Nói tóm lại nền kinh tế thị trường là công cụ để phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Để đạt được những mục tiêu về kinh tế thì điều đặt ra cho một quốc gia là phải biết lựa chọn mô hình kinh tế thị trường và vận dụng nó sao cho phù hợp với tình hình cũng như hoàn cảnh của nước mình.
Tuy kinh tế thị trường ra đời từ thời kì tư bản chủ nghĩa, bên cạnh những mặt tích cực nó còn biểu hiện mặt tiêu cực (mặt trái). Và chúng ta không thể đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Mô hình kinh tế thị trường là mô hình chung cho cả Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội. Muốn sử dụng nó một cách hiệu quả thì không chỉ phát huy những tác động tích cực mà nó đem lại cho nền kinh tế, mà còn đòi hỏi phải biết hạn chế một cách tối đa những mặt tiêu cực mà nó gây ra.
19 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4736 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự giống và khác nhau giữa mô hình kinh tế thị trường Thụy Điển và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI
Sự giống và khác nhau giữa mô hình kinh tế thị trường Thụy Điển và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Mỗi sinh viên khi nghiên cứu về đề tài kinh tế thì giúp trả lời được những câu hỏi: Phải chăng mỗi một quốc gia muốn có được tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động cao, muốn sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội thì nhất thiết phải sử dụng mô hình kinh tế thị trường? Vì sao mô hình kinh tế thị trường lại đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia? Kinh tế thị trường hình thành và phát triển như thế nào? Bối cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam ra đời và quá trình hoạt động của nó diễn ra như thế nào? Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có đặc điểm gì giống và khác so với nền kinh tế thị trường của các nước khác trên thế giới? hay cụ thể là với mô hình kinh tế thị trường Thụy Điển.
Tiểu luận kết thúc môn Kinh tế Chính trị với đề tài “Sự giống và khác nhau giữa mô hình kinh tế thị trường Thụy Điển và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” sẽ giúp cho chúng ta hiểu được về nền kinh tế thị trường với những ưu điểm và nhược điểm của nó, đồng thời thấy được thực tế của nền kinh tế thị trường qua những sự so sánh này, từ đó có được cái nhìn tổng quát và thực tế hơn và nó dần hình thành cho chúng ta một tư duy phân tích lôgic về những hiện tượng kinh tế xã hội và những biện pháp cụ thể đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho đất nước.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục tiêu: Nghiên cứu được sự giống và khác nhau của kinh tế thị trường Thụy Điển và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhiệm vụ:
Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu về nền kinh tế thị trường;
Nhiệm vụ 2: Phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa kinh tế thị trường ở Thụy Điển và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chử nghĩa ở Việt Nam.
3. Kết cấu của tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm hai chương:
Chương 1: Nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Sự giống và khác nhau giữa mô hình kinh tế thị trường ở Thụy Điển và mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1: NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Khái niệm:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
1.1.2. Ưu điểm:
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất có hiệu quả. Ngược lại những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
1.1.3. Nhược điểm:
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không linh hoạt dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát.
Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, cũng như không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh tế Bắc Triều Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường nhiều hay ít. Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa quốc gia.
1.2. Tính quy luật và sự hình thành kinh tế thị trường.
Trong kinh tế có các quy luật kinh tế khách quan như:
Quy luật giá trị
Quy luật cung-cầu
Quy luật ích dụng giảm biên
Quy luật hiệu suất giảm dần
Quy luật chi phí thay thế tăng
Quy luật ảnh hưởng nhất định của lượng tài nguyên tối thiểu
1.2.1. Các quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Xu hướng bảo toàn cân bằng của hệ thống
Mâu thuẫn phát triển của hệ thống
Tính chu kỳ của hệ thống
Sức chứa biên của thị trường
Giá trị sử dụng của hàng hóa
Sự kích thích quyền lợi nhà sản xuất
Phân phối thu nhập theo lao động
Sự thay thế và tái tạo tài nguyên vật chất và tài nguyên lao động
Hiệu quả tối ưu của sở hữu hoàn toàn.
