Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm bảo vệ pháp luật bằng việc áp dụng đúng đắn luật và các văn bản dưới luật. Có thể xem cơ quan tư pháp như là bộ phận chuyển tải quyền lực nhà nước thể hiện trong pháp luật vào đời sống thông qua việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc cụ thể. Nếu "lực" được thể hiện đầy đủ, đúng đắn qua hoạt động lập pháp và lập quy, nhưng hệ thống truyền "lực" qua hoạt động tư pháp không tốt thì bộ máy nhà nước ấy vẫn là bộ máy nhà nước kém hiệu lực, hiệu quả. Trong các cơ quan tư pháp, Tòa án giữ vị trí trung tâm; tất cả các cơ quan tư pháp khác như điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám định pháp y.) đều phục vụ cho hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án là nơi biểu hiện tập trung tính chất dân chủ và công khai trong hoạt động bảo vệ pháp luật. Ở đó, con người tìm thấy lẽ công bằng, tính nhân đạo, thiện và ác một cách trực tiếp và cụ thể qua các sự kiện pháp lý cụ thể. Do đó, xây dựng Tòa án mạnh là một bộ phận trọng yếu của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tòa án phải đổi mới tổ chức và hoạt động sao cho bảo đảm trên thực tế nguyên tắc "khi xét xử, thẩm phám và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Đồng thời phải từng bước mở rộng thẩm quyền của Tòa án để hướng đến giải quyết được hầu hết mọi tranh chấp xuất hiện trong đời sống xã hội.
Với vai trò là hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, lại là một thành viên của hệ thống chính trị, hơn 20 năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Công tác xây dựng Đảng được xem là nhiệm vụ then chốt. Công tác này tập trung vào việc nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời coi trọng xây dựng và củng cố tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách công tác. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen cho rằng những người cộng sản khác quần chúng nhân dân ở hai điểm cơ bản: gương mẫu trong thực tiễn và phải có trình độ lý luận. Các ông viết: "Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất., là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản"(5). Vì thế, nâng cao trình độ lý luận và sự gương mẫu trong hoạt động thực tiễn luôn luôn là đòi hỏi đối với đảng viên và là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện ngày nay.
18 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3305 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự vận dụng của Đảng ta về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Quần chúng nhân dân là một lực lượng quan trọng trong mọi giai đoạn lịch phát triển của lịch sử Việt Nam.Có thể nói đó là lực lượng có vai trò sang tạo ra lịch sử.
Đảng cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn nhận thưc được tầm quan trọng đó và vận dung trong quá trình xây dựng đát nước.
Để hiểu rõ thêm về điều này,chúng tôi nhóm 10 quyết định nghiên cứu đề tài “Sự vận dụng của Đảng về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng đất nước”
Trong quá trình nghiên cứu vẫn còn nhiều thiếu sót mong các bạn đọc và đóng góp ý kiến.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
Nhóm 10
A,Cơ sở lý thuyết
I.Chủ nghĩa Mác-Lênin ở nước ta.
Chủ nghĩa Mác-Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người; là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, được coi là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân và được Hồ Chí Minh đưa vào Việt Nam.
Trước khi chủ nghĩa Mác-Lênin xuất hiện ở Việt Nam, những phong trào giải phóng dân tộc: phong trào Cần Vương, khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, của Hoàng Hoa Thám, các cuộc vận động của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học... đều thất bại; nhưng kể từ khi Hồ Chí Minh đem chủ nghĩa Marx-Lenin vào Việt Nam, phong trào đấu tranh giành độc lập của Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ.
Đầu tiên, sau gần 100 năm bị đô hộ bởi thực dân Pháp và đế quốc Nhật Bản, năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản, Việt Nam đã giành được chính quyền từ tay đế quốc Nhật Bản và tuyên bố thành lập nước Việt Nam độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tiếp theo là chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954 trước thực dân Pháp sau khi Pháp trở lại Đông Dương năm 1946.
Sau đó, Hoa Kỳ đã hậu thuẫn chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền nam Việt Nam, họ cho rằng hành động đó là để ngăn chặn làn sóng cộng sản lan xuống các quốc gia Đông Nam Á. Cuộc chiến kéo dài hơn 30 năm, kết cục là Mỹ đã rút khỏi Việt Nam sau khi Hiệp định Hòa bình Paris được ký vào tháng 1 năm 1973 và chính phủ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ sau sự kiện 30 tháng 4, 1975 của đảng cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin được xem là kim chỉ nam trong mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam để đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lênin được nghiên cứu và được coi là môn học chính trong hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam.
