Tôm Việt Nam hiện đang được các cấp lãnh đạo nước ta quan tâm đầu tư phát triển, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều cơ hội và thách thức không chỉ cho riêng ngành thuỷ sản mà cả các ngành kinh tế khác, nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO. Trên cơ sở các thành tựu đã đạt được, nghiên cứu tận dụng các cơ hội để vượt qua thách thức, khắc phục yếu điểm là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sáchnhằm tìm ra một hướng đi mới cho ngành tôm. Điều đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực, phối kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng của Nhà nước và các doanh nghiệp để các mặt hàng tôm Việt Nam tiếp tục “vùng vẫy” trên thị trường thuỷ sản thế giới.
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng tôm vào thị trường thuỷ sản thế giới nói chung và thị trường Mỹ, Nhật Bản nói riêng là điều không đơn giản. Những khó khăn cho xuất khẩu thuỷ sản còn rất nhiều. Nhưng với những nỗ lực của Bộ thuỷ sản, các doanh nghiệp và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước chúng ta có thể tin tưởng hàng thuỷ sản Việt Nam sẽ thu được thành công mới, để xuất khẩu thuỷ sản thực sự là thế mạnh của nền kinh tế quốc gia, đem lại một lượng ngoại tệ lớn để phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
37 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5432 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sử dụng mô hình swot gồm 4 yếu tố để phân tích điểm mạnh điểm yếu cơ hội và thách thức của mặt hang tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước phát triển. (Nhật Bản và Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NTTS đến 31/6/2013 là 1.272 tỷ đồng, so với dư nợ ngày 31/12/2012 chỉ tăng 3,83 %. Nếu trừ dư nợ nuôi cá tra 5 tỷ đồng thì dư nợ nuôi thủy sản, chủ yếu là tôm, chỉ 1.248 tỷ đồng, tăng 3,48% so cuối năm 2012.
Mức dư nợ như vậy cho thấy người nuôi tiếp tục gặp khó về vốn. Trong khi đó Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ trương giảm lãi suất và tăng vốn cho nông nghiệp - nông thôn, nhất là NNTS. Ngày 5/7/2013, tại Hội nghị bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn cho lúa gạo và thủy sản ĐBSCL, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình khẳng định: "Hoạt động nuôi trồng và chế biến nếu có kế hoạch tốt, ngân hàng sẽ đáp ứng đủ vốn để sản xuất phát triển. Trong đó hoạt động bảo hiểm sẽ được đẩy mạnh; những sản phẩm quan trọng, đảm bảo được đầu ra sẽ được xem xét cấp bảo lãnh tín dụng…".
Song, chưa biết đến bao giờ ngân hàng và doanh nghiệp bảo hiểm tại ĐBSCL thực hiện được như ý kiến Thống đốc. Trong khi đó, dân cứ chạy vốn xoay vòng, phải bỏ hoang hóa diện tích NTTS, khiến cung cầu mất cân đối. Nhiều doanh nghiệp chế biến tôm vì thế phải nhập khẩu nguyên liệu, làm cán cân thanh toán ngoại tệ mất cân đối theo, còn số đông người nuôi tôm vẫn "treo ao" dài dài!
Điểm yếu về tôm nguyên liệu.
Tuy nuôi trồng và khai thác thủy sản được quan tâm và phát triển nhưng việc
phát triển nguyên liệu ở nhiều nơi còn mang tính tự phát, dễ nảy sinh tác hại đối
với môi trường ảnh hưởng lớn đến phát triển thủy sản bền vững.
Sản xuất nguyên liệu và bảo quản sau thu hoạch về cơ bản chưa đáp ứng các
tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm. Giá tôm giống cao, giá thức ăn nuôi
tôm cũng cao đã làm tăng giá thành nguyên liệu, khi tỷ trọng giá nguyên liệu
thường chỉ chiếm đến 90% giá thành sản phẩm. Giá nguyên liệu cao đã làm
giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm tôm Việt Nam đặc biệt khi thị trường
thế giới biến động, giá xuất khẩu giảm.
Về công tác thị trường
Công tác thị trường tuy đã được quan tâm và đạt được một số kết quả nhưng mới chỉ ở trình độ thấp. Phương thức tiếp thị và bán hàng tuy đã chuyển sang chủ động nhưng vẫn thông qua sử dụng thương hiệu của đối tác, chưa có khả năng tiếp cận người tiêu dùng, chưa xây dựng được chiến lược phát triển thị trường cho sản phẩm chủ lực cũng như chưa tổ chức triển khai xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm trên thị trường Mỹ. Nguyên nhân chủ yếu là do không có đủ nguồn lực chuyên gia về thị trường, nguồn kinh phí dành cho các hoạt động xúc tiến thương mại còn hạn chế, chưa có cơ chế thích hợp để huy động kinh phí từ các doanh nghiệp, người sản xuất để phát triển thị trường cho sản phẩm chủ yếu. Mét trong những nét văn hoá tiêu dùng của người Mỹ là mua sắm qua các nhà phân phối uy tín, các hoạt động quảng bá xúc tiến có ý nghĩa rất quan trọng khi kinh doanh trên thị trường này. Yếu về công tác thị trường là một bất lợi lớn khi tôm Việt Nam xâm nhập thị trường này.
Vấn đề bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm
Công tác quản lí an toàn vệ sinh mới chỉ tập trung thực hiện ở khu vực chế biến chưa được thực hiện tốt ở khu vực sản xuất nguyên liệu và bảo quản sau thu hoạch ( chủ yếu sử dụng đá và muối ) nên vẫn còn hiện tượng bị các nước nhập khẩu cảnh báo và trả lại hàng. Yêu cầu về truy xuất nguồn gốc sản phẩm đang là một thách thức lớn đối với toàn ngành. Tình trạng tiêm chích tạp chất vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi, việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng, bảo quản nguyên liệu vẫn chưa kiểm soát tốt. Mặt khác do thiếu những cơ sở dịch vụ như cho cá tập trung ở các vùng sản xuất nguyên liệu nên đã tạo kẽ hở cho tư thương đánh phá giá nguyên liệu ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của nông ngư dân, nhất là vào những thời điểm có nhiều nguyên liệu.
Vấn đề áp dụng khoa học kỹ thuật
Công tác nghiên cứu khoa học phục vụ cho sản xuất tôm tuy có được quan tâm nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao nhằm tạo sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhiều kết quả nghiên cứu còn chậm được phổ biến áp dụng trong sản xuất. Các quy trình nuôi chuẩn, các quy phạm nuôi trồng tốt chưa được ban hành và phổ biến đầy đủ cho nhân dân.
Trình độ công nghệ trong khai thác và nuôi trồng còn nhiều hạn chế. Công nghệ chế biến tôm chưa bắt kịp với tốc độ tiến bộ của công nghệ trên thế giới.
Công tác đào tạo cán bộ quản lí, cán bộ tiếp cận thị trường, công nhân kỹ thuật chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong sự chỉ đạo và điều hành giữa các chương trình phát triển tôm, trong khi đó yêu cầu quản lí đối với sản phẩm là xuyên suốt không thể tách rời. Vì vậy trong sản xuất kinh doanh cũng như đầu tư còn bị cắt khúc và thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa sản xuất nguyên liệu, hậu cần dịch vụ và chế biến xuất khẩu gây nên tình trạng vừa thừa vừa thiếu, vừa lãng phí vừa gây cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường trong và ngoài nước.
Vấn đề dịch vụ hậu cần thủy sản
Việc hình thành và xây dựng cơ sở dịch vụ hậu cần cho khai thác hải sản diễn ra trên 3 lĩnh vực: cơ khí đóng sửa tàu thuyền, các cảng cá bến cá, dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu, thiết bị và hệ thống tiêu thụ sản phẩm. Tuy đã đạt được một số thành công nhất định nhưng dịch vụ hậu cần thủy sản vẫn tồn tại một số yếu kém như sau:
Các cơ sở đóng sửa tàu thuyền phần lớn quy mô nhỏ, phân tán và công nghệ lạc hậu. Các doanh nghiệp Nhà nước về đóng tàu thuyền không đủ khả năng đầu tư đổi mới thiết bị, Ýt khách hàng. Nhân lực kỹ thuật quá Ýt ỏi, công nhân đóng sửa tàu chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống, hạn chế về tiếp thu công nghệ mới. Điều này gây bất lợi lớn khi xuất khẩu thủy sản sang Mỹ bởi khoảng cách giữa Mỹ và Việt Nam quá lớn, nếu không có các đội tàu lớn chúng ta không thể dành được quyền vận chuyển trong buôn bán và không chủ động được trong việc cung ứng hàng.
