Không ai có thể dự báo chắc chắn mức độ sử dụng EURO trên các thị trường . Nhưng đồng EURO là đồng tiền có độ tin cậy cao, ra đời trên cơ sở các điều kiện về thị trường, tỷ trọng kinh tế, xuất khẩu, . trong một nền kinh tế lành mạnh, đảm bảo bằng sự tồn tại lâu bền của hiến chương ổn định và tăng trưởng, đồng thời lại được quản lý bởi Ngân hàng Trung ương Châu Âu độc lập chỉ có một mục tiêu duy nhất là ổn định giá cả, đồng EURO sẽ nhanh chóng chiếm được lòng tin của thị trường , của thế giới và nhất định sẽ được cộng đồng quốc tế, nhất là các thương gia trên thế giới sử dụng rộng rãi. Khi đó, EURO sẽ góp phần lập lại thế cân bằng cho hệ thống tiền tệ quốc tế vốn đang bị mất cân đối lớn do sự lệ thuộc quá đáng vào đôla Mỹ.
Đương nhiên trước mắt, EURO không có ý định làm “ đảo chính “, lại càng không thể “ lật đổ “ngay được ngai vàng của đôla, nhưng hy vọng cùng với sự xuất hiện của một nhân tố mới tích cực này, thế giới sẽ tránh được “ vấn đề đôla “ theo cách nói giàu hình tượng của Cựu Bộ trưởng Ngân khố Mỹ, James Connlly: “ Đôla là đồng tiền của chúng tôi nhưng vấn đề thuộc về các bạn”
40 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2817 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của đồng EURO đến nền kinh tế - Tài chính - Tiền tệ thế giới và Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
òn rất mới mẻ, lần đầu tiên được đưa vào lưu hành đã ngay lập tức được thế giới đón nhận. Thậm chí nó đã tăng giá trên hầu hết các thị trường tiền tệ thế giới trong tuần đầu ra mắt.
Chúng ta có thể điểm qua một vài con số tương quan với hai cực kinh tế khác là Nhật Bản và Mỹ: Năm 1997, khối EU- 11 có hơn 271 triệu dân, chiếm 19,4% GDP toàn cầu, tuy nhỏ hơn Mỹ với 289 triệu dân chiếm 19,6% GDP thế giới nhưng lại lớn hơn so với Nhật, một nước có 125 triệu dân và nắm giữ 7,7% GDP thế giới. Về thị phần thương mại, EU- 11 là khu vực nắm giữ thị phần lớn nhất thế giới với 18,6%, trong khi Mỹ nắm giữ 16,6%, còn Nhật 8,2%. Tính đến cuối năm 1995, có 25,8% dự trữ ngoại tệ bằng đồng ECU, 56,4% dự trữ ngoại tệ bằng đồng USD và 7,1% dự trữ bằng đồng Yên Nhật. Về tỷ trọng sử dụng đồng ECU, USD, Yên Nhật trong tổng các giao dịch trên thị trường ngoại hối thế giới tháng 04/1995 tương ứng là 35%, 41,5%, 12%. Tổng kim ngạch buôn bán quốc tế năm 1992 lần lượt là 31%, 48% và 5%. Sau đây là bảng chỉ tiêu kinh tế của ba cực kinh tế thế giới trong năm 1997.
MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ CỦA BA CỰC KINH TẾ THẾ GIỚI
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
EU
Hoa kỳ
Nhật Bản
1
DÂN SỐ
TRIỆU NGƯỜI
1997
189,4
271
125
2
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
%
1997
2,5
3,8
0,9
3
GDP
TỶ ECU
1997
5546
6848
3712
4
Tỷ trọng trong tổng GDP thế giới
%
1997
19,4
19,6
7,7
5
TỶ TRỌNG TRONG K.NGẠCH TM QUỐC TẾ
TRONG ĐÓ: XK
NK
%
1997
18,6
16,6
8,2
%
1997
20
16
10
%
1997
16
19
7
(Nguồn: World Economic Outlook, Oct.1997, IMF)
2. Vị thế của đồng EURO trong hệ thống tiền tệ quốc tế
Tuy trong thời gian vừa qua, đồng EURO có sự giảm giá đáng kể so với USD nhưng có thể khẳng định rằng đồng EURO chắc chắn sẽ khẳng định vai trò của mình trong hệ thống tiền tệ quốc tế, có khả năng đối trọng với bất kỳ một đồng tiền nào. Kết luận như vậy có thể trên cơ sở những căn cứ sau đây:
Thứ nhất, tiềm lực kinh tế, công nghiệp, thương mại, sức mua của EMU thực sự khổng lồ ngang Mỹ, vượt Nhật Bản.
Thứ hai, dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương Châu Âu và các ngân hàng trung ương thành viên rất lớn, lên tới 540 tỷ USD - gấp bốn lần dự trữ ngoại tệ của Nhật Bản.
Thứ ba, cơ chế hoạt động của Ngân hàng Trung ương Châu Âu -ECB và hệ thống ngân hàng trung ương các nước thành viên hoạt động hoàn toàn độc lập với các nhà nước thành viên và với ủy ban Châu Âu trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ thống nhất. Nhiệm vụ của nó là giữ vững sự ổn định của tiền tệ.
Thứ tư, điều kiện tham gia vào khối EURO hết sức chặt chẽ, khắt khe chứng tỏ mức độ ổn định, chắc chắn về kinh tế của các nước thành viên. Và do đó sẽ đảm bảo sự ổn định của EURO.
Thứ năm, liên minh Châu Âu là liên minh có nền tảng vững chắc, tạo ra sự ổn định cao trong nội bộ liên minh.
Như vậy có thể nói rằng đồng EURO sẽ đảm nhận tất cả các vai trò của một đồng tiền mạnh như là: đồng tiền dự trữ ổn định, đồng tiền tính toán và sẽ là đồng tiền thanh toán quốc tế được sử dụng rộng rãi. Đây sẽ là một nhân tố quan trọng góp phần vào sự ổn định của hệ thống tiền tệ thế giới giảm bớt sự lệ thuộc vào đồng USD và nền kinh tế Hoa Kỳ. Vị thế và lợi ích của Châu Âu nhờ đó cũng được tăng cường đáng kể. Toàn Châu Âu sẽ quyết tâm duy trì đồng EURO mạnh và ổn định quyết không nhượng trận địa cho USD và JPY.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA EURO TỚI USD, JPY VÀ VÀNG
Hiện nay, nền kinh tế thế giới đã chia thành ba cực mạnh thu hút mọi hoạt động kinh tế trên toàn cầu. Bên cạnh vàng- một phương tiện thanh toán được các nước sử dụng trong các giao dịch buôn bán từ xa xưa thì ở ba cực trên cũng xuất hiện ba đồng tiền mạnh- USD, JPY và EURO- chi phí đến hoạt động kinh tế- tài chính- tiền tệ trên phạm vi thế giới.
1. Ảnh hưởng của EURO tới vàng.
Hiện nay vai trò của vàng đang giảm dần ý nghĩa. Ta có thể nhận thức được vấn đề này khi các nước Châu Á rơi vào khủng hoảng và suy thoái, đồng nội tệ mất giá. Nếu như trước đây phản ánh trước sự mất giá của đồng tiền thường kéo theo giá vàng tăng vọt thì thực tế khủng hoảng tài chính này cho thấy rằng giá vàng chẳng hề tăng lên mà thậm chí còn giảm. Điều này cho thấy tâm lý cho vàng là nguồn dự trữ đề phòng đã dần dần giảm ý nghĩa trong nền kinh tế toàn cầu.
Bên cạnh đó, trong thời gian vừa qua nhiều Ngân hàng Trung ương các nước đã đưa vàng dự trữ trong kho ra bán lấy ngoại tệ để đầu tư cho khoa học công nghệ và phát triển sản xuất. Trong năm 1995 số lượng vàng do Nhà nước bán ra là 182 tấn, năm 1996 là 239 tấn, năm 1997 là 393 tấn và năm 1998 là 437 tấn.
Theo con số dự tính thì trong số dự trữ của các nước phát triển trên thế giới, dự trữ vàng chỉ chiếm trên 40%. Như vậy, ngay cả với các Chính phủ vàng cũng đã giảm ý nghĩa của nó. Tại sao giá vàng lại giảm? Quan sát thực nghiệm cho thấy rằng, dường như EURO ra đời là một phần nguyên nhân làm giá vàng có khuynh hướng giảm xuống.
Thứ nhất, Trước động thái do EURO ra đời và vai trò kinh tế to lớn của khu vực EURO mà nhiều nước đã có khuynh hướng chuyển nhượng dự trữ quốc gia từ vàng sang EURO.
