Người cung ứng là những người cung cấp hàng hoá cho các doanh nghiệp 
bán lẻ. Do v ậy, việc tạo lập mối quan h ệ hợp tác chặt ch ẽ với các nhà cung ứng 
đảm bảo nguồn cung hàng cho doanh nghiệp luôn ổn định, hay hưởng mức chiết 
khấu cao hơn. Tuy nhiên doanh nghiệp không nên mua hàng từ một nhà cung 
ứng mà phải mua từ nhiều nhà cung ứng, tránh tình trạng phải phụ thuộc quá
nhiều vào một nhà cung ứng, tránh rủi ro thiếu hàng khi nhà cung ứng này 
gặp trục trặc trong kinh doanh hay bị họ ép giá do biến động thị trường.
Các doanh nghiệp vận tải đóng vai trò rất quan trọng đối với các doanh 
nghiệp bán lẻ. Họ có nhiệm vụ vận chuyển hàng hoá từ nhà cung ứng đến các 
cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp và vận chuyển hàng hoá đến người tiê u 
dùng. Doanh nghiệp cần lựa chọn người vận tải có uy tín, có trách nhiệm, 
đảm bảo hàng không bị hư hỏng trong quá trình vận chuyển và khi doanh 
nghiệp có nhu cầu phải đáp ứng một cách nhanh nhất.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 101 trang
101 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2490 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của việc mở cửa thị trường bán lẻ đối với các doanh nghiệp bán lẻ trong nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh doanh dài hơi, bài bản về tiếp cận thị trƣờng, tạo dựng 
thƣơng hiệu; nâng cao chất lƣợng dịch vụ, chăm sóc khách hàng để cạnh tranh 
hiệu quả, phát triển và mở rộng thị trƣờng. 
Trợ lý Chủ tịch ủy ban điều phối Ngân hàng của Trung Quốc cho biết: 
“Việc du nhập tính cạnh tranh cùng với các nhà đầu tƣ chiến lƣợc sẽ nhất định 
dẫn đến việc cải tiến hơn nữa việc đổi mới quản lý và hiệu quả”.14 
1.4 Cơ hội học hỏi, tích lũy kinh nghiệm từ thực tiễn cạnh tranh với các 
doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài 
Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam nói chung đều thiếu kiến thức và non 
kinh nghiệm. Hình thức phân phối bán lẻ qua các siêu thị, TTTM, cửa hàng 
tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh,… còn rất mới mẻ, mới chỉ hình thành trong 
vòng 10 năm trở lại đây, với sự xuất hiện lần đầu tiên của siêu thị tại thị 
14 Nguồn: “Trung Quốc cân nhắc lợi hại sau 5 năm gia nhập WTO” - Báo Tân Hoa Xã ngày 11/12/2006 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 71 
trƣờng Việt Nam vào năm 1994. Đa phần doanh nghiệp bán lẻ nội địa còn rất 
non trẻ, thiếu kinh nghiệm tổ chức quản lý. Hơn nữa, các chƣơng trình đào 
tạo giảng dạy kiến thức về tạo dựng thƣơng hiệu, tiếp cận thị trƣờng, kiến 
thức về quản lý chuỗi, về công tác logistic, dịch vụ hậu mãi,… còn ít và yếu, 
thậm chí không cập nhật và bám sát thực tiễn. Chính vì lẽ đó mà sức cạnh 
tranh của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam còn rất kém. 
Các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài sẽ mang những gì vào thị trƣờng bán lẻ Việt 
Nam khi nó đƣợc mở cửa hoàn toàn vào năm 2009? Trƣớc hết đó là một “phần 
cứng” hiện đại, đẳng cấp và hoành tráng: những đại siêu thị diện tích lên đến 
hàng nghìn m2 để thỏa mãn nhu cầu mua sắm đa dạng của ngƣời dân; hệ thống 
hậu cần đạt tiêu chuẩn quốc tế với các loại xe chuyên dụng, kho bảo quản đồng 
nhất đến khu trƣng bày hàng hóa chuyên nghiệp, hiện đại; hệ thống thông tin 
chính xác, nhanh chóng… Ngoài ra, đó còn là một “phần mềm” ƣu việt, “tinh 
hoa” của những tập đoàn phân phối có hoạt động xuyên quốc gia và bề dày kinh 
nghiệm nhƣ: phƣơng thức bán hàng, điều hành tổ chức mới, tiên tiến nhất thế 
giới; sự chuyên nghiệp trong khâu tiếp thị, quảng cáo, xây dựng thƣơng hiệu; sự 
chu đáo, hài hòa trong cung cách phục vụ và dịch vụ hậu mãi;… 
Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam sẽ tiếp thu, học hỏi đƣợc rất nhiều từ 
những mô hình kinh doanh mới mẻ, hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế này, từ đó 
định hƣớng con đƣờng phát triển cho đúng đắn, thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp 
với hoàn cảnh. Doanh nghiệp trong nƣớc có cơ hội cọ xát, tích lũy kinh nghiệm, 
lớn lên và “trƣởng thành” từ chính thực tiễn cạnh tranh. Cạnh tranh đƣợc thừa 
nhận là yếu tố đảm bảo duy trì tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế. 
Trong bối cảnh hiện tại của nền kinh tế Việt Nam, cạnh tranh lành mạnh và bình 
đẳng đóng vai trò trụ cột, đảm bảo sự vận hành hiệu quả của cơ chế thị trƣờng. 
Cạnh tranh sẽ sàng lọc doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Đây chính là tác động rất 
tích cực của việc mở cửa thị trƣờng bán lẻ. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 72 
1.5 Nâng cao tinh thần liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp bán lẻ nội 
địa để đối đầu với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài 
Kinh nghiệm từ nhiều nƣớc trên thế giới cho thấy, hầu hết trong mọi 
lĩnh vực đều phải có một tập đoàn đầu tàu, không chỉ mạnh trong nội bộ quốc 
gia mà có thế bành trƣớng ra bên ngoài. Tuy nhiên, để có một đầu tàu nhƣ vậy 
không đơn giản, đặc biệt trong lĩnh vực phân phối thƣờng phải mất hàng chục 
năm xây dựng và phát triển. 
Với ngành phân phối bán lẻ non trẻ của Việt Nam nhƣ hiện nay, muốn 
có tập đoàn đầu tàu chỉ có cách là các doanh nghiệp phải liên kết lại. 
Đó có thể là liên kết giữa các doanh nghiệp bán lẻ trong nƣớc với nhau, 
cũng có thể là giữa doanh nghiệp bán lẻ và doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác 
ở trong nƣớc với nhau… Mục đích là để thành lập một tập đoàn phân phối 
làm đối trọng với các tập đoàn của nƣớc ngoài, nhằm bảo vệ quyền lợi và 
tiếng nói của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam; hợp tác để giúp các doanh 
nghiệp bán lẻ mở rộng khả năng khai thác thị trƣờng, tiết kiệm chi phí đào 
tạo, thu mua… 
Chính vì thế mà xu hƣớng liên kết giữa các doanh nghiệp trong nƣớc 
ngày càng nhiều nhằm tạo ra một đối trọng để cạnh tranh thành công với các 
doanh nghiệp nƣớc ngoài nhƣ sự liên kết giữa Saigon Coop ( Liên hiệp HTX 
thƣơng mại TP.HCM) với Satra (Tổng công ty thƣơng mại Sài Gòn) hay liên 
kết giữa Saigon Coop với tập đoàn Phú Thái. Mới đây, 4 doanh nghiệp hàng 
đầu trong lĩnh vực phân phối Việt Nam là Satra, Hapro, Saigon Co.op và Phú 
Thái Group đã liên kết lại để thành lập nên Công ty cổ phần Đầu tƣ và Phát 
triển hệ thống phân phối Việt Nam (VDA) với tổng số vốn là 6000 tỉ đồng. 
Các bên góp vốn kì vọng rằng VDA sẽ thực sự trở thành một đầu tàu trong 
lĩnh vực phân phối Việt Nam, bởi đã hội tụ đƣợc những thế mạnh của 4 bên 
liên doanh: Saigon Co.op mạnh trong lĩnh vực phân phối bán lẻ; Hapro và 
Satra có hàng chục năm kinh nghiệm và đã thành lập đƣợc hệ thống cơ sở hạ 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 73 
tầng và thị phần ở cả Bắc và Nam; Phú Thái Group cũng có thế mạnh về vốn 
và thị phần tƣơng đối lớn trong lĩnh vực phân phối. 