Ngày nay, với những thay đổi về phương thức sản xuất, sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ và đặc biệt là sự toàn cầu hóa, bằng mức lương cao và các chế độ đãi ngộ hậu hĩnh, hình thức bóc lột của giai cấp tư bản và những chính thể tư bản đã phát triển vượt bậc, làm cho người lao động bị bóc lột cảm thấy dường như có sự ưu đãi nào đó nhưng thực chất là vẫn đang bị bóc lột. Do vậy với sự phát triển thịnh vượng của Trung Quốc và hiện tượng chủ nghĩa xã hội ở các quốc gia Nam Mỹ thời gian gần đây càng cho thấy chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết tiến bộ của nhân loại được áp dụng trong thiên niên kỷ mới để giúp người lao động nhận thức ra được bản chất bất công của chủ nghĩa tư bản, đấu tranh cho một xã hội tiến bộ hơn, phát triển hơn, đó là chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa Mác- Lênin là một môn khoa học của các môn khoa học .
II.Quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử.
1,Khái niệm quần chúng nhân dân
Quá trình vận động, phát triển của lịch sử diễn ra thông qua hoạt động của khối đông đảo con người được gọi là quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân hay một tổ chức, nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình.Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời đại màquần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp khác nhau.Như vậy, quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, baogồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi các nội dung sau đây:
+ Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
+ Thứ hai, những bộ phận dân cư chốnglại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.
+ Thứ ba, những giai cấp,những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trựctiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
Quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái lại ,nó thay đổi càng với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử ở mỗi thời đại,mỗi giai đoạn phát triển nhất định. Tuy nhiên luc lượng cơ bản nhất của mỗi cộng đồng nhân dân chính là những con người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho sự sinh tồn và phát triển của xã hội.ngoài ra tùy theo mỗi điều kiện lịch sử xác định mà bao gồm trong cộng đồng quần chúng nhân dân còn có thể bao gồm những lược lượng giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Quần chúng nhân dân là những bộ phận XH có chung lợi ích liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của 1 cá nhân hay 1 Đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề về kinh tế,chính trị,XH của 1 thời đại lịch sử
- Đặc trưng của k/niệm quần chúng nhân dân:
+ Quần chúng nhân dân là những người LĐ sản xuất ra của cải vật chất tinh thần cho XH.+ Quần chúng nhân dân là những bộ phận dân cư đấu tranh chống lại các giai cấp thống trị trong lịch sử.
2, Vai trò của quần chúng nhân dân:
Theo quan điểm duy vật lịch sử quần chúng nhân dân có vai trò là người sáng tạo ra lịch sử-nghĩa là sự phát triển của lịch sử XH là do hoạt động của quần chúng nhân dân tạo nên.
Về căn bản,tất cả các nhà tư tưởng trong lịch sử trước mac đều không nhận thức dúng vai trò sang tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.về nguồn gốc lý luận ,điều đó có nguyên nhân từ quan diểm duy tâm.tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các vấn đề xã hội.
Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử và là lực lượng quyết định sự phát triển lịch sử, do đó lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung.
+ Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.Song, vai trò của khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản xuấtcủa quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
+ Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, nhân dân lao động là lực lượng tham gia đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng. Tất nhiên, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
+ Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần.Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật,văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Những sang tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức... của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội.Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, như Nguyễn Trãi đã nói: "Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết". Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, và quan điểm "lấy dân làm gốc" trở thành tư tưởng thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam.
B. Ðảng và những vấn đề cơ bản về xây dựng Ðảng
Ðảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Mục đích của Ðảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Ðảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Ðảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Ðiều lệ Ðảng, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Ðảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Ðảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Ðảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Ðảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Ðảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Ðảng.