Thứ hai, vai trò của vàng với tư cách phương tiện thanh toán quốc tế đã bị suy giảm một phần trước sự ra đời của đồng EURO với tư cách là đồng tiền quốc tế có nhiều thuận lợi hơn vàng trong cùng chức năng này.
Như vậy, với sự ra đời của mình, EURO đã tác động đáng kể tình hình dự trữ vàng cũng như thanh toán quốc tế bằng vàng trong các hoạt động kinh doanh của các nước trên thế giới hiện nay.
2. Ảnh hưởng của EURO đến đồng USD
· Vai trò của đồng USD trong nền kinh tế quốc tế
Đồng đô la Mỹ hiện có vai trò rất lớn hầu như chủ đạo trong thanh toán và giao dịch quốc tế, trong dự trữ của nhiều ngân hàng, tổ chức tài chính và nằm trong khoản dự trữ quốc gia của đại đa số các nước. Ngay cả trong đo lường kết quả hoạt động kinh tế của công ty, của tập đoàn, của một quốc gia người ta cũng sử dụng đô la Mỹ. Thậm chí USD là một biểu tượng của sự giàu có nằm trong cách nói của người dân. Trong các tổ chức tài chính quốc tế hầu hết USD được dùng làm đơn vị thanh toán là chính. USD với thế lực của nó như hiện nay, tiềm lực kinh tế của Mỹ, sự thống trị của nó trong hệ thống tiền tệ thế giới đang là mối quan tâm lớn nhất của chúng ta.
Để có thể đánh giá được đúng mức độ ảnh hưởng của EURO tới kinh tế, thanh toán quốc tế trước hết chúng ta hãy xem xét những nét chính về vai trò của USD trong hệ thống tiền tệ – thanh toán quốc tế. Liệu USD có bị ảnh hưởng không trước sức ép của đồng EURO, chúng ta hãy nghiên cứu vai trò của nó.
Thứ nhất, USD gần như đã trở thành tập quán trong giao dịch trao đổi và thanh toán quốc tế. Có thể nói rằng khó có thể có một đồng tiền nào mà một sớm một chiều có thể loại bỏ được đồng USD. Vị trí số một của đồng USD mới “đang bị” đe doạ do ảnh hưởng của EURO chưa phải “đã bị” đe doạ.
Thứ hai, USD nằm trong phần lớn dự trữ của rất nhiều quốc gia. “USD ổn định như vàng” – “USD thuận tiện hơn vàng”. Đặc biệt trong những năm gần đây, kinh tế Mỹ phát triển khá nhanh. Xu hướng chung dường như đôla Mỹ có chiều hướng lên giá so với các đồng tiền khác.
Thứ ba, USD dường như đã trở thành tiêu chuẩn đo lường chung của tất cả các mặt hàng “ ngoại quốc” cũng như trị giá của bất kỳ đơn vị tiền tệ nào khác. Thậm chí nhiều quốc gia mà gần chúng ta, nhất là một số nước ASEAN do tâm lý sùng bái đã buộc chặt đồng bản tệ của mình vào USD để diễn ra hiện tượng đôla hoá nền kinh tế. Điển hình là đồng bath của Thái Lan. Khi có hiện tượng ốm yếu của nền kinh tế thì USD lại nổi hẳn lên, nó chiếm lấy và thay thế ngày một nhiều hơn chức năng đồng bath. Cung USD thì giảm trong khi cầu lại rất lớn. Bath bị USD tấn công dữ dội và hậu quả thật tai hại mà nạn nhân lại là những nước quá sùng bái USD, là một trong những nguyên nhân làm méo mó sự phát triển kinh tế của nhứng nước đó.
Quy mô kinh tế Mỹ và sự phát triển năng động của nó trong những thập kỷ gần đây làm cho người ta phải băn khoăn về mức độ ảnh hưởng tới vị thế USD với đồng tiền khá mới mẻ đó là đồng EURO. Thông thường trên thị trường tiền tệ thế giới người ta ưa dùng đồng tiền của một nước nào mà nưóc đó có nền kinh tế mạnh. Nền kinh tế mạnh có đủ tiềm lực giữ vững ổn định của đồng tiền cũng như mức cung và lượng cầu cuả nước đó ra thị trường là rất lớn. Sức cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ hiện đang xếp loại hàng đầu đã lôi USD trở thành vị trí cũng tương ứng như thế.
· Tương quan giữa đồng EURO và USD
Để góp phần làm sáng tỏ hơn những khía cạnh ảnh hưởng của EURO tới nền kinh tế cũng như hoạt động thanh toán quốc tế thì việc nghiên cứu tương quan EURO – USD là cần thiết. Đồng USD được dùng rất phổ biến trong thanh toán quốc tế từ sau thế chiến thứ hai. Do vậy nghĩa là EURO ảnh hưởng tới USD tức là nó đã ảnh hưởng đến thanh toán quốc tế. Chúng ta sẽ xem xét một số sự kiện để thấy được sự tương quan tác động giữa chúng.
-Liệu EURO có giữ vị trí then chốt trên thị trường tiền tệ quốc tế không khi mà Hoa Kỳ là quốc gia nợ nần nhiều nhất và có mức thâm hụt cán cân thương mại lớn nhất thế giới?
-Liệu USD có giảm giá khi một phần USD được chuyển đổi sang EURO. Thực tế là khi EURO bắt đầu công bố thì ngay sau đó, nó đã tăng giá so với USD. Điều này có thể gây ra sự tăng cung về USD trong nền kinh tế thế giới.
-Liệu sức mạnh của Châu Âu mặc dù đã được rõ ràng nhưng tình đoàn kết trong liên minh có đủ chặt để duy trì sự ổn định của đồng EURO lâu dài hay không?
Hiện tại đồng USD đang chi phối mạnh mẽ quan hệ tiền tệ thế giới vì nó được sử dụng tới 50% trong các hoạt động thương mại và 80% trên thị trường hối đoái quốc tế, nhưng xuất khẩu của Mỹ chỉ chiếm gần 18% xuất khẩu thế giới. Hơn nữa, thâm hụt tài khoảng vãng lai của Mỹ mỗi ngày một tầm trọng (năm 1991: 4,4 tỷ USD đến 1998: 230 tỷ USD). Rõ ràng đang có sự mất cân đối giữa vị trí thương mại của Mỹ và vị trí đồng đôla Mỹ trên thế giới. Sự mất cân đối đó không làm ổn định hệ thống tiền tệ quốc tế. EURO ra đời có thể sẽ thay đổi tình hình này, cạnh tranh quyết liệt với USD trong việc phân chia lại quyền lực tiền tệ thế giới. Một trong những tham vọng chính trị mà Châu Âu không hề giấu giếm từ khi xây dựng dự án thống nhất tiền tệ đó là thông qua việc vận hành EMU duy trì EURO mạnh ổn định để củng cố và tăng cường vị thế của Châu Âu trên trường quốc tế.
Châu Âu sẽ dùng EURO để cạnh tranh quốc tế với USD phân chia lại quyền lực tiền tệ có lợi cho Châu Âu. Ông Koichi Kobô giám đốc điều hành buôn bán ngoại tệ Tokyo Nhật nhận định “Đồng EURO trong tương lai sẽ có thể đảm nhận chức năng đồng USD”. Còn Phó thủ tướng Trung Quốc Lý Lam Thanh tuyên bố “Chúng tôi thích có nhiều đồng tiền hơn là sự độc tôn của USD”.
Thực tế vẫn còn quá sớm để kết luận liệu EURO có thay thế được vị thế của USD hay không. Nhưng EURO là đồng tiền có độ tin cậy cao, có cơ sở của chính sách kinh tế lành mạnh được đảm bảo bằng sự tồn tại lâu bền của công ước ổn định và tăng trưởng. Dù gì thì chắc chắn EURO góp phần giảm lệ thuộc quá đáng của hệ thống tiền tệ thế giới vào đôla Mỹ.
· Ảnh hưởng của EURO đến đồng USD
Vì đại diện cho khu vực có tiềm lực kinh tế mạnh nhất thế giới, EURO ra đời sẽ “tuyên chiến” với USD, sẽ làm lung lay vị trí độc tôn của USD trong hệ thống tiền tệ quốc tế đã được xác lập từ sau chiến tranh thế giới thứ II.
