Trong đề tài này, các vấn đề được xây dựng theo hướng từ tổng quan đến
cụ thể, từ lý thuyết đến thực tế. Tôi đã nghiên cứu và đưa ra bức tranh về thị
trường và dịch vụ chứng khoán Việt Nam gắn với các cam kết WTO và bài
học từ các nước, kết quả là đề ra được các phương hướng và một số giải pháp
cụ thể để hoàn thiện ngành dịch vụ chứng khoán trong nước. Các định hướng
trong đề tài xuất phát từ đánh giá và nhận định chủ quan nên tôi hy vọng
chúng sẽ là những đề xuất đóng góp thiết thực tới cơ quan nhà nước và các tổ
chức có liên quan. Việc nghiên cứu về dịch vụ chứng khoán sau WTO phải
được tiếp tục đưa vào các đề tài sâu hơn, do sự phát triển ngày càng nhanh
của thị trường cùng với sự ra đời của hàng loạt các loại hình dịch vụ mới.
99 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2131 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của các cam kết gia nhập WTO đến dịch vụ chứng khoán tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước
ngoài với phần vốn nước ngoài chiếm đa số. Đây không chỉ là thực nghiệm
táo bạo đầu tiên của các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc mà còn có
một động thái mới ở Trung Quốc, mà hiện đã trở thành động lực (công cụ
quan trọng) đằng sau một trong những thỏa thuận đầy tính đổi mới, “tấm vé
vào cửa”, thời hậu WTO. Vào năm 1992, Ngân hàng trung ương Trung Quốc
và CSRC, lúc đó mới được thành lập, đã cho phép thành lập một ngân hàng
đầu tư và môi giới liên doanh giữa Trung Quốc và nước ngoài. Ngân hàng
này với nguồn vốn chủ yếu của nước ngoài là liên doanh giữa Ngân hàng Xây
dựng Nhân dân (bây giờ là Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc), Morgan
Stanley, các nhà đầu tư Hong Kong và Tập đoàn vốn quốc tế Trung Quốc
(China International Capital Corporation, viết tắt CICC). Với việc chuyển đổi
tiền mặt sang vốn đầu tư và cử nhiều chuyên gia nước ngoài sang, Morgan
Stanley đã được góp 35% vốn đăng ký trong liên doanh vốn Trung Quốc và
nước ngoài. Thêm vào đó, Morgan Stanly cũng có cơ hội cung cấp đội ngũ
quản lý chất lượng cao và các phần mềm như một phần trong thỏa thuận quản
lý đã được Morgan Stanley và CICC thống nhất.
Với một lịch trình có một vài thay đổi, Wang Qishan, thị trưởng Bắc
Kinh, cũng từng là giám đốc ngân hàng xây dựng Trung Quốc, đã hối thúc
CICC dành các thỏa thuận với các ngân hàng đầu tư nước ngoài khác, cạnh
tranh với Morgan Stanley, nhà đầu tư chiến lược đã nắm giữ 35% cổ phiếu.
Kết quả, CICC đã hướng thỏa thuận lớn nhất trong giai đoạn đó cho Goldman
Sachs, đối thủ của Morgan Stanley, và không lâu sau đó, chấm dứt vai trò
quản lý CICC của Morgan Stanley. Đến đầu năm 2008, Morgan Stanley đã
68
bán toàn bộ số cổ phần đang nắm giữ trong CICC do vấn đề khủng hoảng tín
dụng.
Quá trình hoạt động của CICC từ 1992 đến này đã chứng kiến những sự
phát triển của thị trường chứng khoán Trung Quốc. Trước hết, các nhà hoạch
định chính sách Trung Quốc đã nhận ra sự thiếu hụt các phương thức kinh
doanh cũng như kinh nghiệm trong kinh doanh chứng khoán. Do đó, vào năm
2002, họ đã mở cửa cho các mô hình giao dịch tự do hơn so với những cam
kết của Trung Quốc khi gia nhập WTO năm 2001. Cụ thể, Trung Quốc cho
phép nước ngoài sở hữu lượng vốn lớn, 35% vốn sở hữu đối với ngân hàng
đầu tư của Mỹ và tự do chuyển đổi hợp đồng quản lý công ty chứng khoán ở
Trung Quốc, góp phần tạo cơ chế thông thoáng cho nhà đầu tư nước ngoài.
Khi chỉ có 2 sở giao dịch và các ngân hàng đầu tư và mô giới do chính quyền
dịa phương quản lý, các nhà hoạch định chính sách đã nhận ra nhu cầu giới
thiệu các phương thức kinh doanh nước ngoài vào thị trường chứng khoán
trong nước.
Trong suốt thời gian này, sự phát triển của CICC cũng đã chỉ ra kết cục
của cá nhà đầu tư tiên phong nước ngoài, trong đó phải kể đến Morgan
Stanley. Lúc đầu, những nhà đầu tư này đã tham gia thỏa thuận cùng sở hữu
công ty và tham gia quản lý chính công ty, với mục đích thúc đẩy hoạt động
của công ty trong khu vực chứng khoán Trung Quốc. Tuy vậy, sự góp mặt
quản lý của các công ty này trở nên dư thừa với sự độc quyền quản lý các
danh mục niêm yết nước ngoài của CICC.
Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO cũng như chấp nhận cho các công ty
chứng khoán liên doanh vốn giữa Trung Quốc và nước ngoài (với phần vốn
nước ngoài góp không quá 33,3% công ty ở Trung Quốc), năm 2003 chính
phủ Trung Quốc đã quyết định thực nghiệm các giao dịch “tấm vé vào cửa” –
đầu tiên là dành cho Goldman Sachs, sau đó là UBS. Những thỏa thuận được
chấp nhận đặc biệt này đưa ra cơ hội cho các đối tượng nước ngoài nắm
69
quyền quản lý lớn hơn tại các công ty chứng khoán ở Trung Quốc, khi các
công ty này áp dụng các cơ chế hoạt động thiết thức hơn trường hợp của
Morgan Stanley ở CICC.
Từ các thỏa thuận của Goldman và UBS tại thị trường Trung Quốc, các
ngân hàng đầu tư quốc tế khác cũng đang hối thúc để dành được những thỏa
thuận tương tự. Thỏa thuận này là trợ cấp một khoản tiền cho các công ty
chứng khoán ở Trung Quốc (vẫn giữ tỉ lệ đầu tư nước ngoài như yêu cầu của
chính phủ), quản lý nước ngoài thông qua các cuộc họp ban giám đốc, tham
gia danh mục kinh doanh một cách đầy đủ, như các công ty chứng khoán nội
địa. Đây cũng là ý định theo đuổi của JP Morgan, nhằm tái tổ chức lại công ty
chứng khoán Liaoning.
- Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán:
Mối quan tâm thứ hai trong cam kết WTO là về các hoạt động quản lý
quỹ (lĩnh vực đầu tư chứng khoán). Cùng thời điểm SCR có hiệu lực vào giữa
năm 2002, CSRC đã ban hành “Quy định thành lập các công ty quản lý quỹ
có sự góp vốn của nước ngoài”, có hiệu lực vào ngày 1/7/2002.