Nền kinh tế thế giới không ngừng vận động và phát triển, quá trình phân công lao động hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng tạo ra những thách thức và cơ hội mới, nếu ngành tôm Việt Nam không khắc phục những điểm yếu trên thì sẽ bị đào thải. Cạnh tranh ngày càng khốc liệt, để tồn tại và phát triển thì thủy sản Việt Nam còn phải nỗ lực hơn nữa, tạo ra nhiều thế mạnh mới, khắc phục những yếu kém. Nếu không sẽ không giữ được vị trí hiện có trên thị trường Mỹ mà còn thất bại trên cả những thị trường dễ tính hơn.
2.3 Cơ hội.
2.3.1 Hàng rào thuế quan của Mỹ được dỡ bỏ.
Ngày 21/9/2013, Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (USITC) ra tuyên bố ngành sản xuất tôm Mỹ không bị thiệt hại bởi tôm nhập khẩu từ Việt Nam. Như vậy, việc hoàn thuế ký quỹ của các doanh nghiệp là theo đúng luật định.Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), nhận định: “Đây là lần hiếm có trong lịch sử kiện chống trợ cấp, Mỹ công bố sản phẩm tôm một nước bị coi có nền kinh tế phi thị trường không bị áp loại thuế này. Vài ngày trước, tôm Việt Nam cũng lần đầu tiên được minh oan không bán phá giá tại Mỹ. Từ đây, các doanh nghiệp nước ta sẽ có thêm nhiều cơ hội xuất khẩu tôm sang Mỹ”.Từ đầu năm đến nay, giá tôm tại Mỹ liên tục tăng. Cụ thể, giá tôm sú tháng 9/2013 tăng thêm trung bình 3,6 USD/kg, giá tôm chân trắng tăng thêm 4,2 USD/kg. Tháng 8/2013, xuất khẩu tôm tăng 66% so với cùng kỳ năm 2012, riêng thị trường Mỹ tăng đến 146%.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, 8 tháng đầu năm 2013, giá trị xuất khẩu các loại thủy sản đạt 4,16 tỷ USD, tăng 4,3% so với cùng kỳ. Trong đó riêng mặt hàng tôm đạt trên 1,7 tỷ USD, tăng gần 22%.
Riêng tháng 8, xuất khẩu các sản phẩm chính khác đều giảm trong khi mặt hàng tôm vẫn tăng 65,5% so với tháng 8 năm ngoái. Giá trị tôm xuất khẩu sang 10 thị trường lớn đều tăng trưởng mạnh như Mỹ tăng gần 146%, Hàn Quốc tăng 96,2%, EU tăng 54,5%...
Từ đầu tháng 9, tôm Việt đón nhận 2 tin vui khi thoát cả thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp khi vào thị trường Mỹ. Theo đó, toàn bộ các khoản tiền ký quỹ đã thu hoặc dự định sẽ phải thu của doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt sẽ được hoàn trả hoặc bãi bỏ.
8 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu tôm sang Mỹ đạt trên 445,6 triệu USD, tăng hơn 52% so với cùng kỳ 2012. VASEP cho biết, tôm Việt xuất sang Mỹ hiện có một số thuận lợi, đó là nguồn cung từ Thái Lan giảm mạnh, trong khi giá mặt hàng này đang tăng cao.
Cơ hội chiếm lĩnh thị trường
Không giấu nổi vui mừng, ông Trần Văn Lĩnh, Tổng Giám đốc Công ty CP Thủy sản và Thương mại Thuận Phước, bày tỏ: “Khi nhận được thông tin, không chỉ chúng tôi mà nhiều DN xuất khẩu thủy sản khác thấy như trút được gánh nặng đã đè trên vai quá lâu. Kể từ khi Mỹ áp thuế chống bán phá giá lần đầu tiên năm 2004, gần chục năm rồi tôm Việt Nam mới được minh oan. Rồi còn thoát khỏi thuế chống trợ cấp. Chúng ta thắng kiện như một kỳ tích!”.
Các DN trong nước sẽ có thêm nhiều cơ hội xuất khẩu tôm sang thị trường Mỹ. Ảnh: CTV
Ông cho rằng trong giai đoạn kinh tế khó khăn, tôm Việt Nam đã chứng tỏ được sức cạnh tranh trên thị trường thế giới khi tăng gần 70% so với cùng kỳ năm 2012, đạt 1,7 tỉ USD. Nay với việc không phải chịu thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp cơ hội tăng sản lượng và giá trị tôm xuất khẩu vào Mỹ càng rộng mở.
“Thông tin này rất có lợi cho DN tôm Việt Nam vì thời điểm này chỉ còn mỗi Việt Nam là có nguồn cung nguyên liệu lớn nhất; các nước xuất khẩu tôm lớn như Thái Lan, Indonesia bị dịch bệnh tôm chết sớm gây thiệt hại nặng nề hơn” - ông Phạm Hoàng Việt, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Thực phẩm Sao Ta, nói thêm.
Việc tôm Việt không phải chịu hai loại thuế trên không chỉ cởi bỏ được áp lực cho DN xuất khẩu nước ta mà cả với nhà nhập khẩu Mỹ. Họ sẽ chọn tôm Việt Nam vì bán được giá cạnh tranh hơn và có nhiều lợi nhuận hơn trong khi nguồn cung từ Thái Lan, Argentina, Indonesia giảm mạnh, nhu cầu thế giới tăng cao, giá bán tôm cũng tăng.
2.3.3 Sản lượng tôm Thái Lan, nước chi phối nguồn cung tôm thế giới, giảm mạnh
do ảnh hưởng của dịch bệnh khiến nguồn cung hạn chế. Theo dự báo của Hiệp hội Thực phẩm đông lạnh Thái Lan, sản lượng tôm của nước này trong năm 2013 dự kiến giảm 50% so với 550.000 tấn năm 2012.
- Giá tôm trên thị trường thế giới đang tăng nhanh.
Giá tôm tại Mỹ, Nhật Bản và EU có xu hướng tăng.
Trên thị trường Mỹ, giá tôm sú 6 tháng đầu năm 2013 tăng thêm 2,26 USD/kg từ 6,40 USD/pao lên 7,53 USD/pao. Giá tôm chân trắng cũng tăng 2,86 USD/kg từ 4,10 USD/pao lên 5,53 USD/pao.
Trên thị trường Nhật Bản, tôm sú HLSO Việt Nam cỡ 16/20 cuối tháng 6/2013 tăng thêm 5,5 USD/kg so với tháng 1/2013, từ 10,72 USD/kg lên 16,23 USD/kg. Tôm sú HLSO cỡ 16/20 từ Ấn Độ cũng tăng thêm gần 5 USD/kg, từ 11,03 USD/kg lên 15,95 USD/kg. Tôm Indonesia tăng 3 USD/kg. Giá tôm chân trắng của Indonesia trên thị trường này trong 6 tháng đầu năm nay cũng tăng đáng kể. Tôm HLSO cỡ 16/20 tăng 1,8 USD/kg, từ 11,32 USD/kg lên 13,1 USD/kg. Cổng thông tin VASEP, cho thấy Việt Nam xuất khẩu 3.570 tấn tôm nguyên liệu đông lạnh vào thị trường Nhật Bản trong tháng 8 với giá trị 4,3 tỷ Yên, đứng đầu về khối lượng và giá trị xuất khẩu vào thị trường này.
Indonesia và Ấn Độ chia nhau vị trí thứ hai và thứ ba, với giá trị xuất khẩu mặt hàng này sang Nhật Bản lần lượt đạt 3,25 tỷ Yên và 3,17 tỷ Yên. Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu của Indonesia trong tháng 8 (2.657 tấn) lại thấp hơn Ấn Độ (3.320 tấn) do giá xuất khẩu của Indonesia cao hơn.
Tính chung 8 tháng đầu năm, Việt Nam xếp thứ hai về khối lượng xuất khẩu tôm nguyên liệu đông lạnh sang Nhật Bản với 21.904 tấn, đứng sau Indonesia với khối lượng đạt 21.964 tấn, và đứng ngay trước Ấn Độ với 17.609 tấn.
