Đề tài Sự ra đời triết học Mác tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết học(2)

Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. C.Mác và Ăngghen đã giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, C.Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học” Triết học Mác là hệ tư tưởng mở, không phải là cái cứng nhắc, trong quá trình phát triển luôn vận dụng và bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn lịch sử.

pdf26 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3992 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự ra đời triết học Mác tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết học(2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sức phức tạp. Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhân thức đúng và cải tạo thế giới. Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Để xây triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải cả chủ nghĩa duy vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học. Vì vậy em nghiên cứu vấn đề “Sự ra đời của triết học Mác tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết học.” cho bài tiểu luận của mình. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 2 MỤC LỤC Chương 1 - KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC MÁC ..................................................... 1 1.1. Khái luận về lịch sử triết học ............................................................................. 3 1.1.1. Triết học ................................................................................................... 3 1.1.2. Phân kỳ lịch sử triết học .......................................................................... 3 1.1.3. Vấn đề cơ bản của triết học ..................................................................... 4 1.2. Sự ra đời của triết học Mác ................................................................................ 4 1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội ........................................................................ 4 1.2.2. Nguồn gốc lí luận ..................................................................................... 6 1.2.3. Tiền đề khoa học tự nhiên ........................................................................ 7 Chương 2 – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TRIẾT HỌC MÁC ... 8 2.1. Quá trình hình thành và phát triển triết học Mác ............................................... 8 2.1.1. Chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ nghĩa duy tâm, dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật, cộng sản chủ nghĩa ........................... 8 2.1.2. Giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử ........................................................................................................ 10 2.1.3. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung - phát triển lý luận triết học 12 2.1.4. Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác .............................. 13 2.2. Nội dung triết học Mác .................................................................................... 14 Chương 3 - BƯỚC NGOẶC CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC ................................................................................................................. 16 3.1. Cuộc cách mạng trong lĩnh vực Triết học ........................................................ 16 3.2. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do C.Mác – Ph.Ăngghen thực hiện .................................................................................................................... 18 3.3. Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện .......................................................................................................................... 21 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 3 Chương 1 - KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC MÁC 1.1. Khái luận về lịch sử triết học 1.1.1. Triết học Triết học là hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung của tồn tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là khoa học về những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học xuất hiện từ khi chế độ chiếm hữu nô lệ thay thế cho chế độ xã hội nguyên thủy. Trong gần 3000 năm tồn tại và phát triển, triết học có nhiều trường phái và hệ thống khác nhau. Những hệ thống và trường phái này phản ánh trình độ phát triển về kinh tế – xã hội, chính trị và tri thức khoa học tự nhiên của các nước ở các thời kỳ. Sự phản ánh đó tuỳ thuộc vào lập trường của các giai cấp nhất định, giai cấp tạo nên các trường phái triết học. 1.1.2. Phân kỳ lịch sử triết học Việc phân kỳ lịch sử triết học dựa vào: Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là cơ sở quan trọng cho phân kỳ lịch sử triết học; Đặc điểm của các vùng, các dân tộc sản sinh ra Triết học; Tính độc lập tương đối của Triết học; Bản chất của các học thuyết triết học tạo ra được những cột mốc lớn lao trong sự phát triển của triết học. Dựa trên những định hướng trên, việc phân kỳ được chia ra các giai đoạn sau: - Triết học cổ đại - Triết học trung đại - Triết học phục hưng - Triết học cận đại - Triết học cổ điển Đức - Triết học Mác – Lênin - Những trào lưu triết học tư sản hiện đại Lịch sử triết học còn có thể được phân kỳ theo lãnh thổ, thời kỳ như sau: - Triết học phương Đông cổ - trung đại - Triết học phương Tây cổ , trung - cận và hiện đại GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 4 - Triết học Mác - Lênin 1.1.3. Vấn đề cơ bản của triết học Khi nghiên cứu các hệ thống, các trường phái triết học, chủ nghĩa Mác cho rằng “vấn đề cơ bản” hay “vấn đề tối cao” của triết học là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và thế giới tự nhiên. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:  Mặt thứ nhất, vật chất hay ý thức, tự nhiên hay tinh thần cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào? - Đây là vấn đề cơ bản trong tất cả vấn đề mà triết học tập trung giải quyết. Các học thuyết triết học được chia thành hai trào lưu cơ bản: duy vật hay duy tâm, điều đó tuỳ thuộc vào việc giải quyết vấn đề cơ bản này. Các hệ thống triết học thừa nhận tồn tại, tự nhiên, vật chất là cái có trước; ý thức, tinh thần, tư duy là cái có sau, đó là chủ nghĩa duy vật. Còn các hệ thống triết học coi ý thức là cái có trước, tồn tại là cái có sau là trào lưu duy tâm. - Các nhà duy vật với tư cách là các nhà tư tưởng của các lực lượng xã hội tiến bộ thường lấy những thành tựu, kết quả của khoa học thực tiễn tiến tiến làm cơ sở cho thế giới quan của mình. Còn các nhà duy tâm luôn gắn với tôn giáo, củng cố vị trí của tôn giáo bằng những luận cứ triết học duy tâm.  Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức thế giới hay không? Hay nói một cách khác, ý thức chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan không? 1.2. Sự ra đời của triết học Mác Triết học Mác ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX, duy trì và phát triển cho đến ngày nay. Hai nguồn gốc ra đời của triết học là nguồn gốc tri thức và nguồn gốc xã hội. Đối với triết học Mác thì nguồn gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau: 1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội Triết học Mác ra đời vào thời kỳ chủ nghĩa phong kiến sụp đổ và chủ nghĩa tư bản lớn mạnh ở một số nước châu Âu và Bắc Mỹ. Chủ nghĩa tư bản ra đời đã làm chio lực lượng sản xuất phát triển đạt đến trình độ khác về chất so với lịch sử trước đó. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 5  Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành. Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng.  Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Trong thời kỳ này, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản phát triển chuyển biến từ tự phát sang tự giác một cách mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nhiều nơi đã trở thành cuộc khởi nghĩa với những yêu sách giai cấp rõ ràng đã thu hút sự chú ý của các đại biểu tiên tiến của các tầng lớp tri thức tư sản tiến bộ, và dẫn dắt C.Mác và Ph.Ănghen tới vấn đề nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp – xã hội và những triển vọng của các cuộc đấu tranh giai cấp. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá trình cải tạo dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng xã hội phong kiến quá non trẻ, đi thỏa hiệp với tầng lớp quý tộc chống lại giai cấp vô sản, phong trào công nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, tiến bộ xã hội thì cần phải có thế giới quan duy vật khoa học. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 6 Rõ ràng những cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến ở châu Âu những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng đã có những tiền đề xã hội - giai cấp và những điều kiện để xuất hiện chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; là chứng cứ để nói rằng nhu cầu xã hội đã chín muồi đề xuất hiện một thế giới quan triết học mới – triết học Mác. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để C.Mác và Ph. Ăngghen khái quát xây dựng những quan điểm triết học. 1.2.2. Nguồn gốc lí luận Để xây dựng học thuyết của mình C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của triết học Mác. C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học thuyết triết học của Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý” của Hêghen và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí luận mới của phép biện chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách hữu cơ. Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là A.Smít và Đ.Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế mà còn là tiền đề lý luận để hình thành quan điểm triết học. Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông và S.Phuriê là một trong ba nguồn gốc lí luận của triết học Mác. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 7 Pháp (quan điểm về vai trò của nền sản xuất trong xã hội, quan điểm về sở hữu v.v...) và khắc phục tính không tưởng thiếu điều kiện lịch sử cụ thể của nó để xây dựng những quan điểm duy vật lịch sử. Vì vậy, khi tìm hiểu nguồn gốc lí luận của triết học Mác cần tìm hiểu không chỉ trong triết học Đức mà trong cả chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và kinh tế chính trị học Anh. 1.2.3. Tiền đề khoa học tự nhiên Giữa triết học với khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng có mối quan hệ khăng khít. Sự phát triển của tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri thức do các khoa học cụ thể đem lại. Vì thế, mỗi khi trong khoa học có những phát minh mang tính chất vạch thời đại thì tạo ra sự thay đổi của triết học. Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng lượng, Thuyết tế bào, thuyết tiến hóa. Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những sự vật, giữa các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển. Đồng thời đã làm bộc lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình và của tư tưởng biện chứng cổ đại cũng như phép biện chứng của Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu trong tư duy nhân loại cần phải xây dựng một phương pháp tư duy mới thật sự khoa học. Với những phát minh của mình, khoa học đã cung cấp những tri thức để C.Mác và Ph.Ăng ghen khái quát xây dựng phép biện chứng duy vật. Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính quy luật của khoa học và triết học mà nhân loại đã đạt tới, nó được hình thành như là kết quả của các phát hiện của C.Mác và Ph.Ăngghen về những quy luật chung nhất của sự phát triển thế giới. Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập là một học thuyết thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận cấu thành: triết học mácxít, kinh tế chính trị học mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học. Như vậy, triết học Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì đời sống thực tiễn mà còn vì những tiền đề lý luận, xã hội và khoa học mà nhân loại đã tạo ra. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 8 Chương 2 – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TRIẾT HỌC MÁC 2.1. Quá trình hình thành và phát triển triết học Mác Sự hình thành và phát triển triết học Mác - Lênin trải qua một quá trình. Quá trình trải qua các giai đoạn sau: Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ nghĩa; giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển lí luận triết học; giai đoạn Lênin bảo vệ hoàn thiện và tiếp tục phát triển triết học Mác. 2.1.1. Chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ nghĩa duy tâm, dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật, cộng sản chủ nghĩa 2.1.1.1. Sự chuyển biến tư tưởng của C.Mác C.Mác (5/5/1818 - 14/3/1883) sinh trưởng trong một gia đình trí thức ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, vùng có nhiều ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp. Những ảnh hưởng tốt của giáo dục gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã giúp C.Mác hình thành tinh thần nhân đạo và xu hướng yêu tự do. Phẩm chất đó không ngừng được bồi dưỡng và đã trở thành định hướng cho cuộc đời sinh viên và đưa C.Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng. Trong thời gian học ở khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Béc lin (1836 - 1841) ông say mê nghiên cứu triết học, nhằm giải đáp vấn đề giải phóng con người, thực hiện dân chủ, vươn tới tự do. Năm 1837 C.Mác tập trung nghiên cứu triết học Hêghen và tham gia nhóm “Hêghen trẻ”. Sau khi việc xuất bản một tạp chí với tên gọi “Tư liệu của chủ nghĩa vô thần” không được thực hiện vì nhà nước phong kiến Phổ thực hiện chính sách đàn áp những người dân chủ cách mạng. Ông và một số người theo phái “Hêghen trẻ” đã chuyển sang hoạt động chính trị đấu tranh chống lại chủ nghĩa chuyên chế Phổ giành lại quyền tự do dân chủ; đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tư tưởng của ông. Như vậy lúc này, trong tư tưởng của C.Mác có sự mâu thuẫn giữa thế giới quan duy tâm với tinh thần dân chủ cách mạng và vô thần. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 9 Mâu thuẫn bước đầu được giải quyết khi C.Mác làm việc ở báo Sông Ranh (1942). Thực tiễn đấu tranh báo chí đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở C.Mác có nội dung rõ ràng hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của quần chúng lao động. Lúc này tư tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa hình thành, ông đấu tranh bảo vệ “quần chúng nghèo khổ bất hạnh” dưới tinh thần nhân đạo. Với tinh thần đó, ông tập trung phê phán các chính sách của nhà nước Phổ, đó chỉ là “cơ quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích cá nhân”. Trong quá trình phê phán C.Mác đã nhận thấy hoạt động của nhà nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen đã chứng minh. Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý tưởng tự do trong thực tế đã giúp C.Mác hình thành khuynh hướng duy vật, nhận thấy mặt hạn chế của quan điểm duy tâm. Lúc này tinh thần dân chủ cách mạng sâu sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm tư biện. Vì thế sau khi báo Sông Ranh bị cấm (1843), C.Mác đặt cho mình nhiệm vụ duyệt lại một cách có phê phán quan niệm duy tâm của Hêghen trước hết về xã hội và nhà nước. Ông đã viết tác phẩm “góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen” để phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Trong khi thực hiện phê phán ông nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của triết học Phoi Ơ Bắc. Song với tinh thần phê phán ông đã thấy những mặt hạn chế, nhất là việc xa rời những vấn đề chính trị nóng hổi của Phoi Ơ Bắc. Sự phê phán sâu rộng triết học Hêghen, việc khái quát kinh nghiệm lịch sử cùng với ảnh hưởng quan điểm duy vật và nhân văn của triết học Phoi Ơ Bắc đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm triết học của C.Mác. Cuối tháng 10 - 1843, C.Mác sang Pari. Ở đây, không khí chính trị sôi sục và tiếp xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển biến dứt khoát quan điểm của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Trong bài báo “lời nói đầu của cuốn sách góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, C.Mác đã phân tích một cách sâu sắc theo quan điểm duy vật ý nghĩa và hạn chế của cuộc cách mạng tư sản chỉ là “cuộc cách mạng bộ phận”; đồng thời ông khẳng định, chỉ có cuộc cách mạng do giai cấp vô sản thực hiện mới là “cuộc cách mạng triệt để”. C.Mác nêu rõ: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 10 sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Với bài báo này và một số bài báo khác đăng trong tạp chí Niên giám Đức - Pháp năm 1844 đánh dấu bước hoàn thành quá trình chuyển biến lập trường, quan điểm của Các Mác. 2.1.1.2. Sự chuyển biến tư tưởng của Ph.Ăngghen Ph.Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình chủ xưởng sợi ở tỉnh Ranh. Việc nghiên cứu triết học trong thời gian ở Béc lin, khi làm nghĩa vụ quân sự đã hướng ông đi vào con đường khoa học. Song, chỉ thời gian gần hai năm sống ở Manchestơ (Anh) từ mùa thu 1842 khi nghiên cứu đời sống kinh tế và chính trị nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia phong trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Năm 1844 trên tạp chí Niên giám Đức - Pháp, Ph.