Khi đồng EURO mất giá, giá cả nhập khẩu vào châu Âu tăng lên và sức ép lạm phát gia tăng. Sự lên giá của đồng USD so với EURO sẽ gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu Mỹ. Nếu đột nhiên đồng EURO lên giá so với đồng USD thì nó sẽ hỗ trợ cho việc giải quyết vấn đề thâm hụt thương mại đang gia tăng của Mỹ. Một số nhà kinh tế và chính trị gia không nghi ngại cho rằng các Ngân hàng trung ương nên xem ổn định tỷ giá hối đoái là công việc ưu tiên hàng đầu, nên kết hợp can thiệp trên thị trường giao ngay và kỳ hạn nhằm đảm bảo tỷ giá hối đoái phản ánh các nền tảng kinh tế. Và các NHTW nên sử dụng chính sách tiền tệ để giảm thiểu khả năng giao động của tỷ giá hối đoái. Các nhà chiến lược tiền tệ cho rằng các đồng tiền ngày nay không giao động mạnh hơn so với thập kỷ trước, thậm chí điều đó vẫn đúng đối với đồng EURO. Họ đã tạo ra một đồng EURO giả định để xem đồng tiền sẽ như thế nào nếu nó tồn tại trước 1999. Điều gì sẽ xảy ra nếu đột nhiên đồng EURO mất giá? Thực tế là kể từ tháng 1/1999, tốc độ tăng trưởng và lãi suất ở Mỹ cao hơn so với khu vực EURO. Bởi vậy, nó khó có thể gây kinh ngạc khi vốn đầu tư đã hướng vào Mỹ, kéo theo sự lên giá của đồng đôla.
3. Ảnh hưởng của đồng EURO đến JPY
Với sự xuất hiện của đồng EURO, Nhật Bản đã phải nhanh chóng khẳng định lại vị thế đồng Yên bằng một chính sách đồng Yên mạnh và ổn định. Trước khi đồng EURO ra đời 1 tháng, Nhật Bản còn từ chối đảm đương chức năng tiền tệ quốc tế của đồng Yên với lý do một đồng Yên quá mạnh có hại cho xuất khẩu và như vậy sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đến nền kinh tế Nhật Bản vốn chủ yếu dựa vào xuất khẩu. Tuy nhiên, sự ra đời của đồng EURO đã làm cho các nhà chức trách tiền tệ của Nhật phải đặt ra một kế hoạch để cùng chia sẻ quyền lực tiền tệ thế giới giữa EURO- USD – JPY. Như vậy, chính sự ra đời của đồng EURO đã tác động đến đồng Yên, tác động đến chức năng tiền tệ quốc tế của đồng Yên.
Mặt khác, sự ra đời của đồng EURO làm cho sức mạnh tương đối của đồng Yên so với đồng EURO thay đổi, khiến hàng hoá của Nhật trên thị trường châu Âu trở nên đắt đỏ, gây phương hại đến tình hình xuất khẩu và làm suy yếu triển vọng phục hồi nền kinh tế của mình vốn chủ yếu dựa vào xuất khẩu.
Tóm lại, đồng EURO ra đời đã tác động đến hệ thống tiền tệ thế giới. sẽ cạnh tranh quyết liệt với đồng USD trong việc phân chia lại quyền lực tiền tệ trên thế giới, sẽ kích hoạt đồng JPY Nhật trở nên tích cực hơn, cùng góp sức vào việc xác lập tam giác cân bằng ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế, tạo nên một thế giới tiền tệ ba cực thông qua vai trò tiền tệ quốc tế mà đồng EURO đảm nhiệm. Nếu trục tiền tệ USD – EURO - Yên Nhật được hình thành hợp lý, nó sẽ làm cho rổ tiền tệ thế giới vững lên, tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế tài chính thế giới.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỒNG EURO TỚI NỀN KINH TẾ- TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
1. Ảnh hưởng cuả EURO đến ngoại thương
Xem xét mức độ ảnh hưởng của EURO tới ngoại thương giữa các nước thì phải tính đến trước tiên là những tác động của EURO tới nội bộ giữa các nước Châu Âu. Điều này cũng sẽ gián tiếp ảnh hưỏng đến ngoại thương của Châu Âu với các nước ngoài liên minh Châu Âu.
Các doanh nghiệp Châu Âu sẽ sử dụng EURO như một phương tiện tính toán trong các giao dịch thương mại nằm trong nội bộ của liên minh. Giao dịch thương mại trong lòng EMU (khu vực EURO) chiếm tới 60% tổng kim nghạch ngoại thương của các nước thành viên. Các nhà nhập khẩu Châu Âu sẽ sử dụng EURO trong tất cả các giao dịch thương mại vì việc sử dụng EURO sẽ tránh được những rủi ro về tỷ giá do không chuyển đổi giữa các đồng tiền quốc gia. Chẳng hạn như một nhà xuất khẩu Pháp xuất khẩu hàng hoá sang Đức. Dù lựa chọn đồng tiền thanh toán nào thì một trong hai bên ít nhất phải thực hiện một đồng tiền chuyển đổi. Điều này một mặt làm cho sự tính toán, thanh toán phức tạp hơn. Mặt khác nó cũng sẽ làm tăng chi phí do việc chuyển đổi gây ra họăc có thể gặp phải những rủi ro tỷ giá nếu không có biện pháp bảo đảm hối đoái thích hợp.
Việc cho ra đời EURO và sư phát triển ổn định của các nước thuộc khu vực làm cho thị trường trở nên hấp dẫn hơn với hàng hoá các nước khiến các nước tìm cách tăng xuất khẩu vào vùng EURO. Như vậy, buôn bán nội bộ 11 nước sẽ tăng nhanh hơn. EURO sẽ đẩy nhanh được quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế lớn siêu quốc gia chi phối xuất nhập khẩu trên thị trường Châu Âu. Điều này có thể dễ dàng lý giải cùng một đồng tiền, nhất thể hoá kinh tế kéo theo sự dễ dàng mở các chi nhánh sang các nước Châu Âu thuộc liên minh của các công ty Châu Âu đồng thời cũng là nhân tố làm cho các công ty Châu Âu dễ hợp nhất với nhau để tăng cưòng sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
Ngoài ra, đồng EURO sẽ làm mạnh thêm tiềm lực ngoại thương của các nước trong khối, làm cho khối thị trường chung Châu Âu củng cố tăng cường trở thành một trung tâm kinh tế thương mại mạnh nhất thế giới
Bên cạnh việc tác động đến ngoại thương của nội bộ các nước trong khu vực EU, đồng EURO còn tác động đến ngoại thương các nước khác.
-Tại khu vực Trung và Đông Âu: Vì thực tế những nước này đa phần là những ứng cử viên gia nhập EU và có truyền thống quan hệ thương mại với EURO nên do đó đồng EURO có thể được sử dụng trong ngoại thương phổ biến tại khu vực này
-Tại Châu Phi: vì rất nhiều quốc gia thuộc khu vực này vốn là thuộc địa của Pháp trước kia, các đồng tiền của họ có xu hướng gắn liền với đồng Franc. Hơn nữa, buôn bán của Châu Phi với Châu Âu chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại của Châu Phi nên để tiếp tục trao đổi ngoại thương, khu vực này nhất thiết phải sử dụng đồng EURO và sẽ chịu tác động bởi đồng EURO đến hoạt động kinh tế- tài chính của mình.
-Các nước ven Địa Trung Hải: Có hai lý do để khẳng định EURO có thể gây ảnh hưởng mạnh tới ngoại Thuương của khu vực này. Thứ nhất, do truyền thống quan hệ thương mại chặt chẽ với EU. Thứ hai là triển vọng xây dựng khu vực mậu dịch tự do EU - Địa Trung Hải vào năm 2010.
Nói chung thì EURO ra đời sẽ làm cho quan hệ ngoại thương EMU trở thành thuận lợi hơn. Nhưng mức độ thuận tiện của mỗi nước lại khác. Chẳng hạn như Trung Quốc lại cho rằng do hàng hoá của mình xuất khẩu vào Châu Âu có ít những thuận lợi hơn so với các nước Đông Âu. Các nhà xuất khẩu của Trung Quốc lo ngại sẽ bị các doanh nghiệp đó đánh bật ra khỏi thị trường Châu Âu. Trên thực tế trong thời kỳ từ khi EURO ra đời, xuất khẩu của Trung Quốc sang EMU đã giảm hẳn. Trong khi đó ngược lại với Trung Quốc, Nga nhận định sẽ đặc biệt có lợi cho ngoại thương của Nga, chẳng hạn nhập khẩu của Nga từ EMU sẽ rẻ hơn từ khoảng 30 – 40% so với trước đây.