Về giá trị xuất khẩu, Việt Nam lại đứng đầu do giá xuất khẩu bình quân cao hơn 2 nước trên. Giá trị xuất khẩu tôm nguyên liệu của Việt Nam sang Nhật Bản trong 8 tháng đạt 25,4 tỷ Yên, cao hơn so với con số 24,9 tỷ Yên của Indonesia và 17 tỷ Yên của Ấn Độ.
Giá xuất khẩu tôm của Việt Nam sang thị trường này đạt mức trung bình 1.159 Yên/kg, cao hơn so với mức 1.133 Yên của Indonesia và 939 Yên của Ấn Độ. Philipin là nước xuất khẩu tôm với giá cao nhất sang thị trường Nhật Bản là 1.361 Yên/kg.
Cơ quan Hải quan Nhật Bản cho biết trong tháng 8/2013 nước này nhập khẩu 14.337 tấn tôm nguyên liệu đông lạnh trị giá 15,85 tỷ Yên, giảm 10% về khối lượng nhưng tăng 24% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 8 tháng, Nhật Bản nhập khẩu 105.140 tấn tôm nguyên liệu đông lạnh, trị giá 108,27 tỷ Yên, giảm 4% về khối lượng nhưng tăng 18% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012. Giá nhập khẩu trung bình đạt 1.089 Yên (11,14 USD)/kg.
Tính cả tôm chế biến các loại, Nhật Bản đã nhập khẩu tổng cộng 154.083 tấn tôm trong 8 tháng đầu năm 2013, trị giá 156,47 tỷ Yên (1,62 tỷ USD).
XK tôm sang Nhật Bản: Dự báo sẽ tăng nhẹ 4% đạt 642 triệu USD do:
Trên thị trường EU, giá tôm chân trắng HOSO tăng 7% trong 6 tháng đầu năm 2013, từ 9,41 USD/kg tôm cỡ 31/40 lên 10,05 USD/kg. Giá tôm sú HLSO tăng 16% từ 8,60 USD/kg tôm cỡ 16/20 lên 10 USD/kg.
- Giá tôm nguyên liệu đang tăng trở lại
Phần nào khuyến khích người nuôi tôm thả nuôi trở lại, giúp giảm bớt căng thẳng về nguồn nguyên liệu cho chế biến trong nước. Tôm sú nguyên liệu cỡ 30 con/kg có giá bán 180.000 đồng/kg tăng 20% so với đầu năm. Tôm chân trắng cỡ 100 con/kg có giá bán 102.000 đồng/kg, tăng 8,5%.
2.3.4 Dịch bệnh có chiều hướng giảm, EMS được kiểm soát tốt hơn.
Theo báo cáo của một số địa phương về tình hình nuôi tôm 6 tháng đầu năm 2013, tôm nhiễm bệnh hoại tử gan tụy đã giảm đáng kể so với năm 2011 & 2012. Nhiều hộ nuôi tôm đã kiểm soát tốt đối với hội chứng hoại tử gan tụy trên tôm nuôi.
Thống kê của Tổng Cục Thủy sản cho thấy, 6 tháng đầu năm 2013, diện tích nuôi tôm bị thiệt hại khoảng 23.938 ha, giảm 35% so với cùng kỳ năm 2012.
Những ưu đãi từ phía chính phủ Việt Nam
Trong những năm qua, chính phủ và các ban ngành khác luôn quan tâm đến việc xây dựng và phát triển ngành thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế có thế mạnh của nước ta, phát huy lợi thế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
-Về định hướng phát triển
Theo điều 5 của luật thủy sản:
Nhà nước có chính sách bảo đảm phát triển thủy sản bền vững: khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cá nhân khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lợi thủy sản, đảm bảo tái tạo nguồn lợi thủy sản và phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển, sông, hồ, đầm...các vùng tự nhiên.
Nhà nước khuyến khích tổ chức cá nhân đầu tư nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến phát triển nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nuôi thủy sản sạch, đẩy mạnh hoạt động khuyến ngư để phục vụ có hiệu quả hoạt động thủy sản, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, khuyến khích các tổ chức cá nhân tham gia bảo hiểm về người và thuỷ sản trong hoạt động thủy sản.
-Về khai thác thủy sản:
Nhà nước có chính sách đồng bộ về đầu tư, đào tạo nghề, xây dựng hệ thống thông tin liên lạc, điều tra nguồn lợi, dự báo ngư trường, dịch vụ hậu cần...khuyến khích tổ chức cá nhân phát triển khai thác thuỷ sản xa bê.
Tổ chức, cá nhân đầu tư vào hoạt động khai thác thủy sản xa bờ được áp dụng theo luật khuyến khích đầu tư và ảnh hưởng các chính sách ưu đãi khác của nhà nước.
-Về nuôi trồng thuỷ sản
Được cơ quan chuyên ngành phổ biến đào tạo, tập huấn chuyển giao kỹ thuật mới về nuôi trồng thuỷ sản, thông báo về tình hình môi trường dịch bệnh, thông tin về thị trường thuỷ sản.
Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản tập trung theo qui hoạch kế hoạch phát triển ngành thủy sản.
Nhà nước có chính sách khuyến khích nghiên cứu giống thủy sản quí hiếm, tạo giống thủy sản quốc gia quản lí công tác xuất nhập khẩu giống thuỷ sản.
-Các hoạt động dịch vụ thuỷ sản
Nhà nước có chính sách khuyến khích phát triển tàu cá phù hợp với chiến lược khai thác thủy sản xa bờ. Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của cảng cá, khu neo đậu trú bão của tàu cá, hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của bến cá, chợ thủy sản và quản lí kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm ngay tại các chợ đầu mối.
2.4 Thách thức.
2.4.1 Thách thức từ nguồn nguyên liệu.
Sản lượng tôm thu hoạch giảm
Ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết, năm 2012, cả nước có 30 tỉnh, thành phố nuôi tôm nước lợ, với tổng diện tích thả nuôi là 657.523 ha, sản lượng 476.424 tấn; tăng 0,2% về diện tích nhưng giảm 3,9% sản lượng so với năm 2011. Trong đó, nuôi tôm sú chiếm 94,1% diện tích và 62,7% sản lượng tôm nuôi trong cả nước; tôm thẻ nuôi chiếm 5,9% diện tích, sản lượng chiếm 27,3%.
Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là vùng nuôi tôm nước lợ chủ yếu của cả nước với tổng diện tích nuôi tôm là 595.723 ha, sản lượng 358.477 tấn (chiếm 90,61% diện tích, 75,2% sản lượng nuôi tôm cả nước); trong đó diện tích nuôi tôm sú là 579.997 ha, sản lượng 280.647 tấn (chiếm 93,6% diện tích, 94% sản lượng tôm sú cả nước), diện tích nuôi tôm chân trắng là 15.727 ha, sản lượng 77.830 tấn (chiếm 41,2% diện tích, 42% sản lương tôm chân trắng nuôi cả nước).
Tổng cục Thủy sản nhận định, dịch bệnh xảy ra trầm trọng trên diện rộng là nguyên nhân chính khiến hiệu quả sản xuất năm 2012 bị ảnh hưởng nghiêm trọng, bên cạnh các khó khăn khác như giá thức ăn, vật tư đầu vào liên tục tăng cao, giá mua tôm một số thời điểm thấp và rào cản thương mại về kiểm tra dư lượng Ethoxyquin ở thị trường Nhật Bản.
Từ đầu năm đến nay, cả nước có khoảng 100.776ha diện tích tôm nước lợ bị thiệt hại do dịch bệnh (trong đó tôm sú là 91.174ha), bao gồm các bệnh hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPNS), đốm trắng, đầu vàng... gây thiệt hại lớn về kinh tế cho người nuôi và ảnh hưởng đến sản lượng, giá trị xuất khẩu.
Các địa phương bị dịch bệnh nhiều nhất là Sóc Trăng thiệt hại 23.371,5ha (56,6% diện tích thả nuôi); Bạc Liêu 16.919ha (thiệt hại trên 50% 8.377ha, thiệt hại dưới 50% 8.542ha); Bến Tre thiệt hại 2.237ha nuôi thâm canh, bán thâm canh (29,06% diện tích thả nuôi); Trà Vinh thiệt hại 12.200ha (49,3% diện tích); Cà Mau diện tích tôm nuôi công nghiệp bị bệnh 958,58ha, tăng trên 420ha so với năm 2011. Riêng Tiền Giang, diện tích tôm nuôi thâm canh và bán thâm canh bị thiệt hại là 922,88ha, chiếm 30,63% tổng diện tích thả nuôi tôm.