1.2.2. Các bước phát triển của nền kinh tế thị trường trong đổi mới tư duy.
Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản chủ nghĩa (hay kinh tế thị trường) là hai phương thức kinh tế khác nhau về bản chất và đối lập với nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối và mục đích phát triển. Kinh tế xã hội chủ nghĩa vận động theo các quy luật của chủ nghĩa xã hội, còn kinh tế tư bản chủ nghĩa thì vận động theo các quy luật của chủ nghĩa tư .
Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự thay đổi so với trước. Nhìn khái quát đã có những sự thay đổi lớn như sau:
Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) đã đi đến quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba chế độ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải nhanh chóng hoàn thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ là những thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đến quan niệm rằng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, còn cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với việc xóa bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế ấy ngày càng trở thành nền tảng vững chắc thì nhất thiết phải trải qua một quá trình dài xây dựng, đổi mới và phát triển với những bước thích hợp; trong khi đó khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế tư nhân, coi thành phần này là động lực quan trọng của phát triển kinh tế và phát triển lực lượng sản xuất.
Từ quan niệm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung, thống nhất với những chỉ tiêu có tính pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản công là thuộc nhà nước, còn chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp. Từ chỗ tuyệt đối hóa vai trò của kế hoạch, phủ nhận vai trò của thị trường đã đi đến thừa nhận thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt trên bình diện vĩ mô, còn thị trường giữ vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh.
Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân phối theo lao động đã đi đến quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Công bằng xã hội thể hiện không phải ở chủ nghĩa bình quân trong kinh tế mà là ở chỗ phân phối hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Không ngăn cấm mọi sự làm giàu mà trái lại khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng theo đúng pháp luật, đồng thời thực hiện xóa đói giảm nghèo, hạn chế phân cực.
Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của chúng ta cũng được đổi mới qua nhiều bước.
Bước 1:
Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh tế thị trường. Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ không phải nói về toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (một bộ phận của đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng định: “thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển thêm một bước, Đại hội VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước 2:
Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản đối lập với chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế. Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, còn cơ chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị trường, kinh tế thị trường đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản xuất khác nhau. Nó có trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh nha, còn ở trình độ thấp thì trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩ rằng nó chính là chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường tồn tại là tất yếu. Vấn đề ở đây là liệu kinh tế thị trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội không, và liệu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ định kinh tế thị trường để rồi tạo nên một nền kinh tế hoàn toàn khác nền kinh tế vận động theo các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội hay không? Câu trả lời là không. Quan điểm này cũng chính là quan điểm của Đại hội VIII (1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa”.
Bước 3:
Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX(2001)của Đảng ghi rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Kinh tế thị trường có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Theo Nghị quyết của Đại hội IX, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Bước 4:
Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trường toàn cầu, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn. Đại hội X của Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan trọng nhất là: nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh với chủ đề: “Tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Đại hội đã quyết định đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO vào tháng 1-2007 đánh dấu một bước phát triển cao của quá trình hàng chục năm thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
CHƯƠNG 2: SỰ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở THỤY ĐIỂN VÀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
2.1. Một số mô hình kinh tế thị trường.
Sản xuất hàng hóa và sau đó tiền tệ ra đời, đánh dấu sự phát triển về chất của kinh tế nhân loại. Đồng thời, dưới tác động của tiến bộ khoa học, kỹ thuật, của lực lượng sản xuất; sản xuất, lưu thông trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển và kéo theo sau đó là sự xuất hiện ngày càng đa dạng các loại thị trường; cơ chế thị trường hoạt động ngày càng linh hoạt, rộng khắp. Khi nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường thì gọi là nền kinh tế thị trường hoặc mô hình kinh tế thị trường, hay kinh tế thị trường. Đến thời điểm ngày nay, dù kinh tế thị trường có những khuyết tật bản chất của nó, nhưng đây vẫn là mô hình kinh tế ưu việt nhất.
Lịch sử phát triển kinh tế thị trường nhân loại, tới hôm nay, ở góc độ tổng quát có thể phân thành hai mô hình: mô hình kinh tế thị trường ”cổ điển“ và mô hình kinh tế thị trường “hiện đại”.
Đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế thị trường “cổ điển“ là duy trì, và khuyến khích rộng rãi tự do cạnh, tự do trao đổi, tự do tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở tín hiệu và sự điều tiết của thị trường. Do vậy, hoạt động của mọi chủ thể kinh tế, sự vận động của giá cả đều chịu tác động trực tiếp của hệ thống quy luật kinh tế thị trường, mà A.Smit gọi là “Bàn tay vô hình“. Trong giai đoạn vận động, phát triển của kinh tế thị trường “cổ điển“, Nhà nước chỉ đóng vai trò “giữ nhà“, nghĩa là Nhà nước can thiệp rất hạn chế và mang tính gián tiếp vào các hoạt động kinh tế. Tiêu biểu của mô hình này là nền kinh tế Tây Âu từ thế kỷ XVI đến gần cuối thế kỷ XIX.
Ưu điểm nổi bật của mô hình kinh tế thị trường “cổ điển“ là nền kinh tế phát triển năng động, linh hoạt. Nhưng sự tồn tại và vận động của nền kinh tế theo mô hình này đến một giai đoạn nhất định, khi trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất cao, thì những khuyết tật của thị trường bộc lộ một cách mạnh mẽ, mâu thuẫn nội tại trong phát triển ngày càng gay gắt, khủng hoảng kinh tế bột phát với sức tàn phá nặng nề. Mà cuộc khủng hoảng 1929-1933 là một minh chứng.
Khuyết tật và mâu thuẫn trong phát triển kinh tế thị trường “cổ điển“ đã đặt ra yêu cầu khách quan về sự can thiệp, điều tiết sâu, rộng hơn của Nhà nước vào nền kinh tế. Và mô hình kinh tế mới xuất hiện – mô hình kinh tế thị trường hiện đại, hay còn gọi là nền kinh tế “hỗn hợp“. Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường hiện đại là có “hai người“ tham gia điều tiết nền kinh tế, đó là thị trường điều tiết ở tầm vi mô, Nhà nước điều tiết ở tầm vĩ mô; có “hai người” thực hiện các hoạt động đầu tư là Nhà nước và tư nhân. Khó khăn lớn nhất trong kinh tế thị trường hiện đại là xác định giới hạn sự can thiệp, điều tiết giữa thị trường và Nhà nước với tính khoa học, khả thi trong những công cụ mà Nhà nước sử dụng để điều tiết kinh tế. Vì giới hạn sự can thiệp và điều tiết của Nhà nước cũng như của thị trường ở những giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế không phải là bất biến. Trong khi đó, nếu Nhà nước can thiệp quá sâu, chính sách của Nhà nước không khoa học và thiếu khả thi thì sẽ làm triệt tiêu những ưu thế, những động lực của thị trường. Ngược lại, nếu Nhà nước can thiệp không đủ liều lượng thì sẽ tạo điều kiện cho những khuyết tật của thị trường phát sinh tác động tiêu cực mạnh mẽ. Tương tự, trong lĩnh vực đầu tư, nếu kinh tế Nhà nước và phạm vi độc quyền của kinh tế Nhà nước quá rộng, sẽ hạn chế tính năng động, sáng tạo và khả năng thu hút nguồn lực của kinh tế tư nhân. Ngược lại, nếu tiềm lực kinh tế của Nhà nước quá yếu, cũng sẽ hạn chế hiệu quả can thiệp, điều tiết của Nhà nước khi cần thiết và sự thiếu hụt hàng hóa công cộng sẽ trầm trọng.
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường trong lịch sử kinh tế thị trường nhân loại rất đa dạng, phong phú. Cụ thể có một số mô hình điển hình sau:
- Mô hình kinh tế thị trường Bắc Âu.
- Mô hình kinh tế thị trường Nhật Bản.
- Kinh tế thị trường ở các quốc gia và vùng lãnh thổ NICS Châu Á.
- Kinh tế thị trường ở Trung Quốc.
2.2. Sự giống nhau giữa kinh tế thị trường ở Thụy Điển và kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Cả hai mô hình kinh tế này đều mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, cụ thể là:
Thị trường và cơ chế thị trường là yếu tố khách quan, từng doanh nghiệp không thể làm thay đổi thị trường mà họ phải tiếp cận và tuân theo thị trường. Qua thị trường doanh nghiệp có thể tự đánh giá lại mình và biết được mình làm ăn hiệu quả không.
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp biểu hiện qua việc mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thái độ cư xử của từng thành viên tham gia thị trường là hướng tìm kiếm lợi ích của mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
Trong cơ chế thị trường, những vấn đề có liên quan đến việc phân bổ và sử dụng nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn,…về cơ bản được giải quyết khách quan thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật cung cầu.