2. Tác động tiêu cực 
2.1 Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam sẽ khó có thể cạnh tranh với các nhà 
đầu tư nước ngoài, nguy cơ mất thị phần và phá sản hàng loạt 
Nhƣ đã thấy, thị trƣờng bán lẻ Việt Nam hiện là thị trƣờng hấp dẫn, đầy 
tiềm năng phát triển với sức sinh lời hấp dẫn nhất thế giới. Cơ hội là rất lớn 
đối với cả doanh nghiệp bán lẻ trong và ngoài nƣớc. Do vậy với việc Việt 
Nam mở cửa thị trƣờng bán lẻ vào năm 2009, việc các tập đoàn bán lẻ lớn 
xâm nhập, tìm cách tiếp cận và chiếm lĩnh thị trƣờng là điều khó tránh khỏi. 
Ba tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới là Wal-Mart, Carrefour, Tesco đã cho 
Việt Nam vào tầm ngắm. Kinh nghiệm “đau thƣơng” của Trung Quốc là cứ 
có 1 Carrefour mọc lên thì trong vòng bán kính 30 km, các cửa hàng bán lẻ 
khác phải phá sản. Các tập đoàn bán lẻ nƣớc ngoài rõ ràng là sức ép cạnh 
tranh rất lớn đối với các hãng phân phối bán lẻ Việt Nam. 
Vấn đề trở nên đáng lo ngại bởi vì những điểm yếu của doanh nghiệp 
bán lẻ Việt Nam: vốn, hậu cần, con ngƣời và tính chuyên nghiệp lại chính là 
những yếu tố cơ bản quyết định sự thành công của một doanh nghiệp bán lẻ; 
và đây cũng chính là thế mạnh, là lợi thế cạnh tranh của các tập đoàn bán lẻ 
đa quốc gia. Wal-Mart, Carrefour, Tesco... đều là những điển hình của các tập 
đoàn có nguồn vốn vô cùng lớn, các hoạt động nghiên cứu thị trƣờng bài bản, 
sẵn sàng đƣa ra giá buôn thấp hơn, cung cấp dịch vụ bán hàng thuận tiện và 
mời chào các chƣơng trình khuyến mại hấp dẫn. 
Hơn nữa, đây chủ yếu là các tập đoàn có bề dày kinh nghiệm, phát triển 
từ những năm 30 của thế kỷ trƣớc và phát triển ở nhiều quốc gia khác nhau, 
trong khi doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam quy mô nhỏ, mới chỉ hình thành và 
phát triển trong vòng 10 năm trở lại đây và trên thị trƣờng nội địa. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 74 
Do vậy, bị lép vế do tiềm lực yếu hơn đối thủ nƣớc ngoài nhiều, doanh 
nghiệp bán lẻ trong nƣớc có thể bị “bóp nghẹt” ngay tại thị trƣờng nội địa. 
“Cuộc chiến thị phần” gay gắt có thể đẩy các doanh nghiệp Việt Nam vào 
nguy cơ phá sản. 
2.2 Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có nguy cơ bị thâu tóm bởi các đối thủ 
nước ngoài với tiềm lực vốn hùng mạnh 
"Nếu toàn bộ tổng sản lƣợng nội địa (GDP) của Việt Nam đạt 60 tỉ 
USD trong năm 2006, thì Wal-Mart trƣớc ngày 1/3 năm nay đã có doanh số 
bằng nhƣ thế".15 Lợi nhuận của Wal-Mart tăng tƣơng đối cao và ổn định qua 
các năm. Tốc độ tăng doanh thu trung bình hàng năm thời kì 2002-2007 là 
12%/năm và tốc độ tăng trƣởng lợi nhuận trung bình là 13,8%/năm. Trong khi 
đó doanh thu trung bình của tập đoàn bán lẻ thứ hai thế giới Carrefour giai 
đoạn 2005 - 2007 cũng đạt mức xấp xỉ 60 tỉ USD/năm.16 Với tiềm lực vốn 
hùng mạnh nhƣ thế thì một khi gia nhập vào thị trƣờng bán lẻ Việt Nam, các 
đại gia bán lẻ nhƣ Wal-Mart hay Carrefour đủ sức để mua đứt bất kì một 
doanh nghiệp nội địa nào. 
Nguy cơ các doanh nghiệp bán lẻ trong nƣớc bị các nhà đầu tƣ nƣớc 
ngoài với tiềm lực vốn hùng mạnh thâu tóm là điều có thể xảy ra khi Việt 
Nam mở cửa thị trƣờng bán lẻ. Qua các hình thức nhƣ: mua bán sáp nhập 
(M&A), nắm giữ cổ phiếu, mua lại công ty..., các đối thủ cạnh tranh quốc tế 
sẽ có nhiều thuận lợi để phát triển hoạt động kinh doanh bán lẻ tại Việt Nam. 
Bởi khi đó, họ vừa hạ gục đƣợc các đối thủ Việt Nam, vừa tận dụng đƣợc hệ 
thống cơ sở hạ tầng, nhân sự, khách hàng... sẵn có, vừa giảm đƣợc rủi ro lại 
vừa tiết kiệm thời gian. 
2.3 Doanh nghiệp bán lẻ trong nước có thể gặp nhiều khó khăn do hoạt 
động cạnh tranh không lành mạnh của các nhà đầu tư nước ngoài 
15 Nguồn: Alfred D. Chandler, Giám đốc công ty tƣ vấn CB Richard Ellis (CBRE) Việt Nam, 
www.doanhnghiep.net 
16 Nguồn: www.money.cnn.com 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 75 
Cuộc chiến trên thị trƣờng bán lẻ sẽ rất gay gắt giữa các đại gia bán lẻ 
nƣớc ngoài và các nhà bán lẻ trong nƣớc. Bởi các tập đoàn nƣớc ngoài có bề 
dày kinh nghiệm, nguồn vốn phong phú và mối quan hệ toàn cầu đồng thời họ 
còn hƣởng nhiều chính sách ƣu đãi đầu tƣ của Nhà nƣớc nhƣ thuế, giá thuê 
đất... Trong khi đó, các nhà bán lẻ trong nƣớc lại mới manh nha phát triển, 
nguồn vốn còn hạn hẹp, kinh nghiệm quản lý và tiếp thị thiếu và yếu... 
Các nhà bán lẻ Việt Nam “đau đầu” nhất là cuộc cạnh tranh về giá. Bởi 
các đại gia bán lẻ nƣớc ngoài thƣờng giảm giá thấp hơn chi phí để ngăn cản 
đối thủ cạnh tranh và sau đó tăng giá (còn gọi là định giá hủy diệt). Các tập 
đoàn bán lẻ nƣớc ngoài có thể thực hiện chiến lƣợc về giá cả không lành 
mạnh nhƣ: bán phá giá, khuyến mãi mạnh, sẵn sàng chịu lỗ đến 10 năm để hạ 
giá thành sản phẩm một cách tối đa, nhằm chiếm lĩnh thị trƣờng và xây dựng 
thƣơng hiệu. 
Theo kinh nghiệm của các nƣớc, có hai loại hành vi đƣợc các tập đoàn 
nƣớc ngoài áp dụng khá phổ biến là: hành vi hạn chế cạnh tranh (thoả thuận 
hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trƣờng, lạm dụng vị trí độc 
quyền và tập trung kinh tế) và hành vi cạnh tranh không lành mạnh (chỉ dẫn 
gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, ép buộc trong kinh doanh, gièm 
pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác, 
quảng cáo, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh). 
Nhƣ vậy, bên cạnh sự hỗ trợ của Cục quản lý cạnh tranh và cơ sở pháp 
lý về thƣơng mại nội địa, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam cũng cần phải 
tỉnh táo để đối phó những chiêu thức cạnh tranh không lành mạnh của các tập 
đoàn bán lẻ nƣớc ngoài. 
3. Đánh giá chung về tác động của việc mở cửa thị trƣờng bán lẻ Việt 
Nam đối với doanh nghiệp bán lẻ trong nƣớc 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 76 
Có rất nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau về việc Việt Nam mở cửa 
thị trƣờng bán lẻ vào ngày 01/01/2009. Có những ngƣời ủng hộ mở cửa thị 
trƣờng, họ cho rằng cạnh tranh là cần thiết và tích cực, tạo sức ép để đổi mới 
và phát triển. Nó sàng lọc doanh nghiệp để làm ăn hiệu quả hơn. Cũng có 
nhiều ngƣời lo ngại rằng cạnh tranh không cân sức có tác động rất tiêu cực, 
doanh nghiệp bán lẻ trong nƣớc sẽ bị bóp nghẹt hay sớm muộn gì cũng bị 
nƣớc ngoài chi phối, đem lại hậu quả nặng nề. Theo họ, đây chƣa phải là thời 
điểm thích hợp để mở cửa hoặc Nhà nƣớc cần “ra tay kỹ thuật” để bảo vệ các 
doanh nghiệp bán lẻ nội địa khỏi nguy cơ phá sản. 