2.4.2 Rào cản gia tăng từ các thị trường
Từ Thị trường Mỹ:
Ngày 29/5/2013, DOC đã ra phán quyết sơ bộ về thuế chống trợ cấp đối với tôm NK từ 7 nước trong đó có Việt Nam với lý do ngành tôm các nước này nhận trợ cấp từ chính phủ. Việt Nam bị áp thuế 6,07%. Ngày 13/8 tới DOC sẽ ra phán quyết cuối cùng, tuy nhiên, tôm Việt Nam XK sang Mỹ hoàn toàn có khả năng bị áp thuế “kép” gồm thuế CBPG và thuế chống trợ cấp. Ngày 12/8/2013, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) ra quyết định cuối cùng, cáo buộc tôm xuất khẩu của Việt Nam được hưởng trợ giá làm tổn hại tới các nhà đánh bắt và chế biến tôm của Hoa Kỳ.
Theo đó, mức thuế suất chống trợ cấp mà Hoa Kỳ áp dụng với các DN xuất khẩu tôm của Việt Nam là từ 1,15% đến 7,88%. Dù vậy, mức thuế này đã bị USITC chính thức phản đổi.
Với phán quyết của USITC, tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ không phải chịu thuế chống trợ cấp nói trên. Đây không chỉ là tin vui với ngành tôm Việt Nam mà còn với cả người tiêu dùng Hoa Kỳ.
Theo ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), việc DOC áp thuế chống trợ cấp với tôm nhập khẩu Việt Nam không chỉ là một phán quyết vô lý, không công bằng, ảnh hưởng đến hàng trăm ngàn người nông dân và DN của Việt Nam mà còn khiến người tiêu dùng Hoa Kỳ chịu thiệt vì giá tôm nhập khẩu tăng mạnh.
Trước đó, vào ngày 10/9, lần đầu tiên Hoa Kỳ lên tiếng công nhận tôm Việt Nam không bán phá giá vào nước này giai đoạn từ ngày 1/2/2011 đến 31/1/2012. Như vậy, việc thoát khỏi cảnh một cổ hai tròng, chịu hai loại thuế vô lý là thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp sẽ giúp tôm Việt Nam có nhiều đất cạnh tranh hơn trên thị trường Hoa Kỳ.
Theo Hiệp hội chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep), 8 tháng đầu năm 2013, giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 4,16 tỷ USD, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu tôm đạt trên 1,7 tỷ USD, tăng gần 22% và chiếm tới 41,5% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản cả nước.
Riêng tháng 8/2013, xuất khẩu các sản phẩm chính khác đều giảm trong khi xuất khẩu tôm tăng tới 65,5% so với tháng 8/2012. Đặc biệt, xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ có tốc độ tăng tới 145,9%. Với đà tăng này, Hoa Kỳ đang vượt qua Nhật Bản, trở thành thị trường lớn nhất tiêu thụ tôm của Việt Nam.
Xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ bắt đầu hồi phục từ quý II/2013 sau khi giảm 18,6% năm 2012 và giảm 6,3% trong quý I. Tám tháng đầu năm 2013, xuất khẩu tôm sang Mỹ đạt trên 445,6 triệu USD, tăng 52,4% so với cùng kỳ năm 2012.
Bang Lousiana của Mỹ đang vin vào lý do bảo vệ ngành tôm khai thác nội địa để thông qua dự luật cấm tôm NK từ các nước bị ảnh hưởng của EMS.
Xuất khẩu tôm sang Mỹ năm 2013 sẽ tăng trưởng chậm
Trong báo cáo chính thức của Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (ITC) về quyết định sơ bộ đối với việc bắt đầu điều tra thuế chống trợ cấp tôm NK từ 7 nước trình lên Chính phủ Mỹ, ước tính tăng trưởng XK tôm nói chung và sang Mỹ nói riêng năm 2013 từ các nước này sẽ giảm.Trong báo cáo này, ITC cung cấp số liệu của 5 nước XK tôm hàng đầu sang Mỹ gồm Ecuador, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam năm 2012 và ước tính năm 2013. Các số liệu đó cho thấy rõ xu hướng giảm XK tôm của các nước này sang Mỹ cũng như khả năng mở rộng XK tôm sang các thị trường khác năm 2013.Theo đó, XK tôm năm 2013 của Indonesia, Thái Lan và Việt Nam sang Mỹ đều giảm, XK tôm của Ecuadorvà Ấn Độ tăng. Đối với Việt Nam, theo ITC, XK tôm năm 2013 dự kiến đạt 145.898 tấn, chỉ tăng 3,3% so với 141.221 tấn của năm 2012, trong đó XK sang Mỹ sẽ giảm còn 32.337 tấn từ 33.665 tấn năm 2012 .Bên cạnh thống kê về XK, ITC còn đưa ra lượng dự trữ tôm của các nước tại Mỹ đầu năm 2013. Trong đó Tổng lượng dự trữ của 3 nước còn lại gồm Thái Lan, Việt Nam và Indonesia giảm 12% còn 153.000 tấn.Năm 2012, NK tôm từ 5 nước này chiếm tới 74,5% tổng NK tôm vào Mỹ.
Bảng : Xuất khẩu tôm các nước sang Mỹ năm 2012 và dự báo 2013( tấn).
NướcXK
Tổng XK năm 2012
Dự báo tổng xk năm 2012
XK sang Mỹ năm 2012
Dự báo XK sang Mỹ năm 2013
Lượng dự trữ đầu năm 2013
Việt Nam
141.221
145.898
33.665
32.337
33.050
Theo Cơ quan Thống kê Mỹ, NK tôm Việt Nam vào Mỹ năm 2012 giảm 9,5% so
với năm 2011. Năm 2013 dự báo nhu cầu tiêu thụ tôm của nước này sẽ không tăng cao do nền kinh tế chưa thoát khỏi khủng hoảng. Bên cạnh đó, với sự đồng thuận “vào cuộc” của Bộ Thương mại Mỹ và ITC trong việc điều tra vụ kiện chống trợ cấp đối với xuất khẩu tôm Việt Nam sang Mỹ năm 2013.Có thể nói, năm 2013 Mỹ không còn là điểm đến hấp dẫn đối với nhiều nhà XK tôm Việt Nam nữa. Do vậy, XK tôm Việt Nam sang Mỹ năm 2013 khó có thể tăng trưởng.
Từ thị trường Hàn Quốc:
Từ 1/1/2013, Hàn Quốc quyết định kiểm tra Ethoxyquin với dư lượng 0,01ppm đối với tôm NK từ Việt Nam khiến XK tôm sang thị trường này 6 tháng đầu năm giảm tới 23,1%.
Mới đây, Cơ quan Quản lý chất lượng thủy sản Hàn Quốc thông báo, Bộ An toàn Thực phẩm và Dược phẩm Hàn Quốc sẽ thực hiện kiểm tra tăng cường chỉ tiêu axit Nalidixic trong các lô hàng tôm Việt Nam từ ngày 22/7 - 31/12/2013 với tần suất kiểm tra là 3% và chỉ tiêu kiểm tra dư lượng cho phép ≤0,03 mg/kg.
Nhật Bản:
- Tỷ giá đồng yên/USD bất lợi cho XK tôm sang Nhật Bản
Năm 2013, chính phủ Nhật Bản hạ giá đồng Yên so với đồng USD. Có thời điểm, tỷ giá yên/USD đạt trên 103 yên/USD. Sự mất giá đồng yên khiến giá các mặt hàng thực phẩm thiết yếu tại Nhật tăng mạnh. Thị trường tôm tại nước này chịu ảnh hưởng mạnh. Tiêu thụ tôm giảm. Hoạt động NK và kinh doanh tôm ở Nhật Bản trở nên khó khăn.
2.4.3 Dịch bệnh và thiếu vốn tiếp tục gây bất ổn nguồn cung nguyên liệu
Mặc dù EMS được kiểm soát tốt hơn tuy nhiên, người nuôi tôm vẫn đang tiếp tục đối mặt với các bệnh dịch khác. Thực tế công tác kiểm soát dịch bệnh còn rất hạn chế, ngay từ kiểm soát chất lượng tôm giống.