C.Vai trò của nhân dân và đảng trong các cuộc cách mang của dân tộc ta
Dưới sự lãnh đạo của đảng,cách mạng tháng 8 thành công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á. Đó là thắng lợi của nhân dân Việt Nam. Đó là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác Lênin ở một nước thuộc địa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ thắng lợi.giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước,đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác Lênin ở Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước hơn 20 năm qua giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Cách mạng tháng 8 trước hết là hình mẫu của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta. Dưới ngọn đuốc soi đường của chủ nghĩa mác ,với ý chí không có gì quý hơn độc lập tự do, bằng chủ nghĩa yêu nước và tấm lòng quả cảm, Đảng và Bác đã khơi dậy truyền thống yêu nước được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Trên nền của phương pháp tư duy sáng tạo, Đảng ta đã quy tụ và tập hợp dưới ngọn cờ chính nghĩa sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”là nền tảng của phương pháp tư duy sang tạo kiểu mới. Nhờ phương pháp ấy, chúng ta đã phân hóa, cô lập kẻ thù, gắn kết mọi người VN yêu nước, tha thiết với độc lập dân tộc, không phân biệt Đảng phái, quan điểm chính trị tín ngưỡng … thành một khối thống nhất vững chắc, tạo nên sức mạnh không gì lay chuyển được. Thiên tài sáng tạo HCM và Đảng ta đã xây dựng một hệ thống phương pháp, hình thức tổ chức mẫu mực, tập hợp quần chúng thực hiện bước đột phá trong tổng khởi nghĩa. Có thể nói khơi dậy và tập hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy đến cao nhất chủ nghĩa yêu nước,chủ động nắm bắt thời cơ,tập hợp lực lượng đủ mạnh và biết chọn các loại hình tổ chức thích hợp, giành thắng lợi từng phần tiến đến thắng lợi hoàn toàn là đỉnh cao của sáng tạo trong cách mạng tháng tám.
Cách mạng tháng Tám thành công chưa bao lâu thì vận nước lại lâm vào cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” . Trong bối cảnh đó vừa phải đói phó với thù trong giặc ngoài, Đảng và Bác vẫn vững vàng đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua ghềnh thác.Thắng lợi của chín năm chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ một làn nữa chứng minh tài thao lược và sáng tạo của Đảng và Bác. Ở đây sức mạnh của dân tộc và của thời đại đã hòa quyện làm một. Nhờ sáng tạo chúng ta dã dám đánh và tìm ra cách đánh, biết chuyển yếu thành mạnh dàn mỏng, chia cắt phân hóa cao độ kẻ thù,đẩy chúng vào thế suy yếu để tiêu diệt.Sau cách mạng tháng tám,một Điện Biên tỏa sáng đã viết tiếp nên bản anh hung ca của sự sang tạo,tạc chân dung dân tộc VN vào thế kỷ 20 như một biểu hiện chói sáng nhất của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc tự cường.chính sách đại đoàn kết dân tộc của đảng ta luôn tỏa sáng.
D. Sự vận dụng của Đảng về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng đát nước.
I.Kinh tế
Trong giai đoạn 1976-1986 là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất và đồng thời là giai đoạn của những tìm tòi để thoát khỏi mô hình này.Đây là thời kỳ của 2 kế hoạch 5 năm 1976-1980; 1981-1986.
Ở miền Bắc hợp tác hóa còn miền Nam thì không.
* Xây dựng xã hội chủ nghĩa:
- Thứ nhất: sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa,sản xuất lớn có nghĩa là nền kinh tế dựa vào những đơn vị có quy mô lớn trở thành pháo đài kinh tế xã hội,các tỉnh được xác nhập lại làm 29 tỉnh.Còn xây dựng xã hội chủ nghĩa tức là nền kinh tế dựa vào 2 thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanh và tập thể. Để thực hiện được sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cần tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng:quan hệ sản xuất ,khoa học kĩ thuật và văn hóa tư tưởng. Cách mạng quan hệ sản xuất có nội dung cơ bản là cải cách các thành phần kinh tế tư nhân,cá thể biến chúng thành các thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể gọi chung là cải cách xã hội chủ nghĩa.
- Thứ hai: làm chủ tập thể. Đây là một tư tưởng do Lê Duẩn sáng tạo.
- Thứ ba: áp dụng kế hoạch hóa tập trung. Đây là mô hình chung ở các nước xã hội chủ nghĩa.Ở Việt Nam có được thực hiện theo công thức Lê Duẩn sáng tạo đó là: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Tại đại hội IV đường lối này đã được thực hiện bằng chủ trương tiến hành kế hoạch phat triển 5 năm 1976-1980.Theo kế hoạch đại hội IV định hướng, sản xuát xã hội sẽ tăng bình quân hằng năm 14-15%, thu nhập quốc dân tăng 13-14%,giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8-10%, năng xuất lao động xã hội tăng 7,5-8%,lương thực đạt ít nhất 2,1 triệu tấn vào năm 1980, thịt hơi các loại đạt 1 triệu tấn.
-Thứ tư: công nghiệp nặng được lựa chọn làm ngành động lực chính của tăng trưởng và phát triển kinh tế.
-Thứ năm: nhà nước độc quyền vè kinh tế đối ngoại.
Đẩy mạnh sản xuất tập trung ở miền Bắc: theo kế hoạch 5 năm 1976-1980 thì diện tích đơn vị sản xuất, tức hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc tăng gấp 2 đến 2,5 lần kích thích sản xuất vẫn trì trệ.