Ăngghen đăng một số bài báo: "Bản thảo góp phần phê phán kinh tế - chính trị học", "Tình cảnh giai cấp công nhân Anh". Các tác phẩm đó cho thấy ở Ph.Ăngghen, quá trình chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản đã hoàn thành. Quá trình này diễn ra độc lập với C.Mác. Trong các bài báo này, ông đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản để phê phán kinh tế chính trị học của A.Xmit và Đ.Ricacdo. 2.1.2. Giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Sự nhất trí về quan điểm và lập trường đã dễn đến tình bạn vĩ đại giữa C.Mác và Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển một thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản. Năm 1844 qua tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học" C.Mác tiếp tục phê phán triết học duy tâm của Hêghen, đồng thời cũng vạch ra mặt tích cực của nó là phép biện chứng. C.Mác thông qua phân tích sự tha hóa của lao động đã cắt nghĩa: Sở hữu tư nhân trong xã hội tư bản trở thành nguyên nhân của sự tha hóa của lao động và của con người, biến sức lao động trở thành hàng hóa. C.Mác chỉ rõ: Muốn khắc phục sự tha hóa ấy phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân. Việc giải phóng người công nhân khỏi sự tha hóa là sự giải phóng con người nói chung. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 11 Trong tác phẩm này C.Mác đã luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trong sự phát triển của xã hội. Mặc dù luận chứng này chưa chín muồi về mặt lý luận, song đã cho phép phân biệt quan niệm của C.Mác về chủ nghĩa cộng sản với những quan niệm của chủ nghĩa bình quân vốn có của các môn phái chủ nghĩa cộng sản không tưởng. Theo C.Mác, chủ nghĩa cộng sản dựa trên sự phát triển cao của nền sản xuất xã hội là nấc thang lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm "Gia đình thần thánh" do C.Mác và Ph.Ăngghen viết chung năm 1845 đã nêu rõ phê phán của hai ông đối với "phái Hêghen trẻ" đứng đầu là anh em nhà Bauơ về quan điểm lịch sử. Hai ông đã trình bày một số nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như: Quan điểm về vai trò của sản xuất vật chất đối với xã hội, v.v. Năm 1845 - 1846, C.Mác và Ph.Ăngghen viết chung tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức". Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học đương thời ở nước Đức hai ông đã trình bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống. Nội dung của tác phẩm đã trình bày rõ những quan điểm với tư cách là luận điểm xuất phát như: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống, đó là những con người hiện thực mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên của họ" và quan điểm: "Quan điểm duy vật lịch sử khi xem xét lịch sử xã hội phải xuất phát từ con người". Trong tác phẩm này cũng đã trình bày rõ hệ thống quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người. Trong thời gian này C.Mác viết tác phẩm: "Luận cương về Phoiơbắc" (8/1845) nêu rõ quan điểm xuyên suốt đó là: vai trò quyết định của thực tiễn đối với đời sống xã hội. Đồng thời cũng đưa ra quan điểm về bản chất của con người: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội". Với tác phẩm "Luận cương về Phoiơbắc" và nhất là tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” quan niệm duy vật lịch sử đã hình thành. Quan niệm đó tạo cơ sở lý luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy trong hệ tư tưởng Đức, học thuyết về chủ nghĩa cộng sản được hai ông trình bày như là một hệ quả trực tiếp của quan niệm duy vật lịch sử cho nên chủ nghĩa cộng sản chưa được diễn đạt GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 12 thành luận điểm cụ thể. Song, một điều quan trọng là C.Mác và Ăngghen đã xây dựng phương pháp tiếp cận khoa học để nhận thức chủ nghĩa cộng sản. Năm 1847, C.Mác viết tác phẩm: "Sự khốn cùng của triết học". Ở đây ông trình bày tiếp các nguyên lý của triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và trình bày các luận điểm để viết tác phẩm tư bản. Năm 1848, C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm “Tuyên ngôn cộng sản” là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, của phong trào cộng sản thế giới. Trong đó trình bày một cách triệt để thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với tác phẩm Tuyên ngôn cộng sản, triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói chung đã hình thành và sẽ được C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung phát triển trong thời gian sau. 2.1.3. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung - phát triển lý luận triết học Từ sau “Tuyên ngôn cộng sản”, học thuyết triết học Mác tiếp tục được phát triển trong sự gắn bó hơn nữa với thực tiễn cách mạng vô sản mà hai ông là lãnh tụ. Bằng hoạt động của mình, hai ông đã đưa phong trào cách mạng của giai cấp vô sản từ tự phát thành phong trào tự giác; chính qua đó, học thuyết triết học của hai ông không ngừng được phát triển. C.Mác đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào đấu tranh cách mạng để khái quát tìm ra những kết luận, qua đó bổ sung và phát triển lý luận. Điều đó được biểu hiện qua nội dung của một số tác phẩm như: "Đấu tranh giai cấp ở Pháp", "Nội chiến ở Pháp", "Phê phán cương lĩnh Gôta". Đặc biệt qua bộ Tư bản, ông đã trình bày những tất yếu phát triển của nền sản xuất xã hội, lịch sử thay thế các hình thái kinh tế xã hội v.v. Trong khi đó, Ph.Ăngghen đã khái quát các thành tựu khoa học để viết các tác phẩm như: “Chống Đuyrinh”, “ Biện chứng của tự nhiên”, “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”v.v.. Trong các tác phẩm đó, ngoài việc phê phán các quan điểm triết học duy tâm, siêu hình và duy vật tầm thường, ông đã trình bày học thuyết triết học Mác dưới dạng hệ thống lý luận hoàn thiện hơn. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 13 2.1.4. Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác Chủ nghĩa Mác và triết học Mác sau khi trở thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh nó đã trực tiếp đi vào đời sống xã hội, trở thành vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. Vì thế, nội dung của nó được lan truyền nhanh chóng ở các quốc gia thuộc châu Âu, trong đó có nước Nga. Nhưng sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen mất, phong trào cộng sản thế giới có nguy cơ bị những người của phái chủ nghĩa xã hội dân chủ chi phối. Những người này tuyên truyền những luận điểm để bác bỏ những giá trị của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. Tình hình đó cũng diễn ra ở nước Nga trong thời cuối của thế kỷ XIX và những năm đầu của thế kỷ XX. Những năm cuối thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX trong khoa học tự nhiên có những phát minh mới, nhất là việc tìm ra điện tử và cấu tạo của nguyên tử làm đảo lộn căn bản quan niệm vật lý học cổ điển, dẫn tới "cuộc khủng khoảng vật lý". Lợi dụng tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm, trong đó có chủ nghĩa Makhơ (duy tâm chủ quan) công kích chủ nghĩa duy vật của Mác. Nước Nga sau khi cuộc cách mạng 1905-1907 thất bại, những người theo chủ nghĩa Makhơ tăng cường hoạt động lý luận, họ viện cớ "bảo vệ chủ nghĩa Mác" để xuyên tạc triết học Mác. Do vậy, Lênin đã viết hàng loạt các tác phẩm như: "Những người bạn dân là thế nào" và "Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy", "Sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruve", để vạch trần bản chất phản cách mạng của bọn dân tuý Nga và phê phán những luận điểm duy tâm chủ quan về lịch sử của họ. Trong cuộc đấu tranh đó, Lênin đã bảo vệ chủ nghĩa Mác và còn làm phong phú thêm quan điểm duy vật lịch sử, nhất là lý luận về hình thái kinh tế xã hội. Năm 1900 Lênin viết tác phẩm: “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” để vạch rõ quan điểm duy tâm, siêu hình của những người theo chủ nghĩa Ma Khơ và chỉ rõ tác hại của nó đến phong trào cách mạng ở Nga. Trong tác phẩm, Lênin đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử dựa trên sự phân tích, khái quát những thành tựu khoa học mới nhất. Lênin xây dựng định nghĩa vật chất với tính cách là phạm trù triết học, đồng thời còn làm rõ thêm nhiều vấn đề về lý luận nhận thức mác xít. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 14 Năm 1914 - 1915, Lênin nghiên cứu nhiều tác phẩm triết học, đặc biệt quan tâm nghiên cứu về phép biện chứng của Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy vật, nhất là lý luận về sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Thông qua đó, Lênin chuẩn bị lý luận cho cuộc cách mạng 1917. Tinh thần sáng tạo của tư duy biện chứng đã giúp cho Lênin có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác về triết học như: vấn đề về nhà nước nước, bạo lực cách mạng, chuyên chính vô sản, lý luận về đảng kiểu mới. Lênin đã là tấm gương mẫu mực trong việc bảo vệ và phát triển triết học Mác. Với tinh thần biện chứng duy vật, xem chân lý là cụ thể, có khi Lênin đã phải thay đổi một cách căn bản đối với một quan điểm nào đó của mình về chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều. Chính vì vậy mà một giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đã gắn liền với tên tuổi của Lênin và từ đó triết học Mác mang tên triết học Mác - Lênin. 2.2. Nội dung triết học Mác Quê hương của chủ nghĩa Mác là nước Đức. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất ở Anh, Pháp, Đức và các nước tư bản chủ nghĩa khác đã chứng tỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ưu việt hớn phương thức sản xuất phong kiến. Song, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, những mâu thuẫn giai cấp – xã hội vốn có của bản thân nó cũng nảy sinh và ngày càng bộc lộ gay gắt, trước hết là mâu thuẫn giữa hai giai cấp vô sản và tư sản. Những tư tưởng xã hội trực tiếp xuất hiện trước chủ nghĩa Mác và biểu hiện rõ ràng nhất và kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng pháp, triết học cổ điển Đức. Trong những học thuyết ấy chứa đựng những giá trị về mặt lịch sử. Đó là, lý luận giá trị lao động của Smith và Ricardo, là những dự đoán thiên tài của Xanh Ximông và Phuriee về một số đặc điểm của xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai và sự phê phán của các ông đối với xã hội tư bản. Đó là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và kiến giải duy vật về vấn đề cơ bản của Triết học trong các tác phẩm của Phoiơbắc. Những học thuyết đó là những đỉnh cao của sự phát triển tư tưởng lý luận xã hội loài người trong thời kỳ trước Mác. Sự phát triển hơn nữa về kinh tế chính trị học, GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 15 lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học và triết học chỉ có thể có được với sự ra đời của phép biện chứng duy vật. Song, rõ ràng những thành tựu đã đạt tới của nhân loại lại là những tiền đề lý luận tất yếu về mặt lịch sử và là nguồn gốc của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học mácxít nói riêng. Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học thuyết triết học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu tranh nhanh chóng đạt được thắng lợi. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 16 Chương 3 - BƯỚC NGOẶC CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC 3.1. Cuộc cách mạng trong lĩnh vực Triết học Trước C.Mác, tất cả các học thuyết triết học chỉ nhằm giải thích thế giới chứ không thể cải tạo thế giới. Học thuyết Mác ra đời đã trở thành công cụ cải tạo thế giới, đã giải thích thế giới theo tính duy vật triệt để, phát hiện được các nguyên lý vận động cơ bản của xã hội (mà về sau những người không hiểu nổi học thuyết này cho rằng nó là do các nhà khoa học tư sản phát hiện ra). Đó là nguyên lý điều chỉnh về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (là do quan hệ lợi ích), nguyên lý về sự phát triển, nguyên lý về mối quan hệ phổ biến, 3 qui luật, 6 cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật... Học thuyết Mác đã làm thay đổi nhận thức con người về thế giới. Ví dụ: Các vấn đề nguồn gốc bản chất nhà nước là gì? Vật chất và ý thức có quan hệ như thế nào, con người có nhận thức được thế giới hay ko? ... triết học Mác đều đã giải quyết triệt để theo tinh thần duy vật biện chứng. Triết học Mác đã tạo ra hình thức phát triển cao của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và hình thức phát triển cao của phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Triết học Mác thực sự khắc phục được sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Cố nhiên, trong chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã chứa đựng không ít những luận điểm riêng biệt thể hiện tinh thần biện chứng; song, do sự hạn chế của điều kiện xã hội và trình độ phát triển của khoa học nên tính siêu hình vẫn là một nhược điểm chung của nó. Do vậy, quan điểm duy vật của những học thuyết đó thường thiếu triệt để. Đây là điểm yếu để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng tiến hành đấu tranh chống lại. Còn phép biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ bọc duy tâm thần bí tiêu biểu trong triết học của Hêghen. Cho nên, nội dung của phép biện chứng chưa phản ánh đúng thế giới hiện thực. C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục hạn chế siêu hình; cải tạo phép biện chứng, giải thoát khỏi cái vỏ duy tâm. Từ đó khái quát xây dựng một học thuyết triết học mới - chủ nghĩa duy vật biện chứng. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 17 Trước triết học Mác, có một số học thuyết triết học bàn đến vấn đề xã hội; song, do hạn chế về thế giới quan hoặc phương pháp luận nên các học thuyết đó mới chỉ nghiên cứu hoặc lĩnh vực này hoặc lĩnh vực kia mà chưa nghiên cứu toàn diện mọi mặt của xã hội. Do vậy không thể nào tìm ra được quy luật phát triển chung của xã hội loài người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng những lý luận của duy vật biện chứng để nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tìm ra các quy luật phát triển chung của xã hội loài người và tiến trình phát triển tất yếu tự nhiên của nó. Từ đó xây dựng, sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử với tính cách là bộ phận của triết học Mác. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Đó là một cuộc cách mạng thực sự trong triết học. Từ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời đã loại bỏ được cơ sở tồn tại cuối cùng của chủ nghĩa duy tâm. Những học thuyết triết học trước triết học Mác thường mới dừng lại ở việc giải thích thế giới, cho nên họ chưa đề cập đến vai trò của hoạt động thực tiễn đối với lý luận, lý luận thường tách rời với thực tiễn. Do vậy, không tránh khỏi tình trạng rơi vào quan điểm duy tâm về xã hội. Ngay cả ở trong triết học Phoiơbắc tuy coi vấn đề con người là trung tâm thế nhưng đây chỉ mới là con người thuần túy về mặt sinh vật, chưa phải con người với tính cách là chủ thể hoạt động cải tạo thế giới. Còn triết học Mác đã xác định rõ: Nhiệm vụ của mình không chỉ dừng lại ở giải thích thế giới mà chủ yếu là tìm ra các phương tiện, các biện pháp để cải tạo thế giới bằng cách mạng. Triết học Mác thường lấy hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội, cải tạo thế giới của con người là điểm xuất phát và thông qua quá trình hoạt động thực tiễn để hoàn thiện hệ thống lý luận của mình. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, triết học Mác đã tạo ra được sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn. Lý luận xuất phát từ thực tiễn, chịu sự quyết định của thực tiễn; khi ra đời, lý luận định hướng hoạt động thực tiễn. Vì thế, so với các học thuyết triết học khác thì triết học Mác luôn luôn được bổ sung và hoàn thiện. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 18 3.2. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do C.Mác – Ph.Ăngghen thực hiện Sự hình thành thế giới quan duy vật của C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đồng thời là qúa trình nghiên cứu những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng của các ông diễn ra trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ XIX dưới ảnh hưởng trực tiếp của phong trào công nhân và những phát minh về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, trong quá trình đấu tranh chống phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc. Trong giai đoạn đầu, trước nửa năm sau của năm 1843, C.Mác và Ph.Ăngghen là những nhà biện chứng duy tâm. Hai ông tiếp nhận phép biện chứng của Hêghen, song có thái độ đối lập với hệ thống siêu hình của triết học Hêghen và các kết luận chính trị phản động xuất phát từ hệ thống triết học ấy. Quan điểm chính trị và xã hội của C.Mác và Ph.Ăngghen thời kỳ này là quan điểm dân chủ cách mạng. Song, ngay từ năm 1842, khi C.Mác còn làm biên tập viên Báo Rainơ tại Côlônhơ và khi Ph.