Khách hàng giữ vị trí trung tâm trong nền kinh tế thị trường; quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tìm mọi cách để thu hút thoả mãn nhu cầu của khách hàng với phương châm “khách hàng là thượng đế”.
Tất cả các mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá. Tiền tệ trở thành thước đo hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua các quy luật kinh tế đặc biệt là sự linh hoạt trong giá cả nền kinh tế thị trường luôn duy trì sự cân bằng giữa cung- cầu của các loại hàng hoá, dịch vụ, hạn chế xảy ra khan hiếm hàng hoá.
Đồng thời cũng mang đầy đủ những đặc trưng của nền kinh tế thị trường hiện đại, đó là: Có sự thống nhất giữa mục tiêu Kinh tế với mục tiêu Chính trị - Xã hội.
- Có sự quản lý của Nhà nước.
- Có sự chi phối mạnh mẽ của phân công và hợp tác quốc tế trong sx và đời sống, tạo ra 1 nền KTTT mang tính quốc tế, vượt ra khỏi biên giới quốc gia động và mở, tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3. Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường ở Thụy Điển và kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
2.3.1. Kinh tế thị trường Thụy Điển.
2.3.1.1. Đặc trưng.
Mô hình kinh tế thị trường Bắc Âu có thể phân thành hai “nhánh”. Một nhánh là kinh tế thị trường “Xã hội phúc lợi“ và “kinh tế thị trường thương lượng”. Ở Thụy Điển tồn tại kinh tế thị trường “ xã hội phúc lợi” từ những năm 30 của thế kỷ XX. Với các đặc trưng cơ bản:
- Ra đời trong bối cảnh của nước Đức sau chiến tranh thế giới thứ hai và là kết quả của sự thỏa hiệp giữa 4 trường phái lớn theo đuổi những chủ trương khác nhau về khôi phục nền kinh tế nước Đức thời hậu chiến.
- Mô hình kinh tế thị trường xã hội là một dạng biến thể của mô hình kinh tế thị trường tự do. Nhưng nó có nội dung thực chất là sự gắn kết trên cơ sở thị trường một cách hợp lý giữa các mặt kinh tế - xã hội và chính trị.
- Coi các thị trường chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ và coi luật pháp, nhà nước, đạo đức,... không hề kém quan trọng hơn so với các chính sách kinh tế, tài chính.
- Coi trọng vai trò điều tiết của nhà nước và phúc lợi xã hội.
2.3.1.2. Chính sách thực hiện.
Mô hình này được xây dựng dựa trên lý thuyết “Ngôi nhà chung cho mọi người“ của phái Xã hội-Dân chủ, mà đại diện là cựu Thủ tướng Thụy Điển P.A.Hanson; xuất phát từ mục tiêu của “Chủ nghĩa xã hội chức năng“, với khẩu hiệu: ”bình đẳng, đảm bảo xã hội, hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ“. Trong mô hình này, sự phát triển được thực hiện kết hợp hài hòa giữa mở rộng phúc lợi xã hội với kinh tế thị trường tư nhân. Thực hiện mô hình này, Thụy Điển đã đạt được những thành công nhất định, đưa Thụy Điển từ một trong những nước nghèo nhất Châu Âu trở thành một trong những quốc gia giàu nhất Châu lục này. Trong nền kinh tế, kinh doanh lớn tuy nằm trong tay một nhóm nhỏ, nhưng sự phân hóa giàu – nghèo đần dần được thu hẹp.
Tuy vậy, việc giữ mức phúc lợi xã hội cao cho mọi công dân dần dần trở thành gánh nặng cho nền kinh tế; phúc lợi xã hội “nuốt“ mất 1/3 GNP; sự thiếu hụt ngân sách và cán cân thanh toán luôn trầm trọng; năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp giảm; lạm phát cao. Do đó, từ giữa những năm 70 đến những năm 90 (thế kỷ XX) nền kinh tế ngày càng trở nên trì trệ. Do vậy, sau gần 50 năm thực hiện mô hình kinh tế thị trường “Xã hội phùc lợi“ với mức tiền lương cao và chế độ tiền lương mang tính bình quân, đến những năm 90, Thụy Điển đã phải đặt mục tiêu giảm lạm phát lên trên mục tiêu đảm bảo toàn dụng công nhân; giảm thuế thu nhập từ 72% xuống còn 50%; tăng thuế gián thu; cắt giảm bớt các khoản trợ cấp phúc lợi; tư nhân hóa trong các lĩnh vực dịch vụ. Nghĩa là một số đặc trưng của mô hình đã bị loại bỏ.