Quy định về công ty quản lý quỹ năm 2002 có nhiều nội dung giống với
quy định về công ty chứng khoán. Nội dung quy định năm 2002 được diễn
giải ngắn gọn và súc tích hơn nội dung cam kết của WTO vì quy định đề cập
đến nhiều nội dung: quy định về quỹ đầu tư chứng khoán năm 1997, quy định
về công ty quản lý quỹ năm 2002 và trích dẫn các sắc lệnh khác được ban
hành trước đó. Sắc lệnh của CSRC về đối tượng quản lý quỹ đầu tư nước
ngoài năm 2002 được lập ra để đáp ứng yêu cầu gia nhập của WTO đối với
lĩnh vực quản lý quỹ. Dù có nhiều điểm giống nhau giữa quy định về công ty
quản lý quỹ năm 2002 và quy định công ty chứng khoán của WTO, quy định
năm 2002 sau đó đã bị hủy bỏ và thay thế bởi một luật quỹ mới, trong đó giữ
lại những điểm chính của quy năm 2002. Trong đó, giống với cam kết khi gia
nhập WTO của Trung Quốc, cho phép các đối tượng nước ngoài tham gia vào
70
các công ty quản lý quỹ, nhưng quy định không sở hữu trên 33.3%, và sau
11/12/2004 là không quá 49%. Điểm chính thứ hai là mức vốn đóng góp tối
thiểu của đối tượng nước ngoài vào các công ty quản lý quỹ là 300 triệu nhân
dân tệ (tương đương 36-37,5 triệu đô la Mỹ). Mức này cao hơn 3 lần mức yêu
cầu quy định cho công ty 100% vốn nội địa, 100 triệu nhân dân tệ theo quy
định cho quỹ đầu tư chứng khoán năm 1997. Ngoài ra, đưa ra các bước căn
bản trong quy trình nộp hồ sơ để được CSRC chấp nhận cũng như cách thức
hướng dẫn cho các quy trình tiếp theo của CSRC (dù vậy, thời hạn xét duyệt
cho các công ty quản lý quỹ đã được kéo dài hơn thành 60 ngày).
Sau Luật quỹ đầu tư chứng khoán do cơ quan lập pháp của quốc hội
Trung Quốc ban hành vào 10/2003 và có hiệu lực vào 1/7/2004, CSRC đã ban
hành các điều chỉnh liên quan đến hoạt động các công ty quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán ở Trung Quốc, gồm cả công ty 100% vốn nội địa và công ty có
vốn nước ngoài đầu tư. Các điều chỉnh và bộ luật này đã thay thế quy định về
quỹ đầu tư chứng khoán năm 1997 và quy định về công ty quản lý quỹ năm
2002, kết quả đàm phán để gia nhập WTO của Trung Quốc. Điều chỉnh mới
này được gọi là Điều chỉnh về quản trị quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, hay
còn được nhắc đến là Quy định công ty quản lý quỹ. Các khía cạnh quan
trọng của quy định công ty quản lý quỹ áp dụng cho các công ty quản lý quỹ
chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm:
+ Mức vốn đăng ký tối thiểu: 375 triệu đô la Mỹ
+ Yêu cầu về tính cẩn trọng và danh tiếng đối với các nhà đầu tư nước
ngoài.
+ Yêu cầu một cổ đông của công ty nắm giữ ít nhất 25% vốn công ty
và đáp ứng được yêu cầu về bằng cấp (quy định tương tự đối với cổ
đông trong nước khi tham gia vào các công ty quản lý quỹ có vốn nước
ngoài đầu tư)
Quy định về công ty quản lý quỹ năm 2004 đã đẩy mạnh thêm tinh thần
71
của thỏa thuận với WTO của Trung Quốc về việc không hạn chế sở hữu nước
ngoài. Tổng phần vốn nước ngoài góp vào vốn đăng kí hoặc vốn điều lệ của
công ty quản lý quỹ liên doanh giữa Trung Quốc và nước ngoài, bao gồm cả
việc nắm giữ trực tiếp và gián tiếp, không vượt quá cam kết quốc gia về lĩnh
vực chứng khoán.
Trong khi, quy định về công ty quản lý quỹ vẫn sử dụng khái niệm
“Công ty liên doanh Trung Quốc với nước ngoài” được bộ Thương mại chấp
nhận, CSRC cũng không có ý định cấm việc thành lập các công ty được tổ
chức theo mô hình khác như công ty trách nhiệm hữu hạn có đầu tư nước
ngoài ở Trung Quốc.
Quy định về công ty quản lý quỹ trình bày chi tiết về bộ hồ sơ xin thành
lập, cách thức chấp nhận và quy trình thành lập công ty. Quy định này giúp bổ
sung cho luật giấy phép quản lý 6/2004 và luật quỹ đầu tư chứng khoán năm
2004. Nội dung bổ sung duy nhất đối với các công ty quản lý quỹ có vốn đầu
tư nước ngoài, điểm khác so với các nhà quản lý quỹ nội địa là yêu cầu xin
phép và được cấp giấy phép chứng nhận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Thực chất đầy là yêu cầu đối với tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ở Trung Quốc. Đối với hoạt động của các công ty chứng khoán,
có một số lượng lớn các phòng ban ở CSRC và các cơ quan khác quản lý
chuyên trách về quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý quỹ, tiếp nhận và xử lý
các vấn đề của các quỹ có vốn đầu tư nước ngoài và quỹ 100% vốn nội địa
bình đẳng như nhau.
Chủ tịch CSRC Shang Fuline nhấn mạnh rằng đến cuối năm 2005, Trung
Quốc đã cho phép thành lập 20 công ty quản lý quỹ có vốn đầu tư nước ngoài
trên tổng số 50 công ty ở Trung Quốc quản lý hơn 500 tỉ nhân dân tệ (tương
đương 62,5 tỉ đô la Mỹ) thông qua 220 quỹ độc lập.
Theo tính toán của Trung Quốc hơn 20% giá trị tài sản ròng của các quỹ
trong nước do các nhà quản lý quỹ có vốn đầu tư nước ngoài quản lý.
72
- Các nhà đầu tư nước ngoài ở thị trường cổ phiếu A:
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã ban hành một cải cách quan
trọng khác trong việc quản lý các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị
trường tài chính Trung Quốc. Cải cách này không phải được thực hiện theo
thỏa thuận của Trung Quốc trước khi gia nhập WTO. Cải cách này đóng vai
trò quan trọng vì rất nhiều lý do: cung cấp kênh hoạt động động cho các nhà
đầu tư giàu kinh nghiệm, gồm các nhà đầu tư nhỏ lẻ và tổ chức nước ngoài
trong thị trường cổ phiếu A, đồng thời thu hút các nhà quản lý tài sản nước
ngoài trình độ cao (với một chiến lược đầu tư dài hạn và ổn định) hoạt động
tại các công ty quản lý quỹ ở Trung Quốc. Cải cách còn là biểu hiện động thái
của các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc hướng thị trường vốn tới hoạt
động dân chủ, thậm chí vượt lên trên cam kết WTO, vì mục đích tồn tại và
phát triển của các thị trường tại Trung Quốc.