Nói về đƣợc và mất sau 5 năm gia nhập WTO của Trung Quốc, Bộ trƣởng 
Bộ Thƣơng Mại Trung Quốc Bo Xilai đánh giá: Các ngành nội địa đã gặp một 
số thách thức “song những ngành nào mở ra nhất chính là những ngành thành 
công nhất”, “WTO giúp các doanh nghiệp Trung Quốc trƣởng thành hơn. Vấn 
đề là làm sao tuân thủ các cam kết WTO một cách tốt hơn và mở cửa rộng rãi 
hơn nữa”.17 Có thể nói, kinh nghiệm mở cửa của một số nƣớc nhƣ Trung Quốc, 
Hàn Quốc,… cho thấy, hội nhập kinh tế, mở cửa thị trƣờng nội địa có thực sự 
thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào những nỗ lực của các doanh 
nghiệp. 
Đối với quan điểm cho rằng mở cửa thị trƣờng bán lẻ Việt Nam, doanh 
nghiệp bán lẻ trong nƣớc mất nhiều hơn đƣợc, hoặc sẽ bị nƣớc ngoài thâu 
tóm, chi phối hay “bóp nghẹt”, có lẽ cần đƣợc xem xét lại. Bởi chúng ta có cơ 
sở để tin rằng doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam sẽ vẫn đứng vững, thậm chí phát 
triển hơn nữa trong điều kiện thị trƣờng mở cửa. 
Gia nhập WTO là tham gia vào kinh tế thị trƣờng thế giới, đƣợc điều 
tiết bằng những luật chơi rõ ràng, khắt khe, đem lại cơ hội và thách thức đều 
lớn. Cơ hội lớn nhất là đẩy mạnh cải cách, phát huy lợi thế cạnh tranh để tăng 
trƣởng và phát triển có chất lƣợng cao và với tốc độ nhanh hơn. Thách thức là 
17 Nguồn: “Trung Quốc cân nhắc lợi hại sau 5 năm gia nhập WTO” – Báo Tân Hoa Xã ra ngày 11/12/2006 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 77 
phải cạnh tranh với những đối thủ mạnh hơn ngay trên thị trƣờng nội địa, tuân 
thủ những quy định khắt khe hơn so với trƣớc đây. Cơ hội và thách thức 
không tĩnh tại hay bất biến, không đồng đều cho mọi ngƣời, mọi địa phƣơng 
mà là tƣơng quan động, chúng có thể chuyển hóa cho nhau. Càng chủ động 
quyết tâm học hỏi, cải cách, phát huy lợi thế thì cơ hội càng lớn và thách thức 
càng giảm đi. Ngƣợc lại thụ động không chịu đổi mới tƣ duy, không “biết 
ngƣời biết mình” thì cơ hội hiển nhiên cũng không nắm bắt đƣợc mà thách 
thức sẽ ngày càng lớn và dồn dập hơn. Một ủy viên quốc hội đã từng nhận xét 
đại ý: Thắng, thua trƣớc hết tại mình chứ không phải tại vào WTO, tại mở cửa 
thị trƣờng, vì cho đến nay chƣa có nƣớc nào vì mở cửa thị trƣờng mà phá sản 
hay đến nỗi phải nạp đơn xin rút lui khỏi WTO. 
Có thể thấy, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Nhà nƣớc đã nỗ 
lực để xây dựng một lộ trình đàm phán mở cửa phù hợp, mang tính động lực, 
vừa thúc đẩy vừa tạo sức ép để doanh nghiệp bán lẻ trong nƣớc “xốc lại 
mình”, cạnh tranh hiệu quả hơn. Cũng không nên chỉ đặt vấn đề là doanh 
nghiệp bán lẻ trong nƣớc thắng hay thua các doanh nghiệp đến từ nƣớc ngoài 
mà cái quan trọng không kém là doanh nghiệp Việt Nam phải mạnh lên. 
Không thể nói các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam sẽ quá “sốc” vì lần mở 
cửa này, hay bị doanh nghiệp nƣớc ngoài “bóp nghẹt” một cách dễ dàng đƣợc. 
Bởi Việt Nam đã tham gia rất nhiều tổ chức kinh tế thế giới: ASEAN, ASEM, 
APEC…, mở cửa hội nhập trên nhiều phạm vi và mức độ; việc nộp đơn xin gia 
nhập WTO cũng kéo dài hơn 10 năm và hơn 2 năm sau khi gia nhập WTO 
thành công, thị trƣờng bán lẻ mới phải mở cửa. Nghĩa là doanh nghiệp bán lẻ 
Việt Nam đã có sự chuẩn bị ít nhất là về tinh thần, có thể tranh thủ thời gian để 
nâng cao năng lực cạnh tranh trƣớc khi thị trƣờng bán lẻ mở cửa thực sự. Hơn 
nữa với sự có mặt của các tập đoàn lớn tại Việt Nam từ lâu nay: Metro, Big C, 
Parkson… đã giúp các doanh nghiệp trong nƣớc tập dƣợt trƣớc. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 78 
Thực tế, sự bừng tỉnh của Hapro với những chuỗi siêu thị màu xanh, sự 
lớn mạnh của Saigon Co.op, Satra, Phú Thái và đặc biệt là việc liên kết 4 
doanh nghiệp này (VDA) là minh chứng rõ nhất cho thấy tác động tích cực từ 
việc mở cửa thị trƣờng bán lẻ. Hệ thống G7mart với 500 điểm bán lẻ tiện lợi 
và 5000 cửa hiệu thành viên trong giai đoạn 1, tiếp theo trong giai đoạn 2 sẽ 
xây dựng các TTTM tổng hợp, đại siêu thị và kế hoạch xây dựng các khu 
TTTM Việt Nam tại nƣớc ngoài – Viettown nhằm quảng bá sản phẩm và hình 
ảnh đất nƣớc Việt Nam ra thế giới. Coopmart thực hiện nhiều chiến lƣợc để 
thu hút khách hàng, khẳng định thƣơng hiệu, đầu tƣ để mở rộng hệ thống ra 
các tỉnh. Về phía Satra, công ty đầu tƣ 1200 tỷ đồng cho hệ thống phân phối, 
liên kết với các tỉnh để mở rộng hệ thống một cách vững chắc. Còn tập đoàn 
Phú Thái đang thực hiện tăng tốc đầu tƣ để tăng sức mạnh phân phối của 
mình và một trong những chƣơng trình hành động đó là việc đầu tƣ cho hệ 
thống phần mềm quản lý phân phối. 
Điều này cũng cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không hoàn toàn 
“bó tay” trƣớc cạnh tranh. Nếu biết tận dụng lợi thế am hiểu địa phƣơng cộng 
với cách “suy nghĩ toàn cầu”, chắc chắn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có chỗ 
đứng trên thị trƣờng. Một nhà bán lẻ nƣớc ngoài với những quy chuẩn toàn cầu 
đôi khi không hẳn đã phù hợp với tập quán tiêu dùng nội địa. Đó là lợi thế linh 
hoạt mà doanh nghiệp bán lẻ trong nƣớc có đƣợc và cần phải tận dụng tối đa. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 79 
CHƢƠNG III 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG TÍCH 
CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA VIỆC 
VIỆT NAM MỞ CỬA THỊ TRƢỜNG BÁN LẺ ĐỐI VỚI 
DOANH NGHIỆP BÁN LẺ TRONG NƢỚC 
I/ PHƢƠNG HƢỚNG MỞ CỬA THỊ TRƢỜNG BÁN LẺ 
1. Quan điểm và mục tiêu mở cửa 
1.1 Quan điểm 
Ngày 15/02/2007, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành quyết định số 
27/2007/QĐ – TTg phê duyệt “Đề án phát triển thương mại trong nước đến 
năm 2010 và định hướng đến năm 2020”. 
Theo Đề án, thƣơng mại nội địa sẽ phát triển theo hƣớng “Xây dựng 
một nền thƣơng mại trong nƣớc phát triển vững mạnh và hiện đại, dựa trên 
một cấu trúc hợp lý các hệ thống và các kênh phân phối với sự tham gia của 
các thành phần kinh tế và loại hình tổ chức, vận hành trong môi trƣờng cạnh 
tranh có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nƣớc. Trên cơ sở đó, phát huy 
vai trò và vị trí thƣơng mại trong nƣớc trong việc định hƣớng và thúc đẩy sản 
xuất phát triển, định hƣớng và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong 
phú, đa dạng của nhân dân, góp phần phát triển xuất khẩu, thúc đẩy chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế và tăng trƣởng kinh tế”. 