2.3.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
2.3.2.1. Khái niệm.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một hệ thống kinh tế được Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và chủ trương triển khai tại Việt Nam từ thập niên 1990.
Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyên nhân của tình trạng này là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Thêm vào đó, công tác lý luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này còn chưa theo kịp thực tiễn. Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có đầy đủ. Mãi tới hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và, mãi tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW.
2.3.2.2. Đặc trưng.
Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng sau:
Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường được tôn trọng, các mạch máu kinh tế và các ngành trọng yếu (khai mỏ, ngân hàng, quốc phòng...) được nhà nước quản lý. Các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế thành công.
Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo hướng nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; công bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân được khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
2.3.2.3. Chính sách thực hiện.
Chủ trương khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện trong thực tế bằng việc thành lập hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước lớn như các tập đoàn kinh tế nhà nước, các tổng công ty 90, tổng công ty 91. Tuy nhiên, hiện không ít doanh nghiệp nhà nước lớn này hoạt động không hiệu quả hoặc thua lỗ triền miên, dẫn tới yêu cầu phải tái cấu trúc và cổ phần hóa các doanhnghiệp này.
Với việc thực hiện chính sách này, nước ta tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng nhìn chung chúng ta vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vẫn là một nước nghèo, kém phát triển, năng suất lao động và tích luỹ còn thấp, kỹ thuật công nghệ lạc hậu. Việc chuyển dịch cơ cấu còn chậm, lao động nông nghiệp vẫn chiếm khoảng 75%, dân số và việc làm luôn là vấn đề gay gắt, đời sống của một bộ phận dân cư còn gặp khó khăn, nhất là khu vực nông thôn và miền núi, cho đến nay, về cơ bản, cơ cấu kinh tế vẫn theo sự phân bổ tự nhiên, chưa có các giải pháp có hiệu quả để sớm hình thành các ngành, vùng kinh tế trọng điểm. Cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống giao thông xuống cấp. Nền tài chính quốc gia còn yếu và thất thoát, lãng phí lớn. Khả năng kiềm chế lạm phát chưa vững chắc. Ngân sách còn mất cân đối lớn giữa thu và chi. Kinh tế quốc dân chậm được đổi mới, kinh tế tư nhân chưa được tháo gỡ những trở ngại cho sự phát triển, mặt khác thiếu hướng dẫn, quản lý. Tình trạng rối loạn trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội cũng như sự yếu kém và tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước khá nghiêm trọng. Phân hóa giàu nghèo trở nên sâu sắc trong hoàn cảnh tranh tối, tranh sáng.
Cho đến nay, thị trường nước ta vẫn là thị trường sơ khai, còn những rối loạn và nhiều yếu tố tự phát (mới chỉ có thị trường hàng hoá, còn thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động chưa hoặc mới ở dạng manh nha). thị trường tiền tệ và thị trường vốn vẫn tách biệt. Thị trường sức lao động có phần chưa thoát khỏi chế độ biên chế, hoặc tự phát. Thị trường thiếu và còn những rối loạn, cùng với tình trạng luật lệ Nhà nước vừa thiếu vừa bất hợp lý: còn những gò bó và cả những sơ hở, thủ tục hành chính phiền hà, nạn tham nhũng tràn lan là môi trường bất lợi cho thị trường phát triển. Trong khi đó, để đánh giá mức độ phát triển của bất kì nền kinh tế nào, trước hết người ta nhìn vào thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Tuy đã có định hướng để xây dựng một thị trường đồng bộ, nhưng trên thực tế chuyển biến rất chậm. Nguyên nhân chủ yếu là sự thiếu nhất quán về chính sách, thể chế, nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, đầu tư, thương mại, tỷ giá, lãi suất. Chúng ta chủ trương xây dựng một thị trường thống nhất, thông suốt, nhanh chóng hoà nhập với thị trường thế giới, song nhiều thủ tục hành chính phiền hà còn gây khá nhiều cản trở. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trước hết là do hậu quả của cơ chế cũ để lại, từ những quan niệm giản đơn trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cho đến việc duy ý chí trong việc hoạch định chính sách kinh tế, đặt ý chí chủ quan vào đời sống kinh tế - xã hội không phù hợp với lợi ích của quần chúng. Tuy có những bước tiến, nhưng về cơ bản các chính sách kinh tế vĩ mô chưa theo kịp sự phát triển.