Tôm chết loạt do dịch bệnh từ năm 2012 khiến nhiều hộ nuôi tôm kiệt quệ, không còn đủ vốn để thả nuôi tiếp. Việc thế chấp từ ao đầm đã được người nuôi sử dụng nhưng việc định giá đất đã được quy định từ nhiều năm nay nên khung giá đất rất thấp, người dân vay được rất ít.
2.4.4 Chất lượng và uy tín tôm VN bị giảm sút do ảnh hưởng của dịch bệnh
Ngày 18/4/2013, Mexico ban hành lệnh cấm NK tôm từ 4 nước bị ảnh hưởng của EMS trong đó có ViệtNam.
Ngày 29/7/2013, IntraFish đăng tải thông tin CH Dominica ban hành lệnh cấm NK tôm từ Malaysia, Việt Nam, Thái Lan và Bangladesh do lo ngại dịch bệnh.
2.4.5 Chính sách tỷ giá của một số nước cạnh tranh tạo nhiều lợi thế cho XK nước họ
Một số nước, như Ấn Độ đã sử dụng chính sách hạ giá đồng nội tệ trong năm 2013 nhằm tạo thêm lợi thế cho các DN XK tôm. 6 tháng đầu năm 2013, đồng Rupee của Ấn Độ mất giá 9% so với đồng USD theo đó, giá trị XK tôm của Ấn Độ tính theo đồng Rupee tăng thêm 18%.
- Tôm Việt Nam sẽ phải cạnh tranh mạnh hơn với tôm Ấn Độ trên thị trường này do XK tôm Ấn Độ sang Mỹ trong 6 tháng cuối năm sẽ khó có thể tăng mạnh do tác động của thuế chống trợ cấp.
- Quy định kiểm tra Ethoxyquin tiếp tục hạn chế NK tôm Việt Nam vào Nhật Bản mặc dù nước này đã nới lỏng kiểm tra Trifluralin đối với tôm VN đã giúp giảm bớt phần nào gánh nặng cho tôm XK VN sang đây.
- Chính sách tỷ giá yên/USD cũng là một yếu tố không có lợi cho NK tôm vào Nhật năm 2013 này.
2.4.6 Sự khác biệt trong văn hóa kinh doanh
Văn hóa kinh doanh của người Mỹ khác biệt rất nhiều so với người Châu Á nói chung. Một số cơ quan nghiên cứu đã đưa ra 18 điểm đối nghịch giữa văn hóa kinh doanh của người Mỹ và Nhật. Những điểm đó cũng rất tương thích khi so sánh văn hóa kinh doanh giữa người Mỹ và người Việt Nam. Hiểu được văn hóa kinh doanh của người Mỹ là một nhân tố quan trọng để xâm nhập sâu rộng vào thị trường Mỹ.
+ Thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ
Người Mỹ là một dân tộc chuộng mua sắm và tiêu dùng, hàng hóa dù chất lượng cao hay vừa đều có thể bán được trên thị trường Mỹ, mẫu mã có thể không quá cầu kỳ nhưng cần sự đa dạng, sự đặc thù, hợp thị hiếu và tiện dụng. Với thu nhập cao, mua sắm không thể thiếu trong văn hóa hiện đại của nước này. Qua thời gian người tiêu dùng Mỹ có một niền tin gần như tuyệt đối vào hệ thống các cửa hàng đại lí bán lẻ, nơi họ có sự đảm bảo về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Điều này là một thách thức với doanh nghiệp kinh doanh hàng thủy sản Việt Nam. Bởi hiện nay hệ thống phân phối hàng thủy sản của ta còn quá nghèo nàn, chủ yếu là xuất khẩu FOB, chưa có nhiều nhà phân phối trực tiếp. Trong khi đó các nước khác nh Mexicô, Thái Lan... xâm nhập trước ta đã xây dựng được một hệ thống đa dạng các kênh phân phối.
Ở Mỹ không có các lệ ước và tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh và bắt buộc nh những nước khác. Các nhóm người khác nhau vẫn sống theo văn hóa, tôn giáo của mình và dần dần theo thời gian hòa trộn ảnh hưởng lẫn nhau. Chính điều này tạo ra sự khác biệt so với văn hóa tiêu dùng của người Châu Âu, cũng tôn trọng chất lượng nhưng sự thay đổi luôn là yếu tố chính làm thay đổi thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ. Với sự thay đổi nh vậy, giá cả trở nên có vai trò quan trọng. Điều này giải thích tại sao hàng hóa tiêu dùng từ một số nước đang phát triển có chất lượng kém hơn vẫn có chỗ đứng trong thị trường Mỹ ( điều này khó xảy ra tại Châu Âu ). Đây vừa là thách thức vừa là cơ hội cho hàng thủy sản Việt Nam vì hàng thủy sản Việt Nam có lợi thế về giá so với các sản phẩm thủy sản cùng loại nhưng các mặt hàng chưa đa dạng, các sản phẩm giá trị gia tăng còn chiếm tỷ lệ thấp trong khi người Mỹ rất chú ý đến sự phong phú của sản phẩm.
+ Văn hóa trong hợp tác kinh doanh
Khi làm việc với các đối tác mới, người Mỹ thường trông đợi đối tác công khai với họ những thông tin chính yếu về doanh nghiệp kể cả báo cáo tài chính công khai và được kiểm toán của doanh nghiệp. Họ cũng trông đợi các doanh nghiệp sử dụng các công cụ đáng tin cậy và hiện đại trong kinh doanh như: hệ thống thanh toán qua các ngân hàng có uy tín, tư vấn luật sư, tiếng Anh thông thạo, chuẩn xác trong ngôn ngữ hợp đồng... mà những lĩnh vực này doanh nghiệp kinh doanh hàng thủy sản Việt Nam vẫn còn yếu và thiếu.
Ngoài ra người Mỹ rất sợ các đối tác không hiểu luật. Hiện nay ở Mỹ có hơn một triệu luật sư. Công ty nào của Mỹ cũng có tư vấn luật trước, rà soát trước. Cái gì của Mỹ cũng dựa trên pháp luật, nếu không áp dụng được điều này rất khó làm ăn với Mỹ. Họ lo sợ bên đối tác không hiểu biết pháp luật mà vẫn ký. Điều này thì các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam còn Ýt quan tâm và chưa có kinh nghiệm.
Khắc phục sự thiếu hiểu biết những thói quen không phù hợp và khoảng cách về văn hóa kinh doanh giữa hai bên là điều hoàn toàn không đơn giản đối với kinh doanh thủy sản nói riêng và các mặt hàng khác của Việt Nam nói chung khi thâm nhập thị trường Mỹ. Đổi mới trong cách nghĩ cách làm, thay đổi tác phong làm việc, phải có tác phong công nghiệp: giao hàng đúng thời hạn, địa điểm, thích ứng với nhiều phương thức kinh doanh cũng như phương thức thanh toán...không được giữ tác phong nông nghiệp trước đây. Đó là nhược điểm rất lớn trong văn hoá kinh doanh của người Việt Nam cần khắc phục khi tham gia kinh doanh trên thị trường Mỹ nói riêng và thị trường thế giới nói chung.
2.4.7 Sự cạnh tranh khốc liệt của các đối thủ khác
Mỹ là thị trường rất mở nhưng cạnh tranh cũng rất quyết liệt. Có thể thấy, tôm Việt Nam chưa có sản phẩm giá trị gia tăng cao, chưa có những thương hiệu uy tín khẳng định chất lượng cao cho sản phẩm nên khả năng cạnh tranh của nhiều mặt hàng thuỷ sản không vững chắc, sẽ luôn bị thách thức bởi các đối thủ cạnh tranh, các sản phẩm thay thế. Kinh nghiệm của tôm Việt Nam tại Mỹ không phải là cá biệt và các vụ kiện như vậy sẽ xuất hiện khi hàng việt Nam chiếm được thị phần đáng kể đe doạ đến vị trí của các doanh nghiệp Mỹ. Đó là áp lực từ phía các nhà sản xuất nội địa.