Cụ thể, quan điểm phát triển thƣơng mại nội địa sẽ là: 
- Phát triển thƣơng mại trong nƣớc phù hợp với các quy luật khách 
quan của nền kinh tế thị trƣờng, bảo đảm quyền tự chủ, tự do kinh doanh và 
cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể trong môi trƣờng pháp lý ngày càng 
hoàn thiện và có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nƣớc. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 80 
- Phát triển thƣơng mại trong nƣớc gắn kết với sự phát triển đa dạng về 
chế độ sở hữu và thành phần kinh tế của các chủ thể, về loại hình tổ chức và 
phƣơng thức hoạt động. Quan tâm phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các 
hộ kinh doanh, đồng thời thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp thƣơng mại lớn 
theo mô hình tập đoàn, có hệ thống phân phối hiện đại, có vai trò nòng cốt, dẫn 
dắt thị trƣờng để định hƣớng sản xuất và tiêu dùng. 
- Phát triển thƣơng mại hàng hóa gắn kết với đầu tƣ, sản xuất và thƣơng 
mại dịch vụ theo lộ trình cam kết quốc tế; đồng thời, chủ động đáp ứng nhu cầu 
ngày càng đa dạng của thị trƣờng và ngƣời tiêu dùng trong nƣớc. 
- Phát triển thƣơng mại trong nƣớc trên cơ sở huy động tối đa mọi 
nguồn lực của xã hội; chú trọng khuyến khích khả năng tích tụ và tập trung 
nguồn lực của doanh nghiệp để đầu tƣ phát triển kết cấu hạ tầng thƣơng mại, 
mở rộng mạng lƣới kinh doanh. 
1.2 Mục tiêu 
1.2.1 Các chỉ tiêu tăng trƣởng 
- Đóng góp của thƣơng mại trong nƣớc vào GDP của cả nền kinh tế đến 
2010 đạt trên 200 nghìn tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 14,5%), đến năm 2020 đạt 
gần 450 nghìn tỷ đồng (chiếm tỷ trọng khoảng 15%). 
- Tốc độ tăng trƣởng bình quân hàng năm (đã loại trừ yếu tố giá) của tổng 
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giai đoạn từ nay đến 2010 
khoảng 11%/năm, trong các giai đoạn tiếp theo trên 10%/năm. Đến năm 2010, 
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt khoảng 800 nghìn 
tỷ đồng và đến năm 2020 đạt khoảng 2.000 nghìn tỷ đồng. 
- Tỷ trọng mức bán lẻ hàng hóa theo thành phần kinh tế đến năm 
2010: khu vực kinh tế trong nƣớc (bao gồm khu vực kinh tế nhà nƣớc và 
khu vực kinh tế ngoài Nhà nƣớc) chiếm khoảng 93%; khu vực có vốn đầu 
tƣ nƣớc ngoài chiếm khoảng 7%. Tỷ trọng này đến năm 2020 tƣơng ứng là 
80% và 20%. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 81 
- Tỷ trọng mức bán lẻ hàng hóa theo loại hình thƣơng mại hiện đại 
(TTTM, siêu thị, mạng lƣới cửa hàng tiện lợi…) đạt 20%, khoảng 160 nghìn tỷ 
đồng vào năm 2010, đến năm 2020 đạt 40%, khoảng 800 nghìn tỷ đồng. 
1.2.2 Hiện đại hóa kết cấu hạ tầng thƣơng mại, đặc biệt là thƣơng mại hiện 
đại; hoàn thành về cơ bản chƣơng trình phát triển các loại hình chợ. 
- Phát triển đa dạng các loại hình và phƣơng thức kinh doanh thƣơng 
mại hiện đại khác nhƣ: sàn giao dịch, trung tâm đấu giá, nhƣợng quyền kinh 
doanh, thƣơng mại điện tử… 
- Hình thành và phát triển một số tập đoàn mạnh, kinh doanh hàng hóa 
chuyên ngành hoặc tổng hợp, có đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn nƣớc 
ngoài khi Việt Nam mở cửa thị trƣờng phân phối. 
- Phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ kinh 
doanh hiện đại và chuyên nghiệp. 
- Hoàn thiện thể chế quản lý Nhà nƣớc về thƣơng mại, đảm bảo hoạt 
động thƣơng mại phát triển lành mạnh, bền vững. 
II/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ 
Thực trạng về thị trƣờng bán lẻ Việt Nam, tình hình hoạt động của 
các doanh nghiệp bán lẻ trong nƣớc và những kinh nghiệm mở cửa thị trƣờng 
này của các nƣớc trong khu vực cho thấy để có thể đối đầu tốt với các tập 
đoàn nƣớc ngoài, ngoài sự nỗ lực tự thân của các doanh nghiệp thì sự hỗ trợ 
của các cơ quan nhà nƣớc cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nhƣ vậy, 
Nhà nƣớc cũng nhƣ chính các doanh nghiệp bán lẻ nội địa cần phải có những 
giải pháp kịp thời nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, phát huy lợi thế, hạn 
chế tác động tiêu cực và tăng cƣờng tác động tích cực của việc mở cửa thị 
trƣờng bán lẻ Việt Nam. 
1. Về phía Nhà nƣớc: 
Nghiên cứu sự phát triển của thị trƣờng bán lẻ các nƣớc, có thể thấy, 
Nhà nƣớc đóng vai trò là ngƣời định hƣớng và điều tiết cho toàn bộ sự phát 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 82 
triển của thƣơng mại nội địa, góp phần làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh 
tế trong nƣớc. Để thúc đẩy thị trƣờng bán lẻ phát triển, Nhà nƣớc cần: 
1.1 Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động phân 
phối bán lẻ 
Có ý kiến cho rằng bán lẻ chỉ là một hoạt động nằm trong hệ thống 
thƣơng mại nội địa và luật thƣơng mại, luật doanh nghiệp, luật đầu tƣ và các 
luật khác đủ để điều chỉnh mọi hoạt động kinh doanh phân phối bán lẻ. Tuy 
nhiên, trên thực tế, do đặc thù hoạt động của hệ thống bán lẻ, rất cần có khung 
pháp lý riêng, đặc trƣng cùng với sự hƣớng dẫn và điều hành cụ thể của Nhà 
nƣớc cho lĩnh vực này nhƣ: ban hành luật kinh doanh bán lẻ, xây dựng hệ 
thống chuẩn mực thống nhất cho kênh phân phối hiện đại... 
 Nhà nƣớc cần hoàn chỉnh khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh trên 
thị trƣờng bán lẻ, tạo sự quản lý thống nhất từ Trung ƣơng đến địa phƣơng. 
Từ kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, do không có sự điều hành chặt chẽ 
của Chính phủ dẫn đến việc các tập đoàn bán lẻ nƣớc ngoài ồ ạt gia nhập vào 
thị trƣờng do sự cho phép của các chính quyền cấp thấp, gây tổn hại cho các 
doanh nghiệp bán lẻ trong nƣớc. 
Hơn nữa, những nhà bán lẻ lớn nƣớc ngoài thƣờng giảm giá thấp hơn chi 
phí để ngăn cản đối thủ cạnh tranh và sau đó tăng giá (còn gọi là định giá hủy 
diệt). Bởi vậy, Nhà nƣớc cần hoàn thiện các văn bản pháp luật theo hƣớng bảo 
vệ quyền lợi của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trƣớc chiến lƣợc về giá cả 
không lành mạnh; trƣớc tình trạng bán phá giá, khuyến mãi mạnh, sẵn sàng 
chịu lỗ để chiếm lĩnh khách hàng và xây dựng thƣơng hiệu của các tập đoàn 
nƣớc ngoài. Vai trò của Nhà nƣớc trong việc tạo hành lang và công cụ pháp lý 
để kiểm soát, chống lại các hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không 
lành mạnh, đảm bảo môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng là vô cùng quan trọng. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 83 
1.2 Xây dựng quy hoạch tổng thể cho ngành phân phối bán lẻ Việt Nam 
Mạng lƣới phân phối bán lẻ của Việt Nam thời gian qua phần nhiều 
mang tính chất tự phát, do đó có sự mất cân đối lớn giữa cung và cầu về hệ 
thống bán lẻ trên cả nƣớc và ở các địa bàn trọng điểm. 
 Nhà nƣớc cần đẩy nhanh quy hoạch mạng lƣới bán lẻ cho từng địa 
phƣơng trong vòng 10 năm tới. Trên từng địa bàn cụ thể, phải xác định có bao 
nhiêu cơ sở bán lẻ, ở vị trí nào, phân biệt cái nào là hiện đại, cái nào là truyền 
thống; bao nhiêu TTTM, hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện ích. Từ đó, dựa vào 
sự phát triển của nông nghiệp, công nghiệp để bố trí hệ thống giao thông phù 
hợp với hệ thống thƣơng mại và quy hoạch quỹ đất cho phù hợp. Do vậy, thời 
gian tới, nhà nƣớc cần dựa vào nhu cầu phát triển mạng lƣới thƣơng mại phù hợp 
với trình độ phát triển kinh tế đất nƣớc để quy hoạch tổng thể và dài hạn cho 
ngành bán lẻ Việt Nam trên phạm vi cả nƣớc. Nhà nƣớc cần thực hiện chính 
sách ƣu tiên phát triển thị trƣờng bán lẻ tại các địa phƣơng có đủ điều kiện và 
hạn chế phát triển tại các thành phố lớn nơi mà thị trƣờng bán lẻ đã bão hòa. 
