Đề tài Tác động của intel đến Costa Rica

Mục lục I.GIỚI THIỆU VỀ INTEL VÀ COSTA RICA4 1.Đôi nét về đất nước Costa Rica. 4 2.Đôi nét về tập đoàn Intel (Integrated Electronics)7 3.Dự án đầu tư của Intel lên Costa Rica. 10 II.COSTA RICA ĐÃ LÀM NHỮNG GÌ ĐỂ THU HÚT ĐƯỢC ĐẦU TƯ CỦA INTEL. 11 1.Động thái mà Costa Rica đã làm để thu hút đầu tư từ Intel:11 2.Costa Rica không ngừng cải thiện điều kiện đầu tư để thu hút các nhà đầu tư mới và giữ chân các nhà đầu tư. 12 III.TÁC ĐỘNG CỦA INTEL LÊN COSTA RICA15 1.Những tác động lên nền kinh tế. 15 2.Môi trường đầu tư. 23 3.Công nghiệp Costa Rica. 28 4.Những tác động của phát triển và xã hội30 4.1. Tăng cường cơ sở hạ tầng giáo dục.30 4.2. Bảo vệ môi trường :32 4.3Chia sẻ tri thức, văn hóa kinh doanh và các tiêu chuẩn. 32 IV.LỢI ÍCH MÀ INTEL NHẬN ĐƯỢC KHI ĐẦU TƯ VÀO COSTA RICA34 1. Dự án đầu tư của Intel tại Costa Rica. 34 2.Giá trị gia tăng của Intel35 3.Những lợi ích bất ngờ khi đầu tư vào Costa Rica. 35 V.THÁCH THỨC MÀ COSTA RICA PHẢI ĐỐI MẶT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM . 36 1.Thách thức. 36 1.1Cạnh tranh giữa các quốc gia trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài36 1.2Không ngừng cải thiện môi trường đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài36 2.Bài học thực tiễn xúc tiến đầu tư. 38 VI.THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM . 44 1)Tình hình thu hút FDI của Việt Nam . 44 1.1.Tình hình thu hút FDI của Việt Nam qua các giai đoạn. 44 1.2.Quá trình đầu tư của Intel vào việt nam . 53 a)Các giai đoạn Intel đầu tư vào Việt Nam . 53 b)Một số việc Intel đã làm khi đầu tư vào Việt Nam . 55 2)Một số thuận lợi trong việc thu hút (FDI) từ các (MNCs) vào Việt Nam . 59 3)Một số khó khăn trong việc thu hút vốn FDI từ các MNCs. 61 4)Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp từ các MNCs vào Việt Nam I.GIỚI THIỆU VỀ INTEL VÀ COSTA RICA1.Đôi nét về đất nước Costa RicaCosta Rica (nghĩa là “bờ biển giàu có”), tên chính thức là Cộng hòa Costa Rica, là một nước cộng hòa tại Trung Mỹ, giáp với Nicaragua ở mặt Bắc, Panama ở phía Nam và Đông Nam, Thái Bình Dương ở phía Tây và Nam, và biển Caribe ở phía Đông. Với vị trí địa lý này Costa Rica rất thuận tiện cho việc tiếp cận tới các thị trường Châu Mỹ vì chung một múi giờ với vùng trung tâm Hoa Kỳ, Costa Rica còn có lợi điểm vì thẳng đường biển trực tiếp tới Châu Âu và Châu Á. Vào thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha, Costa Rica hầu như bị lãng quên, phát triển một cách đơn lập. So với những thuộc địa khác thì Costa Rica kém phát triển và có thể nói là nghèo nhất vùng Trung Mỹ. Nhưng trong hoàn cảnh tự lập của giai đoạn này, nền móng Costa Rica đã hình thành với những yếu tố để phát triển một xã hội bình đẳng so với những nước láng giềng. Sau khi thoát khỏi sự cai trị của Tây Ban Nha thì Costa Rica đã cùng với 5 nước còn lại trở thành những quốc gia độc lập tới ngày nay. Về mặt chính trị,Costa Rica có một truyền thống dân chủ khá lâu dài bắt đầu từ năm 1899. Là một nền dân chủ đầy đủ kể từ năm 1948, Costa Ricađã có một lịch sử hòa bình và chính phủ cởi mở, thân thiện. Chính phủ càng ngày càng được dân chúng tin cậy và có nhiệm vụ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, quyền sở hữu và quy định của pháp luật vững chắc. Costa Rica được xem là một trong những nước ổn định nhất trong vùng, tránh được những cuộc bạo động chính trị như những nước Trung Mỹ khác. Về mặt kinh tế, hầu hết hoạt động kinh tế theo truyền thống tập trung trong các hợp tác xã nông nghiệp, cho đến năm 1982 khi nợ lan rộng, cũng như nhiều các nước Mỹ La-Tinh, buộc phải thay đổi trong chính sách. Sau thời gian đó, Costa Rica đã thay đổi đáng kể từ chính sách thay thế nhập khẩu sang chương trình tự do hóa kinh tế một cách tích cực. Đặc biệt, chính phủ chuyển sang tư nhân hóa một số doanh nghiệp nhà nước, mở tài khoản vốn,dỡ bỏ các hạn chế về thu hồi vốn và đồng tiền của Costa Rica có thể chuyển đổi. Nó cũng tham gia vào các hiệp định thương mại khu vực và toàn cầu.Costa Rica cũng nắm bắt và thực hiện những hành động cụ thể để thu hút và duy trì đầu tư nước ngoài, bao gồm các chính sách tự do hóa mậu dịch khu vực và cải tiến cơ sở hạ tầng. Sở hữu nước ngoài được chấp nhận rộng rãi hơn và giải quyết tranh chấp trên cơ sở tài sản bình đẳng. Intel có thể quan sát trực tiếp một lịch sử nền kinh tế mở với các mối quan hệ thương mại mạnh mẽ trong thị trường quốc tế, đặc trưng bởi sản phẩm và dòng vốn không bị giới hạn.Tập trung phát triển trong các ngành điện tử. Sau những nỗ lực cắt giảm mức lương cao của Costa Rica trong ngành công nghiệp may mặc,Chính phủ thay đổi các ưu tiên trong ngành công nghiệp , mà điều này phụ thuộc vào lực lượng lao động được đào tạo tốt như là một nhân tố khác biệt. Quyết định này đã giúp tập trung vào chiến lược thu hút đầu tư các công ty nước ngoài công nghệ cao và đặc biệt là trong ngành điện tử. Trong khi điều này không phải là một cách tiếp cận mới ở các nước phát triển, Costa Rica cũng thực hiện từng bước đầu tư trong giáo dục và huấn luyện kỹ thuật, và cung cấp một mức lương thấp nhưng được giáo dục tốt lao động. Bằng cách đầu tư khoảng 5% GDP trong giáo dục, với một chương trình hoạt động giảng dạy song ngữ (tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai), Costa Rica lần đầu tiên có khả năng thu hút sự đầu tư nhỏ hơn trong sự sản xuất tự động.nền tảng này đã mở đường cho việc xem xét của Intel với Costa Rica. Và gần đây, vào những năm đầu thế kỷ 21 ngành sản xuất hàng điện tử, dược phẩm, nhu liệu và cung cấp dịch vụ tài chính cùng ngành du lịch sinh thái là động lực chính cho nền kinh tế Costa Rica, quốc gia này đã trở thành một địa điểm hấp dẫn với các nhà đầu tư ngoại quốc. Chính sách khuyến khích tự do mậu dịch của chính phủ Costa Rica, nhất là về ngành công nghiệp kỹ thuật cao đã gặt hái được một số kết quả khả quan. Những biện pháp giảm thuế cho những nhà đầu tư đã

doc84 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2961 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của intel đến Costa Rica, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là sản phẩm hỗ trợ bộ vi xử lý - chip - set). Một số việc Intel đã làm khi đầu tư vào Việt Nam Việt Nam là một thị trường công nghệ thông tin đầy tiềm năng cũng là thị trường có chi phí rất cạnh tranh so với các quốc gia khác; chính phủ việt nam lại rất quan tâm đến phát triển khoa học công nghệ và có những chính sách, chiến lược và cam kết đưa công nghệ thông tin lên hàng đầu trong công cuộc phát triển kinh tế. Hơn nữa Việt Nam có nguồn nhân lực rất dồi dào. Do đó, nên ngay từ khi có mặt tại Việt Nam, Intel đã tập trung cho chiến lược phát triển thị trường với 4 mũi nhọn phù hợp với chính sách phát triển công nghệ thông tin của chính phủ việt nam như: nâng cao, mở rộng phổ biến ứng dụng công nghệ thông tin; xây dựng công nghiệp; xây dựng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và hỗ trợ giáo dục công nghệ thông tin. Hàng loạt các chương trình như đưa tin học về cộng đồng tới nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước, nhất là các vùng sâu vùng xa; đưa các chương trình tiếp cận công nghệ thông tin với các giải pháp phần mềm hỗ trợ doanh nghiệp trong quản lý sản xuất kinh doanh (đã làm với ngành du lịch, dệt may…); Intel Việt Nam cũng đã phối hợp với phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam triển khai thực hiện đề án 191 và xây dựng trung tâm tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin tại TP. Hồ Chí Minh để trưng bày những giải pháp công nghệ thông tin, tư vấn miễn phí, hàng tuần tổ chức các khóa đào tạo, hội thảo, nhằm nâng cao nhận thức và phương thức tiếp cận với công nghệ thông tin cho doanh nghiệp. ngoài ra, Intel Việt Nam đã ký kết nhiều bản thỏa thuận, biên bản ghi nhớ với bộ bưu chính viễn thông hỗ trợ xây dựng chính phủ điện tử, thực hiện đề án 112. Đặc biệt là với bộ y tế trong hỗ trợ đào tạo sử dụng phần mềm quản lý hồ sơ bệnh nhân trên toàn quốc và hỗ trợ ngành giáo dục trong việc nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin với các chương trình như Intel Teach to the Future – Dạy học cho tương lai (giúp giáo viên ứng dụng công nghệ vào chương trình giảng dạy) từ 2004 đến nay đã đào tạo được hơn 6.000 giáo viên. Chương trình Intel Teach Là một phần trong sáng kiến giáo dục của Intel Innovation in education, mới đây Intel đã ký kết thỏa thuận hợp tác với Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh để triển khai chương trình này; Chương trình Intel World Ahead – nhằm nâng cao cuộc sống của người dân thông qua việc đẩy mạnh khả năng tiếp cận công nghệ… - đó là đầu vào của ngành công nghệ thông tin Việt Nam. Việc chú trọng giáo dục đào tạo về công nghệ thông tin là hướng đi tích cực giúp lực lượng lao động trẻ Việt Nam dễ dàng tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp ra trường và hội nhập thuận lợi hơn với cộng đồng quốc tế. Intel cũng đưa những công nghệ mới góp phần phát triển Internet ở Việt Nam như Wifi (công nghệ không dây) và Wimax (công nghệ không dây băng thông rộng). Intel đã hỗ trợ 8,3 triệu USD phát triển giáo dục Việt Nam Từ năm 2006, khi Intel quyết định đầu tư dự án 1 tỉ USD tại khu Công nghệ Cao thành phố Hồ Chí Minh, cũng là lúc Intel bắt đầu thực hiện các chương trình hợp tác với Bộ giáo dục và đào tạo, các trường đại học, cao đẳng cho kế hoạch nhân sự của nhà máy nói riêng và giúp đào tạo đội ngũ lao động trẻ trong lĩnh vực công nghệ cao tại Việt Nam. Sau gần 5 năm hợp tác, Intel đã phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo cùng các trường trong nhiều lĩnh vực như: Chương trình học bổng; Hợp tác liên minh giáo dục ĐH ngành kỹ thuật HEEAP; Hỗ trợ thiết bị Lab, Hỗ trợ giảng viên nâng cao tiếng Anh; Chia sẻ thông tin; Phát triển giáo trình… Toàn bộ kinh phí Intel đã đầu tư cho các hoạt động liên kết đào tạo giáo dục tại Việt Nam trong 5 năm qua là 160 tỉ đồng (tương đương khoảng 8.3 triệu đô la Mỹ). Đặc biệt trong tháng 6 năm 2011 vừa qua, 28 sinh viên khóa du học đầu tiên do công ty tài trợ du học tại Mỹ đã tốt nghiệp với điểm trung bình từ 3.76 trở lên, và được đánh giá rất cao từ phía trường Đại học Portland. Hiện tại, 28 tân kỹ sư này đang làm việc tại nhà máy Intel tại Việt Nam. Ông Rick Howarth, Tổng Giám đốc của Nhà máy Intel Products Việt Nam nói: “Các hoạt động giáo dục đào tạo mà Intel đã hợp tác với Việt Nam trong thời gian qua là một cam kết lâu dài mà Intel đã, đang và sẽ thực hiện. Đó là cách Intel đóng góp cho sự phát triển giáo dục của Việt Nam nói chung và chiến lược phát triển đội ngũ nhân viên tương lai của ngành công nghệ cao nói riêng. Tăng cường việc tìm đối tác cung ứng nội địa Để tăng cường việc tìm đối tác cung ứng nội địa, Intel Việt Nam đã ký kết biên bản ghi nhớ với Ban quản lý khu công nghệ cao TPHCM (SHTP) rằng, cung ứng trong nước sẽ trở thành nhà cung ứng của Intel. Theo đó, Intel sẽ chia sẻ lộ trình và tư vấn cho doanh nghiệp trong nước để họ trở thành nhà cung ứng tiềm năng. Về phía Ban quản lý khu công nghệ cao TPHCM, đơn vị này cũng đã quy hoạch 14 ha cho các nhà cung cấp sản phẩm hỗ trợ cho khu công nghệ cao. Ngoài ra, thông qua website của Ban quản lý khu công nghệ cao TPHCM, Intel có thể đưa ra những yêu cầu về sản phẩm hỗ trợ, tìm kiếm nhà cung ứng, cũng như thông tin từ phía nhà cung ứng. Dự án Nhà máy kiểm định và sản xuất chip - set của Intel tại Khu công nghệ cao TP.HCM là nhà máy lớn nhất trong số 6 nhà máy của Intel trên phạm vi toàn cầu. Do đó, nhu cầu về nguyên vật liệu cho hoạt động của Nhà máy là không nhỏ. Hơn nữa, theo dự định của nhà sản xuất chip hàng đầu thế giới này, một khi nhà máy đã hoạt động hết công suất, Intel sẽ tiến hành mở rộng sang lĩnh vực thiết kế và sản xuất CPU (trong vòng 2 - 3 năm tới). Khi đó, sẽ có 4.000 lao động làm việc tại Nhà máy của Intel. Để đảm bảo nguồn hàng cung ứng tại thị trường nội địa, Intel Việt Nam cũng đưa ra một số tiêu chuẩn cho đối tác. Theo đó, nhà cung ứng nội địa phải đảm bảo được yêu cầu về nguồn sản phẩm, chất lượng, an toàn (không tổn hại đến mội trường), giá trị cao, kỹ thuật cao và chi phí hợp lý. Intel đang có nhu cầu cung ứng nội địa cho các sản phẩm cơ khí, thiết bị phần cứng, các sản phẩm cầm tay và phụ tùng thay thế (hiện Intel Việt Nam cần 60 nhãn hiệu phụ tùng thay thế). Nhu cầu của Intel là vậy, nhưng nhà cung ứng nội địa thì cho rằng, họ cần biết phương thức thanh toán từ phía Intel, vì điều này liên quan đến vấn đề lãi suất ngân hàng. Cụ thể, với mức lãi suất cao như hiện nay, doanh nghiệp khó đổ hết vốn vào kho theo tiêu chuẩn phải luôn có hàng để đáp ứng. Khi lựa chọn nhà cung cấp, Intel quan tâm đến “sức khỏe tài chính” của doanh nghiệp đó. Theo đó, Intel cần biết lợi nhuận của nhà cung ứng trong vòng 3 năm liên tiếp và dòng tiền của họ có đảm bảo để ổn định sản xuất trong vòng 1 năm hay không… Hơn nữa, trước khi tiến hành hoạt động sản xuất, Intel sẽ thông báo đến nhà cung ứng chuẩn bị trong thời gian 1 - 2 năm (thời hạn thanh toán tối đa từ phía Intel là trong vòng 60 ngày). Một số thuận lợi trong việc thu hút (FDI) từ các (MNCs) vào Việt Nam Việt nam đã ký các cam kết liên quan đến đầu tư nước ngoài Việt Nam đã ký các hiệp định song phương và đa phương về đầu tư nước ngoài như: Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS), hiệp định đầu tư Việt Nam - Nhật Bản, hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, hiệp định giữa Việt Nam và Bulgaria về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định khung về quan hệ Việt Nam - Uỷ ban Châu Âu (EC), hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan (CEPT), Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GAT), hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ….. Trong những cam kết đó đặc biệt phải kể đến là hiệp định thương mại tự do của WTO. Các hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư được dựa trên các nguyên tắc: - Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích đầu tư của bên ký kết bằng việc chấp nhận đầu tư đó trên nguyên tắc công bằng, thoả đáng, không gây phương hại bằng biện pháp bất hợp lý và phân biệt đối xử. - Không trưng thu, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư bằng các biện pháp hành chính, trừ trường hợp vì mục đích công cộng thì tuân thủ phương châm không phân biệt đối xử và bồi thường nhanh chóng, đầy đủ theo đúng giá thị trường, phù hợp với thủ tục luật định. - Đảm