Ngoài ra tôm Việt Nam còn bị sức cạnh tranh từ các nhà xuất khẩu khác như: Thái Lan, Trung Quốc, Ên Độ...thông qua các biện pháp giảm giá, chào bán, đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu...để chiếm lĩnh thị trường. Chẳng hạn hàng tôm Việt Nam thường xuất khẩu theo điều kiện FOB, thanh toán ngay trong khi đối thủ của ta thường xuất khẩu của ta chào giá CFR. Thời hạn trả tiền 30-60 ngày kể từ ngày cấp vận đơn. Hơn nữa các đối thủ cạnh tranh tham gia vào thị trường tôm Mỹ cũng có lợi thế tương tự Việt Nam như: Thái Lan, Trung Quốc, Inđônêxia... đều coi thị trường Mỹ là thị trường chiến lược trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản noia chung và tôm nói riêng, cho nên chính phủ và doanh nghiệp các nước này đều ưu tiên tập trung dành thị phần trên thị trường Mỹ. Mặt khác họ vào thị trường Mỹ sớm hơn chúng ta, khi mà thị trường đã ổn định về người mua, mối bán, thói quen sở thích thì đây được coi là thách đố đối với tôm Việt Nam. Đánh giá khả năng cạnh tranh về mặt hàng tôm của một số nước so với tôm Việt Nam ta có bảng sau:
Tên nước
Khả năng cạnh tranh so với hàng tôm Việt Nam
Thái Lan
khả năng cung cấp lớn
sản phẩm đa dạng đã qua chế biến
đưa vào Mỹ với nhiều kênh phân phối
Mêxicô
có hệ thống phân phối trực tiếp
thời gian bảo quản ngắn
chi phí vận tải thấp
Nguồn: báo cáo tổng kết ngành thuỷ sản 2004
Cạnh tranh là điều tất yếu khi tham gia sân chơi thương mại quốc tế. Vấn đề đặt ra cho tôm Việt Nam là làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh tranh đứng vững trên thị trường Mỹ và thị trường thế giới. Đây không chỉ là vấn đề quan tâm của riêng ngành thuỷ sản mà của hầu hết các ngành kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Khoảng cách về địa lí
Thị trường Mỹ ở quá xa Việt Nam, chi phí vận tải và bảo hiểm chuyên chở hàng xuất khẩu lớn, điều này làm cho chi phí kinh doanh hàng tôm từ Việt Nam sang Mỹ tăng lên. Hơn nữa thời gian vận chuyển dài làm cho hàng tôm tươi sống bị giảm về chất lượng và tỷ lệ hao hụt tăng. Đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạnh tranh của tôm Việt Nam trên thị trường Mỹ so với hàng thuỷ sản từ các nước Châu Mỹ La Tinh có điều kiện khí hậu tương tự ta như: Canađa, Mêxicô lại rất gần Mỹ.
Thâm nhập thị trường Mỹ là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh: hợp tác với các đối tác mua, phân phối hàng của ta đồng thời đấu tranh cạnh tranh với các nhà sản xuất nội địa Mỹ được bảo hộ bởi hệ thống luật pháp và chính sách của chính phủ Mỹ cùng với rất nhiều đối thủ cạnh tranh từ các nước khác. Thách thức cho tôm Việt Nam còn rất lớn. Tuy nhiên những khó khăn thách thức này cũng là tất yếu trong cuộc chơi chung toàn cầu mà các doanh nghiệp, các quốc gia đều phải đối mặt.
Bảng tổng kết phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của tôm Việt Nam
STT
Điểm mạnh
( S )
Điểm yếu
( W )
Cơ hội
( O )
Thách thức
( T )
1
Tiềm năng nguồn lợi về tôm dồi dào
Về nguyên liệu nguồn đầu vào chưa đảm bảo chất lượng giá thành cao
Những ưu đãi Việt Nam được hưởng và tác động tích cực của BTA
Sự phức tạp trong hệ thống pháp luật của Mỹ và thách thức từ các rào cản thương mại
2
Sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu
Về công tác thị trường
Xu hướng tiêu dùng có lợi cho tôm Việt Nam trên thị trường Mỹ
Sự khác biệt trong văn hoá kinh doanh của người Mỹ và người Việt Nam
3
Phát triển thị trường
phong phú về mặt hàng
mở rộng thị trường
Cơ cấu mặt hàng: sản phẩm thô còn chiếm tỉ lệ cao
Các quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng được mở rộng
Sự cạnh tranh khốc liệt của các đối thủ khác
4
Đã có một số công nghệ cao trong chế biến và nuôi trồng
Vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
Tác động của một số sự kiện
Khoảng cách về địa lí
5
Vấn đề áp dụng khoa học kỹ thuật
Những ưu đãi từ phía chính phủ Việt Nam
6
Vấn đề dịch vụ hậu cần
Chương 3: Chiến lược xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Hoa Kì theo mô hình SWOT
1. Chiến lược 1: S1O5W1
Phát huy tiềm năng của tôm ( S1), tận dụng những ưu đãi của chính phủ Việt Nam ( O5 ) để khắc phục điểm yếu về nguyên liệu ( W1 ), hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng nguyên liệu đầu vào đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm thuỷ sản của Mỹ
-Các giải pháp tăng cường đầu tư và nâng cao năng lực quản lí việc đánh bắt cá xa bờ và nuôi tôm.Trước tình hình nguồn tài nguyên ven bờ đã cạn kiệt do khai thác quá công suất trong thời gian qua thì việc tăng sản lượng khai thác đánh bắt xa bờ là một biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề nguyên liệu cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để lựa chọn những chủng loại tôm mới đưa vào xuất khẩu.
-Hỗ trợ doanh nghiệp và các cộng đồng ngư dân phối hợp xây dựng và phát triển các vùng nuôi có tổ chức, tạo ra số lượng lớn, chất lượng cao, đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, với các đối tượng chủ lực ( tôm sú, tôm thể chân trắng, tôm càng xanh, cá tra, cá basa, cá rô phi ) theo phương thức đa dạng phù hợp với điều kiện sinh thái và môi trường, giá thành cạnh tranh.
-Tăng cường cho ngư dân đầu tư cải tiến công nghệ khai thác và bảo quản sản phẩm trên tàu, hỗ trợ phát triển đội tàu hậu cần dịch vụ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và đảm bảo an toàn vệ sinh, nâng cao tỷ lệ sản phẩm đưa vào chế biến xuất khẩu.
2. Chiến lược2: S4O3W3,5
Dựa trên cơ sở một số công nghệ cao đã có ( S4 )tận dụng sự hỗ trợ mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế ( O3 ) để nâng cao năng lực chế biến khắc phục điểm yếu về cơ cấu mặt hàng ( W3 ), và trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu(W5) để gia tăng sản phẩm có hàm lượng chế biến cao.
Giá tôm Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhìn chung vẫn thấp chỉ bằng 70% mức giá cùng loại của Thái lan và Inđônêxia nhưng vẫn khó cạnh tranh được với hàng xuất khẩu khác. Sở dĩ như vậy là do kỹ thuật chế biến hàng thuỷ sản Việt Nam còn hạn chế. Vấn đề nâng cao năng lực chế biến là một đòi hỏi bức thiết cần sự phối kết hợp từ phía các doanh nghiệp và sự hỗ trợ của nhà nước.
2.1 Đẩy mạnh hợp tác quốc tế
Việc gia nhập hiệp hội nghề cá các nước Đông Nam Á cũng như gia nhập các tổ chức của khu vực và thế giới APEC, AFTA... các quan hệ hợp tác với các nước về phát triển thuỷ sản như Trung Quốc, Chi Lê... sẽ mở ra cho Việt Nam những cơ hội vô cùng to lớn để tranh thủ nguồn vốn đầu tư, đổi mới công nghệ đánh bắt chế biến và nuôi tôm cũng như học hỏi kinh nghiệm trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí.
Nhà nước cần tạo hành lang pháp lí hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực phát triển thuỷ sản. Trong đó ưu tiên đầu tư cho các lĩnh vực sau:
-Xây dựng cơ sở hạ tầng cảng tôm, chợ tôm, hệ thống thuỷ lợi cho nuôi tôm, hệ thống phòng trú bão...
-Các dự án về chuyển giao công nghệ sản xuất giống, nuôi tôm ( bao gồm cả nuôi nước mặn lợ, nuôi nước ngọt và nuôi biển ).
-Các dự án nâng cấp đổi mới công nghệ chế biến, dự án đầu tư sản xuất thức ăn, thuốc phòng chữa bệnh phục vụ nuôi tôm với công nghệ và trang thiết bị tiên tiến.
-Các dự án hỗ trợ kỹ thuật về đào tạo đội ngũ cán bộ để đổi mới quản lí cho các cơ quan hành chính, các doanh nghiệp, cán bộ nghiên cứu... cung cấp nguồn nhân lực để nâng cao năng lực chế biến.