-Khu vực các nước ASEAN: EU và ASEAN đã có quan hệ từ lâu, ngay sau khi ASEAN được thành lập năm 1967. Đến năm 1980, ký kết hiệp định hợp tác EU – ASEAN, đặc biệt đánh dấu quan hệ ngoại thương EU - ASEAN phát triển mạnh từ hai cuộc Hội nghị thượng đỉnh hợp tác Á- Âu ASEM I tại BangKok và ASEM II tại London mà quan hệ EU- ASEAN là nòng cốt. Trong xu thế tăng cường hợp tác như thoả thuận hai khối tại hai hội nghị thượng đỉnh trên, hợp tác thương mại sẽ có nhiều cơ hội để khai thác, đặc biệt trước bối cảnh của sự ra đời đồng tiền chung Châu Âu. Đồng tiền chung EURO ra đời sẽ tạo nhiều cơ hội và thách thức cho sự phát triển hợp tác EU - ASEAN.
Các chuyên gia kinh tế đề cập nhiều tới tác động của EURO tới việc thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của các nước Đông Nam Á.
Thứ nhất, vì lý do kỹ thuật của vấn đề: thủ tục thanh toán sẽ đơn giản hơn, xuất khẩu của Đông Nam Á sang Châu Âu nếu tính toán theo toán theo đồng EURO sẽ dễ dàng và thuận tiện hơn do các nước này không phải quy đổi ra các đồng tiền khác nhau ở các nước khác nhau vì họ chỉ buôn bán với một khu vực gồm nhiều nước với đồng tiền chung duy nhất. Cơ hội tăng trưởng xuất khẩu sang Châu Âu cũng ổn định vì Châu Âu muốn duy trì tỷ lệ lạm phát thấp đảm bảo sự ổn định của đồng tiền chung.
Thứ hai, là chi phí giao dịch, hoa hồng giảm đi. Trên thực tế, các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU giảm đáng kể được chi phí.
Ngoài ra, việc có đồng EURO có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nước ASEAN khi nền kinh tế các nước này dựa quá nhiều vào đồng USD. Các nước ASEAN có điều kiện chuyển một phần dự trữ ngoại tệ của mình bằng đồng USD sang đồng EURO. Việc thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại tệ cho phép các nước này tránh được rủi ro khi đồng USD có biến động.
Một trong những khía cạnh tác động của EURO tới ASEAN là nó đã làm nảy sinh ý tưởng trong đầu các nhà lãnh đạo ASEAN về một đồng tiền khu vực Đông Nam Á. Nếu các nhà lãnh đạo các nước ASEAN chỉ cần nghĩ về điều này thôi sẽ thôi thúc họ phải xiết chặt hợp tác hơn nữa: Điều này vô cùng có lợi cho tất cả các nước thành viên trong khu vực. Ý tưởng về một đồng tiền chung cho khu vực đã được đem ra bàn luận.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 diễn ra tại Hà Nội tháng 12 năm 1998, Tổng thống Philippines J.E.Estrara đã đề cập đến vấn đề này trong chương trình nghị sự. Ý tưởng về đồng tiền khu vực nằm trong chương trình hành đồng 06 năm của Hiệp hội với sự nhất trí tiếp tục nghiên cứu của tất cả các nước thành viên. Tổng thống J.E.Estrara nói “có thể sẽ phải mất 40 năm để thông qua đồng tiền chung khu vực nhưng công việc chuẩn bị phải bắt đầu ngay từ bây giờ”.
Khả năng cho ra đời đồng tiền chung chịu ảnh hưởng trước sự thành công của đồng tiền EURO. Vào ngày đầu tiên xuất hiện trên thị trường 1 EURO đạt gần 1.18 USD và 130 JPY. Thành công của EURO sẽ là thử thách với Châu Á, đặc biệt nếu đồng tiền mới này có khả năng làm yếu đi sự thống trị của đồng USD trên thị trường thương mại Thế giới.
2. Ảnh hưởng của EURO tới thanh toán quốc tế.
EURO ra đời là một sự kiện lớn trong đời sống kinh tế quốc tế vì nó sẽ được sử dụng khá rộng rãi trong quan hệ kinh tế và trong thanh toán quốc tế giữa các nước trên thế giới. Theo dự báo thì việc sử dụng EURO trong quan hệ thanh toán quốc tế bước đầu sẽ chiếm khoảng 30% tổng kim nghạch thương mại toàn cầu, tỷ lệ này có khả năng tăng nhanh trong khi tỷ lệ đôla ngày càng giảm.
Từ ngày 01/01/1999 EURO được đưa vào sử dụng, quan hệ thanh toán quốc tế vì thế cũng có những thay đổi lớn để phù hợp với những yêu cầu và điều kiện của đồng EURO.
· Sử dụng EURO theo nguyên tắc “không bắt buộc”, “không ngăn cấm” trong giai đoạn từ nay tới 31/12/2001. “Không ngăn cấm” nghĩa là sẽ không có hạn chế nào về việc sử dụng EURO, “không bắt buộc” nghĩa là các bên tham gia hợp đồng không được yêu cầu đối tác sử dụng đồng EURO nếu không có sự thoả thuận. Đối với các hợp đồng đang tồn tại đơn vị tính toán vẫn là đồng tiền quốc gia và được duy trì cho tới ngày 01/01/2002. Nhưng về phía các Ngân hàng bắt buộc phải chấp nhận thanh toán bằng đồng tiền được sử dụng trong các đề nghị thanh toán. Điều này có nghĩa là nếu như khách hàng yêu cầu thanh toán bằng đồng EURO thì ngân hàng phải tiến hành theo chỉ thị mà không có sự lựa chọn khác.
· Tính liên tục của hợp đồng: Giá trị của hợp đồng cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng không bị ảnh hưởng bởi sự xuất hiện của đồng tiền chung. Các bên tham gia hợp đồng không được coi việc chuyển sang đồng tiền mới là lý do để ngừng các nghĩa vụ hợp đồng đã được ký kết. EMU cam kết không gây nên xáo trộn nghiêm trọng đến các hoạt động kinh tế, chính trị làm ảnh hưởng đến hợp đồng.
· Về hệ thống thanh toán: Việc thanh toán và chi trả đồng EURO được thực hiện thông qua một hệ thống thanh toán tương đối hoàn chỉnh. Mỗi quốc gia thành viên có ít nhất một hệ thống thanh toán đồng EURO để thực hiện các giao dịch nội địa. Điểm đặc biệt lưu ý là Châu Âu đã thành lập nên trung tâm thanh toán toàn lãnh thổ “TARGET” nó được nối mạng trực tiếp với 15 trung tâm thanh toán quốc gia, cho phép các khoản giao dịch giữa các quốc gia thành viên có thể thực hiện đuợc trong ngày. Thông qua hệ thống này, việc giao dịch giảm được một lượng chi phí đáng kể. Mức phí này được quy định cụ thể ở ba mức: 1,75 EURO; 1 EURO và 0,8 EURO cho một lần giao dịch tuỳ theo số lần giao dịch. Hệ thống này cũng cho phép các nước thành viên ngoài khu vực tham gia.
· Từ ngày 01/01/2001 trở đi, các đồng tiền quốc gia của 11 nước thành viên của liên minh tiền tệ Châu Âu EMU sẽ không còn nữa, mọi việc thanh toán phải thực hiện bằng đồng EURO.
3. Ảnh hưởng của EURO tới dự trữ quốc tế.
Ảnh hưởng đầu tiên và trước hết là sự ra đời của EURO sẽ thay thế cho đồng tiền dự trữ của các quốc gia thành viên. Khi chưa ra đời, thì các đồng tiền quốc gia thuộc liên minh cũng chiếm một phần dự trữ quốc tế đáng kể trên thế giới. Khi các quốc gia này chuyển đổi sang đồng EURO sẽ đẩy số tiền dự trữ bằng đồng EURO tăng lên.
Bên cạnh đó, với những quốc gia hiện đang dự trữ bằng các đồng tiền như: FRF, DEM ... vốn đã là những ngoại tệ mạnh của các nước thuộc liên minh sẽ chuyển phần dự trữ này sang đồng EURO. Điều này sẽ là đương nhiên xảy ra, cho đến tháng 1 năm 2002 thì nội tệ của các nước thuộc liên minh EMU sẽ rút khỏi lưu thông , nhường chỗ cho EURO.
Hơn nữa, trước sức mạnh to lớn của liên minh Châu Âu chắc chắn sẽ có nhiều quốc gia chuyển một phần dự trữ từ vàng và đôla Mỹ sang EURO. Việc nhận định EURO có độ tin cậy là hoàn toàn có cơ sở. Hạ tầng kinh tế đảm bảo, EURO lại được quản lý bởi Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) độc lập chỉ có mục tiêu duy nhất ổn định giá cả.