Cải cách này chính là chương trình “Các nhà đầu tư nước ngoài được
công nhận tại Trung Quốc” (được gọi tắt là QFII) được công bố vào
8/11/2002, sau khi mô hình này đã được vận dụng thành công đối với các thị
trường ở Ấn Độ, Hàn Quốc và Đài Loan vào những năm 70,80. Cải cách này
cho phép các quỹ nước ngoài đầu tư vào thị trường cổ phiếu A mua bán qua
đồng nhân dân tệ, vốn bị hạn chế trước đây. Trung Quốc đã bắt đầu cho phép
các tổ chức tài chính nước ngoài, đại diện cho các nhà đầu nhỏ lẻ và có tổ
chức của nước ngoài, mua bán các cổ piếu A được niêm yết bằng đồng nhân
dân tệ. Chương trình QFII được thực hiện xung quanh một hạn ngạch của đầu
tư ngoại hối. Hạn ngạch này được phân bổ cho các QFII được cho phép hoạt
động. Các QFII mang nguồn vốn vào Trung Quốc, chuyển khoản tiền đầu tư
trong hạn ngạch sang đồng nhân dân tệ, đầu tư khoản tiền này vào các cổ
phiếu A, sau đó thu hồi lại dưới dạng ngoại tệ và chuyển tiền lãi, gồm lãi vốn
và lợi nhuận phân phối, về nước chủ trong phạm vi hạn ngạch cho phép. QFII
đầu tiên là công ty chứng khoán UBS và Nomura (được cho phép hoạt động
73
lần lượt vào tháng 5, 6/2003) với thương vụ đầu tiên của UBS vào thị trường
cổ phiếu A đang suy yếu vào 9/7/2003. Vào năm 2005, CSRC đã thông qua
chương trình QFII đã qua sửa đổi, áp dụng cho một số nhà đầu tư nước ngoài
lớn, vốn thu của các trường đại học và các tổ chức từ thiện, để cho phép
nguồn vốn này tham gia vào trực tiếp vào thị trường cổ phiếu A, mà không
cần chứng nhận chính thức với một số hạn chế theo quy định chính thức của
chương trình QFII. Tính đến đầu năm 2007, theo website của Cục trao đổi
ngoại tệ Trung Quốc, có hơn 40 tổ chức nước ngoài được công nhận là QFII,
trong đó vào tháng 5/2006, 37 QFII nắm giữ tổng mức hạn ngạch được cấp
phép là 7,145 tỉ đô la Mỹ ngoại hối đã được chuyển đổi sang đồng nhân dân
tệ và đóng vai trò quan trọng trong thị trường tài chính nội địa Trung Quốc
trong thời gian gần đây. CSRC và SAFE đã công bố kế hoạch tự do hóa việc
gia nhập và thắt chặt việc rút vốn với các tổ chức trong chương trình QFII.
Hội đồng nhà nước Trung Quốc đã thông qua việc gia tăng hạn ngạch cho các
QFII lên đến 10 tỉ đô la Mỹ. Chính phủ cũng mở rộng các dạng thức nhà đầu
tư nước ngoài có khả năng tham gia thị trường, bao gồm các quỹ hưu trí nước
ngoài, các công ty bảo hiểm,… Trong quí 1 năm 2006, khoản đầu tư thực tế
của QFII vào cổ phiếu A Trung Quốc đạt đến con số 18,4 tỉ nhân dân tệ (2,3 tỉ
đô la Mỹ), tăng 76,79% so với quí thứ 4 năm 2005.
Dù vậy, chương trình QFII cũng nhận một số sự chỉ trích. Các chỉ trích
này tập trung vào các quy định cứng nhắc trong quản lý nguồn đầu tư của các
quỹ ngoại hối vào các tài khoản bị hạn chế ở Trung Quốc (kết quả, các quỹ
đầu tư không thường xuyên bị đọng vốn lại ở các tài khoản trong nước dạng
này) và việc cho phép chuyển đổi và hồi hương của các khoản phân phối lợi
nhuận và doanh thu. Dù vậy, QFII đã giúp các nhà đầu tư vốn nước ngoài
quan trọng tham gia vào thị trường cổ phiếu A, với nhiều chú ý mới đến các
vấn đề quan trọng, từ việc điều hành và công bố thông tin công tý đến tính
chuyên nghiệp và hiệu quả của các trung gian thị trường như các công ty
74
chứng khoán của Trung Quốc (dù dưới vai trò là bảo lãnh phát hành hay môi
giới). Thực tế, sự phát triển của chương trình QFII có thể là nguyên nhân
khiến các tổ chức nước ngoài tránh thành lập công ty quản lý quỹ có vốn đầu
tư nước ngoài như theo cam kết gia nhập WTO, thay vào đó hoạt động với vai
trò tương tự dưới cái tên QFII, cho phép tập hợp vốn của các nhà đầu tư để
đầu tư trực tiếp vào thị trường cổ phiếu A.
2.2. Đánh giá việc thực hiện cam kết khi gia nhập WTO của Trung Quốc
đến thời điểm này [9, tr19]
Từ khía cạnh khách quan, không có nhiều chỉ trích đối với việc thực hiện
các cam kết khi gia nhập WTO của Trung Quốc trong lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán và quản lý quỹ chứng khoán.
- Đầu tư nước ngoài vào các công ty chứng khoán:
Trung Quốc đã nhận được yêu cầu thông qua các quy định như SCR để
tạo cơ sở pháp lý cho các công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài
được thành lập.
Những quy định này cho phép các dạng thức kinh doanh hợp lý – bảo
lãnh tất cả các dạng chứng khoán, môi giới tất cả các chứng khoán (ngoài cổ
phiếu A) – và đưa ra mức sở hữu vốn tối đa đối với đối tượng nước ngoài
(33,3%). Chính phủ Trung Quốc và CSRC đã phản đối các ý kiến đưa ra các
quy định bổ sung, hạn chế các hoạt động kinh doanh. Vấn đề này nảy sinh
trong giai đoạn mở các ngân hàng thương mại và công ty bảo hiểm như cam
kết gia nhập WTO, trong đó cơ quan điều hành của Trung Quốc hoạt động
tương tự như CSRC (các quy định cụ thể tuân theo quy định của Hội đồng
nhà nước) đã ban hành các quy định hạn chế hoạt động của các công ty có
vốn đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực này. Nếu xét đến khoản vốn lớn
hiện có lúc đó của Trung Quốc ở các ngân hàng thương mại và công ty bảo
hiểm, có thể giải thích được nguyên nhân đưa ra các quy định này. Bên cạnh
đó, Trung Quốc đã tuân thủ các yêu cầu minh bạch không cụ thể của WTO.
75
Trung Quốc đã quy định các tiêu chuẩn bổ sung để được chấp nhận thành lập
phải tuân theo các quy định được thi hành rộng rãi. Cuối cùng, Trung Quốc đã
cho phép việc thành lập hoặc chuyển đổi của rất nhiều công ty chứng khoán
có vốn đầu tư nước ngoài, và cân nhắc thêm nhiều hồ sơ xin phép sau tháng
10/2007.
Vấn đề quan trọng với các công ty chứng khoán là thất bại trong khả
năng minh bạch về quy trình xét duyệt hồ sơ và chấp nhận, cũng như việc
thực thi các ngành nghề kinh doanh được cho phép.
Tính đến thời điểm đầu năm 2007, quy trình để các công ty chứng khoán
nước ngoài và đối tác của họ ở Trung Quốc nhận được giấy chấp nhận và
đăng kí thành lập công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước vẫn còn thiếu tính
minh bạch. Các hồ sơ vẫn còn chứa thông tin không rõ ràng cũng như không
đáp ứng được các yêu cầu chứng nhận, dù sau đó đã đi đến cam kết thương
mại với đối đối tác Trung Quốc. Thỏa thuận “tấm vé vào cửa” đặc biệt đối với
Goldman Sachs và UBS trong trường hợp công ty chứng khoán Gaohua và
UBS Bắc Kinh là điển hình cho tính thiếu minh bạch, trong khi đó các công ty
chứng khoán nước người kém được ưu tiên hơn phải thỏa thuận với một cơ
chế mới.
Về phương diện thực hiện kinh doanh, các nhà quan sát đang chờ đợi ở
kết quả phát triển trong tương lai khi các doanh nghiệp được thành lập, tuyển
nhân viên và tiến hành hoạt động kinh doanh. Khả năng những khó khăn sẽ
nảy sinh từ hệ thống pháp lý chưa thống nhất của Trung Quốc, các cơ quan
không nằm trong sự quản lý của CSRC, như trường hợp SAFE (về việc
chuyển đổi ngoại hối, và dẫn vốn về nước) hay Tổng cục thuế quan (về đánh
thuế đối với các công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài). Đây chỉ là
những khó khăn tạm thời và có thể dễ dàng giải quyết.