Ngoài ra cần thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư phát triển tôm, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực này.
2.2 Đẩy mạnh vai trò của công tác khoa học công nghệ
-Nâng cấp các cơ sở nghiên cứu đào tạo với trang thiết bị hiện đại, đủ năng lực nghiên cứu, giải quyết những vấn đề về công nghệ, về quản lí nguồn lợi, quản lí môi trường và an toàn vệ sinh.
-Đẩy nhanh việc nghiên cứu và hướng dẫn áp dụng công nghệ tiên tiến nhất là công nghệ, các tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực khai thác hải sản, nuôi trồng, chế biến, cơ khí, dịch vụ cho thuỷ sản nhằm nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh, sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững.
-Lựa chọn và du nhập các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài để rút ngắn khoảng cách về công nghệ sản xuất tôm, công nghệ nuôi và bảo vệ tái tạo nguồn lợi thuỷ sản. Đồng thời nhanh chóng đưa các công nghệ mới này áp dụng vào thực tiễn sản xuất.
2.3 Hỗ trợ của chính phủ và cơ quan chức năng để nâng cao năng lực chế biến
Hỗ trợ về vốn của chính phủ là một nguồn rất quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thủy sản: doanh nghiệp khai thác, nuôi trồng và chế biến. Cụ thể chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc ưu đãi tín dụng với các doanh nghiệp thực hiện đổi mới quy trình công nghệ. Hoàn thiện hệ thống sản xuất giai đoạn 2001-2005 chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp nhà nước trong đó nhiệm vụ của khoa học công nghệ trong lĩnh vực thủy sản chiếm tổng vốn đầu tư 27,82 tỷ đồng.
Các biện pháp trên nhằm xây dựng ngành thủy sản Việt Nam đặc biệt là tôm trở thành ngành có công nghệ cao và có nhiều sản phẩm giá trị gia tăng lớn, để có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường Mỹ cũng như các thị trường khác.
3. Chiến lược 3: S2W4
Dựa trên những điểm mạnh trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm đã có ( S2) tiếp tục phát huy và xây dựng các quy phạm mới khắc phục điểm yếu về vệ sinh an toàn thực phẩm( W4 )
3.1.Giải pháp phòng ngừa dư lượng kháng sinh
Mối lo và nguy cơ lớn nhất hiện nay của doanh nghiệp là chính sách “dư lượng bằng 0” của EU, Mỹ và các nước khác, việc hạ thấp ngưỡng phát hiện xuống mức 0,3 ppb hoặc thấp hơn nữa, trong khi chóng ta chưa có đủ năng lực kỹ thuật để kiểm tra phát hiện dư lượng kháng sinh ( nhất là các chất dẫn xuất của nitrofurans ) với hàm lượng thấp như vậy.
Chỉ có thể giải quyết vấn đề này bằng một chính sách đồng bộ được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực liên quan trong cả nước. Đề nghị Chính phủ, Bộ thuỷ sản và các bộ ngành khác coi vấn đề dư lượng kháng sinh là vấn đề sống còn của xuất khẩu tôm để khẩn trương áp dụng các biện pháp đồng bộ.
Đề nghị Bộ chỉ đạo cục an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản có biện pháp tích cực để cải tiến chất lượng của chương trình giám sát dư lượng các chất độc hại trong vùng nuôi và trong nguyên liệu tôm phục vụ hữu hiệu cho việc phát hiện sớm dư lượng kháng sinh trong nguyên liệu tôm.
3.2.Chống đưa tạp chất vào nguyên liệu tôm.
Tiến hành việc kiểm tra chéo giữa các doanh nghiệp tại khu vực thu mua nguyên liệu để cùng nhau loại bỏ sự nghi ngờ về việc các xí nghiệp thu mua nguyên liệu tôm đã bị bơm chích tạp chất, tiến đến việc thực hiện nghiêm túc và tự nguyện các cam kết không mua tôm có chứa tạp chất. Tìm các giải pháp ngăn chặn tình trạng tôm bơm nước. Xem xét việc tiến hành các nghiên cứu về tỷ trọng từng lô tôm để tìm giải pháp đơn giản kiểm tra việc tôm bơm chích và ngâm nước.
3.3.Thực hiện các tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của cơ sở sản xuất
Bộ thuỷ sản đã ban hành nhiều văn bản bắt buộc áp dụng các tiêu chuẩn của ngành thuỷ sản 28TCN 130-1998 và 28TCN 129-1998 về điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của các cơ sở sản xuất tôm.
Đề nghị Bộ thuỷ sản tăng cường kiểm tra các cơ sở chưa được yêu cầu và có chế tài quy định các doanh nghiệp thực hiện, đồng thời tiến hành phân loại doanh nghiệp về điều kiện bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm tương ứng với chủng loại và nhóm sản phẩm.
4.Chiến lược 4: S2O2
Dựa trên ưu thế về một số sản phẩm và thị phần đã đạt được trên thị trường Mỹ ( S2 ) tiếp tục đa đạng hoá sản phẩm khai thác cơ hội khi xu hướng tiêu dùng tôm của người dân Mỹ ngày càng tăng ( O2 ) để duy trì và nâng cao thị phần trên thị trường Mỹ
4.1.Đa dạng hoá mặt hàng
Bên cạnh tăng cường sản xuất các mặt hàng giá trị gia tăng, các doanh nghiệp cần đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu. Tận dụng nguồn tiềm năng tôm phong phú, các quan hệ hợp tác quốc tế nâng cao công nghệ chế biến tạo ra nhiều mặt hàng hơn nữa, đặc biệt là những mặt hàng tiện dụng, chất lượng cao như đồ hộp, đồ ăn liền... song song với việc tiếp tục phát triển tốt các mặt hàng chủ lực cần tạo ra nhiều mặt hàng mới đáp ứng các yêu cầu tiêu dùng từ bình dân đến xa xỉ. Với số dân trên 280 triệu người chiếm 4.6% dân số thế giới, nước Mỹ đã tạo ra 20,8% GDP toàn thế giới, thì Mỹ quả thực là một thị trường khổng lồ có nhu cầu đa dạng từ trung bình đến cao. Việc đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng là một đòi hỏi tất yếu.
Các nhà kinh doanh tôm Việt Nam trên thị trường Mỹ cần quan tâm đến xu hướng tiêu dùng thuỷ sản của người Mỹ và nhu cầu của họ. Nghiên cứu các giống mới mà thị trường Mỹ có nhu cầu nếu phù hợp với điều kiện nuôi trồng khí hậu ở Việt Nam thì có thể nhập khẩu giống, công nghệ nuôi trồng chế biến. Nhà nước cần hỗ trợ cho người nuôi trồng thực hiện những phương án này đồng thời phối kết hợp giữa các doanh nghiệp kinh doanh nắm bắt nhu cầu thị trường Mỹ với các nhà sản xuất tôm nước ta để tạo ra những sản phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
4.2.Xây dựng thương hiệu cho tôm Việt Nam
Khi các mặt hàng tôm Việt Nam như tôm, cá tra, cá basa.. trở thành sản phẩm chủ lực và có thị phần đáng kể trên thị trường Mỹ thì cũng có không ít rủi ro đi kèm. Để hạn chế rủi ro, mét trong những nhân tố quan trọng là phải tăng sức cạnh tranh của mặt hàng trên thị trường. Mà yếu tố góp phần khẳng định chất lượng sản phẩm là thương hiệu. Do vậy chúng ta cần phải xây dựng thương hiệu uy tín cho các mặt hàng tôm Việt Nam.
Qua nghiên cứu cho thấy, để xây dựng thương hiệu cho một mặt hàng tôm Việt Nam chóng ta cần:
-Thực hiện đồng bộ việc thiết lập hệ thống cảnh báo chất lượng gắn với thương hiệu mặt hàng tôm đó, tạo điều kiện tăng sức cạnh tranh của mặt hàng này.
-Xây dựng quảng bá thương hiệu và dấu hiệu chất lượng.
-Mọi chủ thể sản xuất mặt hàng đó phải tuân thủ thực hiện các tiêu chuẩn Nhà nước đã ban hành đồng thời phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn cao hơn của sản phẩm bán lẻ được áp dụng tại các thị trường có thu nhập cao. Hai hệ thống tiêu chuẩn này cùng với thương hiệu sản phẩm là cơ sở để xây dựng ngành sản xuất mặt hàng thuỷ sản trở thành ngành sản xuất hàng hoá lớn đủ sức cạnh tranh và phát triển bền vững.