Ngoài ra, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước khu vực Châu Á mới đây mà thực chất là sự mất giá nghiêm trọng của đồng nội tệ so với đồng USD đã phá hoại nền kinh tế của các nước khu vực này. Kết cục là nhiều nước đã đặt dấu chấm hỏi về tình trạng dựa dẫm quá nhiều một ngoại tệ là đồng đôla. Theo công bố gần đây của các nước như Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan... quyết định chuyển một phần dự trữ ngoại tệ từ USD sang đồng EURO. Chẳng hạn như ngân hàng Trung ương Thái Lan đã chuyển 10% dự trữ ngoại tệ sang đồng EURO.
Theo bộ tài chính Nhật Bản, tính tới cuối tháng 9/2000, dự trữ ngoại tệ của Nhật Bản đạt mức kỷ lục là 348,95 tỷ USD, tăng 4,09 tỷ so với tháng trước. Mức tăng này một phần là do sự can thiệp chung của các ngân hàng Trung ương châu Âu, Mỹ, Nhật Bản và Canada vào việc mua đồng EURO. Dự trữ này gồm các chứng khoán và tiền gửi bằng các đồng ngoại tệ, các quỹ dự trữ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), các quyền rút vốn đặc biệt (SDR) và vàng của IMF đã vượt mức kỷ lục là 344,89 tỷ USD trong tháng 7.
Nói tóm lại, sự ra đời của đồng EURO đã có ảnh hưởng đáng kể đến toàn bộ nền kinh tế- tài chính- tiền tệ thế giới. EURO đã chấm dứt kỷ nguyên tiền tệ đơn cực với sự thống soái của đồng USD, tạo ra một hệ thống tiền tệ đa cực gồm các thành tố chủ yếu là EURO, USD và JPY.
CHƯƠNG III
TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG EURO ĐẾN NỀN KINH TẾ-TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ VIỆT NAM
Đối với Việt Nam, sự có mặt trong lưu thông tiền tệ của đồng EURO sẽ có tác động theo từng mức độ khác nhau trên tất cả các lĩnh vực kinh tế-tài chính - tiền tệ vì quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và khu vực này cũng đang lớn dần cũng như vai trò ngày càng nổi lên của EU ở khu vực châu Á cũng như ở Việt Nam.
I. TÁC ĐỘNG CỦA EURO TỚI KINH TẾ VIỆT NAM
Xét về mặt kinh tế, EURO ra đời sẽ ảnh hưởng tới quan hệ thương mại- xuất nhập khẩu, tới khả năng và mức độ thu hút đầu tư giữa Việt Nam với EU nói chung và với từng nước thành viên EU-11 nói riêng.
· Về quan hệ thương mại
Nếu như trước đây Việt Nam phải dùng nhiều đơn vị tiền tệ khác nhau trong quan hệ thương mại với từng nước thuộc EU thì ngày nay cũng trong các quan hệ đó chỉ cần dùng duy nhất đồng EURO. Do đó việc tính toán, ký kết hợp đồng cũng như công tác khuyến mại hoặc khi triển khai các chiến lược xâm nhập thị trường Châu Âu sẽ trở nên dễ dàng hơn. Chính vì vậy, sự ra đời của EURO có tác dụng khá rõ trong quan hệ thương mại của ta và EU. Bên cạnh đó, việc EURO tác động đến nền kinh tế Việt Nam còn thể hiện khi một đồng EURO yếu sẽ bất lợi cho ngành xuất khẩu của Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU, đồng thời còn gây hoang mang cho các nhà đầu tư EU vào Việt Nam. Cho đến nay, EU vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, đặc biệt là đối với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Ngoài ra, thực tế trong những năm qua quan hệ ngoại thương của ta và EU đã lên đến 3 tỷ USD (1998) tăng hơn 500 triệu USD so với năm trước. Nhưng điều này không có nghĩa là sự xuất hiện của EURO sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của ta với những hàng hoá của nước khác xuất khẩu vào EU mà chỉ tạo điều kiện cho nó thuận lợi hơn, linh hoạt hơn. Đứng về khía cạnh của doanh nghiệp ngoại thương trước sự ra đời của đồng EURO họ chịu sự tác động trực tiếp theo hướng có lợi sau:
Thứ nhất, giá cả trên thị trường Châu Âu được niêm yết bằng đồng EURO tạo thuận lợi cho chúng ta trong việc so sánh tính toán trên toàn khu vực lãnh thổ Châu Âu.
Thứ hai, soạn thảo ký kết hợp đồng giữa Việt Nam và các nước sử dụng EURO sẽ đơn giản hơn vì chỉ cần dựa trên 1 tỷ giá EURO/VNĐ thay vì phải tính toán rắc rối như trước đây. Từ nhiều tháng trước đây các ngân hàng Châu Âu đã có chi nhánh tại Việt Nam đã tích cực chuẩn bị giải thích về đồng EURO.
Thứ ba, chi phí chuyển đổi và các dịch vụ Ngân hàng phục vụ cho thanh toán sẽ được giảm bớt.
Ngoài ra sự thống nhất của khối, của EURO (EMU) là nhịp cầu nối mở rộng thương mại giữa Việt Nam và những nước mà trước đây quan hệ song phương với những nước ấy chưa có điều kiện để phát triển như Ailen, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... Khi cả Châu Âu chỉ sử dụng một đồng tiền, hàng hoá Việt Nam một khi đã xâm nhập được vào một nước bạn hàng quen thuộc nào đó (ví dụ như Pháp hoặc Đức) chắc chắc sẽ được các công dân các nước khác biết tới mà không tốn tiền tiếp thị, quảng cáo. Hơn nữa, các nước này có trình độ phát triển thấp hơn, khách hàng ít khó tính hơn Đức, Pháp, yêu cầu của họ gần với khả năng đáp ứng của Việt Nam hơn. Do vậy, sản phẩm của ta sẽ có nhiều cơ may, dễ được chấp nhận và dễ xâm nhập hơn.
· Về thanh toán quốc tế trong lĩnh vực Ngoại thương
Hiện nay, đồng EURO đã tham gia vào hoạt động thanh toán trong lĩnh vực ngoại thương và cũng trở thành một đồng tiền mạnh chi phối hoạt động thanh toán quốc tế. Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, hội nhập và hoà nhập vào nền kinh tế toàn cầu nên trong lĩnh vực ngoại thương cũng sẽ chịu sự tác động bởi sự biến động của đồng EURO. Chẳng hạn một số tác động của EURO trong lĩnh vực ngoại thương Việt Nam như:
+ Các L/C đã được mở ra và có thời hạn thanh toán trước ngày 01/01/1999 bằng đồng tiền quốc gia của một trong các nước thành viên EMU thì việc lập các chứng từ thanh toán và trả tiền phải được thực hiện bằng loại tiền tệ ghi trong thư tín dụng đó.
+ L/C mở trước ngày 01/01/1999 và có thời hạn thanh toán trước ngày 01/01/2002 bằng đồng tiền quốc gia của các nước thuộc EMU: Việc thanh toán phải được thực hiện bằng đồng tiền ghi trong L/C nhưng chứng từ có thể ghi bằng đồng tiền quốc gia hoặc bằng EURO tương đương. Tuy nhiên, thanh toán được thực hiện bằng đồng tiền quốc gia của nước thành viên EMU bằng cách ghi có vào tài khoản mở tại chính nước thành viên đó thì có thể được ghi nợ bằng EURO tương đương theo sự lựa chọn của Ngân hàng trả tiền (Ngân hàng mở L/C).
+ L/C mở và có thời hạn thanh toán từ ngày 01/01/1999 trở đi và trước ngày 01/01/2002 bằng đồng tiền quốc gia của các nước thành viên EMU hoặc bằng EURO: Việc thanh toán phải được thực hiện bằng đồng tiền ghi trong L/C nhưng chứng từ có thể ghi bằng đồng tiền quốc gia của các nước thuộc EMU hoặc bằng EURO tương đương hoặc giá trị tương đương tính theo tỷ giá chéo của đồng tiền quốc gia các nước thuộc EMU tại nước người thụ hưởng. Tuy nhiên nếu tiền tệ ghi trong L/C là đồng tiền quốc gia của một nước là thành viên EMU là việc thanh toán được thực hiện bằng đồng tiền quốc gia nước thành viên EMU bằng cách ghi có vào tài khoản mở tại chính nước thành viên đó thì có thể được ghi nợ bằng EURO theo sự lựa chọn của Ngân hàng trả tiền (Ngân hàng mở L/C).
+ L/C được mở vào 01/01/1999 trở đi nhưng trước ngày 01/01/2002 bằng đồng tiền quốc gia của các nước thuộc EMU hoặc bằng EURO và thanh toán sau ngày 01/01/2002: Việc thanh toán phải được thực hiện bằng EURO nhưng chứng từ có thể ghi bằng loại tiền ghi trong L/C hoặc bằng EURO hoặc bằng loại tiền tệ của nước người thụ hưởng. Những chứng từ được lập sau ngày 01/01/2002 thì nhất thiết phải ghi bằng EURO.