- Quản lý quỹ chứng khoán:
Các khó khăn trong quản lý quỹ đầu tư chứng khoán cũng giống như
76
trong các công ty chứng khoán là tính thiếu minh bạch và hạn chế trong hoạt
động. Các vấn đề này nảy sinh từ sự chồng chéo trong hệ thống pháp lý không
thống nhất như quản lý ngoại hối, chính sách thuế... Ví dụ như thắc mắc về
việc ban hành quy định công ty quản lý quỹ năm 2002, trong đó bản thân quy
định quản lý (yêu cầu mức vốn đăng kí cao hơn không hợp lý, 300 triệu nhân
dân tệ đối với các công ty quản lý quỹ có vốn đầu tư nước ngoài) và quy trình
gấp rút không minh bạch liên quan đến giai đoạn trả lời và ban hành các quy
định này. Chỉ trích còn hướng đến sự quá thận trọng của CSRC đối với việc
cho phép hoạt động quản lý quỹ có vốn đầu tư nước ngoài. Những phản đối
chủ yếu tập trung vào việc thiếu một bộ đánh giá tiêu chuẩn khách quan trong
quy định về các công ty quản lý quỹ năm 2002. Thiếu hụt này càng trở nên
phức tạp khi có độ vênh không rõ ràng quản lý các quy định công ty quản lý
quỹ theo luật quỹ đầu tư chứng khoán.
3. Bài học kinh nghiệm từ việc nghiên cứu Hàn Quốc và Trung Quốc
Hàn Quốc là một trong những nước mở cửa rộng thị trường chứng khoán do
gia nhập WTO từ rất sớm. Hàn Quốc có một lộ trình hơn 10 năm để mở cửa
từ năm 1997 đến nay, nhưng bước đột phá trong tự do hóa thị trường gần đây
có phần hơi vội. Với mong muốn xây dựng thị trường lớn mạnh, Hàn Quốc đã
cho phép sự tham gia với số lượng lớn các tổ chức nước ngoài, gây ra việc thị
trường rất nhạy cảm với các sự kiện tài chính thế giới và có thể gây “sốc” cho
nền kinh tế. Nhà nước Việt Nam cần xem xét vấn đề này để thực sự xây dựng
cho mình một lộ trình thích hợp, đảm bảo thị trường trong nước phát triển
đúng hướng.
Về phần Trung Quốc, nước này vẫn còn đang trong công cuộc cải tổ thị
trường chứng khoán. Vấn đề của Trung Quốc vẫn là hệ thống pháp lý chồng
chéo, các biện pháp thiếu minh bạch, đồng thời là các chính sách đưa ra một
cách khá tùy tiện. Kết quả là có những ý kiến trái chiều trên thế giới về mức
độ tự do hóa của thị trường chứng khoán Trung Quốc, dù Trung Quốc cũng
77
đã thực hiện khá nghiêm túc các cam kết của mình. Cơ chế pháp lý ở Việt
Nam cũng khá chồng chéo, gây khó khăn cho cả các tổ chức trong nước và
nước ngoài. Nhà nước Việt Nam cần nghiên cứu kỹ trường hợp của Trung
Quốc để đưa ra những chính sách hợp lý trong từng thời kỳ, mở cửa theo từng
bước đồng thời tạo độ mở cho các thông tin cần thiết.
II. Giải pháp phát triển dịch vụ chứng khoán ở Việt Nam thời kỳ hậu
WTO
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về chứng khoán, doanh nghiệp và
thị trƣờng chứng khoán
Một số định hướng tại thời điểm hiện tại là:
- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thêm việc thực hiện Luật
Chứng khoán: Các Quyết định ban hành quy chế hướng dẫn Luật Chứng
khoán đã được đưa ra, nhưng vẫn sơ sài, gây nhiều khúc mắc và bất tiện cho
các thành viên tham gia thị trường. Các văn bản mới cần xem xét thêm về
tình hình thị trường và khả năng đáp ứng của các công ty tham gia trên thị
trường. Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý điều chỉnh
chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, quỹ đầu tư. Cần có định hướng phát
triển hệ thống các định chế tài chính nòng cốt của thị trường bao gồm thành
lập công ty xếp hạng tín nhiệm và hệ thống các công ty tư vấn đầu tư, các
quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ.
- Ban hành các văn bản hướng dẫn việc tham gia của bên nước ngoài vào
thị trường chứng khoán phù hợp với cam kết WTO: Một trong những văn
bản quan trọng được Bộ tài chính ban hành tháng 12/2008 là Quy chế hoạt
động của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam và
Quy chế lập và hoạt động của Văn phòng đại diện tổ chức kinh doanh chứng
khoán nước ngoài tại Việt Nam, trong đó các tổ chức kinh doanh dịch vụ
chứng khoán nước ngoài được chính thức cấp phép hoạt động tối đa là 5
năm. Với sự tham gia ngày càng nhiều của bên nước ngoài, các văn bản
78
hướng dẫn cần được chuẩn bị từ sớm để phù hợp với việc thực sự mở cửa
thị trường từ năm 2012.
- Ban hành các quy định về việc quản lý giám sát thị trường chứng khoán
và các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán: Vấn đề được quan tâm nhất
là việc công bố thông tin của các thành phần tham gia thị trường. Mặc dù đã
có Thông tư ngày 18/4/2007 hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị
trường chứng khoán, nhiều nhà đầu tư nước ngoài hiện nay vẫn cho rằng
việc công bố thông tin vẫn còn rất sơ sài và cần có những quy định chặt chẽ
hơn nữa về việc quản trị của các công ty nhằm làm tăng chất lượng của hàng
hoá trên thị trường Chứng khoán. Các vấn đề như nộp báo cáo tài chính trễ,
thiếu trung thực trong báo cáo tài chính là phổ biến. Vấn đề thứ hai nữa là
việc xử lý vi phạt trong thị trường vẫn bị coi là quá nhẹ và cần các chế tài
mạnh mẽ hơn nữa.
- Ban hành các văn bản hướng dẫn về việc tổ chức và hoạt động các loại
hình dịch vụ của các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán: Các văn bản
quan trọng đã được ban hành bao gồm Quy chế tổ chức và hoạt động công
ty chứng khoán và Quy chế tổ chức và hoạt động của Công ty quản lý quỹ
và các bản sửa đổi. Ngoài ra còn có Quy chế đăng ký, lưu ký, bù trừ và
thanh toán chứng khoán. Các văn bản trên có hướng dẫn về các loại hình
dịch vụ cơ bản, nhưng những loại hình mới như cho vay cầm cố chứng
khoán thì chưa có văn bản nào điều chỉnh việc hoạt động.
Nhà nước cần thực hiện:
- Rà soát, bổ sung các văn bản pháp luật, phối hợp chặt chẽ với các cơ
quan trong việc hoàn thiện các văn bản pháp luật để giảm thiểu sự mâu
thuẫn và chồng chéo; ưu tiên tạo lập cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện các
chuẩn mực quản lý, giám sát và tổ chức hệ thống giám sát, phù hợp với
thông lệ quốc tế, đồng thời chú trọng các quy định về sự tham gia của các
bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán.
79
- Ban hành các quy định để tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức kinh doanh
dịch vụ chứng khoán tái cơ cấu theo hướng tăng quy mô vốn, phát triển
nguồn nhân lực, mở rộng phạm vi và mạng lưới cung cấp dịch vụ, tăng
cường áp dụng công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ chứng khoán.
đặc biệt là rà soát quy định về vốn pháp định đối với các công ty chứng
khoán theo đó vốn pháp định để được thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán được nâng cao.
- Ban hành các chế tài và tăng cường công tác giám sát, thực thi pháp luật
đối với các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán và các tổ chức có
chứng khoán được phát hành và giao dịch rộng rãi trong công chúng.
Để hoàn thiện môi trường thể chế trong lĩnh vực dịch vụ chứng khoán,
Nhà nước và các cơ quan chức năng cũng cần:
- Nâng cao vai trò quản lý để ngăn chặn hạn chế các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh
- Hoàn thiện kế hoạch phát triển các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng
khoán
- Hỗ trợ hoạt động và nâng cao vai trò của Hiệp hội kinh doanh chứng
khoán và các tổ chức khác.