* Cải cách xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
- Hợp tác hóa: được tiến hành khẩn trương trong các năm từ 1977-1980. Theo kế hoạch thì ruộng đất được tập hợp lại để tổ chức canh tác tập thể, sản phẩm được phân chia căn cứ theo mức đóng góp. Máy móc nông nghiệp của nông dân bị trưng mua để thành lập các tập đoàn phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các tập đoàn sản xuất có nghĩa vụ bán sản phẩm của mình cho nhà nước theo giá kế hoạch thấp hơn nhiều giá thị trường. Bù lại nhà nước cung cấp vật tư và hàng hóa tiêu dùng cho các tập đoàn. Tuy nhiên tình hình kinh tế miền Nam không thích hợp với mô hình hợp tác hóa và chương trình “người cày có ruộng” vào đầu thập niên 1970 để phân phối ruộng đất khiến đa số nông dân miền Nam thuộc hàng trung nông với năng suất khá cao. Hơn nữa chính quyền cũng đã nhận thấy lịch sử hợp tác hóa ở miền Nam cũng bị bỏ dở.
Hậu quả lần xuất nông nghiệp giảm trong khi dân số tăng, gây ra canh thiếu lương thực thực phẩm từ 1976-1980 mặc dù trong hoàn cảnh hòa bình Việt Nam vẫn phải nhập cảng 5,6 triệu tấn thực phẩm.
*Cải tạo công thương nghiệp
Cuối tháng 8-1975: bộ chính trị lao động VN đã chỉ đạo tiến hành các chiến dịch cải tạo. Tiếp theo thường vụ trung ương cục miền Nam thông qua một số kế hoạch nhằm vào tư sản mại bản.Đợt 1 của chiến dịch này thực hiện bất ngờ vào nửa đêm ngày 9/9/1975,đợt 2 tiến hành từ ngaỳ 4-6/12,chiến dịch làm nhiều nhà tư sản lớn của miền Nam đã bị bắt, tài sản của họ bị tịch thu.Song song với tấn công tư sản mại bản,chiến dịch di dân thành phố, vì nông thôn đưa những người buôn bán về vùng kinh tế mới.
Dù vậy các hoat động cải tạo công thương ở miền Nam cho đến trước năm 1978 vẫn diễn ra 1 cách thận trọng.Vị bí thư thành ủy TPHCM lúc đó là Nguyễn Văn Linh là người am hiểu tình hình giới tư sản miền Nam, nên các biện pháp của ông mềm dẻo tỏ thái độ trân trọng và có văn hóa với giới tư sản. Nhưng chính điều này đã khiển Nguyễn Văn Linh bị mất chức bí thư thành ủy vào năm 1978, bị đưa ra khổi bộ chính trị, điều chuyển khỏi công tác phụ trách ban cải tạo công thương nghiệp tư doanh TW sang phụ trách công tác dân vận, công đoàn. Từ năm 1978 hoạt động cải tạo công thương diễn ra mạnh hơn, đối tượng bị cải tạo rộng hơn trước. Sâu rộng với toàn giới là cuộc đổi tiến 1978.
Sau vụ kiện 30-4-1975, Hoa Kỳ lập tức triển khai cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Tuy nhiên chỉ khoảng 1 năm sau việc thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm 1976-1980 gặp nhiều khó khăn.trước tiên là nguồn viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa giảm sút. Đặc biệt viên trợ từ Trung Quốc chấm dứt hòan toàn từ 1977. Các nguồn viện trợ này gồm các mặt hàng quan trọng. Sau khi tham gia hội đồng tương trợ kinh tế, Việt Nam phải theo thể chế giá của khối này, trong đó có nguyên tắc giá trượt. Với nguyên tắc này,mức viện trợ 1,5 tỷ rubbe Việt Nam chỉ có sức mua bằng 600-700 rubbe trước khi vào khối. Thứ hai từ năm 1978 Khmer đỏ tấn công VN trên toàn lãnh thổ, chi tiêu quốc phòng cho VN vì thế tăng mạnh. Tháng 1 -1979 Việt Nam công bố đánh sang Campuchia chiến dịch ở biên giới phía bắc bùng nổ. Chi phí quốc phòng lại càng tăng vọt.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. thực hiện CNH-HDH đất nước, xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với chủ động hội nhập quốc tế xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thực hiện tốt chính sách xã hội, chăm lo và bồi dưỡng con người. Sau khi kết thúc chiến tranh sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa gặp nhiều trở ngại. Cơ chế quan lieu và mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã ngăn cản quá trình sáng tạo tìm tòi con đường mới. Trước tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng và bất ngờ,Đảng đã kịp thời điều chỉnh chiến lược và có nhiều chủ trương mới sáng tạo đưa nước ta phát triển.