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, trong giai đoạn đầu phát triển, hầu 
nhƣ tất cả các đại gia bán lẻ đều có mặt ở các thành phố lớn của Trung Quốc 
đến mức bão hòa, trong khi tại các tỉnh và thành phố nhỏ lại chƣa có một siêu 
thị nào. 
 Kết hợp quản lý thị trƣờng bán lẻ thông qua quản lý đất đai, quy hoạch. 
Kinh nghiệm của Trung Quốc và Thái Lan cho thấy có thể quản lý thị trƣờng 
bán lẻ thông qua việc quản lý đất đai, mặt bằng xây dựng; quy định lƣợng 
siêu thị tại các thành phố; khống chế diện tích tối đa hoặc tối thiểu khi mở các 
siêu thị nhằm hạn chế sự bành trƣớng, chiếm lĩnh và thao túng thị trƣờng của 
các tập đoàn bán lẻ nƣớc ngoài. 
 Nhằm mục tiêu giữ vững sự phát triển nền kinh tế quốc dân, Nhà nƣớc 
cũng cần sớm xây dựng định hƣớng, chiến lƣợc cho sự phát triển của hệ thống 
phân phối bán lẻ, kế hoạch đào tạo nhân lực, chính sách hỗ trợ về đổi mới 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 84 
công nghệ cũng nhƣ hỗ trợ về thông tin thị trƣờng, dự báo giá cả và xúc tiến 
thƣơng mại. Nhà nƣớc có thể hỗ trợ về thông tin, đào tạo kỹ năng quản lý, 
nghiên cứu thị trƣờng, chuyền giao công nghệ hay tổ chức các cuộc hội thảo 
quốc tế trao đổi kiến thức, kỹ năng về kinh doanh bán lẻ… thực hiện các 
chính sách hỗ trợ, khuyến khích hệ thống bán lẻ trong nƣớc phát triển. Nhà 
nƣớc cũng cần đầu tƣ vào hệ thống đƣờng giao thông, điện nƣớc, viễn thông 
để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh bán lẻ. 
1.3 Cần phải có những cơ quan chuyên trách đảm nhiệm việc kiểm tra, giám 
sát hoạt động phân phối bán lẻ theo một hệ thống chuẩn mực thống nhất 
Đặc trƣng của bán lẻ là phân phối hàng hóa trực tiếp đến tay ngƣời tiêu 
dùng cuối cùng. Vì vậy, vấn đề tiêu chuẩn hóa và kiểm tra chất lƣợng hàng 
hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm cần đƣợc đảm bảo thực hiện tốt vì lợi ích và 
sức khỏe ngƣời tiêu dùng. Công tác này phải do những cơ quan chuyên trách 
đảm nhiệm, phải đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, nghiêm ngặt, chặt chẽ, tránh 
sự chồng chéo, trùng lặp. 
Bên cạnh đó, thị trƣờng bán lẻ Việt Nam hiện nay đang chuyển dịch 
theo hƣớng hiện đại - xu hƣớng phổ biến trên toàn cầu, đi kèm với nó là hệ 
thống các chuẩn mực mới về kinh doanh bán lẻ tại các siêu thị, TTTM, cửa 
hàng tiện lợi... Do đó, để đảm bảo rằng các doanh nghiệp bán lẻ thực hiện 
hoạt động phân phối theo đúng hệ thống chuẩn mực này, Nhà nƣớc cần phải 
lập nên những cơ quan chức năng chịu trách nhiệm thanh tra, giám sát nghiêm 
ngặt. 
Đây cũng là một biện pháp giúp Nhà nƣớc quản lý vĩ mô, tạo môi 
trƣờng cạnh tranh lành mạnh, tránh gian lận thƣơng mại và để bảo vệ lợi ích 
của ngƣời tiêu dùng. 
2. Về phía các doanh nghiệp bán lẻ 
2.1 Tăng cường khả năng thu hút vốn 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 85 
Một thực tế là tất cả doanh nghiệp phân phối Việt Nam, chƣa có một 
doanh nghiệp nào mở đƣợc một trung tâm mua sắm, tất cả các TTTM lớn hiện 
nay đều là của các tập đoàn nƣớc ngoài. Các doanh nghiệp rất cần tìm kiếm 
nguồn đầu tƣ, có thể bằng cách kêu gọi các nguồn đầu tƣ trong và ngoài nƣớc… 
nhằm gia tăng tiềm lực tài chính để mở rộng mạng lƣới phân phối. 
2.1.1 Mở rộng quy mô thông qua việc liên kết với các doanh nghiệp trong nƣớc 
Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp bán lẻ nƣớc ta đều có quy mô nhỏ 
và có nguồn vốn rất hạn hẹp, do đó không có đủ vốn để mở rộng đầu tƣ. Các 
doanh nghiệp phân phối của Việt Nam có thể củng cố sức mạnh để đứng vững 
trên thị trƣờng bán lẻ bằng cách sáp nhập hai hay nhiều doanh nghiệp với 
nhau, nhƣ vậy sẽ gia tăng qui mô, tăng sức mạnh tài chính. Đây cũng là xu 
hƣớng phổ biến trên thế giới hiện nay. 
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần tăng cƣờng các hoạt động liên 
doanh, liên kết, thành lập các tập đoàn bán lẻ lớn, làm đối trọng với các tập 
đoàn nƣớc ngoài. Hơn nữa, quyền lợi của các doanh nghiệp bán lẻ nội địa sẽ 
đƣợc đảm bảo hơn khi xảy ra tranh chấp hoặc nguy cơ thâu tóm của các 
doanh nghiệp bán lẻ nƣớc ngoài.Việc liên kết các doanh nghiệp trong ngành 
một mặt sẽ nhanh chóng mở rộng quy mô của doanh nghiệp; mặt khác sẽ tận 
dụng đƣợc những kinh nghiệm của nhau để phát triển, tiết kiệm thời gian, chi 
phí mở rộng thị trƣờng. Hệ thống các cửa hàng đại lí rộng khắp cũng sẽ tạo 
điều kiện cho các doanh nghiệp quảng bá và phát triển thƣơng hiệu dễ dàng 
hơn. Trƣờng hợp của Trung Quốc đã chỉ ra rằng, do không có đƣợc doanh 
nghiệp nào “ngang cơ” với các nhà bán lẻ nƣớc ngoài, nên thị trƣờng bán lẻ 
Trung Quốc đã chịu rất nhiều sức ép từ các đối thủ hùng mạnh này. 
 Thực tiến phát triển lĩnh vực dịch vụ phân phối tại Hàn Quốc đã chỉ ra 
rằng, sau khi mở cửa thị trƣờng, phân phối bán lẻ nội địa vẫn tồn tại và phát 
triển đƣợc, một phần là nhờ vào sự bắt tay giữa nhà sản xuất với nhà phân 
phối trong nƣớc. Học tập kinh nghiệm này, các nhà sản xuất Việt Nam cần 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 86 
phối hợp chặt chẽ với các nhà phân phối trong nƣớc. Điều này không chỉ có 
lợi tạo sức cạnh tranh cho các nhà phân phối bán lẻ mà còn tạo ra nhiều lợi 
ích cho chính các nhà sản xuất. 
Nếu nhƣ các doanh nghiệp cứ khƣ khƣ ôm lấy tƣ duy “mạnh ai nấy 
thắng”, thì sẽ không thể trụ nổi với các tập đoàn nƣớc ngoài, sớm muộn gì 
cũng bị loại ra khỏi cuộc chơi. Cần phải có một sự liên kết giữa các doanh 
nghiệp trong nƣớc để đối trọng lại các tập đoàn bán lẻ nƣớc ngoài. 
2.1.2 Tập trung vốn thông qua việc mở rộng hợp tác với các ngân hàng và 
các tổ chức tài chính, tín dụng 
Ngân hàng và các tổ chức tài chính, tín dụng là nguồn cung vốn rất lớn 
mà các doanh nghiệp bán lẻ cần phải tận dụng. Để nhận đƣợc sự giúp đỡ hợp 
tác của họ, các doanh nghiệp cần phải tạo dựng cho mình một hình ảnh đẹp , 
tạo dựng uy tín của mình trong kinh doanh. Đối với dự án mà doanh nghiệp 
muốn vay vốn để đầu tƣ, cần chỉ cho họ thấy rõ đƣợc tính khả thi của dự án, 
những lợi ích hấp dẫn mà dự án có thể mang lại và phải đảm bảo sẻ trả nợ và 
lãi đúng thời hạn. Trong đàm phán các doanh nghiệp cần phải thuyết phục các 
ngân hàng, tổ chức tài chính tín dụng cho vay vốn. 