+ Về các vấn đề nói trên, khi xử lý tất cả các loại chứng từ đó trong cùng một bộ chứng từ không bị xem là không phù hợp với nhau mặc dù có chứng từ được ghi bằng đồng tiền của thư tín dụng hoặc tiền tệ của nước người thụ hưởng.
+ L/C mở từ ngày 01/01/2002 trở đi không được ghi bằng đồng tiền quốc gia của các nước thành viên EMU nữa mà phải được ghi bằng EURO, việc lập chứng từ và thanh toán đều phải thực hiện bằng EURO.
+ Các quy định nói trên áp dụng tương đương cho cả các L/C chuyển nhượng: L/C chuyển nhượng mở bằng đồng tiền quốc gia của các nước thuộc EMU và được chuyển nhượng trong thời kỳ quá độ từ 01/01/1999 đến 31/12/2001, Ngân hàng chuyển nhượng có thể chuyển đổi tiền tệ ghi trong L/C thành EURO tương đương.
- Về uỷ thác thu: Bao gồm D/A, D/P
Các lệnh đòi tiền và thanh toán giữa Ngân hàng với Ngân hàng: Lệnh đòi tiền phải được ký phát và trả tiền bằng loại tiền tệ ghi trong lệnh đòi tiền hoặc lệnh chi tiền. Tuy nhiên nếu tiền tệ được ghi là một trong những đồng tiền quốc gia của các nước thuộc EMU thì từ ngày 01/01/1999 có thể được thanh toán bằng EURO tương đương và từ ngày 01/01/2002 trở đi nhất thiết phải được thực hiện chi trả bằng EURO.
-Về việc hoàn trả tiền Ngân hàng
Các lệnh đòi tiền và thanh toán giữa Ngân hàng với Ngân hàng: Lệnh đòi tiền phải được ký phát và trả tiền bằng loại tiền tệ ghi trong lệnh đòi tiền hoặc lệnh chi tiền. Tuy nhiên nếu tiền tệ được ghi là một trong những đồng tiền quốc gia của các nước thuộc EMU thì từ ngày 01/01/1999 có thể được thanh toán bằng EURO tương đương và từ ngày 01/01/2002 trở đi nhất thiết phải được thực hiện chi trả bằng EURO.
Tất cả những vấn đề trên phải được nghiên cứu kỹ đặc biệt là các doanh nghiệp Ngoại thương để thực hiện ký kết hợp đồng làm tốt nhiệm vụ kinh doanh thu ngoại tệ an toàn, nhanh chóng và đạt hiệu quả cao.
-Về mặt nguyên tắc:
+ Nguyên tắc “không bắt buộc” Châu Âu đề ra có nghĩa rằng các bên tham gia hợp đồng không được yêu cầu đối tác sử dụng đồng EURO nếu không có sự thoả thuận với hợp đồng đang tồn tại. Đơn vị tính toán vẫn là đồng tiền quốc gia và được duy trì đến 01/01/2002.
+ Nguyên tắc quyền và nghĩa vụ các bên tham gia hợp đồng Ngoại thương không bị ảnh hưởng bởi sự xuất hiện của đồng tiền chung. Các bên tham gia hợp đồng không được coi việc chuyển sang đồng tiền mới là lý do để ngừng các nghĩa vụ hợp đồng đã được ký kết - EMU cam kết sẽ không gây xáo trộn nghiêm trọng tới các hoạt động kinh tế chính trị làm ảnh hưởng tới hợp đồng.
· Về đầu tư
Việc sử dụng chung một đồng tiền có thể gây ra hiện tượng “đầu tư theo chân” của các nhà đầu tư ở các nước thuộc liên minh. Khi một nhà đầu tư Pháp đầu tư và sinh lời tại Việt Nam có thể sẽ kéo theo nhà đầu tư từ Bỉ cũng sẽ tiến hành đầu tư tại Việt Nam do họ có thể dễ dàng thấy được chi phí sản xuất lợi nhuận tính bằng đồng EURO của các Công ty Pháp.
Về phía Việt Nam cũng như về phía các nhà đầu tư EU, việc ra đời đồng EURO sẽ có nhiều thuận lợi đối với các nhà đầu tư của cả hai phía vì tất cả các dự án đến từ các nước EU-11 sẽ đều dùng chung một đơn vị tiền tệ nên việc tính toán, thẩm định các dự án đầu tư sẽ đơn giản hơn, dễ so sánh hơn.
Tuy vậy, cần lưu ý rằng kết quả thu hút FDI và ODA tùy thuộc vào sự đồng bộ của các chính sách tạo nên môi trường đầu tư lành mạnh. Nếu xét một cách đơn lẻ, sự ra đời của đồng EURO chỉ có tác dụng khuyến khích đầu tư ở một mức độ nhất định mà thôi.
II. TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG EURO ĐẾN NỀN TÀI CHÍNH VN
Xét về mặt tài chính, sự ra đời của đồng EURO sẽ tác động tới vấn đề vay và trả nợ giữa Việt Nam với các nhà tài trợ, các nhà cấp vốn EU và từng nước thành viên khối EURO.
· Về quan hệ vay nợ giữa Việt nam và EU
Vấn đề vay và trả nợ giữa Việt Nam với các nước thành viên EU sẽ được nghiên cứu và xử lý trong khuôn khổ chung của Liên minh và phù hợp với kế hoạch chuyển đổi của từng nước.
Đến 1-1-1999, đồng EURO chính thức đi vào lưu thông tiền tệ, các đồng tiền quốc gia tuy vẫn lưu hành nhưng chỉ được coi là một hình thức thể hiện khác của đồng EURO (là đơn vị lẻ của đồng EURO). Từ nay về sau, các hiệp định vay mới bắt buộc phải tính bằng EURO. Đối với các hiệp định vay đã ký trước ngày 1-1-1999, việc chuyển đổi số dư nợ đã tính trước đây theo các đơn vị tiền tệ quốc gia sang EURO là cần thiết phải làm. Việc chuyển đổi như vậy không ảnh hưởng tới các cam kết lãi suất và thời hạn vay của các hiệp định đã ký. Do đó, việc chuyển đổi này sẽ mang lại lợi hay thiệt cho Việt Nam chỉ còn phụ thuộc vào giá trị đồng EURO. Nếu sau khi chuyển đổi, EURO mạnh lên thì nước đi vay sẽ chịu thiệt. Ngược lại, nếu EURO yếu hơn thì nước đi vay sẽ có lợi.
Các khoản nợ của Việt Nam đối với các nước EU gồm các nhóm với khả năng xử lý như sau:
- Nhóm các khoản nợ đang tính bằng đồng ECU
Vào thời điểm 1-1-1999, đồng ECU sẽ được tự động chuyển đổi theo tỷ giá 1/1 sang đồng EURO, nên đương nhiên số nợ của Việt Nam tính bằng ECU tới thời điểm đó sẽ phải đổi ra EURO theo tỷ giá trên. Sự chuyển đổi này không có ảnh hưởng gì trong quản lý nợ của Việt Nam, ngoài việc thay đơn vị ECU bằng EURO trên sổ sách.
- Nhóm các khoản nợ hiện đang tính bằng tiền của 11 nước tham gia khối EURO. Các khoản nợ này được chia làm hai nhóm: nhóm các đồng tiền mạnh như DM, FRF và nhóm các đồng tiền còn lại, yếu hơn.
Đối với nhóm thứ nhất, vì Đức và Pháp là hạt nhân của khối EURO, là trụ cột của Liên minh nên không có lý do gì để Pháp, Đức không bảo cệ sự ổn định của đồng DM, FRF cho tới khi chuyển đổi sang đồng EURO nhằm đảm bảo sự thành công của dự án EURO mà họ là những nhà đạo diễn chính.
Như vậy, trong thời gian tới, về cơ bản sẽ không có biến động tỷ giá, không có biến động lãi suất vì nguyên nhân đổi tiền đối với DM hoặc FRF. Nên việc hy vọng chuyển đổi trước các khoản nợ từ DM, FRF sang ECU rồi từ ECU lại đổi sang EURO vào 1-1-1999 nhằm giảm gánh nặng nợ cho ta là khó có khả năng thực hiện được vì thời gian còn lại quá ít. Hơn nữa, cũng còn phải đàm phán với chủ nợ. Ngược lại, Việt Nam nên chuyển đổi toàn bộ số dư nợ tính bằng DM và FRF sang EURO càng sớm càng tốt.