bảo quyền chuyển vốn, lợi nhuận và các khoản thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư về nước theo nguyên tắc “không chậm trễ và bằng đồng tiền tự do chuyển đổi” - Công nhận quyền của nhà đầu tư trong việc đưa vụ tranh chấp với cơ quan nhà nước ra toà hành chính, trọng tài hoặc bất kỳ cơ chế giải quyết tranh chấp nào do nhà đầu tư lựa chọn. Môi trường xã hội và chính trị ổn định Sự ổn định về chính trị và xã hội là yêu cầu đầu tiên quan trọng nhất, quyết định đối với việc thu hút các MNCs. Một quốc gia có môi trường chính trị ổn định thì các nhà đầu tư mới yêu tâm đầu tư. Nếu môi trường không ổn định, thường xuyên có bạo loạn thì khó có thể bảo toàn vốn cũng như không thể tiến hành sản xuất kinh doanh để sinh lời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước, nền chính trị xã hội của nước ta luôn ổn định. Theo đánh giá của các MNCs thì Việt Nam được coi là nước có sự ổn định về chính trị và xã hội đặc biệt cao, không tiềm ẩn xung đột về tôn giáo và sắc tộc. Đó là điều kiện cơ bản để đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế đối ngoại, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các MNCs nói riêng. Đường lối đối ngoại mở rộng và tích cực Cùng với sự ổn đinh về chính trị - xã hội, Việt Nam có đường lối đối ngoại mở rộng, đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược mở cửa hướng về xuất khẩu, mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư nước ngoài. Với phương châm “Việt nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” nước ta đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình thích hợp và thực hiện đúng các cam kết quốc tế trong quan hệ đa phương và song phương. Việt Nam đã là thành viên thứ 7 của ASEAN từ ngày 28/7/1995, gia nhập APEC tháng 11/1998, là thành viên đầu tiên của ASEM, là thành viên của WTO từ ngày 7/11/2006. Hiện nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước, quan hệ buôn bán với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ và tiếp nhận đầu tư của gần 80 quốc gia. Chính việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cần thiết và thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài của các MNCs. Có những lợi thế so sánh Việt Nam có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi. Nằm ở vị trí trung tâm của vùng Đông Nam Á. Các tuyến đường hàng không và hàng hải trên thế giới đều rất gần Việt Nam, tạo điều kiện cho giao thương buôn bán với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác, Việt Nam có nguồn tài nguyên vô cùng đa dạng và là một trong những quốc gia giàu tài nguyên nhất thế giới. Người lao động Việt Nam rất sáng tạo trong công việc. Như vậy, những lợi thế của Việt Nam sẽ là điều kiện để các MNCs đầu tư khai thác, mở rộng thị trường, tìm kiếm lợi nhuận cao. Vấn đề là chúng ta phải biết lựa chọn các nhà đầu tư thực sự có tiềm lực, muốn làm ăn lâu dài. Đồng thời Việt Nam cần có chính sách mềm dẻo và khôn khéo để vừa thu hút các MNCs vừa đảm bảo khai thác có hiệu quả nhữg lợi thế của mình theo nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền và hai bên cùng có lợi. Một số khó khăn trong việc thu hút vốn FDI từ các MNCs Bên cạnh những mặt thuận lợi thì thực tế thu hút vốn FDI nói chung và vốn FDI từ các MNCs nói riêng còn gặp rất nhiều khó khăn, trong đó một số vấn đề khó khăn đặc biệt phải kể đến nhu sau: Nền kinh tế thị trường còn sơ khai Hơn 25 năm qua nền kinh tế của Việt Nam đã thành công trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường của Việt Nam còn rất sơ khai. Tính chất sơ khai được biểu hiện ở những khía cạnh như: Thị trường hàng hoá dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng lậu, hàng nhái nhãn hiệu làm rối loạn thị trường). Thị trường hàng hoá sức lao động mới phát triển. Một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới ra đời nhưng đã nảy sinh nhiều hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn rất nhiều so với mức cầu. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở. Rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng về thủ tục. Trong khi nhiều ngân hàng thương mại lại không thể cho vay nên để dư nợ quá hạn đến mức báo động. Thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động nhưng vẫn còn thiếu “hàng hoá” để mua bán và chưa được kiểm soát chặt chẽ. Trình độ sơ khai của nền kinh tế thị trường của Việt Nam chưa đủ đảm bảo cho một môi trường đầu tư thuận lợi, chưa thực sự có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các MNCs. Sự yếu kém này đang đặt ra thách thức lớn đối với chính sách thu hút MNCs của Việt Nam. Năng lực của đối tác Việt Nam còn nhiều hạn chế Các đối tác Việt Nam hiện nay vẫn còn chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước. Trên thực tế trình độ năng lực của các doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp và không ổn định làm cho doanh nghiệp khó khăn trong việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh, hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá (giá thành các sản phẩm trong nước cao hơn các sản phẩm nhập khẩu). Các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) chưa thực sự được các công ty quan tâm một cách thích đáng. Phần lớn chỉ giành một phần kinh phí rất hạn hẹp cho hoạt động này. Công tác nghiên cứu thị trường còn rât yếu kém. Với quy mô còn nhỏ bé, lại yếu kém về năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam chưa trở thành các đối tác thực sự tin cậy và ngang tầm để các MNCs tin tưởng đặt quan hệ làm ăn lâu dài. Đây cũng là khó khăn trở ngại rất lớn mà chúng ta cần phấn đấu để nhanh chóng vượt qua. Thể chế và luật pháp còn nhiều nhược điểm Trong những thập kỷ vừa qua, Nhà nước đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc xây dựng hệ thống pháp luật. Tuy vậy, hệ thống luật pháp của Việt Nam vẫn còn tồn tại một số nhược điểm sau: - Tính minh bạch, nhất quán và ổn định của của luật pháp là nhược điểm lớn nhất, đồng thời cũng là đòi hỏi của nhà đầu tư nước ngoài. Chính sự thiều minh bạch của luật pháp đã tạo ra những kẽ hở cho tệ nạn nhũng nhiễu, lộng quyền và gây phiền hà với các nhà đầu tư. Tình trạng không nhất quán và không ổn định của luật pháp kéo theo những thay đổi khó lường trước đối với doanh nghiệp và làm cho một số nhà đầu tư không thể thực hiện được những dự tính ban đầu của mình. - Các văn bản quy phạm pháp luật thiếu tính nhất quán về nội dung và thời hiệu thi hành. Nhiều nội dung còn dừng lại ở mức chung chung chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể. Sự mâu thuẫn và chồng chéo giữa các luật với nhau, giữa luật và pháp lệnh, nghị định, thông tư đã làm cho các đối tượng thi hành luật gặp nhiều khó khăn, đồng thời cũng chính là kẽ hở để các tổ chức và cá nhân lách luật trong các hoạt động không hợp pháp. - Tình trạng phép vua thua lệ làng là khá phổ biến trong việc một số cơ quan trung ương và chính quỳên địa phương tự ý ban hành các văn bản trái với luật hoặc không thi hành luật. Hiện tại thì hệ thống luật của Việt Nam còn nhiều mẫu thuẫn và chưa phù hợp với các cam kết quốc tế đã tham gia. Yêu cầu này đã được đặt ra cách đây nhiều năm song nhiệm vụ sửa đổi này tiến hành rất chậm so với tiến độ đặt ra. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa cao. Kết cấu hạ tầng của Việt Nam chưa phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế về chi phí và chất lượng. Mặc dù hạ tầng cơ sở đã được cải thiện trong những năm qua nhưng khả năng sẵn có và chất lượng kết cấu của Việt Nam vẫn dưới mức trung bình trong khu vực. Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài được phỏng vấn đều chì trích hệ thống vận tải nghèo nàn là một trở ngại lớn trong kinh doanh. Đồng thời họ còn cho biết, chi phí vận tải của Việt Nam còn cao hơn nhiều so với bình quân chung trong khu vực và hầu hết các nước quanh vùng. Hầu hết các dự án kết cấu hạ tầng sử dụng nhiều vốn. Cho đến nay, đầu tư vào kết cấu hạ tầng chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, bao gồm viện trợ ODA và các khoản vay ưu đãi. Sự tham gia của khối tư nhân vào xây dựng kết cấu hạ tầng vẫn còn nhiều hạn chế và chủ yếu là theo hình thức xây dựng-kinh doanh-chuyển giao trong lĩnh vực cung cấp điện, nước, viễn thông. Quản lý và kinh doanh kết cấu hạ tầng tập trung vào một số ít công ty nhà nước. Điều này dẫn đến thiếu tính cạnh tranh, hoạt động kinh doanh không hiệu qủa. Tóm lại, kể từ khi Việt Nam ban hành Luật Đầu tư Nước ngoài thì con đường để các MNCs đầu tư vào Việt Nam đã được khai thông. Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc thu hút vốn FDI về tổng số vốn đầu tư, số dự án, số lượng nhà đầu tư. Nguồn vốn FDI này cũng có tác động rất lớn đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều nguyên nhân khiến cho môi trường đầu tư trở nên kém hấp dẫn. Để tăng cường thu hút vốn FDI từ các MNCs Việt Nam cần có những giải pháp đồng bộ và nhất quán. Các Công ty đa quốc gia có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế thế giới. Với thế mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản lý các MNCs đã góp phần làm tăng nội lực và cung cấp một số lượng vốn lớn cho các nước nhận đầu tư. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển. Mức tích luỹ cho đầu tư còn thấp. Vì vậy, tiếp nhận vốn FDI từ các MNCs là động lực lớn đối với sự phát triển kinh tế. Trước hết, thông qua hoạt động đầu tư, các MNCs bổ sung một lượng vốn quan trọng cho sự phát triển. Đi đôi với việc cung cấp vốn, các MNCs còn cung cấp công nghệ, nâng cao trình độ cho người lao động, tạo thêm công ăn việc làm và đóng góp vào ngân sách nhà nước. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc thu hút vốn FDI từ các MNCs. Về cơ bản, vốn FDI của các MNCs đã thể hiện được những vai trò tích cực trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước như: mở rộng xuất khẩu và tăng thu ngân sách, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, tạo việc làm và phát triển nguồn lực. Tuy nhiên, vốn FDI vào Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Lượng vốn FDI mà Việt Nam thu hút được từ các MNCs còn rất thấp so với các nước trong khu vực. Quy mô của dự án còn nhỏ bé. Hơn nữa, vốn FDI này phân bố không đồng đều, mới chỉ tập trung vào những tỉnh thành có điều kiện thuận lợi nên chưa có tác động khuyến khích sự phát triển của những vùng khó khăn, vùng sâu và vùng xa. Hơn nưa, vốn FDI mà chúng ta thu hút được chủ yếu là của các MNCs Châu Á. Các MNCs có nguồn gốc Châu Âu và Mỹ còn rất hạn chế. Do đó, nguồn vốn FDI vào Việt Nam còn thấp. Thực tế cho thấy năng lực thu hút các MNCs của chúng ta còn thấp là do tác động của nhiều nguyên nhân mà trước hết phải kể đến là còn tồn tại những quan điểm chưa đúng về các MNCs. Tuy nhiên, nguyên nhân chính vẫn là do môi trường đầu tư của Việt Nam còn thiếu hấp dẫn, chi phí đầu tư cao, công tác quản lý còn nhiều bất cập, công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự hiệu quả, trình độ của đội ngũ quản lý và của người lao động Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của các MNCs. Bên cạnh đó, việc thu hút vốn FDI từ các MNCs còn gặp phải rất nhiều khó khăn như: nền kinh tế thị trường của chúng ta còn rất sơ khai, năng lực của đối tác Việt Nam còn hạn chế, cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn thấp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường thu hút vốn FDI từ các MNCs trước hết chúng ta cần chủ động thu hút các MNCs. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong nước cũng cần nâng cao khả năng cạnh tranh để có thể trở thành đối tác tin cậy của các MNCs. Các chính sách về đầu tư liên quan đến MNCs cần được thực hiện nhất quán, các thủ tục hành chính tiếp tục cải tiến theo hướng minh bạch và đơn giản, cải thiện cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng nguồn lực đáp ứng tốt những yêu cầu của các MNCs, tăng cường tự do hoá đầu tư phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư thiết thực và hiệu quả. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp từ các MNCs vào Việt Nam Thống nhất nhận thức đúng và chủ động thu hút MNCs Để ngày càng thu hút được nhiều các MNCs Việt Nam cần có những nhận thức đúng đắn khách quan về các MNCs trên tất cả các khía cạnh như ưu nhược đỉêm của các MNCs, lợi ích cũng như tác động của MNCs đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Trước hết, Việt Nam phải luôn xác định một mặt chúng ta tiến hành hợp tác với các MNCs, mặt khác chúng ta phải đấu tranh để đảm bảo nguyên tắc giữ vũng độc lập tự chủ và cùng có lợi. Thứ nhất: cần nhận thức lại mối quan hệ giữa các nguồn lực trong phát triển kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn nước ngoài Việt Nam thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ phụ thuộc rất nhiều vào khai thác các nguồn lực trong nước cho sự tăng trưởng kinh tế. Về vốn đầu tư có thể chia ra hai loại là vốn trong nước và vốn nước ngoài. Vấn đề quan hệ giữa nội lực và ngoại lực luôn được đặt ra trong quá trình xây dựng kinh tế của Việt Nam. Với dân số 85 triệu người, Việt Nam cần dựa vào việc khai thác tối đa nội lực trong nước như tài nguyên, con người, điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý… để tận dụng lợi thế sẵn có cho sự phát triển. Mặc dù vậy, kể cả khi nhà nước đã tạo được môi trường đầu tư hấp dẫn để khai thác tối đa nguồn lực trong nước thì cũng như các nước đang phát triển khác thì Việt Nam cũng phải giải bài toán vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế trong khi điều kiện nguồn vốn tự có trong nước là có hạn. Đó là chưa nói đến khía cạnh khác của đầu tư là có nên gia tăng tốc độ tăng trưỏng kinh tế để đạt mức cao hơn dự kiến sao cho có để thu hẹp khỏang cách với các nước phát triển trong khu vực. Nên chăng cách đúng nhất đối với Việt Nam là huy động tối đa nguồn lực để phát triển kinh tế, không phân biệt đó là nội lực hay ngoại lực. Thật vậy, đầu tư nước ngoài không chỉ đem lại một lượng vốn lớn để xây dựng các khu công nghiệp, hình thành các ngành công nghiệp mới, cải tạo nhiều xí nghiệp lạc hậu mà còn giúp Việt Nam du nhập công nghệ mới, phương thức quản lý và kinh doanh mới. Việc giới hạn tỷ trọng vốn đầu tư của đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và của MNCs nói riêng không cần thiết và không phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế bởi lượng vốn nước ngoài mà Việt Nam nhận được còn quá ít so với lượng cung cấp của thế giới. Ví dụ, trung bình