Mặt khác phải thừa nhận một thực tế, đây là một sự chuyển đổi khá phức tạp, là quá trình mà độ dài phải tính bằng thập kỉ mới có thể đi vào quỹ đạo.
Do đó không tránh khỏi thời kì đầu phải chấp nhận tình trạng thị trường thiếu, rối loạn, tiêu cực, trong khi các nhân tố có sứ mệnh tạo trật tự là hệ thống ngân hàng, tài chính, bộ máy nhà nước, doanh nghiệp lớn còn yếu kém và tiêu cực, còn đang ở bước thích nghi.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại nền kinh tế thị trường là công cụ để phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Để đạt được những mục tiêu về kinh tế thì điều đặt ra cho một quốc gia là phải biết lựa chọn mô hình kinh tế thị trường và vận dụng nó sao cho phù hợp với tình hình cũng như hoàn cảnh của nước mình.
Tuy kinh tế thị trường ra đời từ thời kì tư bản chủ nghĩa, bên cạnh những mặt tích cực nó còn biểu hiện mặt tiêu cực (mặt trái). Và chúng ta không thể đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Mô hình kinh tế thị trường là mô hình chung cho cả Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội. Muốn sử dụng nó một cách hiệu quả thì không chỉ phát huy những tác động tích cực mà nó đem lại cho nền kinh tế, mà còn đòi hỏi phải biết hạn chế một cách tối đa những mặt tiêu cực mà nó gây ra. Vì vậy khi một nền kinh tế áp dụng theo mô hình kinh tế thị trường thì cần phải có sự kết hợp giữa sự tự điều tiết nền kinh tế của thị trường và sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là Nhà nước phải luôn quan tâm đến những yếu tố cấu thành nên cơ chế thị trường: giá cả, cung cầu hàng hoá, cạnh tranh, tiền tệ và lợi nhuận và những quy luật của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ… Để từ đó có những biện pháp chính sách phù hợp để điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển một cách nhanh chóng và vững mạnh.
Đối với nước ta, quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường tuy có hơi muộn nhưng nó cũng đem lại những thành tựu hết sức to lớn cho đất nước trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta đã thấy được những hạn chế của mô hình kế hoạch hoá tập trung và cũng thấy được vai trò quan trọng của kinh tế thị trường đối với nền kinh tế. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta đã chấp nhận nó - như một công cụ để phát triển, để đạt được những mục tiêu cao hơn - đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta cũng đã định hướng cho nó để phù hợp với chiến lược, phương hướng mà Đảng, Nhà nước đã chọn. Một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những cái chung của nền kinh tế thị trường và nó cũng có những cái khác biệt so với nền kinh tế thị trường của các nước khác. nó mang bản sắc riêng thể hiện đường lối lãnh đạo, cũng như chủ trương phát triển kinh tế của nước ta sao cho phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân cũng như xu hướng tất yếu hiện nay của thế giới.
Tuy nền kinh tế thị trường Việt Nam đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, đang còn gặp nhiều khó khăn nhưng chúng ta đều tin rằng với sự lãnh đạo của Đảng, sự điều tiết kinh tế của Nhà nước cũng như sự đoàn kết, thống nhất và quyết tâm của nhân dân ta nó sẽ phát triển lên một trình độ cao và sẽ là công cụ quan trọng để chúng ta hoàn thành quá trình đi lên Chủ nghĩa Xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo giáo trình Mác- Lênin 1997.
2. Các Mác- Ăng ghen toàn tập, NXB CTQG HN 1995.
3. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần VI.
4. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần VIII.
5. Nghị quyết đại hội IX.
6. Thời báo kinh tế.
7. Tạp chí kinh tế Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_ktct_kinh_te_tt_thuy_dien_va_dinh_huong_xhcn_viet_nam_6531.doc