2.1.3.Tập trung vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu 
Thị trƣờng trái phiếu hình thành ở nƣớc ta trong mấy năm gần đây và 
cũng là nguồn cung cấp vốn hấp dẫn đang đƣợc sự quan tâm của các doanh 
nghiệp. Trái phiếu là giấy tờ ghi nợ trên đó có ghi rõ ngƣời vay và ngƣời cho 
vay ghi rõ ngày đáo hạn, lãi suất mà ngƣời mua trái phiếu đƣợc hƣởng. Các 
doanh nghiệp muốn bán đƣợc trái phiếu phải đƣa ra các mức lãi suất hấp dẫn 
và phải tạo niềm tin cho các nhà đầu tƣ có thể thu hồi đƣợc lãi và vốn đúng 
hẹn. 
Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam là các tổ hợp HTX, 
các công ty TNHH, điều này làm hạn chế cho các doanh nghiệp trong việc 
huy động và mở rộng vốn để đầu tƣ phát triển. Với việc thị trƣờng chứng 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 87 
khoán Việt Nam đã đƣợc hình thành, đang tăng trƣởng và dần đi vào ổn định, 
các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam cần phải tận dụng điều này nhanh chóng 
cổ phần hoá các doanh nghiệp của mình để huy động vốn từ bên ngoài. 
Hơn nữa, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam cũng cần phải có sự phân 
bổ nguồn lực một cách hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tránh thất 
thoát lãng phí. 
2.2 Cải thiện công tác hậu cần 
2.2.1 Tạo lập mối quan hệ chặt chẽ với các nhà cung ứng và các doanh 
nghiệp vận tải 
Ngƣời cung ứng là những ngƣời cung cấp hàng hoá cho các doanh nghiệp 
bán lẻ. Do vậy, việc tạo lập mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các nhà cung ứng 
đảm bảo nguồn cung hàng cho doanh nghiệp luôn ổn định, hay hƣởng mức chiết 
khấu cao hơn. Tuy nhiên doanh nghiệp không nên mua hàng từ một nhà cung 
ứng mà phải mua từ nhiều nhà cung ứng, tránh tình trạng phải phụ thuộc quá 
nhiều vào một nhà cung ứng, tránh rủi ro thiếu hàng khi nhà cung ứng này 
gặp trục trặc trong kinh doanh hay bị họ ép giá do biến động thị trƣờng. 
Các doanh nghiệp vận tải đóng vai trò rất quan trọng đối với các doanh 
nghiệp bán lẻ. Họ có nhiệm vụ vận chuyển hàng hoá từ nhà cung ứng đến các 
cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp và vận chuyển hàng hoá đến ngƣời tiêu 
dùng. Doanh nghiệp cần lựa chọn ngƣời vận tải có uy tín, có trách nhiệm, 
đảm bảo hàng không bị hƣ hỏng trong quá trình vận chuyển và khi doanh 
nghiệp có nhu cầu phải đáp ứng một cách nhanh nhất. 
2.2.2 Thu mua và quản lý hàng hóa 
 Thành lập một trung tâm mua hàng chung, có chức năng thu mua hàng 
hóa và cung cấp cho các thành viên. Giải pháp này cho phép mua với số 
lƣợng lớn trực tiếp từ các nhà sản xuất, không phải mua qua trung gian nhƣ 
hiện nay. Do vậy, doanh nghiệp bán lẻ sẽ đƣợc hƣởng tỷ lệ chiết khấu cao hơn 
từ phía nhà sản xuất hoặc nhà cung ứng. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 88 
2.3 Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực 
2.3.1 Chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực từ bộ phận quản trị cấp 
cao đến đội ngũ nhân viên bán hàng 
Xây dựng chƣơng trình huấn luyện và nâng cao tinh thần làm việc cho 
nhân viên. Công tác huấn luyện nhân viên phải do cán bộ có chuyên môn và 
kinh nghiệm hoặc các chuyên gia đảm nhiệm. Đội ngũ quản lý có trình độ 
cao, đƣợc đào tạo bài bản sẽ nghiên cứu và tìm ra nhu cầu mới hoặc còn chƣa 
đƣợc thoả mãn của khách hàng. Nhờ vào việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ, 
nâng cao các nghiệp vụ về trƣng bày, nghiệp vụ về bán hàng…, chất lƣợng 
dịch vụ ngày càng tăng, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Từ đó mở 
ra cơ hội kinh doanh mới và gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 
Muốn bộ máy doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, thì việc đầu tiên là 
phải có kế hoạch bồi dƣỡng đào tạo các nhà quản trị trong doanh nghiệp. 
Nâng cao năng lực quản trị cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý để họ 
vận dụng hiệu quả những nguyên tắc và qui luật của nền kinh tế thị trƣờng. 
Tạo cơ hội cho họ tiếp cận và học hỏi các phƣơng pháp quản lí hiện đại để có 
thể áp dụng thành công cho chính doanh nghiệp. Hơn nữa, doanh nghiệp cần 
chú trọng việc đào tạo, trang bị kiến thức và kỹ năng thực hành cho đội ngũ 
cán bộ kế cận, tạo nguồn cán bộ bổ sung kịp thời lực lƣợng cán bộ quản lý 
lãnh đạo. 
Với các doanh nghiệp bán lẻ, đội ngũ nhân viên bán hàng đóng vai trò rất 
quan trọng trong việc bán hàng và lôi kéo khách hàng về với mình. Bởi vì nhân 
viên bán hàng là ngƣời tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, những thông tin về 
doanh nghiệp và sản phẩm sẽ đƣợc họ trực tiếp giới thiệu cho khách hàng. 
Doanh nghiệp cần phải xây dựng cho mình một đội ngũ nhân viên bán hàng 
chuyên nghiệp có đầy đủ các kỹ năng bán hàng cần thiết. Một nhân viên bán 
hàng chuyên nghiệp cần phải nắm đƣợc những thông tin về sản phẩm, phải biết 
khách hàng cần gì, phải hiểu đƣợc tâm lí của từng đối tƣợng khách hàng và có 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 89 
cách ứng xử phù hợp. Doanh nghiệp cần phải thƣờng xuyên tổ chức các lớp đào 
tạo nâng cao và hoàn thiện dần các kỹ năng bán hàng cho nhân viên. 
Doanh nghiệp cũng phải đổi mới công nghệ áp dụng để nâng cao năng 
suất lao động nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 
2.3.2 Áp dụng chế độ khen thƣởng, đãi ngộ hợp lý để kích thích làm việc hiệu 
quả, nâng cao năng suất lao động 
Các doanh nghiệp bán lẻ cần tạo điều kiện để mỗi ngƣời lao động 
trong doanh nghiệp phát huy đƣợc khả năng của mình đồng thời phải có 
những chế độ khen thƣởng hợp lí đối với những cá nhân, nhóm có thành 
tích cao trong công việc. 
 Nguồn nhân lực chất lƣợng cao là một trong những yếu tố then chốt, 
quan trọng hàng đầu giúp doanh nghiệp bán lẻ có thể đững vững và phát triển 
trong môi trƣờng cạnh tranh gay gắt, khốc liệt hiện nay. Tuy nhiên, không chỉ 
dừng lại ở đó, sự thành công của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào sự thành công 
của việc biết cách kích thích tinh thần làm việc và sáng tạo của ngƣời lao động. 
Doanh nghiệp nên đƣa ra các hình thức kích thích ngƣời lao động áp dụng 
các kiến thức, kỹ năng, phƣơng pháp làm việc; kích thích việc phát huy sáng 
kiến, đóng góp cải tiến nhằm đạt hiệu quả cao hơn, nâng cao năng suất lao động 
nhƣ: các chế độ lƣơng thƣởng, đãi ngộ hợp lí... Đây cũng chính là một biện pháp 
để thu hút những ngƣời lao động có trình độ về với doanh nghiệp. 