mỗi năm Việt Nam thu hút được 2 tỷ USD trong khi tổng lượng vốn FDI của thế giới là khoảng 1.000 tỷ USD. Thứ hai: Cần coi FDI nói chung và FDI của các MNCs nói riêng là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế. Theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, các cá nhân và tổ chức nước ngoài thực hiện các dự án đầu tư ở Việt Nam thông qua 3 hình thức chủ yếu: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Do vậy, doanh nghiệp nước ngoài có thể là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước hay có yếu tố hỗn hợp có cả yếu tố quốc doanh và tư doanh. Thêm vào đó, phần lớn các doanh nghiệp nước ngoài đều thuê hoặc sử dụng đất do bên Việt Nam góp vốn. Do vậy, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể hoạt động tại Việt Nam như một thành phần kinh tế của Việt Nam. Về bản chất nó không phải là một thành phần kinh tế độc lập, nhưng là những bộ phận trong các thành phần kinh tế khác nhau của nước ta. Chính vì thế nó là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế Việt Nam. Thứ ba: cần nhận thức vấn đề độc lập và tự chủ trong thế giới hiện đại để thu hút đầu tư nước ngoài. Chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của Đảng và nhà nước ta cần được đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế của đất nước đối với khu vực và thế giới. Trong tình hình đó phải biết lựa chọn lĩnh vực ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới để phát triển chứ không thể xây dựng một nền kinh tế tự cấp như trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung quan liêu trước kia. Hiệu quả của nền kinh tế phụ thuộc vào việc lựa chọn công nghệ, sản phẩm phù hợp với đòi hỏi của thị trường trong nước và trên thế giới. Trong vài thập kỷ gần đây xu hướng tự do hoá thương mại đã tác động đến việc giảm thiểu các rào cản trong giao dịch quốc tế. Do đó, các MNCs đã cấu trúc lại tổ chức của mình để vừa thích ứng với cường độ hội nhập toàn cầu vừa đảm bảo tính hiệu quả của hệ thống. Các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cần phát huy lợi thế của mình trong việc gia nhập hệ thống sản xuất toàn cầu vì lợi thế về địa điểm đặt các nhà máy của MNCs phụ thuộc vào nhân tố cơ bản là sự khác biệt về chi phí sản xuất. Nếu không có cách tiếp cận đúng đắn để tham gia vào hệ thống kinh tế toàn cầu thì nước ta khó có thể lựa chọn đúng đắn ngành, lĩnh vực và sản phẩm ưu tiên, hình thành cơ cấu kinh tế có hiệu quả nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ tư: Việt Nam cần thực hiện đúng những cam kết về gia nhập WTO Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO kể từ ngày 07/11/2006. Việc gia nhập WTO của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thu hút vốn FDI từ các MNCs đồng thời cũng phải thực hiện đúng những cam kết như: những cam kết về thương mại hàng hoá, trợ cấp và những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ. Thứ năm: Cần có sự nỗ lực chung của nhà nước và các doanh nghiệp: Sự hấp dẫn đối với các công ty MNCs không chỉ ở môi trường đầu tư được tạo lập mà còn phải có sự hấp dẫn từ phía các doanh nghiệp Thực chất sự vươn lên của các doanh nghiệp trong nước để có quan hệ bình đẳng được với các MNCs sẽ góp phần làm cho nền kinh tế phát triển độc lập, tự chủ, không lệ thuộc vào nước ngoài. Nhà nước không những cần tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng mà còn là người bảo vệ quyền lợi quốc gia dân tộc. Sự nỗ lực chung của nhà nước và các doanh nghiệp chính là sự nỗ lực phấn đấu vì sự phát triển của đất nước. Vì mục tiêu dân dầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh của nước ta. Thứ sáu: Phải nội sinh hoá ngoại lực, hiện đại hoá nội lực để phát triển bền vững lâu dài. Nội sinh hoá nguồn lực và hiện đại hoá nội lực có thể hiểu là việc tiếp thu và chuyển hoá ngoại lực thành nội lực, làm cho nội lực được phát huy, ngày càng được tăng cường và phát triển. Đầu tư phát triển con người, chăm lo giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nhân cách, nâng cao mặt bằng dân trí, phát triển nhân lực, khoa học công nghệ, giữ gìn và phát huy truyền thống dân tộc, chính là điều kiện để đảm bảo nội sinh hoá ngoại lực và hiện đại hoá nội lực, tiếp nhận việc sử dụng đầu tư của các công ty xuyên quốc gia. Thứ bảy: Chủ động thu hút các MNCs Để chủ động thu hút các MNCs, ngoài việc xây dựng và tạo lập môi trường đầu tư cần có chiến lược và kế hoạch cụ thể.Đặc biệt, cần chủ động tạo lập và lựa chọn đối tác đầu tư cũng như lựa chọn hình thức đầu tư thích hợp. Tạo lập đối tác trong nước là tạo ra các đối tác đáng tin cậy để các MNCs đầu tư tại Việt Nam. Đối với nước ta, cần khẳng định về lâu dài việc lựa chọn đối tác đầu tư là các công ty MNCs và nên ưu tiên đối với các MNCs ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, EU…vì các MNCs của những nước này có tiềm lực rất lớn về tài chính, công nghệ và năng lực quản lý. Nếu chúng ta thu hút được các MNCs này thì Việt Nam không những nhận được một nguồn vốn đầu tư lớn mà còn có cơ hội tiếp cận với công nghệ và năng lực quản lý hàng đầu thế giới. Như vậy, để có thể thu hút ngày càng nhiều vốn FDI từ các MNCs cũng như khai thác những lợi thế của MNCs phục vụ cho phát triển kinh tế của đất nước chúng ta cần có những nhận thức đúng đắn về bản chất, vai trò của các MNCs đối với sự phát triển kinh tế của nước nhận đầu tư nói chung và của Việt Nam nói riêng. Có như vậy chúng ta mới có thể thành công trong việc thu hút vốn FDI của các MNCs. Tạo lập đối tác đầu tư trong nước Đối tác đầu tư có năng lực và biết cách hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài là nhân tố hấp dẫn đối với các công ty MNCs. Khi đầu tư vào một nước, các nhà đầu tư nước ngoài thường gặp một số khó khăn như: chưa quen phong tục tập quán, luật pháp, chưa khai thông được các mối quan hệ chính quyền các cấp, chưa am hiểu thị trường…. Chính vì vậy các MNCs thường tìm kiếm đối tác là công dân nước chủ nhà. Trên thực tế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam được đánh giá là thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sự yếu kém về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được biểu hiện ở một số khía cạnh như: ít vốn, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, trình độ quản lý kém, thiếu kỹ năng về tiếp thị, thiếu hiểu biết về thị trường thế giới và các luật lệ kinh doanh quốc tế. Nguyên nhân của sự yếu kém về năng lực cạnh tranh của Việt Nam không chỉ do doanh nghiệp mà còn do môi trường kinh doanh trong nước còn nhiều yếu kém. … bên cạnh đó là một loạt những cản trở như thủ tục cấp phép đầu tư còn phức tạp, rườm rà, có chứa đựng yếu tố tiêu cực, chính sách khuyến khích chưa phù hợp, trình độ quản lý thấp. Năng lực cạnh của doanh nghiệp Việt Nam thấp nên không đáp ứng được thị trường tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Thậm chí có những sản phẩm rất đơn giản như những đồ dùng trong sinh hoạt hàng ngày của người dân cũng được nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan… Khi Việt Nam mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ nước ngoài như trong cam kết WTO thì nguy cơ các doanh nghiệp trong nước bị lấn sân, thậm chí bị thua ngay trên sân nhà là điều khó