Đối với nhóm thứ hai, có số dư nợ tính bằng các đồng tiền yếu hơn (đồng Lia Italia, Peseta Bồ Đào Nha…) do số dư nợ loại này không lớn trong tổng dư nợ của Việt Nam thì chưa nên chuyển ngay các khoản nợ sang đồng EURO.
- Nhóm các khoản nợ hiện đang tính bằng tiền của các nước chưa tham gia EURO (bảng Anh; Cuaron Thụy Điển, Đan Mạch; đồng Drachme Hy Lạp)
Vì đây là những đồng tiền chưa tham gia ngay vào khối EURO nên dù EURO ra đời ngày 1-1-1999 cũng không có biến động tới cơ cấu nợ tính bằng các đồng tiền này cũng như không có biến động về trách nhiệm trả nợ giữa Việt Nam với các nước này.
Một điểm đáng lưu ý là việc chuyển đổi nợ của ta phụ thuộc vào quyết định của bạn, khi bạn đổi tiền, ta buộc phải tính lại nợ cho phù hợp chứ không phải ta cố làm theo ý mình. Đối với các hiệp định đã ký kết trước 1-1-1999, tát cả các yếu tố lãi suất vay, thời hạn trả, phương thức thanh toán... đã được xác định cụ thể theo từng hiệp định. Giá trị pháp lý của các hiệp định đã ký kết đó sẽ không hề bị thay đổi vì nguyên nhân EURO.
Tuy nhiên, cũng nên nghiên cứu kỹ vấn đề mức lãi suất trên thị trường vốn dài hạn để làm cơ sở cho các đàm phán khác sau này. Về nguyên lý, lãi suất dài hạn trên thị trường tiền tệ sau khi đồng EURO xuất hiện phải thấp hơn lãi suất tương ứng đang tính trên các đồng bản tệ như FRF, DM...
III. TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG EURO TỚI HỆ THỐNG TIỀN TỆ VIỆT NAM
· Vấn đề tỷ giá giữa EURO và VNĐ
Quan hệ giữa VND và EURO thể hiện chủ yếu qua chính sách, cơ chế tỷ giá của Việt Nam sau khi đồng EURO xuất hiện trong lưu thông tiền tệ thế giới.
Một quốc gia như Thái Lan, Inđônêxia... quá sùng bái vào việc gắn nội tệ của mình vào một ngoại tệ như USD mà USD lại chỉ tạo ra sự phát triển bong bóng, sớm muộn gì bong bóng đó cũng sẽ vỡ ra và bên trong là trống rỗng bởi vì nó không phản ánh được sự phát triển kinh tế thực của nước đó. Nhìn theo khía cạnh đó đòi hỏi chúng ta hãy xem xét và tính tới vai trò của EURO. Hãy tạo điều kiện cho EURO để gạt bỏ dần tâm lý sùng bái ấy và để hai đồng tiền này đứng đúng vị trí của nó.
EURO ra đời tác động tới sự điều hành tỷ giá của Việt Nam hiện nay. Từ trước tới nay tỷ giá của Việt Nam (VNĐ) được gắn với đồng USD Mỹ và phần lớn dự trữ ngoại tệ là bằng USD. Hàng ngày công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng thường chỉ công bố một loại tỷ giá là USD/VNĐ, điều này tạo cho người dân có cảm giác USD trở thành chuẩn mực thước đo của tất cả mọi thứ. Một sự biến động nhỏ của tỷ giá đã làm cho người ta xôn xao và đổ xô đi mua USD. Điều này rất nguy hại cho nền kinh tế do đó phải luôn ấn định và công bố tỷ giá EURO/VNĐ. Khi EURO phát huy lợi thế của mình, mạnh, ổn định và có triển vọng tin cậy cao (đã được trình bầy ở Chương I - Mục I). EURO sẽ đe dọa vị trí thống trị của USD trên thị trường tài chính Quốc tế, cạnh tranh quyết liệt với Yên Nhật. Khi đó, những đồng tiền yếu như VND nên khai thác lợi thế này để xây dựng chế độ tỷ giá thích hợp. Chế độ tỷ giá thả nổi có kiểm soát linh hoạt, gắn với một tập hợp các ngoại tệ mạnh, có nhiều quan hệ với Việt Nam mà EURO phải dứt điểm là một ứng cử viên trong đó.
· Vấn đề chuyển dự trữ ngoại tệ sang EURO
EURO ra đời mở ra một cơ hội lựa chọn đối với cơ cấu dự trữ ngoại tệ của Việt Nam. Trong dự trữ ngoại tệ của nước ta bằng đồng tiền của các nước thành viên của khu vực EURO như: FRF, DEM ... sẽ được chuyển sang hoặc JPY hoặc USD hoặc EURO. Việc chuyển đổi này là bắt buộc bởi vì cho đến mốc 01/01/2002 các đồng tiền này sẽ rút khỏi lưu thông.
Chúng ta phải có một cơ cấu dự trữ ngoại tệ phù hợp, cân đối cơ cấu có đủ các ngoại tệ mạnh để bớt phụ thuộc và tránh rủi ro khi đồng tiền đó biến động. Việt Nam cần phải có một lượng dự trữ bằng đồng EURO thích hợp do vậy trước mắt phần dự trữ ngoại tệ từ các đồng FRF, DEM ... nên chuyển thẳng sang đồng EURO. Việc chuyển đổi như vậy sẽ có lợi hơn vì khi đó Việt Nam sẽ có một cơ cấu ngoại tệ hợp lý, có mặt đủ các ngoại tệ cần thiết. Với cơ cấu đó, Việt Nam vừa có đủ phương tiện thanh toán trực tiếp với EU-11 hoặc các nước liên quan, vừa phân tán được rủi ro về tỷ giá hối đoái, giảm mức độ phụ thuộc vào riêng đồng USD.
Vấn đề dự trữ EURO gắn liền với việc chúng ta cho phép và khuyến khích các doanh nghiệp ngoại thương tiến hành thanh toán bằng đồng EURO, nhất là việc buôn bán với khu vực EMU nên sử dụng đồng EURO. Như vậy, Nhà nước nên có chiến lược nhằm tăng tỷ trọng dự trữ ngoại bằng EURO trong tổng dự trữ ngoại tệ để khai thác điểm mạnh của một ngoại tệ mạnh và ổn định, để đáp ứng được nhu cầu thanh toán của các doanh nghiệp này, đồng thời cũng đảm bảo giữ vững được tỷ giá khi cần thiết.
Quan hệ thương mại giữa EU và Việt Nam trong những năm gần đầy chiếm tỷ trọng vào khoảng trên dưới 10% tổng kim ngạch ngoại thương giữa ta và EU. Phần này cộng với các khoản nợ của chúng ta với các nước thuộc liên minh, do đó cơ cấu dự trữ EURO trước mắt từ nay đến trước năm 2002 duy trì ở mức 15 đến 20% trong tổng dự trữ ngoại tệ là phù hợp.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Dù trong hoàn cảnh nào thì việc ra mắt đồng EURO sẽ tạo ra các cơ hội cho các nước châu Á- kể cả Việt Nam- bắt tay vào chương trình quản lý một cách tích cực sự đa dạng tiền tệ trong các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo ra sự ổn định hơn về kinh tế và làm giảm bớt rủi ro về tỷ giá. Tuy nhiên, do Việt Nam cũng chịu những tác động đáng kể khi đồng EURO biến động như các nước trên thế giới nên tìm những giải pháp cho nền kinh tế- tài chính-tiền tệ Việt Nam để giảm thiểu những tác động tiêu cực và phát huy những tác động tích cực đó là hết sức quan trọng. Với kiến thức còn hạn chế của một sinh viên, tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
-Chúng ta phải cân nhắc trước những thuận lợi mà EURO tạo ra cho việc xuất khẩu vào thị trường EMU cũng như phải tính đến những đối thủ khác, đặc biệt là những đối thủ Đông Âu - Trung Âu - Địa Trung Hải. Những khu vực này sẽ thuận lợi hơn ta khi vào thị trường EU dưới sự xuất hiện của đồng EURO. Do đó, cần đánh giá một cách chính xác tới những đối thủ tiềm năng từ khu vực này.
+ Những nước này có truyền thống mạnh hơn ta trong việc xuất khẩu vào EU.
+ Các nước này dễ chuyển đổi cơ chế thanh toán hơn so với ta.
- Các doanh nghiệp nên xem xét khả năng của mình với khu vực EURO thống nhất. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nên tập trung hướng vào những thị trường quen thuộc để từ đó mở rộng các khu vực khác. Chẳng hạn Cộng hoà Pháp là địa chỉ cần hết sức chú trọng, nó sẽ được xem như là một trạm để tiếp cận với khu vực khác của EURO do quan hệ Việt Nam - Pháp có từ lâu đồng thời quan hệ thương mại phát triển khá mạnh.