2.4 Khắc phục tính thiếu chuyên nghiệp 
2.4.1 Các doanh nghiệp bán lẻ phải xây dựng một chiến lƣợc kinh doanh dài 
hơi và chú trọng hoạt động nghiên cứu thị trƣờng 
Các doanh nghiệp bán lẻ cần xây dƣng các chiến lƣợc kinh doanh ngắn 
hạn và dài hạn, từ đó làm cơ sở cho việc xác định các kế hoạch dự trữ và mua 
hàng từ các nhà cung ứng, có những dự trù về tài chính cho phù hợp và đƣa ra 
các chiến lƣợc marketing nhằm xúc tiến bán hàng và phát triển thƣơng hiệu. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 90 
Đẩy mạnh việc nghiên cứu thị trƣờng về nhu cầu, tâm lý, hành vi ngƣời 
tiêu dùng và định vị khách hàng mục tiêu để tìm ra những phân đoạn thị trƣờng 
trọng điểm, tránh đƣợc đầu tƣ dàn trải gây thất thoát, lãng phí nguồn vốn. Những 
mảng thị trƣờng này về cơ bản phải là những thị trƣờng mà nhu cầu lớn, còn bỏ 
ngỏ hay các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có lợi thế trên thị trƣờng đó. 
Đặc biệt, doanh nghiệp phải chú trọng đến hai khâu trọng điểm là mua 
hàng và bán hàng. 
Đầu tiên, bộ phận mua hàng phải luôn nắm bắt những nhu cầu, thị hiếu 
vốn thay đổi thƣờng xuyên của ngƣời tiêu dùng và phải có kĩ năng đàm phán, 
thƣơng thảo với các nhà sản xuất về giá cả, về chất lƣợng, mẫu mã, quy cách, 
bao bì sản phẩm và cả việc thiết kế các chƣơng trình quảng cáo để “kéo” khách 
hàng đến siêu thị, làm sao bán đƣợc nhiều hàng nhất, mang lại lợi nhuận tối đa 
cho doanh nghiệp. 
Bộ phận bán hàng phải chú ý quan sát , tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của 
khách hàng tuỳ từng lứa tuổi về loại mặt hàng, mẫu mã, màu sắc, kích thƣớc, kết 
hợp với việc phân tích các dữ liệu bán hàng để cung cấp cho bộ phận mua hàng 
và để doanh nghiệp có chiến lƣợc kinh doanh thích hợp. 
Các doanh nghiệp nên tham khảo, nghiên cứu, học hỏi các mô hình hoạt 
động của các tập đoàn lớn nƣớc ngoài. 
2.4.2 Chú trọng cải thiện chất lƣợng dịch vụ, đặc biệt là công tác hậu mãi 
theo hƣớng chuyên nghiệp và làm hài lòng khách hàng 
Điểm yếu nhất của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện nay chính là 
chất lƣợng dịch vụ và các dịch vụ giá trị gia tăng đi kèm. Do vậy, ngoài việc 
nhân nhanh, nhân rộng thì các doanh ngiệp bán lẻ phải tập trung cải thiện chất 
lƣợng dịch vụ, các chƣơng trình hậu mãi, nâng cao sự tiện lợi và làm hài lòng 
khách hàng. Đây chính là một biện pháp khuyến khích họ mua hàng và trở thành 
khách hàng truyền thống, trung thành của doanh nghiệp. 
Các doanh nghiệp nên tham khảo, nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của 
các tập đoàn lớn nƣớc ngoài. Chẳng hạn, chính sách cho khách hàng trả lại hàng 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 91 
trong vòng X giờ nếu chƣa sử dụng, miễn phí vận chuyển nếu khách hàng mua 
hàng với giá trị tối thiểu là Y nghìn đồng, miễn phí lắp đặt và vận chuyển... Hay 
học hỏi phƣơng châm làm hài lòng khách hàng rất thành công của các tập đoàn 
bán lẻ quốc tế nhƣ: “Làm vui lòng khách hàng bằng giá trị và sự tiện nghi lớn 
lao” (Tập đoàn bán lẻ của úc - Coles Myer), “Hƣớng đến việc làm cho khách 
hàng hài lòng và làm họ vừa ý với những ý tƣởng bán lẻ mới mẻ” (Tập đoàn 
Dairy Farm của Singapore), “Bán lẻ nghĩa là lắng nghe khách hàng và hiểu vì 
sao họ chọn chỗ của mình để đến mua sắm” (Tập đoàn Tesco Lotus của Thái 
Lan)... 
2.4.3 Xác định cho doanh nghiệp một phong cách riêng, đặc trƣng và khác biệt 
Từ việc xác định khách hàng mục tiêu, doanh nghiệp sẽ lựa chọn một mô 
hình phù hợp cho mình. Mỗi siêu thị, TTTM phải tạo ra một phong cách 
riêng, khác biệt cho mình nhƣ: phong cách phục vụ riêng, logo riêng, trang 
phục dành cho nhân viên khác biệt... Nếu không hình ảnh của doanh nghiệp 
sẽ rất mờ nhạt trong một thị trƣờng bán lẻ rộng lớn với hàng trăm nhà cung 
cấp dịch vụ na ná, tƣơng tự. Đây chính là một biện pháp marketing rất hữu 
hiệu và cũng là một phƣơng thức để tạo dựng thƣơng hiệu. Điều này rất có ý 
nghĩa trong môi trƣờng cạnh tranh gay gắt, khốc liệt hiện nay. 
2.4.4 Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, áp dụng khoa học công nghệ và 
cách quản lý hiện đại để kinh doanh hiệu quả 
Để hoạt động phân phối bán lẻ hiệu quả hơn, chuyên nghiệp hơn, các 
doanh nghiệp cần phải đầu tƣ nâng cấp, bổ sung mới cơ sở vật chất và hệ 
thống công cụ hỗ trợ việc ra quyết định và hỗ trợ kinh doanh, bán hàng. 
Chẳng hạn nhƣ: đẩy nhanh việc nâng cấp và xây dựng mới hệ thống kho 
hàng, trung tâm phân phối, cửa hàng; triển khai hệ thống thƣơng mại điện tử; 
triển khai hệ thống quản lý chất lƣợng ISO 9000… 
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần phải nghiên cứu áp dụng mô hình 
quản lý hiện đại nhƣ quản lý chuỗi, quản lý siêu thị… và các công cụ hiện đại 
kiểm soát giá thành sản phẩm, dịch vụ. Nhờ đó mà doanh nghiệp có thể giảm 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 92 
chi phí cho những hoạt động không cần thiết, tăng hiệu quả kinh doanh, nâng 
cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. 
2.4.5 Doanh nghiệp bán lẻ cần phải đa dạng hóa phƣơng thức bán hàng 
Bán hàng không chỉ giới hạn trong phạm vi các cửa hàng mà có thể mở 
rộng ra rất nhiều hình thức đa dạng khác nhau. 
Ngay nay, Internet thực sự đã rất phổ biến tại Việt Nam. Cùng với sự phát 
triển mạnh mẽ trong lĩnh vực mạng truyền thông, ngƣời tiêu dùng có thể ngồi tại 
nhà và mua hàng một cách dễ dàng, tiện lợi. Hơn nữa, việc tiếp thị, quảng cáo 
cũng vừa hiệu quả lại vừa tiết kiệm chi phí. 
Ở Việt Nam đã manh nha xuất hiện các doanh nghiệp bán lẻ bán hàng qua 
mạng Internet, điện thoại nhƣ: bán điện thoại di động, bán hoa tƣơi, thực phẩm, 
thời trang,.. song vẫn ở mức độ hạn chế. 
Đây là những phƣơng thức bán hàng rất hữu hiệu và tiết kiệm chi phí mà 
các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam cần áp dụng để gia tăng lợi thế cạnh tranh. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 93 
KẾT LUẬN 
Không ít doanh nghiệp bán lẻ trong nƣớc lo ngại trƣớc việc mất thị trƣờng 
khi những “ngƣời khổng lồ” đang lên kế hoạch thôn tính thị trƣờng bán lẻ Việt 
Nam, nhất là vào thời điểm 2009, cửa thị trƣờng chính thức mở rộng theo cam 
kết WTO. Song đây cũng chính là “đòn bẩy” để các doanh nghiệp bán lẻ trong 
nƣớc nhận diện rõ mình; thay đổi sang tƣ duy hội nhập năng động; từ đó đổi mới 
theo hƣớng hiệu quả và chuyên nghiệp hơn. Mở cửa cũng chính là cơ hội học 
hỏi, tích lũy kinh nghiệm, thúc đẩy tinh thần liên kết, hợp tác giữa các doanh 
nghiệp bán lẻ nội địa để đối đầu đƣợc với các tập đoàn bán lẻ nƣớc ngoài. 
Với những ƣu thế về phƣơng thức kinh doanh, vốn, trình độ quản lý, công 
nghệ, đã có nhiều tập đoàn phân phối quốc tế xâm nhập thị trƣờng Việt Nam, tạo 
sức ép cạnh tranh rất lớn đối với các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Cuộc chiến 
trên thị trƣờng bán lẻ sẽ rất gay gắt giữa các đại gia bán lẻ nƣớc ngoài và các nhà 
bán lẻ trong nƣớc. Bởi các tập đoàn nƣớc ngoài có bề dày kinh nghiệm, nguồn 
vốn phong phú và mối quan hệ toàn cầu đồng thời họ còn hƣởng nhiều chính 
sách ƣu đãi đầu tƣ của Việt Nam nhƣ thuế, giá thuê đất... Trong khi đó, các nhà 
bán lẻ trong nƣớc lại mới manh nha phát triển, nguồn vốn còn hạn hẹp, kinh 
nghiệm quản lý và tiếp thị thiếu và yếu, thiếu chuyên nghiệp,... 