tránh khỏi. Các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các MNCs với những lợi thế và thế mạnh của mình về vốn, công nghệ, năng lực quản lý sẽ dễ dàng đánh bại các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, để các doanh nghiệp trong nước có thể thực hiện liên doanh, hợp tác đầu tư với công ty xuyên quốc gia một cách có hiệu quả thì các doanh nghiệp cần phải nỗ lực hết mình để nâng cao năng lực cạnh tranh và trở thành đối tác tin cậy của các MNCs. Thực hiện nhất quán các chính sách đầu tư nước ngoài Trong cạnh tranh quốc tế về thu hút đầu tư nước ngoài, chính phủ các nước theo đuổi việc ban hành các chính sách trực tiếp tác động đến đầu tư nước ngoài và các chính sách liên quan đến đầu tư nước ngoài. Các chính sách đó có thể chia làm ba loại: chính sách hướng tới thu hút đầu tư nước ngoài, chính sách nâng cấp đầu tư nước ngoài và chính sách khuyến khích các mối liên hệ giữa các MNCs với các doanh nghiệp trong nước. Chính sách hướng tới thu hút đầu tư nước ngoài : Chính sách này được hình thành thông qua các ưu đãi đầu tư, cơ chế thuận lợi trong việc di chuyển vốn, xuất nhập khẩu, kinh doanh trên thị trường nội địa và các bảo đảm bằng pháp luật quyền sở hữu vốn và tài sản của nhà đầu tư. Trong từng thời kỳ nhất định, các chính sách đó có sự điều chỉnh , bổ sung để nâng cao sức cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài. Chính sách nâng cấp đầu tư nước ngoài: Được hình thành theo những hướng ưu tiên trong thu hút đầu tư nước ngoài. Ví dụ các dự án công nghệ cao hoặc các dự án sử dụng lao động, tạo lập các khu kinh tế đặc biệt, các khu chế xuất…. Chính sách khuyến khích các mối liên kết giữa các MNCs với các doanh nghiệp trong nước: Đây là chính sách được hình thành như là một phần trong chính sách công nghiệp, dịch vụ của từng nước. Khi MNCs đã thành lập các công ty ở nước sở tại thì chính phủ cần có chính sách khuyến khích mối quan hệ hợp tác giữa MNCs với các tổ chức nghiên cứu, đào tạo trong nước, đặc biệt là với hệ thống công nghiệp phụ trợ và mạng lưới cung cấp dịch vụ. Trên thực tế Việt Nam đang theo đuổi cả ba loại chính sách đó. Tuy vậy, cho đến nay các xu hướng khác nhau vẫn tồn tại trong chính sách riêng lẻ, bởi chưa có quan điểm nhất quán trong việc hình thành chính sách đầu tư nước ngoài. Trong khuôn khổ chính sách đầu tư nước ngoài của nước ta cần giải quyết các vấn đề sau: - Trên cơ sở coi kinh tế đầu tư nước ngoài là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thì các chính sách đầu tư nước ngoài cần phải đáp ứng được đòi hỏi nâng cao sức cạnh tranh của đất nước trong bối cảnh có nhiều nước tham gia vào thị trường đầu tư nước ngoài và cải thiện rõ rệt chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Theo đó, mọi sự thay đổi chính sách chủ yếu phải tạo thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp. - Chính sách nâng cấp đầu tư nước ngoài nhằm vào một số đối tượng cụ thể, Ví dụ MNCs hàng đầu thế giới trong các ngành công nghệ cao cần được hình thành trên cơ sở khảo sát đòi hỏi của họ. Tổ chức OECD đã đưa ra một số khuôn khổ chính sách áp dụng trong hoạt động đầu tư của MNCs tại các nước đang phát triển. Để thu hút MNCs này, các chính sách của nước ta cần lưu ý đến các quy định đó của OECD. - Các chính sách của Chính phủ cần được áp dụng thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ. Chính quyền các địa phương chỉ được phép đưa ra các ưu đãi riêng trong khuôn khổ luật pháp cho phép, chấm dứt tình trạng vi phạm pháp luật bằng các ưu đãi phi lý làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư chung, đồng thời tác động tiêu cực đến nguồn thu ngân sách địa phương. - Chính sách của chính phủ hướng vào khắc phục những hạn chế của đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ và chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế nước ta. - Trong một vài trường hợp cụ thể, đã xảy ra tình trạng chính sách có trước luật pháp chẳng hạn như đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, khi chưa có quy định của pháp luật về khu chế xuất thì Chính phủ đã đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho phép thí điểm thành lập khu chế xuất. Năm 2003, Chính phủ ban hành quyết định ưu đãi tại khu kinh tế mở Chu Lai và năm 2004 ban hành quyết định ưu đãi tại khu công nghệ cao Hoà Lạc và khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh. - Tuy vậy, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các MNCs lớn thì việc yêu cầu về luật pháp được đặt ra một cách nghiêm túc, họ không muốn sử dụng từ “thí điểm” và hy vọng các quy định của Chính phủ sẽ được luật hoá trong một thời gian ngắn. Cải cách thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước đối với đầu tư nước ngoài của các MNCs Trong 10 nhân tố hàng đầu để các nhà đầu tư quyết định lựa chọn địa bàn thực hiện dự án thì việc tiếp cận khách hàng và điều kiện kinh doanh dễ dàng là những nhân tố quan trọng nhất. Cả hai nhân tố đó đều có liên quan đến các thủ tục hành chính đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Một nền kinh tế mở đòi hỏi phải áp dụng các thủ tục hành chính minh bạch, đơn giản và nhất quán theo hướng tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư tiếp cận một cách tốt nhất với khách hàng, thực hiện đúng đắn các quy định của Pháp luật, tiết kiệm thời gian và công sức trong việc lập dự án đầu tư cũng như thực hiện các dự án đó. Thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài của Việt nam tuy đã được cải tiến nhưng vẫn còn mang dấu ấn của cơ chế “xin cho”. Đó là điều kiện để một số công chức sách nhiễu, tham nhũng. Thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài trong thời gian tới cần tiếp tục được cải tiến mạnh mẽ theo những hướng sau: - Các cơ quan nhà nước cần có tư duy đúng về hoạt động đầu tư và kinh doanh mà trước hết là lợi ích và trách nhiệm của nhà đầu tư và doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, mọi thủ tục hành chính cần hướng vào việc tạo thuận lợi cho các dự án đầu tư và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các thủ tục hành chính được thực hiện với thời gian ngắn nhất và chi phí thấp nhất. - Đáp ứng yêu câu cải cách hành chính mạnh mẽ, phải đơn giản hoá thủ tục đầu tư theo lối một hướng: + Cho phép các dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư dưới 1 triệu USD mà không thuộc lĩnh vực có điều kiện chỉ cần đăng ký đầu tư để quản lý và có cơ sở xét ữu đãi đầu tư. Mọi dự án đầu tư nước ngoài đến 20 triệu USD, dự án đầu tư trong nước từ 1-20 triệu USD nếu không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì chỉ cần đăng ký theo mẫu để được chứng nhận đầu tư, xem xét ưu đãi mà không cần trong vòng 7 ngày. Việc mở rộng đăng ký đầu tư dưới 20 triệu USD là phù hợp với cam kết Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Các dự án từ 20 triệu USD trở lên phải thẩm tra hồ sơ để xem xét Cấp giấy chứng nhận đầu tư trong vòng 30 ngày. + Nhà đầu tư nếu thành lập tổ chức kinh tế gắn với dự án đầu tư cụ thể, thì việc làm thủ tục đăng ký kinh doanh và đăng ký đầu tư nên thực hiện đồng thời tại một cơ quan nhà nước. + Nội dung thẩm tra chỉ nên tập trung vào điều kiện mà dự án phải đáp ứng, sự phù hợp quy hoạch, tiến