Thời kỳ đổi mới
- Công nghiệp: các doanh nghiệp nhà nước được giao quyền tự chủ,thưc hiện hoạch toán kinh tế, xóa bỏ bao cấp giảm các chỉ tiêu pháp lệnh; khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất, thu hút đầu tư phát triển công nghiệp. Luật đầu tư nước ngoài với nhiều ưu đãi được ban hành dã tạo môi trường đầu tư thông thoáng hơn, góp phần nâng cao năng lực sản xuất. Thời kì này sản xuất công nghiệp là then chốt, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển ổn định và tăng trưởng khá.
- Nông nghiệp: thành tựu nổi bật nhất là giải quyết vững chắc vấn đề lương thực bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.Việt Nam từ nước thiếu lương thực triền mien thành nước xuất khẩu lương thực đứng thứ 2 trên thế giới liên tục từ 1989 đến nay. Mỗi năm lương thực tăng 1,3 triệu tấn khoảng 5%,cao hơn tốc độ tăng dân số, bình quân lương thưc đầu người tăng từ 280kg năm 1987 và ước tính tăng lên khoảng 455kg trong năm 2000. Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả có bước phat triển khá cao. Chăn nuôi tăng trưởng ổn định
- Việc xuất khẩu cũng không ngừng tăng cả về giá trị lẫn cơ cấu. Cán cân xuất nhập về cơ bản đã cân bằng.
Nhìn chung kinh tế Việt Nam sau đổi mới đã có sự thay đổi nhanh chóng, điều đó chứng minh đường lối mà Đảng ta đề ra là đúng đắn. Đảng và quần chúng nhân dân luôn cùng nhau xây dựng đất nước
II,Tình hình văn hóa dân tộc
Quần chúng nhân dân là cội nguồn phát sinh ngững sang tạo văn hóa tinh thần của xã hội và cũng là lực lượng giữ gìn và phát huy ngững giá trị đó.chúng ta có thể thấy điều đó thể hiên trong nền văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc.
Văn hóa Việt Nam, hay nói riêng là văn hóa của dân tộc kinh đã có nguồn gốc tại miền bắc Việt Nam, là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất ở khu vực Thái Bình Dương.
Từ ngàn xưa, trong cuộc sống lao động hòa mình vào với tự nhiên ông cha ta dã có những câu ca dao tục ngữ rất hay nói về cuộc sống bình dị của mình, những câu ca khen ngợi thiên nhiên đất trời, câu tục ngữ thành ngữ răn dạy các thế hệ đi sau giúp họ biết được cái đạo làm người thế nào cho tốt:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,uống nước nhớ nguồn”
“Cây ngay không sợ chêt đứng”
Những câu nói lên bài học kinh nghiệm: “đông sao thì nắng vắng sao thì mưa”
“cơn đằng đông vừa trông vừa chạy,cơn đằng nam vừa làm vừa chơi; đi một ngày đàng học môt sàng khôn.”
Hay những câu ca dao nói về thân phận người phụ nữ:
“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các ,hạt sa ruộng cày”
Sự đa dạng văn hóa nước ta con thể hiện qua các lễ hội. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu thì nươc ta có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn nhỏ trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa xuân hạ thu đông. Miền bắc thì có lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, hội đền Chử Đồng Tử, lễ hội chùa hương,hội Cổ Loa, hội thi nấu cơm,….miền trung hội đua voi ở Thái Nguyên, hội cá cầu ngư,.. Miền Nam có lễ hội bà chúa xứ, lễ hội lăng ông. Hội đèn An Dương Vương ngày mùng 6-1 tưởng niêm thục phán người có công xây dựng nước Âu Lạc, thành Cổ Loa. Cũng vào thời điểm này du khách bốn phương về hội hoa Vị Khê từ ngày 20-30 tháng 1để chiêm ngưỡng hoa cây cảnh của làng nghề truyền thống vị khê, hội du xuân bái lễ cầu mong một năm mới thịnh vượng ở núi Bà Đen. Ngoài ra nền văn hóa nước ta còn thể hiện các măt như các thủ tục ma chay cưới xin. Hằng năm cứ đến ngày giỗ tổ mùng 10-3 thì mọi người ở khắp nơi trên đất nước đều trở về đèn hung để tưởng nhớ công lao của những vị vua hùng đã có công dựng nước. Có thể nói đó là một nét văn hóa tốt đẹp của người dân Việt Nam. Còn có những cô gái Huế với nết duyên dáng trong bộ áo dài thướt tha cùng với chiếc nón huế đã làm nên một xứ huế mộng mơ say đăm lòng người, cái đó đã tạo nên một nét văn hóa Việt Nam. Những nền văn hóa phi vật thể như nhã nhạc cung đình Huế, cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Những đứa trẻ cùng với những bài hát về dân gian: ô quan ,bịt mắt bắt dê, nhảy lò cò…Chứng tỏ rằng văn hóa VN đã xuyên suốt qua mọi đối tượng tầng lớp. Tất cả đều phản ánh đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân- những