- Nâng cao tiềm lực tài chính cho các tổ chức cung ứng dịch vụ chứng
khoán, tạo điều kiện cho các tổ chức này mở rộng phạm vi hoạt động/
- Hoàn thiện việc hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin trên cơ sở
đồng bộ và thống nhất giữa Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch
chứng khoán và các thành viên là các tổ chức cung ứng dịch vụ kinh doanh
chứng khoán.
- Nâng cao trình độ chuyên môn của các nhân viên hành nghề kinh doanh
chứng khoán.
- Hoàn thiện các quy định về quản trị doanh nghiệp đối với các tổ chức
cung ứng dịch vụ kinh doanh chứng khoán.
80
- Hoàn thiện hệ thống luật cạnh tranh bao gồm pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh và pháp luật chống (hay kiểm soát độc quyền). Tuy nhiên,
bên cạnh đó, một số lĩnh vực khác cũng cần được quan tâm như: pháp luật
về sở hữu trí tuệ, pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa, pháp luật về quảng cáo…
2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động của các tổ chức kinh
doanh dịch vụ chứng khoán
2.1. Công ty chứng khoán
2.1.1. Hoạt động môi giới chứng khoán
Mặc dù hoạt động môi giới đã được các công ty chứng khoán nâng cao
về chất lượng dịch vụ nhưng Nhà nước và các cơ quan có liên quan cần tăng
cường hoạt động quản lý, giám sát để hạn chế và cấm công ty chứng khoán tự
ý mua, bán chứng khoán trên tài khoản của khách hàng hoặc mượn danh
nghĩa của khách hàng để mua bán chứng khoán, tự ý thay đổi lệnh của khách
hàng hoặc quay đảo các tài khoản của khách hàng.
Do hoạt động môi giới có giá trị lớn trên thị trường, những quy định về
cảnh cáo vi phạt các công ty có hoạt động sai trái trong khi thực hiện dịch vụ
môi giới cần được tiếp tục thi hành và áp dụng triệt để để hoạt động này ngày
càng trở nên chuyên nghiệp hơn và giúp các nhà đầu tư có thể yên tâm.
2.1.2. Hoạt động tự doanh chứng khoán
Nhà nước cần ban hành những văn bản hướng dẫn rõ ràng trong việc
công ty chứng khoán thực hiện kinh doanh chứng khoán, tạo lập thị trường,
mua bán chứng khoán có kì hạn… Các quy định về hoạt động tự doanh bao
gồm:
- Mua, bán chứng khoán cho chính công ty để thu lợi nhuận từ chênh lệch
giá
- Tạo lập thị trường
81
- Hoạt động giao dịch vừa cho chính công ty, vừa cho khách hàng (là giao
dịch mà công ty chứng khoán mua hoặc bán chứng khoán cho chính mình
trong quá trình thực hiện hoạt động môi giới).
Nghiệp vụ tự doanh phải thực hiện bằng chính nguồn vốn của công ty
hoặc nguồn vốn huy động phù hợp với quy định pháp luật; hoạt động dưới
danh nghĩa của công ty, không mượn danh nghĩa của người khác, không thực
hiện với danh nghĩa cá nhân. Ngoài ra cũng cần sửa đổi, bổ sung một số quy
định về các hành vi:
- Giao dịch mua bán chứng khoán theo lệnh của khách hàng cùng một
ngày với giao dịch bán chứng khoán của chính công ty.
- Cho người khác mượn tài khoản tự doanh.
- Tiến hành giao dịch giả, giao dịch mua, bán chứng khoán mà không
chuyển dịch quyền sở hữu làm ảnh hưởng tới giá và khối lượng chứng
khoán giao dịch trên thị trường.
- Thực hiện giao dịch thông đồng, câu kết với người khác mua, bán chứng
khoán của nhau nhưng không nắm giữ lâu dài làm ảnh hưởng tới giá và khối
lượng chứng khoán giao dịch.
- Thực hiện các giao dịch nhằm mục đích lôi kéo, dụ dỗ mua bán để làm
công chúng hiểu lầm là việc mua bán loại chứng khoán đó đang diễn ra sôi
động, hoặc làm biến động giá chứng khoán.
Ngoài ra cũng cần rà soát các quy định về việc công ty chứng khoán phải
dành một tỷ lệ phần trăm nhất định với tổng giá trị giao dịch tự doanh để bình
ổn thị trường bằng việc mua vào khi giá chứng khoán lên và bán ra khi giá
chứng khoán giảm nhằm ổn định giá chứng khoán.
2.1.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán
Các hình thức bảo lãnh đã được quy định khá cụ thể nhưng các văn bản
hướng dẫn cũng cần đảm an toàn cho các công ty chứng khoán thực hiện bảo
lãnh phát hành chứng khoán với mục tiêu vừa khuyến khích các công ty tham
82
gia cung ứng dịch vụ bảo lãnh cho một số đợt phát hành để huy động vốn cho
các doanh nghiệp có nhu cầu về vốn, vừa đảm bảo an toàn tài chính cho các
công ty này trong quá trình thực hiện.
Các tổ chức tham gia đợt bảo lãnh phát hành có nghĩa vụ thực hiện vai
trò nhà tạo lập thị trường cho loại chứng khoán đã phát hành theo đó hạn mức
giao dịch quy định nhằm mục tiêu ổn định thị trường giao dịch loại chứng
khoán đó.
Các văn bản cũng cần quy định rõ về nghĩa vụ công khai thông tin, nghĩa
vụ liên đới trong các hoạt động gian lận liên quan đến phát hành chứng khoán
của các tổ chức bảo lãnh phát hành, xác định giá chứng khoán trên cơ sở tổ
chức bảo lãnh phát hành thăm dò nhu cầu về đợt phát hành của các nhà đầu tư
lớn.
2.1.4. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Trong khi thực hiện các dịch vụ tư vấn đầu tư, cần có những quy định và
hướng dẫn rõ ràng đối với các hành vi vi phạm, giám sát các hoạt động như:
- Giới thiệu cho khách hàng mua hoặc bán chứng khoán với việc đưa ra dự
đoán chắc chắn.
- Khuyến nghị đồng loạt hoặc quá mức đối với nhiều khách hàng mua và
bán liên tục một loại chứng khoán trong thời gian nhất định là ảnh hưởng
đến việc hình thành giá một cách công bằng.
- Tư vấn đầu tư một công ty tiềm năng trong một thời gian liên tục nhất
định, mua hàng loạt hoặc mua quá mức với mục đích bán chứng khoán mà
công ty đang nắm giữ.
2.1.5. Các hoạt động khác
Những hoạt động mới nở rộ trong thời gian gần đây như cho vay, cầm cố,
repo chứng khoán cần có văn bản cụ thể quy định về việc hoạt động, giám sát
và xử lý các vi phạm.
2.2. Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ
83
Có nhiều ý kiến hiện nay cho rằng cho tới nay chúng ra vẫn có rất ít kinh
nghiệm thực tế về hoạt động của các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ.
Những yếu tố cần thiết được coi là cơ sở để kiểm nghiệm, bổ sung hoặc sửa
đổi những văn bản chỉ được xây dựng trên cơ sở lý thuyết. Vì thế một số quy
định chưa được phù hợp với thực tế cũng là điều không tránh khỏi.
Cụ thể là phải sửa đổi, bổ sung và nâng cấp các quy định pháp lý, tạo
hành lang bao đầu cho việc hình thành công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư
chứng khoán theo mô hình đầu tư dạng hợp đồng. Trước mắt là bổ sung, rà
soát lại một số quy định liên quan trong các luật.