độ góp vốn và tính chất dự án, nhu cầu sử dụng đất, giải pháp bảo vệ môi trường…. + Thực hiện đăng ký dự án đầu tư quan mạng Internet + Các dự án đầu tư có điều kiện cần quy định minh bạch và khi đã đạt đủ điều kiện thì nhà đầu tư có quyền đòi hỏi cơ quan nhà nước cấp giấy phép đầu tư. Các dự án khuyến khích đầu tư cần phải được thực hiện nhanh với thủ tục đơn giản. + Việc cấp phép đầu tư cũng phải được công khai hoá để tránh tình tạng lạm dụng, sách nhiễu. + Việc thực hiện kiểm tra dự án cần thực hiện bao gồm các thủ tục về cấp đất, giải toả đền bù đất đai, xây dựng công trình, nhập khẩu vật tư thiết bị….cần đơn giản theo hướng các cơ quan chức năng hướng dẫn nhà đầu tư thực hiện đúng những quy định của pháp luật có liên quan. Trong trường hợp phát hiện vi phạm pháp luật, trước hết hướng nhà đầu tư khắc phục tình trạng đó, chỉ áp dụng việc xử phạt đối với những trường hợp nghiêm trọng hoặc ngoan cố không chịu sửa chữa theo hướng dẫn của cơ quan nhà nước. - Việc thực hiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hoặc bắt đầu bằng thủ tục đăng ký với cơ quan nhà nước để nộp thuế, hoạt động xuất khẩu, bảo vệ môi trường, phòng chống cháy nổ. Khi cần thiết các cơ quan này có thể tiến hành kiểm tra đánh giá doanh nghiệp đã có đủ điều kiện kinh doanh. - Hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp là cần thiết, nhưng trước hết phải hướng vào mục đích làm cho các doanh nghiệp tực giác tôn trọng pháp luật, tránh tình trạng lợi dụng thanh tra, kiểm tra gây khó khăn cho hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Việc xử lý các hành vi phạm cần thực hiện đúng trình tự và hình phạt đã được quy định. Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra và áp dụng các phương thức tiến bộ để vừa đảm bảo thực hiện nghiêm minh luật pháp vừa tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, một khi mà các thủ tục hành chính rườm rà, phiền nhiễu không còn cùng với sự quản lý một cách có hiệu quả của nhà nước thì hoạt động của các nhà đầu tư sẽ đạt được kết quả tốt hơn. Tăng cường tự do hoá và bảo hộ kinh tế đầu tư nước ngoài phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam hiện nay đang thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài. Chúng ta coi đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế. Do vậy, cần hướng tới mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài hoặc nâng cấp đầu tư nước ngoài và khuyến khích tăng cường mối liên hệ giữa doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Việc hình thành các thể chế kinh tế trước hết hướng vào việc tự do hoá thương mại và thị trường vốn để khơi các dòng hàng hoá và dịch vụ, vốn đầu tư và kinh doanh trong nước cũng như trên thế giới đáp ứng cao nhất mục tiêu phát triển kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và Việt nam đã là thành viên của WTO, các cuộc đàm phán đa phương và song phương sẽ hình thành luật lệ mới có liên quan đến đầu tư nước ngoài, đòi hỏi chính phủ phải thực hiện các cam kết quốc tế trong hệ thống luật pháp của nước mình. Có thể phân hệ thống luật lệ mới thành 3 loại: - Chuyên tập trung vào đầu tư nước ngoài. - Tập trung vào đầu tư của các MNCs nhưng lại có giới hạn trong tương lai, ví dụ như Hiệp định TRIMS - tỷ lệ nội địa hoá. - Tập trung vào các công ty nhưng có chú ý đặc biệt đến các MNCs (các biện pháp có liên quan đến thương mại và R&D) Việc theo đuổi chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài đồng thời coi trọng đến chất lượng đầu tư là hai mặt của thể chế, chính sách mà Chính phủ Việt Nam đang áp dụng. Chúng ta không thể nhấn mạnh đến một mặt của vấn đề mà bỏ qua mặt kia. Việc gia tăng số lượng dự án và vốn đầ tư nước ngoài trong các ngành, lĩnh vực kinh doanh, trừ một số ít ngành, lĩnh vực không thu hút hoặc hạn chế đầu tư là nhiệm vụ có tính chiến lược. Sự lựa chọn các dự án trong từng lĩnh vực, từng ngành đòi hỏi phải đảm bảo chất lượng của đầu tư nước ngoài. Trong điều kiện các doanh nghiệp trong nước đang được khuyến khích phát triển nhanh chóng thì việc cân nhắc trong việc lựa chọn các dự án đầu tư nước ngoài phải gắn với việc tính toán hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư nói chung và mối quan hệ giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư đối với các MNCs Nguồn vốn đầu tư nước ngoài của thế giới sẽ hướng vào nhưng quốc gia có môi trường đầu tư tốt và được quảng bá rộng rãi thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Sự cạnh tranh để thu hút đầu tư nước ngoài sẽ trở nên gay gắt hơn, nhất là trong điều kiện vốn đầu tư nước ngoài sụt giảm. Trong trường hợp đó, nước nào có hoạt động xúc tiến đầu tư tốt thì sẽ thu hút được nhiều vốn. Trong hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài ở nước ta có thể thực hiện theo những cách sau: Một là: quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài phải đặt trọng tâm vào hoạt động xúc tiến đầu tư. Sự chuyển biến về nhận thức đó được thực hiện thông qua việc thường xuyên sửa đổi, bổ sung chính sách theo hướng khuyến khích đầu tư đồng thời bằng nhiều cách thức để quảng bá rộng rãi trên toàn cầu. Hai là: Nội dung của xúc tiến đầu tư là hệ thống các giải pháp tiếp thị tổng hợp về chiến lược sản phẩm, giá phí và các ưu đãi đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư cần làm nổi bật các lợi thế so sánh của Việt Nam đồng thời cũng nêu ra những bất lợi, khó khăn và các giải pháp đẻ khắc phục những bất lợi đó, nhằm làm cho các nhà đầu tư nhận biết đúng cơ hội và lợi ích họ sẽ thu được. Do vậy, cần hình thành chiến lược xúc tiến đầu tư của cả nước để thống nhất tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài của đất nước. Trong chiến lược đó cần phải xây dựng hình ảnh và môi trường đầu tư của Việt Nam để quảng bá rộng rãi với các nước trong khu vực và thế giới. Sử dụng các phương tiện khác nhau như hội thảo, tiếp thị, tiếp cận các nhà đầu tư lớn, thông qua mạng internet, hình thành các tổ chức xúc tiến đầu tư để thực hiện chiến lược đó. Để nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư cần chấm dứt tình trạng tổ chức nhiều cuộc hội thảo với nội dung khá chung chung hoặc chỉ phổ biến những ưu đãi mà nhà đầu tư có thể dễ dàng biết được thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Ba là: Kinh nghiệm thực tế của nước ta đã cho thấy phương tiện xúc tiến đầu tư có hiệu quả nhất là tạo môi trường thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư đang thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Khi gặp khó khăn trong triển khai dự án các cơ quan nhà nước tìm cách giúp đỡ họ khắc phục, đảm bảo kinh doanh có lợi và hiệu quả. Tác dụng lan toả của nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động đối với các nhà đầu tư tiềm năng lớn hơn nhiều so với bất kỳ cuộc vận động đầu tư nào. Trên cơ sở đó, các cơ quan quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài cần chuyển hướng hoạt động của mình vào công tác trọng tâm là hướng dẫn để các nhà đầu tư thực hiện đúng pháp luật và giúp đỡ họ giải quyết các vướng mắc trong kinh doanh. Bốn là: Cần hình thành một tổ chức xúc tiến đầu tư cấp quốc gia và các tổ chức ở địa phương, các đại diện ở những thị trường chính có đủ biên chế, kinh phí để