con người chất phác và lương thiện. Có ca dao có tục ngữ hình thành trrong mỗi thời kì thì chúng ta mới biết được lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc ta,cha ông ta. Văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành từ quần chúng nhân dân chứ không do môt cá nhân nào hết vì vậy nó cũng được nhân dân lưu truyền, gìn giữ cho đến bây giờ.nếu không có sự đóng góp của quần chúng nhân dân liệu dân tộc VN có thể có bề dày truyền thông như bây giờ không? Lịch sử hằng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã tạo cho Việt Nam có một truyền thống lâu đời, bền vững đó là truyền thống lịch sử, truyền thống dân tộc. Cái hồn của truyền thống ấy là văn hóa và bản lĩnh sáng tạo, sức sống của con người Việt Nam. Dân tộc Việt Nam có một truyền thống từ lâu đời về văn hóa và văn hiến, kết tinh thành hệ giá trị chân - thiện - mỹ như một hệ giá trị phổ quát của văn hóa, của mọi dân tộc trong quốc gia - dân tộc mình và trong cộng đồng nhân loại. Song mỗi dân tộc, do những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử riêng của mình, từ những trải nghiệm trực tiếp trong thực tiễn lao động và đấu tranh, trong môi trường tự nhiên và xã hội để tồn tại và phát triển, lại có những quan niệm và cách thức biểu hiện riêng của mình về chân - thiện - mỹ. Nó biểu hiện thành tâm lý và ý thức, phong tục tập quán và lối sống, tạo thành tính cách của con người và cộng đồng dân tộc. Các giá trị văn hóa truyền thống đó kết tinh lại trong quan niệm, tư tưởng, triết lý, trong đạo đức và cách thức ứng xử, phản ánh diện mạo tinh thần, tâm hồn và tình cảm của cả một dân tộc, có trong các sản phẩm vật thể và phi vật thể của văn hóa. Trong văn hóa tinh thần (phi vật thể) và đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam truyền thống, qua các thời đại lịch sử cần đặc biệt chú trọng tới một lĩnh vực rất phong phú và tinh tế nằm chung trong cấu trúc của văn hóa, ấy là văn học, nghệ thuật, bao gồm cả dòng văn học dân gian và dòng văn học bác học. Đây là di sản tinh thần rất quan trọng mà các thế hệ người Việt Nam từ xa xưa - tổ tiên, ông cha chúng ta đã sáng tạo ra, đã để lại cho đời sau. Nó phải được bảo tồn và phát huy, được kế thừa và phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Nó cần phải có mặt trong hành trang của những con người Việt Nam hiện nay, nhất là thế hệ trẻ nhập cuộc với đổi mới để phát triển, đổi mới trong nội tại của đất nước, con người và dân tộc mình đồng thời hội nhập với bên ngoài để phát triển và hiện đại hóa đất nước.
Đảng ta luôn quan tâm chú trọng đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân lây nhân dân làm nòng cốt trong mọi lĩnh vực.Đảng đã có những hoạt động cụ thể như sau:
+ Chủ trương tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra chất lượng mới của cuộc sống; xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
+ Ba lĩnh vực cần tập trung thực hiện bằng được là : xây dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hoá của mọi người dân ở cơ sở, phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân; khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm, công trình có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú trọng các công trình văn hoá lớn, tiêu biểu. Theo phương hướng ấy, cần tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử và di sản văn hoá; tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển; bảo đảm tự do dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hoá, văn học nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ, chăm sóc các tài năng văn hoá, nghệ thuật; đổi mới nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước về văn hóa.
III.Giáo dục
Nhận thấy vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân,đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đè giáo dục của nước nhà .bồi dưỡng các thế hệ trẻ những chủ nhân tương lai của đất nước.Cụ thể là:
Cùng với củng cố kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở đã được triển khai tích cực, đến hết năm 2005 có 31 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỉ lệ học sinh trong độ tuổi đi học ở bậc tiểu học đạt 97,5%. Quy mô giáo dục tiếp tục được mở rộng và trình độ dân trí đã được nâng lên rõ rệt.