Với tình trạng nhƣ hiện nay, nếu các doanh nghiệp bán lẻ không tự thay 
đổi cách tƣ duy, cũng nhƣ không có chiến lƣợc rõ ràng thì cảnh “chƣa chạy đã 
hụt hơi” sẽ khiến cho họ gặp nhiều bất lợi khi thị trƣờng đƣợc mở cửa hoàn toàn. 
Trƣớc sức cạnh tranh mạnh mẽ của các nhà bán lẻ nƣớc ngoài, các nhà bán lẻ 
nội địa nên tranh thủ quỹ thời gian ít ỏi để liên kết chặt chẽ với nhau, củng cố lại 
thị trƣờng, tận dụng lợi thế cạnh tranh, khắc phục điểm yếu và phát huy điểm 
mạnh hơn nữa thì mới mong cạnh tranh thành công đƣợc. Một khi doanh nghiệp 
Việt Nam làm tốt việc phân phối, hàng hóa đa dạng, giá cả hợp lý, chất lƣợng 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 94 
cao, thái độ phục vụ tốt, có trách nhiệm và thực sự tiện lợi thì không cần kêu gọi, 
tự khắc ngƣời Việt sẽ ủng hộ thƣơng hiệu Việt. 
Từ những kinh nghiệm phát triển thị trƣờng bán lẻ của một số nƣớc 
trong khu vực, có thể thấy rằng, cho dù các doanh nghiệp trong nƣớc nằm ở 
thế yếu so với các tập đoàn bán lẻ khổng lồ nƣớc ngoài, nhƣng điều đó không 
có nghĩa là họ không có cơ hội phát triển. Các doanh nghiệp nếu biết hành 
động kịp thời thì hoàn toàn có thể xác lập vị trí của mình trƣớc cả những đối 
thủ mạnh hơn về tài chính và công nghệ. Liệu các doanh nghiệp bán lẻ trong 
nƣớc có viết tiếp đƣợc câu chuyện thành công của Hàn Quốc hay sẽ lâm vào 
cảnh đổ bể hàng loạt nhƣ nhiều nƣớc đang phát triển khác trong bối cảnh mở cửa 
thị trƣờng bán lẻ, câu trả lời nằm ở chính các doanh nghiệp Việt Nam. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 95 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
I/ Ấn phẩm sách, tạp chí chuyên đề: 
1. Trƣờng Đại học Ngoại Thƣơng (2004), “Giáo trình Marketing lý thuyết”, 
NXB Giáo dục. 
2. Phillip Kotler (2003), “Quản trị marketing”, NXB Thống kê. 
3. Phillip Kotler & Gary Amstrong (2002), “Principles of marketing”, NXB 
Thống kê. 
4. Micheal Levy (2003), “Retail Management”, NXB McGraw Hill Higher 
Education. 
5. Tổng Cục Thống Kê (2008), “Kinh tế Việt Nam và khu vực 2007 qua số liệu 
thống kê”, NXB Thống kê. 
6. Tổng Cục Thống Kê (2007), “Niên giám thống kê 2006”, NXB Thống kê. 
7. Tổng Cục Thống Kê (2006), “Động thái và thực trạng kinh tế xã hội Việt 
Nam”, NXB Thống kê. 
8. Mc GoldRick (2005), “Retail Marketing”, NXB University of the West of 
England, UK. 
II/ Các văn kiện pháp luật, đề án, bài báo, tham luận 
1. Đề án “Phát triển thƣơng mại trong nƣớc giai đoạn 2006 - 2010, định hƣớng 
đến 2020”, Bộ Công Thƣơng. 
2. Quyết định số 1371/2004 QĐ-BTM ban hành quy chế siêu thị - trung tâm 
thƣơng mại ngày 24/09/2004. 
3. Quyết định của UBND thành phố Hà Nội: Quy chế siêu thị và trung tâm 
thƣơng mại trên địa bàn thành phố. 
4. TS.Nguyễn Thị Nhiễu (2005), viện Nghiên cứu Thƣơng mại, đề tài nghiên 
cứu cấp Bộ: “Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống siêu thị ở nƣớc ta 
trong giai đoạn hiện nay”. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 96 
5. Ngô Bình: “Toàn cầu hóa bán lẻ và thử thách hệ thống phân phối Việt”, Báo 
Nhà quản lý số tháng 6, 7, 8 năm 2007. 
6. Lan Hƣơng (2006), “Xu hƣớng tiêu dùng ngày càng hiện đại”, Kỷ yếu của Bộ 
Thƣơng Mại năm 2006. 
7. Vũ Vinh Phú, “Những tiền đề để phát triển hệ thống phân phối Việt Nam”, 
Báo Thƣơng Mại, số 19/2006, trang 26. 
8. Nguyễn Hồng Thanh, ủy ban quốc gia Vụ đa biên, Bộ Công Thƣơng, “Xu 
hƣớng phát triển ngành dịch vụ phân phối ở Việt Nam”. 
9. ThS.Phạm Hữu Thìn (2004), “Chính sách tạo lập và phát triển chuỗi cửa 
hàng ở Trung Quốc” - Vụ Chính sách thị trƣờng trong nƣớc, Bộ Công Thƣơng. 
10. ThS.Phạm Hữu Thìn (2005), “Trung Quốc với chính sách thu hút đầu tƣ 
nƣớc ngoài vào lĩnh vực phân phối hàng hóa nội địa”, Vụ chính sách thị trƣờng 
trong nƣớc, Bộ Công Thƣơng. 
11. Thời báo kinh tế Việt Nam (2006), “Kinh tế 2006 - 2007 Việt Nam, thế giới”. 
12. Thời báo kinh tế Việt Nam (ra ngày 15/6/2006), “Hệ thống G7 Mart - liên 
kết nhà bán lẻ nhỏ”. 
13. ThS.Nguyễn Văn Tiến (2005), “Việt Nam đang là nơi hấp dẫn nhiều tập 
đoàn phân phối quốc tế”, Tạp chí phát triển kinh tế của ĐH kinh tế thành phố Hồ 
Chí Minh số 179, trang 29, 30. 
14. PGS.Huang Gui Zhi - Chủ nhiệm khoa marketing trƣờng ĐH Công thƣơng 
Bắc Kinh, “Chính sách và biện pháp phát triển các mô hình phân phối hiện đại 
ở Trung Quốc”. 
III/ Các Website điện tử 
1. www.bizchina.chinadaily.com.cn (2005), “The tenth five-year plan for retail 
and wholesale industry and its development”. 
2.  “Consumer 
Confidence, Concerns and Spending Intentions - July 2007”. 
3.  “A.T.Kearney’s 2007 
Global Retail Development Index (GRDI)”. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Quỳnh Nga Nhật 1 - K43F 97 
4.
ent_Index_2006&query=vietnam%2Bretail, “The 2006 Global Retail 
Development Index - Emerging Market Priorities for Global Retailers”. 
5. 
te/Newspage?contentId=33863, “Thị trƣờng bán lẻ Việt Nam-nấm mọc sau cơn 
mƣa”, cập nhật ngày 24/07/2007. 
6. 
l-b-c-m-khi-h-i-nh-p-wto, “Kinh doanh phân phối và bán lẻ - Bƣớc đệm khi hội 
nhập WTO”, ngày 11/04/2007. 
7.  “Việt Nam hấp dẫn các hãng 
bán lẻ nƣớc ngoài”, ngày 15/10/2006. 
8.  “Thị trƣờng 
bán lẻ, G7 Mart chuẩn bị lâm chiến”, ngày 10/07/2006. 
9.  “Ngành bán lẻ nội 
địa: Cần chính sách hơn vốn”, ngày 24/09/2007. 
10.
7cbfa0f6bf, “Thƣơng mại nội địa - thực trạng dễ bị tổn thƣơng và xáo trộn”. 
11.
6fa6d7f3a8, “Trung Quốc và kinh nghiệm mở cửa thị trƣờng bán lẻ”. 
12. 
op.com.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=25&Itemid=31, 
“Kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2008”. 
13.  
“Tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh”. 
14.  “Multilateral 
Agreements on Trade in Goods”. 
15.
/index.htm, “Wal-Mart keeps the Change Suppliers pay for new technology”. 
16.
311/index.htm, “Why Wal-Mart can’t find happiness in Korean market”. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 4313_1402.pdf 4313_1402.pdf