- Điều chỉnh Luật, các Nghị định về quản lý ngoại hối khi cần thiết nhằm cho phép sử dụng đồng EURO trong các giao dịch quốc tế. Do đồng EURO là một đồng tiền mới nên hành động có thể cần thực hiện là nên cho phép đồng tiền này được niêm yết và buôn bán trong nước cùng với các đồng tiền khác có khả năng chuyển đổi lớn khác. Hành động kịp thời trong vấn đề này sẽ cho phép các nước châu Á tạo điều kiện cho việc đa dạng tiền tệ trongthương mại, đầu tư trực tiếp và các nguồn trợ giúp phát triển chính thức, do đó sẽ đáp ứng được nhu cầu các giao dịch niêm yết bằng đồng EURO với các nước và các công ty trong EMS.
- Đánh giá về thành phần từng loại tiền có thể có trong các khoản thanh toán và các khoản thu với nước ngoài, tìm cách thúc đẩy sự đa dạng hoá và nâng cao sự cân đối giữa luồng cung vào và luồng chuyển ra. Như đã nêu ở trên, sự cân xứng giữa các khoản thanh toán gần sát với các khoản thu trong tiền tệ sẽ làm giảm thiểu những biến động trong giá trị của các nghiệp vụ trả nợ thuần của quốc gia. Điều này đòi hỏi phải phân tích quy mô và thành phần tiền tệ từ nguồn gốc các khoản thanh toán và thu vào bằng ngoại hối . Các phân tích về xuất xứ và nơi đến theo từng nước không đủ bởi đồng tiền sử dụng trong thương mại và nợ có thể được quy định sử dụng đồng tiền của nước thứ ba (ví dụ như các nước EMS hiện nay có thể đang sử dụng USD trong các quan hệ với châu Á). Việc đánh giá tốc độ áp dụng đồng EURO trong những quan hệ như thế ở các công ty và chính phủ trong EMS cũng sẽ cần thiết.
- Đánh giá cơ cấu hiện thời các khoản nợ nước ngoài của chính phủ và cần xác định liệu việc đa dạng hoá tiền tệ lớn hơn có làm giảm toàn bộ chi phí trả nợ hay những biến động của nó hay không. Củng cố đồng EURO so với các loại tiền tệ có khả năng chuyển đổi và làm giảm lãi suất ở các nước trong EMS có thể sẽ dãn đến sự đa dạng trong thành phần tiền tệ các khoản nợ nước ngoài của quốc gia. Sự da dạng hoá có thể tạo ra cơ hội cho việc làm cân xứng tốt hơn cơ cấu các khoản nợ có liên quan với các luồng ngoại tệ chuyển vào trong tương lai và các luồng chuyyẻn ra với những luồng có kết quả từ thương mại và đầu tư trực tiếp.
- Xem xét thành phần tiền tệ trong dự trữ ngoại hối của Ngân hàng trung ương và mức độ phù hợp của các công cụ ngắn hạn mà trong đó họ đầu tư. Trong phạm vi đa dạng hoá tiền tệ của các mối quan hệ kinh tế nước ngoìa đã tồn tại hoặc sẽ được theo đuổi một cách mạnh mẽ hơn trong tương lai, việc hình thành các khoản dự trữ ngân hàng trung ương cũng nên được điều chỉnh tương ứng. Việc phổ biến các công cụ tài chính niêm yết bằng đồng EURO do các chính phủ trong EMS phát hành có hiệu lực từ ngày 1-1-1999 sẽ tạo điều kiện lớn cho việc quản lý các khoản dự trữ nước ngoài ít nhất là tỷ lệ nên giữa các loại tiền châu Âu.
- Xem xét tính phù hợp trong việc lậo tỷ giá chuẩn cho rổ tiền tệ đại diện cho các mối quan hệ thương mại quốc tế. Việc sử dụng tỷ giá chỉ dựa trên một loại tiền(đặc biệt là USD) sẽ có những tác động phụ tiêu cực và không thể lường trước trong các mối quan hệ thương mại với các nước khác. Việc giảm giá đột ngột của đồng USD, ví dụ, sẽ khiến cho đồng nội tệ của Việt Nam lên giá cao hơn so với tiền châu Âu và sẽ khiến cho các khoản xuất khẩu của Việt Nam ít cạnh tranh hơn trong thị trường EU. Việc dùng tiền EURO làm chuẩn trong rổ tiền sẽ làm sự biến động trong tỷ giá qua lại trong các nưóc thứ ba. Theo những đề nghị trong các tài liệu về kinh tế thì việc biến động tỷ giá theo chiều hướng giảm cũng sẽ có tác động tích cực đến số lượng thương mại. Một cuộc nghiên cứu sơ bộ về thành phần các luồng thương mại cho thấy là hiện nay rổ tiền tệ các loại tương đối nhỏ gồm đồng ESD, EURO, Yên, Đôla Singapo, Hồng Công, Đài Loan và đồng Won của Hàn Quốc cũng dùng làm chuẩn tiền tệ.
- Khuyến khích các công ty tham dự vào thương mại nước ngoài nhằm quản lý trực tiếp các khoản ngoại tệ nước ngoài. Bằng việc chủ trương cân đối các khoản thu và các khoản chi, kể cả việc hạn chế số lượng các khoản vay ngoại tệ, đã khiến các công ty tham gia vào thương mại quốc tế có xu hướng phải tối đa hoá cơ cấu tiền tệ các giao dịch trong công ty. Việc tổng kết các vị thế tối ưu của các công ty sẽ đóng góp cho việc đa dạng hoá tiền tệ trên toàn quốc một cách cân đối hơn. Bên cạnh đó, do một số công hiện nay đang có cơ cấu là công ty chuyên nhậo khẩu nay chuyên xuất khẩu hoặc là chỉ tham dự vào một số thị trường có lựa chọn và do đó không thể đáp ứng phù hợp các khoản thu và chi trong cùng một loại tiền tệ nên việc chuyển khai tiếp theo và các thị trường ngoại hối sau này sẽ cho phép những công ty có vị thế như vậy được cân đối với mức độ nền kinh tế của quốc gia nói chung.
LỜI KẾT
Không ai có thể dự báo chắc chắn mức độ sử dụng EURO trên các thị trường . Nhưng đồng EURO là đồng tiền có độ tin cậy cao, ra đời trên cơ sở các điều kiện về thị trường, tỷ trọng kinh tế, xuất khẩu, ... trong một nền kinh tế lành mạnh, đảm bảo bằng sự tồn tại lâu bền của hiến chương ổn định và tăng trưởng, đồng thời lại được quản lý bởi Ngân hàng Trung ương Châu Âu độc lập chỉ có một mục tiêu duy nhất là ổn định giá cả, đồng EURO sẽ nhanh chóng chiếm được lòng tin của thị trường , của thế giới và nhất định sẽ được cộng đồng quốc tế, nhất là các thương gia trên thế giới sử dụng rộng rãi. Khi đó, EURO sẽ góp phần lập lại thế cân bằng cho hệ thống tiền tệ quốc tế vốn đang bị mất cân đối lớn do sự lệ thuộc quá đáng vào đôla Mỹ.
Đương nhiên trước mắt, EURO không có ý định làm “ đảo chính “, lại càng không thể “ lật đổ “ngay được ngai vàng của đôla, nhưng hy vọng cùng với sự xuất hiện của một nhân tố mới tích cực này, thế giới sẽ tránh được “ vấn đề đôla “ theo cách nói giàu hình tượng của Cựu Bộ trưởng Ngân khố Mỹ, James Connlly: “ Đôla là đồng tiền của chúng tôi nhưng vấn đề thuộc về các bạn” .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 246- tháng 11 năm 1998
Tạp chí tài chính số tháng 2-2000.
Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 8,10/1999.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 250 (tháng 3/1999).
Báo Ngân hàng số 85
Báo Chứng khoán Việt Nam số tháng 10/2000
Báo Tài chính tháng 7/2000.
Thời báo Kinh tế số 149, 185, 243/2000.
Giáo trình lý thuyết tiền tệ- PGS.PTS Vũ Văn Hoá.
(NHÀ XUẤT BẢN TÀI CHÍNH HÀ NỘI NĂM 1998)
Website: www.vnn.vn/kinhte-taichinh
Website: www.tintuc.vnn.vn
Website: www.yahoo.com
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động của đồng EURO đến nền kinh tế - tài chính - tiền tệ thế giới & VN.doc