2.2.1. Một số quy định liên quan tới công ty quản lý quỹ
- Mức vốn pháp định cho các công ty quản lý quỹ cần được xem xét sửa
đổi, đồng thời phải bổ sung, rà soát các quy định về cơ cấu sở hữu của công
ty quản lý quỹ cũng như hướng dẫn việc sử dụng vốn điều lệ của công ty
quản lý quỹ. Theo quy định hiện nay, mức vốn pháp định đối với công ty
quản lý quỹ tối thiểu phải là 25 tỷ đồng. Thực tế là mức vốn này vẫn còn
khá thấp nên các tổ chức kinh tế nào cũng có thể đứng là thành lập công ty.
- Xem xét lại các quy định về việc cho phép các công ty quản lý quỹ được
đầu tư một phần vốn và tài sản vào các quỹ như phần chung vốn vào quỹ
của người đầu tư. Để tránh mâu thuẫn về lợi ích giữa công ty quản lý quỹ và
các quỹ đầu tư, cần thiết phải có quy định cụ thể về tiêu chuẩn về đạo đức
kinh doanh đối với những người điều hành các quỹ cũng như những người
lãnh đạo của công ty quản lý quỹ nói chung.
- Hướng dẫn cụ thể cho phép công ty quản lý quỹ chỉ được dùng vốn điều
lệ đầu tư vào các công cụ tài chính có thu nhập cố định, ví dụ trái phiếu
chính phủ, các công cụ của thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, các loại
thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Đồng thời, để tránh tình trạng các công ty
quản lý quỹ thao túng hoạt động của các quỹ, cần thiết phải đưa ra tỷ lệ hoặc
giá trị tài sản tối đa công ty quản lý quỹ được đầu tư vào các quỹ do chính
84
mình quản lý cũng như quy định cho phép công ty quản lý quỹ chỉ được
mua chứng chỉ đầu tư của các quỹ khi phát hành lần đầu.
- Hoạt động quản lý danh mục đầu tư: các văn bản cần quy định rõ khi
thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư, các công ty phải tuân thủ
nguyên tắc tận tụy, trung thực và vì quyền lợi của khách hàng, không được
lôi kéo hoặc cam kết chắc chắn với khách hàng về mức lợi nhuận tiềm năng
mà danh mục đầu tư có thể đạt được và không được sử dụng tài sản của
khách hàng để phục vụ lợi ích riêng, hoặc của các nhân viên hoặc lợi ích của
bên thứ ba.
2.2.2. Các quy định về ngân hàng giám sát (người thụ ủy)
Vai trò giám sát cần phải có các quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của
người thụ ủy đi đôi với quyền lợi họ được hưởng. Do đó, cần bổ sung, xem
xét một số quy định liên quan tới trách nhiệm và quyền lợi của tổ chức giám
sát:
- Các tiêu chí về vốn, tình hình tài chính cũng như tiềm năng đối với các
ngân hàng đồng thời đảm nhận chức năng bảo quản và giám sát.
- Việc tách bạch về tổ chức giữa hoạt động giám sát và hoạt động bảo
quản tài sản của quỹ cũng như tách bạch giữa chi phí cho việc giám sát và
chi phí bảo quản tài sản của quỹ. Chi phí bảo quản tài sản có thể thấp nhưng
chi phí giám sát có thể ở mức cao hơn rất nhiều để tương đương với trách
nhiệm của người giám sát.
- Thực hiện chế độ báo cáo với Ủy ban chứng khoán Nhà nước về hoạt
động của các quỹ đầu tư mà mình giữ vai trò thụ ủy.
- Các thông tin mà tổ chức giám sát được tiếp cận trực tiếp để thực hiện
chức năng của mình.
- Khi một công ty quản lý quỹ muốn thay đổi người giám sát, công ty phải
tuyên bố rõ với cơ quan quản lý là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước các lý do
chính đáng trong việc thay đổi các tổ chức giám sát.
85
2.2.3. Các quy định khác
- Quy định về trách nhiệm bồi thường vật chất: các tổ chức tham gia hoạt
động của quỹ, công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát phải chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình với các sai sót và hành vi gây thiệt hại đến
quyền lợi của người đầu tư. Các quy định này sẽ đưa hoạt động của công ty
quản lý quỹ và tổ chức giám sát/bảo quản vào cùng với nhau nhưng phân
định trách nhiệm riêng rẽ với các nhà đầu tư của quỹ đối với các hành động
bất chính.
- Quy định về người đầu tư là những người thụ hưởng của quỹ: khái niệm
về người thụ hưởng cũng như các quyền liên quan đến họ đều chưa được đề
cập đầy đủ trong các văn bản liên quan. Vì vậy, cần có quy định cụ thể về
việc tham gia vào ký kết hợp đồng tín thác của người thụ hưởng, quyền truy
đòi đối với tổ chức giám sát nếu quyền lợi của họ bị thiệt hại do sự tắc trách
đối với tài sản tín thác của tổ chức trên.
- Quy định thống nhất phương thức định giá các tài sản của quỹ: các quy
định này sẽ là cơ sở để xác định giá trị tài sản ròng của quỹ. Các bên tham
gia vào định giá tài sản của quỹ có một phương thức thống nhất khi thực thi
công việc, tránh việc định giá quá cao hoặc quá thấp so với giá trị thực của
tài sản, dẫn đến giá trị tài sản ròng không được phản ánh đúng được hiệu
quả đầu tư thực của quỹ.
3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức kinh doanh dịch vụ
chứng khoán tại Việt Nam
Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức cung cấp dịch vụ
chứng khoán có thể được thực hiện qua các vấn đề sau:
- Cải thiện quy mô vốn
- Nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô dịch vụ
- Nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô nguồn nhân lực
- Nâng cao và đổi mới cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin
86
- Nâng cao khả năng quản trị, giám sát, kiểm soát nội bộ
3.1. Cải thiện quy mô vốn
Năng lực tài chính là cơ sở quyết định để một tổ chức kinh doanh dịch vụ
chứng khoán có thể tham gia hoạt động và cung cấp loại hình dịch vụ theo
luật định. Tuy nhiên, ngoài việc tăng vốn để đáp ứng yêu cầu theo luật định,
các công ty cũng cần tự mình chủ động cải thiện quy mô vốn nhằm chớp lấy
cơ hội vươn lên trên thị trường. Việc huy động thêm vốn được đánh giá là rất
khó khăn, và các công ty có thể thực hiện việc đó quá một số kênh sau:
- Nguồn cung cấp từ chủ sở hữu là các ngân hàng (đối với các công ty trực
thuộc ngân hàng): với nguồn vốn lớn và gia tăng nhanh chóng của các ngân
hàng thương mại trong mấy năm gần đây, việc lựa chọn nguồn cung cấp vốn
qua ngân hàng mẹ của các công ty chứng khoán có cơ sở để thực hiện.
- Huy động vốn trên thị trường: việc đánh giá khả năng này là tương đối
khó, nhưng có thể khả thi vì các công ty kinh doanh chứng khoán là những
đơn vị nắm vững thị trường và có kỹ thuật huy động vốn. Vấn đề là các
công ty cũng phải linh hoạt vì thị trường hiện nay vẫn khó dự đoán.
- Vốn góp của các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán nước ngoài
thông qua việc mua cổ phần, phần góp vốn của các tổ chức nước ngoài là
nguồn vốn đáng lưu ý. Mặc dù vẫn còn tồn tại tỷ lệ giới hạn nhất định cho
đầu tư nước ngoài nhưng đây cũng là kênh quan trọng. Việc phát hành cổ
phần cho các nhà đầu tư nước ngoài được đánh giá là có khả năng đạt mức
giá tốt hơn, không những thế, nó sẽ đem lại vị thế huy động trong nước cho
các công ty chứng khoán.