Số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 12,9%/năm và dạy nghề dài hạn tăng 12%/năm, sinh viên đại học và cao đẳng tăng 8,4%/năm. Các trường sư phạm từ trung ương đến địa phương tiếp tục được củng cố và phát triển. Chất lượng dạy nghề có chuyển biến tích cực. Bước đầu đã hình thành mạng lưới dạy nghề cho lao động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số, người tàn tật, gắn dạy nghề với tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo.
Đổi mới giáo dục đang được triển khai từ giáo dục mầm non, phổ thông, dạy nghề đến cao đẳng, đại học. Việc xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã đạt kết quả bước đầu. Nhiều trường dân lập, tư thục bậc đại học, trung học chuyên nghiệp, trung học phổ thông và dạy nghề đã được thành lập.
Đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo tăng lên đáng kể. Năm 2005, chi cho giáo dục và đào tạo chiếm khoảng 18% tổng chi ngân sách nhà nước; đã huy động được nhiều nguồn vốn khác để phát triển giáo dục thông qua việc phát hành công trái giáo dục, đóng góp của dân cư, của doanh nghiệp, vốn từ bên ngoài. Cơ sở vật chất của ngành đã được tăng cường, đặc biệt là đối với vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
* Xây dựng kế hoạch trong tương lai:
Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Xây dựng nền giáo dục của dân, do dân và vì dân; bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời.
Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên. Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại. Triển khai thực hiện hệ thống kiểm định khách quan, trung thực chất lượng giáo dục, đào tạo.
Hoàn chỉnh và ổn định lâu dài hệ thống giáo dục quốc dân; chú trọng phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở; bảo đảm liên thông giữa các cấp đào tạo. Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng đào tạo. Tập trung sức xây dựng một số trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế, đào tạo nhân tài cho đất nước.
Mở rộng quy mô dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, bảo đảm tốc độ tăng nhanh hơn đào tạo đại học, cao đẳng. Quy mô tuyển sinh dạy nghề dài hạn tăng 17%/năm và trung học chuyên nghiệp tăng hàng năm khoảng 15%. Tăng nhanh tỉ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông được học tiếp lên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề. Phát triển rộng khắp và nâng cao chất lượng các trung tâm giáo dục cộng đồng. Tích cực triển khai hình thức giáo dục từ xa.
Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo. Rà soát, sắp xếp lại quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Đi đôi với việc đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng các trường công lập, cần bổ sung chính sách ưu đãi để phát triển các trường ngoài công lập và các trung tâm giáo dục cộng đồng. Xúc tiến xây dựng một, hai trường đại học của Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế. Có lộ trình cụ thể cho việc chuyển một số cơ sở giáo dục, đào tạo công lập sang dân lập, tư thục; xoá bỏ hệ bán công. Khuyến khích thành lập mới và phát triển các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề ngoài công lập, kể cả trường do nước ngoài đầu tư.
Sửa đổi chế độ học phí đi đôi với đổi mới cơ chế tài chính giáo dục và đào tạo theo hướng xác định đầy đủ chi phí dạy và học, chia sẻ hợp lý trách nhiệm chi trả giữa Nhà nước, xã hội và người học; thực hiện miễn, giảm học phí và cấp học bổng cho học sinh nghèo, học sinh thuộc diện chính sách và học sinh giỏi.
Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống trường lớp, cơ sở vật chất - kỹ thuật các cấp học, mở thêm các trường nội trú, bán trú và có chính sách bảo đảm đủ giáo viên cho các vùng này; phấn đấu đưa các chỉ số phát triển giáo dục và đào tạo ở đồng bằng sông Cửu Long lên ngang bằng trình độ bình quân chung của cả nước.
Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo; Nhà nước thực hiện đúng chức năng định hướng phát triển, tạo lập khung pháp lý và kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo; chống bệnh thành tích. Đổi mới tổ chức và hoạt động, đề cao và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, nhất là trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Tập trung khắc phục những tiêu cực trong dạy thêm, học thêm, thi cử, tuyển sinh, đánh giá kết quả học tập và cấp chứng chỉ, văn bằng.
Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo; từng bước xây dựng nền giáo dục hiện đại, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
IV:Chính trị
Cùng với đổi mới về kinh tế, hệ thống chính trị của nước ta cũng được từng bước đổi mới một cách vững chắc. Xuất phát từ các giá trị lý luận về nhà nước và pháp luật trong Tuyên ngôn và các giá trị phổ quát của nhân loại về xây dựng nhà nước pháp quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Đây là một yêu cầu khách quan, bắt nguồn từ định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta ý thức sâu sắc rằng, để thực hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải có một Nhà nước pháp quyền mạnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính khách quan đó còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả. Mặc dù trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin không trực tiếp dùng thuật ngữ "nhà nước pháp quyền", nhưng những tư tưởng cơ bản của nó đã được đề cập một cách sâu sắc. Đó là tư tưởng về xây dựng một nhà nước kiểu mới, hoạt động trên cơ sở pháp luật với một nền pháp chế dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C. Mác và Ph. Ăng-ghen đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, trong đó Nhà nước có trách nhiệm tổ chức đời sống chung của nhân dân, bảo đảm sự phát triển tự do tối đa và "phát triển toàn diện con người". Tự do trong Tuyên ngôn được C. Mác quan niệm "là biến nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội thành cơ quan hoàn toàn phục tùng xã hội". Đây thực sự là tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới với bản chất là nền dân chủ mới, dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bao gồm xây dựng một Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Phương thức hoạt động của Quốc hội về tổng thể phải dựa trên hai trụ cột chính là các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, những người được nhân dân bầu ra và hoạt động vì nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, tức là chấp hành Hiến pháp, các đạo luật và nghị quyết do Quốc hội ban hành và báo cáo công tác trước Quốc hội, chịu sự chất vấn và giám sát của Quốc hội. Chính phủ phải trong sạch, được sự tin tưởng và tín nhiệm của nhân dân. Đồng thời Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp, có trách nhiệm tổ chức thực thi Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội, quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động. Chính phủ có cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, đa năng, hiệu lực và hiệu quả, không can thiệp cụ thể vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong quan hệ với quyền tư pháp, Chính phủ không can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án, kể cả việc xét xử các vụ án hành chính.
Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm bảo vệ pháp luật bằng việc áp dụng đúng đắn luật và các văn bản dưới luật. Có thể xem cơ quan tư pháp như là bộ phận chuyển tải quyền lực nhà nước thể hiện trong pháp luật vào đời sống thông qua việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc cụ thể. Nếu "lực" được thể hiện đầy đủ, đúng đắn qua hoạt động lập pháp và lập quy, nhưng hệ thống truyền "lực" qua hoạt động tư pháp không tốt thì bộ máy nhà nước ấy vẫn là bộ máy nhà nước kém hiệu lực, hiệu quả. Trong các cơ quan tư pháp, Tòa án giữ vị trí trung tâm; tất cả các cơ quan tư pháp khác như điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám định pháp y...) đều phục vụ cho hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án là nơi biểu hiện tập trung tính chất dân chủ và công khai trong hoạt động bảo vệ pháp luật. Ở đó, con người tìm thấy lẽ công bằng, tính nhân đạo, thiện và ác một cách trực tiếp và cụ thể qua các sự kiện pháp lý cụ thể. Do đó, xây dựng Tòa án mạnh là một bộ phận trọng yếu của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tòa án phải đổi mới tổ chức và hoạt động sao cho bảo đảm trên thực tế nguyên tắc "khi xét xử, thẩm phám và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Đồng thời phải từng bước mở rộng thẩm quyền của Tòa án để hướng đến giải quyết được hầu hết mọi tranh chấp xuất hiện trong đời sống xã hội.
Với vai trò là hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, lại là một thành viên của hệ thống chính trị, hơn 20 năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Công tác xây dựng Đảng được xem là nhiệm vụ then chốt. Công tác này tập trung vào việc nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời coi trọng xây dựng và củng cố tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách công tác. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen cho rằng những người cộng sản khác quần chúng nhân dân ở hai điểm cơ bản: gương mẫu trong thực tiễn và phải có trình độ lý luận. Các ông viết: "Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất..., là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản"(5). Vì thế, nâng cao trình độ lý luận và sự gương mẫu trong hoạt động thực tiễn luôn luôn là đòi hỏi đối với đảng viên và là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện ngày nay.
KẾT LUẬN
Quần chúng nhân dân và Đảng luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời.Đảng ta luôn coi trọng vai trò cua quần chung nhân dân và thực hiện việc “lấy dân làm gốc”nhằm không ngừng củng cố mối quan hệ máu thịt giữa đảng với nhân dân ,phát huy vai trò làm chủ của nhân dân lao động trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài sự vận dụng của Đảng ta về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng đất nước.doc