Ăngghen đang nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân Anh, các ông đã có những biểu hiện chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Đặc điểm nổi bật trong hoạt động của hai ông khi nghiên cứu các thành tựu của khoa học và triết học là nghiên cứu một cách có phê phán và sự sáng tạo của các ông là nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị – xã hội. Khi C.Mác làm biên tập viên Báo Rainơ đã bày tỏ ý kiến của mình trên báo trí về vai trò và ý nghĩa của các lợi ích vật chất trong đời sống xã hội, những vấn đề kinh tế xã hội, vấn đề sở hữu đất, vấn đề đốn rừng, về thương nghiệp và về thuế quan bảo hộ... đặt ra ở tỉnh Rainơ. Nhưng khi sử dụng phép biện chứng duy tâm và học thuyết về nhà nước và pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã rơi vào tình trạng khó xử, không giải đáp được các vấn đề của thực tiễn chính trị xã hội đặt ra. Lúc này, chính C.Mác đã cảm thấy rằng những lợi ích vật chất của con người trong đời sống xã hội dã đóng một vai trò quan trọng đặc biệt. C.Mác đã đi tới kết luận rằng, phải nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề kinh tế GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 19 chính trị và phải xem xét lại một cách có phê phán những quan điểm triết học và pháp quyền của Hêghen. Trong thời kỳ công tác tại Báo Rainơ, trong quan điểm của C.Mác có cả quan điểm của chủ nghĩa xã hội không tưởng, song, vì chưa đủ những tri thức sâu sắc về những vấn đề đó, nên ông đã không thể bày tỏ quan điểm của mình về các học thuyết xã hội chủ nghĩa của những người tiền bối. Sau khi rời ban biên tập Báo Rainơ, C.Mác hoàn toàn dành thời gian để giải quyết những vấn đề đã đặt ra cho ông trong thời kỳ công tác tại tờ báo. C.Mác đã biết một bài luận văn lớn dành cho việc phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Sau đó, C.Mác sang Pari, cố gắng nghiên cứu các vấn đề kinh tế – chính trị học và lịch sử các phong trào cách mạng. Tại đây, C.Mác đã tham gia các cuộc hội họp của công nhân, đặt mối quan hệ với các nhà lãnh đạo của các tổ chức công nhân bí mật Pháp và Đức. Những năm 1843-1844 là thời kỳ C.Mác chuyển hoàn toàn sang lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Các bài của C.Mác đăng trên Niên giám Pháp – Đức mà số đầu xuất bản tại Pari vào tháng 2 –1844 đã thể hiện rõ sự chuyển biến đó. Trong thời kỳ này C.Mác ở Pari, Ph.Ăngghen ở Anh, hai ông độc lập trong việc nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân, sống gần gũi với họ, giải thích vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân với tính cách là giai cấp cách mạng triệt để, tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới và phương thức sản xuất mới trong tương lai, vượt chủ nghĩa tư bản. Trong thời kỳ này, qua nghiên cứu và thực tiễn, các ông đã khắc phục được phép biện chứng duy tâm, và sự hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình, hình thành những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Quá trình phát triển thế giới quan của C.Mác là một quá trình không đơn giản, mà được gắn với sự phát triển của khoa học và thực tiễn chính trị – xã hội. Đó là một qúa trình thống nhất hai mặt, cải biến theo chủ nghĩa duy vật cái nội dung hợp lý của phép biện chứng duy tâm của Hêghen và giải thích theo phép biện chứng cách giải quyết duy vật vấn đề cơ bản của triết học, khắc phục phép siêu hình. Đó là một quá trình đồng thời khắc phục phép biện chứng duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình, đặt nền móng cho chủ nghĩa duy vật biện chứng. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 20 Triết học của C.Mác khác về chất với triết học của Phoi ơbắc và Hêghen. Phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng ý niệm. Hêghen chỉ mới phỏng đoán phép biện chứng của sự vật trong phép biện chứng của ý niệm. Đối lập với Hêghen, C.Mác và Ănghen cho rằng phép biện chứng của khái niệm chỉ là sự phản ánh phép biện chứng của thế giới khách quan trong ý thức của con người. Lời mở đầu tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen đăng trong Niên giám Pháp - Đức tháng 2 – 1844, đã thể hiện rõ sự chuyển biến của C.Mác từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng. C.Mác từng viết: tác phẩm đầu tiên mà ông dành để giải quyết những nghi ngờ đã có trong ông là sự phân tích có phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. C.Mác còn viết: nghiên cứu của ông đã dẫn ông đến kết luận rằng, những quan hệ pháp quyền, cũng như các hình thức nhà nước, không thể hiểu từ bản thân chúng, từ cái gọi là sự phát triển chung của tình thần con người, mà ngược lại, chúng ta có nguồn gốc từ những quan hệ vật chất của đời sống. C.Mác cũng đã giải thích trên cơ sở chủ nghĩa duy vật vấn đề nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo. Khác với những nhà triết học trước C.Mác, ông đã hiểu một cách hoàn toàn mới những nhiệm vụ của triết học do ông đề ra, ông đã coi triết học là thứ vũ khí để cải tạo thế giới, nó có nhiệm vụ phục vụ cho thực tiễn đấu tranh chính trị – xã hội. Cùng với việc phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã phê phán trên quan điểm chính trị thực tiễn cái mà nhà nước đương thời, cái hiện thực “tồn tại là hợp lý” của Hêghen, C.Mác đã kiên quyết phủ định cả cái hình thức đang tồn tại của ý thức pháp quyền và nền chính trị Đức đang tồn tại lúc đó. Đồng thời, C.Mác nhấn mạnh đến ý nghĩa to lớn của tư tưởng tiên tiến trong cải tạo xã hội và nhà nước. Ông chỉ ra sự tất yếu phải phát triển những tư tưởng tiên tiến trong quần chúng nhân dân, để nó trở thành một động lực thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Luận chứng một cách duy vật vai trò của lý luận tiên tiến trong mối quan hệ của nó với thực tiễn cách mạng, C.Mác viết “ Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phên phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 21 Ý nghĩa lớn lao trong tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen là ở chỗ, lần đầu tiên, C.Mác đã phát biểu với tư cách là nhà các mạng, trực tiếp hướng tới giai cấp vô sản, với tính cách là lãnh tụ của quần chúng nhân dân, và coi triết học