thực hiện tốt nhất chiến lược xúc tiến đầu tư. Cho đến nay, nhìn chung hoạt động xúc tiến đầu tư của nước ta đã đạt được một số kết quả đáng kể. Tuy vậy, hoạt động này còn khá bị động, chưa thường xuyên do đó thường làm theo từng đợt, chưa trở thành công việc thường ngày của các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật phù hợp với MNCs Việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp của các MNCs sẽ đem lại hiệu quả cao nếu nước chủ nhà có cơ sở hạ tầng tướng xứng và đáp ứng được yêu cầu của các MNCs. Tuy nhiên điều kiện về cơ sở hạ tầng ở Việt Nam hiện nay được đánh giá là còn thấp và kém nhất trong khu vực. Chi phí cho các dịch vụ ở Việt Nam được xếp vào loại cao so với trong khu vực. Để cải thiện cơ sở hạ tầng của Việt Nam có thể tính đến một số giải pháp như: - Đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng bao gồm cả vốn FDI, ngân sách nhà nước, vốn ODA, vốn tư nhân trong và ngoài nước, thu hút tiền tiết kiệm từ người dân dưới hình thức phát hành trái phiếu. - Xác định mức độ ưu tiên cho các dự án cơ sở hạ tầng theo mức độ hiệu quả và theo địa phương nhằm đảm bảo cung cấp dịch vụ và phát triển cơ sở hạ tầng ở các khu vực khó khăn. - Hạn chế và kiểm soát việc lạm dụng độc quyền trong lĩnh vực hạ tầng bằng các biện pháp như đấu thầu công khai. - Chia tách doanh nghiệp đang giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp dịch vụ hạ tầng sơ sở khỏi các doanh nghiệp chủ đạo. - Duy trì chế độ kiểm soát giá cả chặt chẽ nhất đối với giá cả một số dịch vụ nhà nước giữ độc quyền như điện, nước... Như vậy, để có thể thu hút được các MNCs trong cuộc cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật phù hợp với nhu cầu của các MNCs. Phát triển nguồn lực đáp ứng yêu cầu của MNCs Lực lượng lao động của Việt Nam được đánh giá là trẻ và rẻ. Tuy nhiên, số lao động có khả năng làm việc tại các MNCs không nhiều. Năng suất, chât lượng và hiệu quả của lao động nước ta còn thấp. Điều này đã làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải đào tạo và đào tại lại nguồn lực. Một số giải pháp cụ thể như: Thứ nhất: Khuyến khích các MNCs tham gia vào hoạt động đào tạo Trên thực tế các MNCs có năng lực về công nghệ và quản lý rất lớn. Thông qua hoạt động đào tạo của MNCs người lao động có thể nắm bắt được những công nghệ hiện đại và thiết thực nhất. Tuy vậy, hoạt động đào tạo này tại Việt Nam cũng chưa được chú trọng. Để có thể tận dụng và khai thác thế mạnh của các MNCs trong lĩnh vực đào tạo, Việt Nam cần thúc đẩy giao lưu hợp tác trên cơ sở hai bên cùng có lợi giữa các MNCs và các cơ sở đào tạo như các trường đại học, thiết lập các trung tâm đào tạo nghề chuyên sâu với sự hợp tác của các MNCs. Thứ hai: Đẩy mạnh việc đào tạo tại nước ngoài hoặc liên kết với các đối tác nước ngoài để đào tạo người lao động Việt Nam song song với việc thu hút lực lượng trí thức được đào tạo tại nước ngoài về nước. Đây là biện pháp hữu hiệu nhằm nhanh chóng có được lực lượng lao động có trình độ ngang tầm với trình độ thế giới. Hàng năm, chính phủ đã đầu tư rất nhiều vào việc đào tạo nguồn lực tại nước ngoài bằng tiền ngân sách. Điều đó đã tạo nên những bước chuyển biến rất tích cực về chất lượng nguồn lực nói chung. Tuy nhiên, hiện nay, đối tượng được gửi đi đào tạo chủ yếu tập trung vào các cơ quan nhà nước và các viện nghiên cứu mà chưa mở rộng ra các thành phần kinh tế khác. Những người đó lại chủ yếu tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu và quản lý nhà nước, ít tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Điều này hạn chế rất nhiều khả năng phát huy những tri thức học được vào thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh hoạt động đào tạo thì một vấn đề rất quan trọng đó là làm sao cho người lao động sau khi được đào tạo lại quay về làm việc cho các đơn vị trong nước. Vì trên thực tế hầu hết những người sau khi được đào tạo lại tìm cách ở lại nước ngoài để làm việc gây ra tình trạng chảy máu chất xám.Nguyên nhân của tình trạng này là do người lao động sau khi được đào tạo trở về nước không tìm được công việc phù hợp với khả năng và trình độ với mức thu nhập và khả năng thăng tiến cao như ở nước ngoài. Chính vì vậy mà việc thu hút các MNCS cũng là một giải pháp cho vấn đề này. Với sự có mặt của các MNCs, những tri thức này sẽ có những điều kiện làm việc và thu nhập phù hợp với khả năng và trình độ của họ. Thứ ba: nâng cao trình độ của người lao động thông qua hướng nghiệp và dậy nghề. Để làm được điều này cần phải có sự kết hợp giữa các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần cung cấp cho cơ sở đào tạo những yêu cầu về kỹ năng, trình độ đối với người lao động. Qua đó, các cơ sở đào tạo sẽ tham khảo để xây dựng cho mình một chương trình giảng dạy thiết thực, phù hợp và đáp ứng đúng yêu cầu của nhà tuyển dụng. Bên cạnh đó, các địa phương cần mở rộng phạm vi đào tạo cho đội ngũ công nhân kỹ thuật, đặc biệt là các vùng sâu, vùng sa và những địa phương có thế mạnh về lao động. Việc đào tạo cần tiến hành đồng bộ và có hệ thống. Đặc biệt, cần cải tiến nội dung giảng dậy theo hướng tăng cường thời lượng thực hành, giảm bớt các giờ học chay, thường xuyên kiểm tra tay nghề của học viên để phân bậc… Cần gắn việc đào tạo nghề tại các trường với nhu cầu của các MNCs. Thứ tư: Cần tiến hành xã hội hoá giáo dục. Trong hoạt động giáo dục của Việt nam cần phải gắn công tác đào tạo với nhu cầu của thị trường, kết hợp lý thuyết với thực hành, trang bị đầy đủ máy móc thiết bị chi dảng giậy và học tập. Tiến hành xã hội hoá giáo dục nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại. Cần tranh thủ tối đa sự hợp tác, đầu tư của nước ngoài, các dự án quốc tế để từng bước đưa cán bộ quản lý và công nhân đi học tập tại nước ngoài. Khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình đào tạo lực lượng lao động. Thứ năm: Cần phải đặt mục tiêu chất lượng giáo dục lên hàng đầu, xoá bỏ hiện tượng chạy theo thành tích như hiện nay. Hiệu quả của công tác đào tạo được đo bằng năng lực trí tuệ, trình độ chuyên môn vững vàng, khả năng tư duy sáng tạo chứ không phải bằng số lượng đào tạo. Do vậy, để đảm bảo nâng cao chất lượng giáo dục, giúp người lao động có được năng lực và trình độ thực sự, đáp ứng tốt yêu cầu của các MNCs thì Việt Nam cần đặt mục tiêu chất lượng giáo dục lên hàng đầu. Thứ sáu: Nhà nước cần có chính sách phân bổ nguồn lực một cách hợp lý giữa các vùng, miền trong cả nước. Để có thể thực hiện được giải pháp này, Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích lao động về những vùng nông thôn, những vùng khác để giảm bớt mật độ lao độ tập trung quá nhiều tại các thành phố lớn. Những lao động làm việc tại các khu vực này cần được hưởng những ưu đãi đặc biệt cũng như những trợ cấp của nhà nước. Hơn nữa, tại từng địa phương cụ thể, chính quyền cần đưa ra những chính sách hấp dẫn để thu hút lao động có trình độ trở về địa phương mình. Tóm lại, để nâng cao chất lượng của nguồn lao động, đáp ứng tốt yêu cầu của các MNCs Việt Nam cần thực hiện đồng bộ và nhất quán những giải pháp về nâng cao chất lượng của lực lượng lao động.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTác động của intel đến costa rica.doc
Luận văn liên quan