3.2. Nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô dịch vụ
Các công ty cần chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình vì cạnh
tranh bằng chất lượng manh tính ổn định, lâu dài và quyết định. Thêm vào đó,
các công ty cũng cần mở rộng quy mô cái loại dịch vụ khác nhau nhằm thu
hút khách hàng, tăng tính cạnh tranh.
87
Việc nâng cao chất lượng dịch vụ được thực hiện bằng cách:
- Nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của nhân viên
- Nâng cao cơ sở hạ tầng đáp ứng nhu cầu của thị trường
- Nâng cấp hoạt động của các loại hình dịch vụ hiện tại và mới như cầm
cố, cho vay, repo chứng khoán (bằng việc nâng cấp vốn)
- Cung cấp các loại hình dịch vụ phụ trợ nhằm thu hút khách hàng như: cà
phê chứng khoán, giao dịch qua mạng, giao dịch qua điện thoại, kiểm tra tài
khoản online…
- Xây dựng chính sách khách hàng và tổ chức các hội nghị khách hàng tạo
mối quan hệ giữa khách hàng và công ty
- Tự chủ động giám sát các hành vi sai phạm của nhân viên trong công ty
3.3. Nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô nguồn nhân lực
Thị trường chứng khoán nói chung và các công ty kinh doanh dịch vụ
chứng khoán nói riêng vẫn thiếu một đội ngũ chuyên gia được đào tạo chuyên
nghiệp, vừa có tri thức, vừa có kinh nghiệm trong lĩnh vực phân tích thị
trường, quản lý rủi ro, tư vấn đầu tư… Vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ phải
được các công ty chú trọng hàng đầu. Các công ty cần phối hợp với Trung
tâm Nghiên cứu và Đào tạo chứng khoán, Ủy ban chứng khoán Nhà nước
trong việc tổ chức đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển của thị
trường cả trong ngắn hạn và dài hạn, phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị
trường chứng khoán cho công chúng đầu tư theo hướng:
- Xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu theo từng nghiệp vụ, theo đó
đối tượng đào tạo được phân loại ngay từ khi nhập học. Chương trình cần
chú trọng thực tiễn và có thể mời các giảng viên nước ngoài có chuyên môn
cao. Có thể gửi nhân viên của mình đi đào tạo ngắn hạn, chuyên sâu ở trong
nước và nước ngoài. Đặc biệt nâng cao năng lực phân tích thị trường của
nhân viên trong các công ty.
88
- Mở rộng hợp tác đào tạo về chứng khoán và thị trường chứng khoán để
đáp ứng được nhu cầu phát triển nhanh của thị trường chứng khoán, phù hợp
với giải pháp thực hiện chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam.
- Đa dạng hóa hình thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm đáp ứng nhu
cầu của các đối tượng và thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức về thị
trường chứng khoán cho công chúng.
- Hợp tác với các trường đại học, các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước
trong hoạt động nghiên cứu, đào tạo cơ bản và nâng cao kiến thức về thị
trường vốn.
- Việc mở rộng hợp tác đào tạo được thực hiện từng bước (về môn học, cơ
sở đào tạo) trên cơ sở đa dạng hóa dần nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng
và yêu cầu của việc cấp phép hành nghề. Các môn học có thể được cho phép
mở rộng đào tạo hành nghề chứng khoán rộng rãi ra bên ngoài.
- Giáo dục tư cách đạo đức cho các nhân viên hành nghê kinh doanh của
công ty theo các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp.
3.4. Nâng cao và đổi mới cơ sở vật chất, công nghệ thông tin
Việc nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, trước hết phải được thực hiện là
việc thực hiện hoàn thiện trụ sở chính và các cơ sở vật chất kỹ thuật kèm theo
như hệ thống công nghệ thông tin nội bộ, các phòng dành cho nghiên cứu, tin
học hóa công tác văn phòng và công tác kế toán. Tiếp theo là phát triển phần
mềm tin học phục vụ cho hoạt động quản lý tài khoản thanh toán với khách
hàng. Sau đó là phát triển hệ thống mạng lưới và nối mạng giữa các trụ sở
chính và chi nhánh và các văn phòng giao dịch tiến tới hệ thống khách hàng
có tài khoản ở một chi nhánh công ty có thể đặt lệnh ở một chi nhánh khác.
Các công ty chứng khoán cần phối kết hợp với Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước nghiên cứu xây dựng chương trình phần mềm áp dụng chung cho các
công ty. Xây dựng và hướng dẫn việc thực hiện các chuẩn mực công nghệ
89
thông tin áp dụng cho các tổ chức kinh doanh và dịch vụ chứng khoán. Các
công ty cần tập trung xây dựng nhân sự các phòng công nghệ thông tin để có
được những cán bộ IT có năng lực thực sự có thể phụ trách được việc nhận
chuyển giao công nghệ từ đối tác cung cấp phần mềm, đồng thời có thể tự
phát triển mạng lưới và quản trị được hệ thống công nghệ và hướng tới sẽ
thành lập tổ nghiên cứu và phát triển công nghệ. Tổ này có trách nhiệm xây
dựng và lựa chọn nhà cung cấp giải pháp công nghệ phù hợp với quy mô phát
triển của công ty. Các công nghệ được phát triển cũng phải có tính bảo mật
cao nhằm tránh các rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra như tài khoản nhà đầu tư bị
thay đổi.
Các công ty cũng cần đầu tư nhiều hơn để xây dựng cơ sở ứng dụng thật
tốt cung cấp thông tin đầy đủ cho khách hàng thông qua các bảng điện tử,
bảng tin thị trường hàng ngày, tháng và các phương tiện thông tin khác. Tránh
để tình trạng rớt mạng gây khó khăn cho nhà đầu tư trong việc tra cứu tài
khoản và theo dõi thông tin.
3.5. Nâng cao khả năng quản trị, giám sát, kiểm soát nội bộ và hiệu quả
tác nghiệp
Các công ty cần chú trọng nâng cao năng lực quản lý và lãnh đạo của
những người lãnh đạo công ty. Việc đào tạo bộ máy lãnh đạo phải theo tiêu
chuẩn quốc tế, được tranh bị những kiến thức cần thiết để lãnh đạo một công
ty, có kinh nghiệm và tầm nhìn xa để đưa ra chiến lược phát triển phù hợp với
công ty của mình. Người lãnh đạo công ty cũng cần có đủ hiểu biết và kinh
nghiệm để đưa công ty vượt qua những giai đoạn thử thách ví dụ như lúc thị
trường chứng khoán trầm lắng.
Có thể mở rộng liên doanh, liên kết với nước ngoài bằng việc bán cổ
phần cho các đối tác nước ngoài với một tỷ lệ nhất định đủ để đối tác nước
ngoài tham gia vào quản trị, điều hành công ty. Qua đó có thể tận dụng được
kinh nghiệm quản lý chuyên nghiệp, tiên tiến của nước ngoài.
90
Một hệ thống giám sát và kiểm soát nội bộ cũng phải được xây dựng để
tạo ra hiệu quả kinh doanh, tránh gây tổn thất cho khách hàng và mất uy tín
công ty. Công ty có thể liên kết chặt chẽ với các tổ chức khác trong việc kiểm
soát nội bộ công ty.
3.6. Các giải pháp khác
Trước hết các công ty cũng cần một mô hình tổ chức công ty hợp lý. Mô
hình ngân hàng đầu tư rất phổ biến trên thế giới bởi tính đa dạng dịch vụ và
tiện dụng. Cũng có thể tổ chức thành các tập đoàn, các tổ hợp tài chính – đầu
tư – kinh doanh. Nói chung điều lưu ý vẫn là không nên theo một công thức
duy nhất mà thiếu đi tính sáng tạo riêng biệt trong việc xây dựng mô hình
công ty.
