hợp đồng tín dụng. giới thiệu về mẫu hợp đồng tín dụng hiện nay giúp người đọc phần nào nắm được nắm được các thông tin cơ bản trước khi tìm hiểu sâu hơn các điều khoản của hợp đồng tín dụng.
Phân tích những bất cập của luật cũ, trong số những điểm còn tồn tại luật mới đã khắc phục được những gì? Những ý kiến chủ quan : đồng tình, phản đối hướng sửa đổi của luật mới.
Nhìn chung, luật mới dùng từ ngữ rõ ràng cụ thể giải thích các thuật ngữ chuyên ngành chẳng hạn: cấp tín dụng, khắc phục được những nhược điểm mà luật 1997 sửa đổi 2004 chưa làm được. Đồng thời, qui định cụ thể, chặt chẽ hơn những đối tượng nào được cho vay, những đối tượng nào không được phép cho vay và hạn mức cấp tín dụng là bao nhiêu nhằm đảm bảo an toàn hơn cho hệ thống tín dụng và đảm bảo cho hệ thống hoạt động có hiệu quả.
Trước thực trạng nền kinh tế Việt Nam ngày càng đi lên và hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đòi hỏi phải đa dạng và mở rộng nghiệp vụ tín dụng và phương thức cho vay, vì vậy Luật tổ chức tín dụng 2010 đã đáp ứng được yêu cầu này.
Các TCTD được tăng quyền giám sát, sử dụng vốn vay, đây là điểm mới mà luật 2010 khác biệt hơn so với luật 1997, giúp các tổ chức tín dụng linh hoạt hơn trong việc kiểm tra nguồn vốn cho vay của mình, theo dõi nguồn vốn cho vay tránh việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích gây thiệt hại cho các tổ chức tín dụng và nền kinh tế.
Một điểm hoàn toàn mới và có tác động tích cực đối với các tổ chức tín dụng là áp dụng mức lãi suất thỏa thuận giữa khách hàng với các TCTD, điều này giúp các TCTD chủ động hơn trong vấn đề xác định lãi suất cho vay, lãi suất huy động vốn trong từng thời kỳ khác nhau. Đồng thời với việc áp dụng lãi suất thỏa thuận có tác động tích cực đối với xã hội, làm giảm được nạn cho vay nặng lãi bởi hiện nay có nhiều TCTD, mức độ cạnh tranh nhau giữa các tổ chức này rất lớn, để cạnh tranh được với nhau, thu hút khách hàng về phía mình buộc họ giảm lãi suất cho vay . Ngoài ra, luật mới cũng tăng thẩm quyền cho các TCTD, họ có quyền quyết định mức miễn, giảm lãi suất đối với khách hàng mà trước đây nó thuộc thẩm quyền của NHNN. Điều này giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các TCTD và mang lại nhiều quyền lợi cho các khách hàng.
Mặc dù luật các TCTD 2010 có nhiều điểm tích cực, khắc phục được nhiều hạn chế thiếu sót cho luật các tổ chức tín dụng 1997, có tác động tích cực đối với nền kinh tế trong quá trình hội nhập, tuy nhiên vẫn còn nhiều chỗ chưa hoàn thiện, vì vậy nhóm chúng tôi đã đưa ra những kiến nghị. Hi vọng sẽ được các nhà làm luật chú ý để góp phần sửa đổi, hoàn thiện luật hơn khi có điều kiện. Đồng thời, chúng tôi cũng đưa ra đề xuất nhằm đưa điểm mới của luật TCTD 2010 nhanh chóng phổ biến đến người người dân.
Tuy đã nỗ lực cố gắng rất nhiều những đề tài vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót, mong cô, các bạn cũng như những người quan tâm đến đề tài đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo
Luật các TCTD năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004)
Luật các TCTD năm 2010.
Bộ luật dân sự 2005.
Quy chế cho vay, quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN (sửa đồi , bổ sung theo quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN).
Báo cáo thẩm tra dự án luật các 2010, Số: 1133/BC-UBKT12
Luật doanh nghiệp 2005.
Bộ luật tố tụng dân sự.
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006.
Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29-12-1999.
Những quy định của pháp luật về hoạt động TCTD, Nhà xuất bản Văn bản - Thông tin.
Hoàn thiện luật ngân hàng – Những đòi hỏi từ hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản lao động – xã hội.
TS. Võ Đình Toàn (2008), Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Hà Nội: Nhà xuất bản công an nhân dân.
“Những nội dung được sửa đổi bổ sung và các điểm mới trong hai luật ngân hàng, chủ yếu của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010”, Tạp chí ngân hàng, số 12, 6/2010, trang 2.
Nguyễn Hương, “Luật các TCTD 2010 và những tác động đối với hoạt động của các ngân hàng”, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ, số 19, 1/10/2010, trang 18.
Hồng Phúc, Ngân hàng nước ngoài lo lắng về dự thảo luật sửa đổi, được lấy về từ tạp chí kinh tế sài gòn online
Chủ biên Trần Đình Dịnh (2006), Những quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng, , NXB Văn Hóa – Thông tin.
Tạp chí công nghệ Ngân hàng
Tạp chí ngân hàng số 13/2006
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- So sánh, phân tích, đánh giá Luật các tổ chức tín dụng 1997 và 2010 về hợp đồng tín dụng cho vay.doc