của ông là triết học của giai cấp vô sản, là vũ khí tư tưởng của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản để cải biến cách mạng đối với xã hội. C.Mác viết: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khi vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình” Khi phê phán triết học của Hêghen về mặt nhà nước và pháp quyền, C.Mác thực hiện một thể nghiệm đầu tiên đặc biệt có kết quả là mở rộng chủ nghĩa duy vật sang lĩnh vực các hiện tượng xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử, ông chỉ ra sức mạnh và hiệu lực của phép biện chứng duy vật, là phương pháp tạo ra khả năng phát hiện các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, cho phép giải quyết một cách triệt để những nhiệm vụ nhận thức không thể giải quyết được nếu đứng trên lập trường của phép biện chứng duy tâm, hay đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật siêu hình. Bởi vậy, C.Mác đã bắt đầu nghiên cứu những nguyên tắc của phép biện chứng duy vật và quan điểm duy vật lịch sử ngay trong Lời mở đầu tác phẩm trên. Đồng thời C.Mác, Ph.Ăngghen cũng đã nghiên cứu những nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chứng cứ hùng hồn là bài báo Sơ thảo về phên phán kinh tế – chính trị học cùng đăng trên Niên giám Pháp - Đức số tháng 2 – 1844. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của C.Mác và Ph.Ăngghen diễn ra vào tháng 11-1842, khi C.Mác làm biên tập viên cho Báo Rainơ. Tháng 8-1844, tại Pari, trên đường từ Anh về Đức diễn ra cuộc gặp gỡ thứ hai. Và từ đó, hai ông đã có mối quan hệ bền chặt, gắn bó trong cả cuộc đời. Từ đó hai ông cùng làm việc để sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sáng tạo ra kinh tế chính trị học mác xít và lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học. 3.3. Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của triết học trong hệ thống trị thức khoa học có thay đổi căn bản. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 22 “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau song vấn đề là cải tạo thế giới”, luận điểm đó của C.Mác nói lên sự khác nhau về chất giữa triết học Mác với các học thuyết triết học trước kia, kể cả những học thuyết triết học tiến bộ. Tuy vậy, C.Mác không hề phủ nhận, trái lại C.Mác đã đánh giá cao vai trò to lớn trong sự phát triển xã hội. Chẳng hạn, C.Mác khâm phục và đánh giá rất cao chủ nghĩa vô thần triết học của các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVII. Song, mặt hạn chế về tính thực tiễn là “khuyết điểm chủ yếu” của mọi học thuyết duy vật trước C.Mác nên nó chưa trở thành công cụ nhận thức khoa học để cải tạo thế giới bằng cách mạng. Nay nó đã được C.Mác khắc phục, vượt qua và đi tới chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành triệt để. Khi ra đời, triết học Mác đã trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản, và là cơ sở lý luận khoa học để nhận thức thực tiễn xã hội; từ đó định ra được đường lối chiến lược và đề ra những biện pháp đấu tranh cải biến xã hội có hiệu quả. Sự kết hợp giữa lý luận triết học Mác với phong trào vô sản đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác. Triết học Mác còn là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa xét lại, cơ hội và chủ nghĩa giáo điều, góp phần quan trọng tạo ra sự thống nhất của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, một giai cấp tiến bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và với sự phát triển xã hội. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển về chất của phong trào, từ trình độ tự phát lên tự giác. Phép biện chứng mác xít mang tính cách mạng sâu sắc nhất “vì trong quan niệm tích cực về cái hiện tồn, phép biện chứng đồng thời bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện tồn đó, sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mangj”. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 23 mác xít chính là sự gắn bó mật thiết cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân đông đảo, nhờ đó lý luận “sẽ trở thành lực lượng vật chất” Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học duy tâm coi triết học là “khoa học của các khoa học” đứng trên mọi khoa học. C.Mác và Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Theo Ăngghen, mỗi lẫn có một phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải thay đổi hình thức của nó. Ngược lai, Triết học Mác lại trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của các khoa học. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại phải phát triển lý luận triết học của chủ nghĩa Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại. Như vậy, triết học Mác đã phân định rõ ranh giới giữa triết học với các khoa học khác và thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng, cũng như xác định rõ đối tượng nghiên cứu của triết học là tìm ra quy luật vận động, phát triển GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 24 KẾT LUẬN Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. C.Mác và Ăngghen đã giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, C.Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học” Triết học Mác là hệ tư tưởng mở, không phải là cái cứng nhắc, trong quá trình phát triển luôn vận dụng và bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn lịch sử. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trình triết học Mác – Lenin (Dùng trong các trường đại học và cao đẳng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 2. Giáo trình triết học Mác - Lênin (Chương trình cao cấp), Nxb Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994. 3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. 5. 6.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdetai20_phamvandung_d1k19_0462.pdf