Tiếp theo là các công ty nên có chiến lược phát triển phù hợp, tạo ra thế
mạnh cho công ty của mình. Khi thị trường ngày càng hẹp, các công ty nên
xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh riêng, tạo thế mạnh về công
nghê, chất lượng dịch vụ hay đội ngũ nhân viên có chuyên môn và trình độ tại
một hay một số mảng lĩnh vực nhất định, và hướng tới khách hàng mục tiêu
để phát triển. Việc này sẽ giúp cho các công ty có thể đứng vững trên thị
trường cạnh tranh.
Nói tóm lại, để có được năng lực cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường,
điều cuối cùng mà các công ty kinh doanh dịch vụ chứng khoán phải làm là
thu hút càng nhiều khách hàng càng tốt về phía mình. Các công ty cần tự
mình đổi mới, nâng cấp tư duy và vật chất, đồng thời tạo ra những nét riêng
của công ty nhằm thật sự có chỗ đứng trong thị trường cạnh tranh gay gắt hậu
WTO.
91
KẾT LUẬN
Trong đề tài này, các vấn đề được xây dựng theo hướng từ tổng quan đến
cụ thể, từ lý thuyết đến thực tế. Tôi đã nghiên cứu và đưa ra bức tranh về thị
trường và dịch vụ chứng khoán Việt Nam gắn với các cam kết WTO và bài
học từ các nước, kết quả là đề ra được các phương hướng và một số giải pháp
cụ thể để hoàn thiện ngành dịch vụ chứng khoán trong nước. Các định hướng
trong đề tài xuất phát từ đánh giá và nhận định chủ quan nên tôi hy vọng
chúng sẽ là những đề xuất đóng góp thiết thực tới cơ quan nhà nước và các tổ
chức có liên quan. Việc nghiên cứu về dịch vụ chứng khoán sau WTO phải
được tiếp tục đưa vào các đề tài sâu hơn, do sự phát triển ngày càng nhanh
của thị trường cùng với sự ra đời của hàng loạt các loại hình dịch vụ mới.
Tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn tới những người trong quá trình tôi tìm
hiểu vấn đề và viết khóa luận đã giúp đỡ tận tình, cung cấp các thông tin và
tài liệu cần thiết để tôi thực hiện đề tài. Tôi cũng đặc biệt cảm ơn cô giáo, tiến
sĩ Đỗ Hương Lan đã nhiệt tình và chu đáo hướng dẫn tôi, dành thời gian sửa
bài và đưa ra những lời góp ý hết sức hữu ích, giúp tôi hoàn thành bài khóa
luận với chất lượng cao nhất có thể.
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. TS. Đào Lê Minh (chủ biên) (2002), Giáo trình những vấn đề cơ bản về
chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc
Gia.
2. Luật chứng khoán (Văn bản số 70/2006/QH 11).
3. Bộ tài chính - Ủy ban chứng khoán nhà nước (2005), Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp ủy ban: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tổ chức và hoạt
động của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
4. Ủy ban quốc gia về hợp tác quốc tế (2006), Việt Nam gia nhập tổ chức
thương mại thế giới – Những điều cần biết, Nhà xuất bản Lao Động.
5. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2003), Các văn kiện cơ bản
của tổ chức thương mại thế giới, Nhà xuất bản Thanh Niên.
6. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (24/08/2008), Tổng hợp các
cam kết Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và một số
tham khảo.
7. Các trang web:
Tiếng Anh:
8. Global Securities Industry - WTO Initiative, L Trade - sifma.org –
10/10/2005.
9. China and WTO Liberalization of the Securities Industry: Le Choc des
mondes or L’Empire immobile? - NC Howson - Asia Policy, 2007 -
nbr.org.
93
PHỤ LỤC 1
Các cam kết WTO cụ thể theo phương thức cung cấp dịch vụ chứng khoán
của Việt Nam
Phƣơng thức cung cấp dịch vụ: (1): Cung cấp qua biên giới; (2): Tiêu dùng
ở nƣớc ngoài; (3): Hiện diện thƣơng mại; (4): Hiện diện thể nhân
Ngành và phân ngành
Hạn chế về Tiếp
cận thị trƣờng
Hạn chế
về Đối xử
quốc gia
Cam
kết
bổ
sung
Chứng khoán (C):
(f) Giao dịch cho tài khoản của mình
hoặc cho tài khoản của khách hàng tại
sở giao dịch chứng khoán, thị trường
OTC hay các thị trường khác những
sản phẩm sau:
- Các công cụ phái sinh, bao gồm cả
hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền
lựa chọn;
- Các chứng khoán có thể chuyển
nhượng;
- Các công cụ có thể chuyển nhượng
khác và các tài sản tài chính, ngoại trừ
vàng khối.
(g) Tham gia vào các đợt phát hành
mọi loại chứng khoán, bao gồm bảo
lãnh phát hành và làm đại lý bán (chào
(1) Chưa cam kết,
ngoại trừ dịch vụ
thuộc C(k) và C(l).
(2) Không hạn chế.
(3) Ngay khi gia
nhập, các nhà cung
cấp dịch vụ chứng
khoán nước ngoài
được thành lập văn
phòng đại diện và
công ty liên doanh
với đối tác Việt
Nam trong đó phần
vốn góp của phía
nước ngoài không
(1) Chưa
cam kết
(2) Không
hạn chế
(3) Không
hạn chế
94
bán ra công chúng hoặc chào bán
riêng), cung cấp các dịch vụ liên quan
đến các đợt phát hành đó.
(i) Quản lý tài sản như quản lý danh
mục đầu tư, mọi hình thức quản lý đầu
tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch
vụ lưu ký và tín thác.
(j) Các dịch vụ thanh toán và thanh
toán bù trừ chứng khoán, các công cụ
phái sinh và các sản phẩm liên quan
đến chứng khoán khác.
(k) Cung cấp và chuyển thông tin tài
chính, các phần mềm liên quan của các
nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán.
(l) Tư vấn, trung gian và các dịch vụ
phụ trợ liên quan đến chứng khoán,
ngoại trừ các hoạt động tại tiểu mục
(f), bao gồm tư vấn và nghiên cứu đầu
tư, danh mục đầu tư, tư vấn về thâu
tóm công ty và chiến lược và cơ cấu
công ty. (Đối với các dịch vụ khác tại
tiểu mục (l), tham chiếu tiểu mục (l)
trong phần cam kết về dịch vụ ngân
hàng).
vượt quá 49%.
Sau 5 năm kể từ
ngày gia nhập, cho
phép thành lập
doanh nghiệp
chứng khoán
100% vốn nước
ngoài.
Đối với các dịch
vụ từ C(i) đến C(l),
sau 5 năm kể từ
ngày gia nhập, cho
phép các nhà cung
cấp dịch vụ chứng
khoán nước ngoài
thành lập chi
nhánh.
(4) Chưa cam kết,
trừ các cam kết
nền chung.
(4) Chưa
cam kết,
trừ các
cam kết
nền chung
95
PHỤ LỤC 2
Các cam kết WTO cụ thể theo các loại hình dịch vụ chứng khoán của Việt
Nam
Dịch vụ Mode 1 Mode 2 Mode 3 Mode 4
Môi giới Không Có Rep. Office hoặc JV
49% cap. Sau 5 năm
100% cap.
Không
Tự doanh Không Có Rep. Office hoặc JV
49% cap. Sau 5 năm
100% cap.
Không
Bảo lãnh phát
hành
Không Có Rep. Office hoặc JV
49% cap. Sau 5 năm
100% cap.
Không
Tư vấn Có Có Sau 5 năm thành lập chi
nhánh
Không
Cung cấp thông
tin
Có Có Sau 5 năm thành lập chi
nhánh
Không
Quản lý danh
mục đầu tư, quản
lý quỹ
Không Có Sau 5 năm thành lập chi
nhánh
Không
Thanh toán, bù
trừ
Không Có Sau 5 năm thành lập chi
nhánh
Không
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4620_4205.pdf