5. Chiến lược5: S3O1,5W2T2
Dựa trên những kinh nghiệm đã đạt được về phát triển thị trường (S3), cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước (O5), tận dụng cơ hội từ quan hệ mở rộng hợp tác Việt_Mỹ(O1), thông qua những cầu nối hữu hiệu và các hoạt động xúc tiến thương mại, khắc phục điểm yếu về công tác thị trường(W2), vượt qua thách thức về sự khác biệt vă hoá kinh doanh ( T2 ) để tiếp cận và thâm nhập thị trường Mỹ.
Bộ thương mại và thương vụ Việt Nam tại Mỹ cần xây dựng một chiến lược tổng thể về thị trường giúp các doanh nghiệp định hướng sản xuất, kinh doanh và xây dựng chiến lược xuất khẩu tôm cho riêng mình. Các doanh nghiệp sẽ biết được mặt hàng nào nên sản xuất và với chất lượng ra sao, mức giá bán là bao nhiêu, đối thủ cạnh tranh trên thị trường cũng như phương thức cạnh tranh của các đối thủ để xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả.
-Cho tuyên truyền bằng nhiều kênh thông tin đại chúng, bằng nhiều hình thức về thị trường thuỷ sản Mỹ, về pháp luật cũng như chính sách nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ, tiêu chuẩn chất lượng và thị hiếu người tiêu dùng Mỹ.
-Thành lập quĩ hỗ trợ xúc tiến việc làm, tìm hiểu thị trường Mỹ và cử các doanh nghiệp tôm Việt Nam có khả năng thâm nhập thị trường Mỹ đi khảo sát bằng nguồn hỗ trợ của Nhà nước.
-Khuyến khích các doanh nghiệp tôm tự bỏ kinh phí ra để tiếp cận, khảo sát thị trường Mỹ.
6. Một số điểm doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý khi thâm nhập thị trường Mỹ, Nhật Bản.
-Tìm hiểu và nắm vững hệ thống pháp luật Mỹ, Nhật Bản.
-Xác định khả năng của đối tác. Đây là bước đầu tiên mà luật sư của một công ty Mỹ, Nhật Bản làm để tránh cho thân chủ khỏi mất thì giờ và công sức đàm phán. Tuy nhiên các doanh nghiệp tôm Việt Nam chưa quen làm việc này, dẫn đến trường hợp nhiều doanh nghiệp Việt Nam ký được hợp đồng nhưng không thực hiện được do đối tác không có khả năng thanh toán. Để kiểm tra khả năng thanh toán của đối tác, các doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng dịch vụ kiểm tra tài chính của các công ty thông tin tài chính thương mại chuyên nghiệp hoặc của các ngân hàng Mỹ, Nhật Bản.
-Tìm hiểu tập quán kinh doanh của thương nhân Mỹ, Nhật Bản.
+ Thương nhân Mỹ, Nhật Bản có bí quyết soạn thảo hợp đồng với các điều khoản ràng buộc chặt chẽ về chất lượng, số lượng, thời gian giao hàng và nhiều chi tiết có tính chất thủ thuật pháp lí để có thể buộc các đối tác nước ngoài ra toà mà tại đó họ dễ dàng thắng kiện. Vì vậy để tránh những khó khăn phát sinh doanh nghiệp kinh doanh tôm Việt Nam cần phải nghiên cứu kỹ những điều khoản do thương nhân Mỹ, Nhật Bản lập ra. Trường hợp thấy bất ổn phải thương lượng điều chỉnh cho đến khi đạt được như ý muốn.
+Trong ứng xử giao tiếp người Mỹ gần như tin tưởng tuyệt đối vào luật sư riêng của mình. Trong kinh doanh người Mỹ thường yêu cầu luật sư riêng của mình tham gia để tránh các sơ hở có thể xảy ra trong quá trình kí kết hợp đồng.
Người Mỹ, Nhật Bản rất coi trọng thời gian, không thích nói quanh co mà muốn đi thẳng vào vấn đề. Kinh nghiệm cho thấy để thành công trong thương lượng kinh doanh với người Mỹ là loại bỏ những lời lẽ rườm rà, đi ngay vào mục đích.Trong giao tiếp, người Mỹ, Nhật Bản đánh giá cao sự thân mật và bình đẳng, sự bền bỉ tập trung kiên định của đối tác.
+Chuẩn bị tài liệu chu đáo
Khi chào hàng cho khách hàng là người Mỹ, Nhật Bản cần sự chuẩn bị chu đáo về tài liệu, giới thiệu sản phẩm bằng tiếng anh cùng với các điều kiện mua bán rõ ràng, điều chỉnh các yếu tố cho phù hợp với tập quán buôn bán ở Mỹ, Nhật Bản.
-Ngoài hiểu được tập quán kinh doanh của người Mỹ, Nhật Bản các doanh nghiệp cần hiểu trách nhiệm của mình về chất lượng sản phẩm trên thị trường. Người tiêu dùng Mỹ, Nhật rất hay kiện cáo, trong khi đó nước Mỹ, Nhật bảo vệ chặt chẽ quyền lợi người tiêu dùng. Theo luật này nhà sản xuất và người bán phải chiụ trách nhiệm đối với người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm bán ra trên thị trường như đạo luật về chống chất độc, vệ sinh an toàn thực phẩm...những luật này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh thuỷ sản. Để hạn chế rủi ro các doanh nghiệp thuỷ sản nên mua bảo hiểm cho hàng hoá tại các công ty bảo hiểm uy tín.
Theo kinh nghiệm cho thấy, nếu doanh nghiệp Việt Nam nhận được giấy triệu tập từ toà án Mỹ, Nhật yêu cầu trình diện thì không nên trả lời vội mà nhờ luật sư có kinh nghiệm tư vấn về pháp lý. Nhưng nếu khi xảy ra vụ kiện mà doanh nghiệp Việt Nam cố tình “không để ý” hoặc chỉ gửi thư từ chối không ra hầu toà thì toà án Mỹ, Nhật Bản vẫn có quyền ra một “bản án xử khuyết tịch” nghĩa là doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể bị tịch biên tài sản cho dù doanh nghiệp không ra hầu toà.
Nói tóm lại, để nhanh chóng xâm nhập vào thị trường Mỹ, Nhật Bản các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả mà còn phải có sự hiểu biết về hệ thống pháp luật Mỹ, Nhật Bản các chính sách thương mại, hệ thống quản lý nhập khẩu thuỷ sản, cũng như hiểu biết về phong cách làm ăn của thương nhân Mỹ, Nhật Bản.
PHẦN 3.KẾT LUẬN
Tôm Việt Nam hiện đang được các cấp lãnh đạo nước ta quan tâm đầu tư phát triển, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều cơ hội và thách thức không chỉ cho riêng ngành thuỷ sản mà cả các ngành kinh tế khác, nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO. Trên cơ sở các thành tựu đã đạt được, nghiên cứu tận dụng các cơ hội để vượt qua thách thức, khắc phục yếu điểm là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sáchnhằm tìm ra một hướng đi mới cho ngành tôm. Điều đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực, phối kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng của Nhà nước và các doanh nghiệp để các mặt hàng tôm Việt Nam tiếp tục “vùng vẫy” trên thị trường thuỷ sản thế giới.
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng tôm vào thị trường thuỷ sản thế giới nói chung và thị trường Mỹ, Nhật Bản nói riêng là điều không đơn giản. Những khó khăn cho xuất khẩu thuỷ sản còn rất nhiều. Nhưng với những nỗ lực của Bộ thuỷ sản, các doanh nghiệp và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước chúng ta có thể tin tưởng hàng thuỷ sản Việt Nam sẽ thu được thành công mới, để xuất khẩu thuỷ sản thực sự là thế mạnh của nền kinh tế quốc gia, đem lại một lượng ngoại tệ lớn để phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Với việc sử dụng mô hình SWOT để phân tích xây dựng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng tôm Việt Nam vào thị trường Mỹ, Nhật Bản Nhóm hi vọng đã đem đến những thông tin bổ ích cho cô giáo và các bạn. Một lần nữa rất mong nhận được ý kiến đóng góp để xây dựng phát triển đề tài hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn và thực sự có ý nghĩa thực tiễn.
Xin chân thành cảm ơn !
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_3_6734.docx