Trong số lao động chuyển đi khỏi khu vực doanh nghiệp FDI, khoảng 42% là lao động có kỹ năng, tỷ lệ thấp nhất trong nhóm ngành dệt may - da giày (37%) và cao nhất là nhóm ngành chế biến thực phẩm (50,3%). Nếu so sánh chỉ tiêu này thì khả năng có thể sinh ra tác động tràn ở ngành chế biến thực phẩm cao hơn là dệt may.
Tuy nhiên 32% số doanh nghiệp FDI được hỏi cho rằng lao động đã chuyển đi khỏi chủ yếu chuyển tới các doanh nghiệp FDI khác, 23% cho rằng số lao động này tự mở Công ty và 18% trả lời lao động chuyên đi làm cho các doanh nghiệp trong nước (số còn lại trả lời không biết). Như vậy, tuy tính linh hoạt về di chuyển lao động khá cao của khu vực doanh nghiệp FDI trong ba nhóm ngành trên, nhưng 1/3 số lao động chỉ di chuyển trong nội bộ khu vực doanh nghiệp FDI và rất có thể phần lớn trong số họ là lao động có kỹ năng. Kết quả này có phần ủng hộ cho nhận định về hiện tượng co cụm về lao động của khu vực FDI hay thấy ở các nước đang phát triển.
32 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3200 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động tràn của FDI đến khu vực kinh tế trong nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI:
TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI ĐẾN KHU VỰC KINH TẾ TRONG NƯỚC
MỤC LỤC
Chương 1:
KHÁI QUÁT CHUNG
FDI
Khái niệm
Các hình thức đầu tư nước ngoài
Vai trò FDI
Đối với nước đi đầu tư
Đối với nước nhận đầu tư
TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI
Khái niệm
Các kênh chủ yếu xuất hiện tác động tràn
Kênh di chuyển lao động
Kênh phổ biến & chuyển giao công nghệ
Kênh liên kết sản xuất
Kênh cạnh tranh
Chương 2:
TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI ĐẾN KHU VỰC KINH TẾ TRONG NƯỚC
Tình hình thu hút FDI ở Việt nam trong những năm qua
Thực trạng tác động tràn của FDI đến khu vực kinh tế trong nước
Kênh di chuyển lao động
Kênh phổ biến & chuyển giao công nghệ
Kênh liên kết sản xuất
Kênh cạnh tranh
Nguyên nhân của tác động tràn đối với khu vực kinh tế trong nước
Chương 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI
KẾT LUẬN
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ chạy đua phát triển kinh tế trên toàn thế giới như hiện nay, bất kỳ một quốc gia nào, dù giàu hay nghèo, dù phát triển hay đang phát triển đều rất cần vốn để tiến hành các hoạt động tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Nguồn vốn để phát triển kinh tế có thể huy động ở trong nước hoặc ngoài nước tuy nhiên nguồn vốn trong nước thường có hạn nhất là những nước đang phát triển như VN (có tỉ lệ tích lũy thấp, nhu cầu đầu tư cao nên cần có một số vốn lớn để phát triển kinh tế). Vì vậy nguồn vốn từ hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Và là hình thức đầu tư phá phổ biến trên thế giới hiện nay.
Hoạt động đầu tư nước ngoài có những tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế của một đất nước, trên cả tầm vĩ mô và vi mô. Trên góc độ vĩ mô FDI tác động đến tăng trưởng kinh tế chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phúc lợi xã hội… Trên góc độ vi mô FDI có những tác động gián tiếp tới hành vi của các doanh nghiệp trong nước. các tác động gián tiếp này được gọi là tác động tràn. Vậy tác động tràn là gì? Nó ảnh hưởng tới xu hướng hoạt động của các doanh nghiệp như thế nào? Để làm rõ vấn đề này sau đây chúng tôi xin trình bày đề tài: “Tác động tràn của FDI đến khu vực kinh tế trong nước”.
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG FDI
FDI
Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các nhà đầu tư (pháp nhân hoặc cá nhân) đưa vốn hay bất kỳ hình thái giá trị nào vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận.
Các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Theo điều 4 của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức sau đây:
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Trường hợp đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước (sau đây gọi tắt là các bên hợp doanh) thì nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có quy định về quyền lợi, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên hợp doanh.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí và một số tài nguyên khác theo hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan và Luật Đầu tư.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký giữa các nhà đầu tư trong nước với nhau để tiến hành đầu tư, kinh doanh thực hiện theo quy định của pháp luật về hợp đồng kinh tế và pháp luật có liên quan.
Trong quá trình đầu tư, kinh doanh, các bên hợp doanh có quyền thoả thuận thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên hợp doanh thỏa thuận. Ban điều phối không phải là cơ quan lãnh đạo của các bên hợp doanh.
Bên hợp doanh nước ngoài được thành lập văn phòng điều hành tại Việt Nam để làm đại diện cho mình trong việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Văn phòng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu; được mở tài khoản, tuyển dụng lao động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư và hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Nhà đầu tư nước ngoài được liên doanh với nhà đầu tư trong nước để đầu tư thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và pháp luật có liên quan.
Doanh nghiệp thực hiện đầu tư theo hình thức liên doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.: là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.
Nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư theo hình thức 100% vốn để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và pháp luật có liên quan.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam được hợp tác với nhau và với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mới.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Vai trò của FDI
Đối với nước chủ đầu tư
Các tác động tích cực
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài đem lại lợi nhuận cao hơn ở trong nước. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các nhà đầu tư. Việc đầu tư ra nước ngoài làm cho yêu cầu tương đối về lao động ở trong nước giảm hay năng suất giảm. Ngược lại, tổng lợi nhuận thu được từ đầu tư ra nước ngoài tăng, lợi suất đối với yếu tố lao động giảm và yếu tố tư bản tăng. Như vậy, thu nhập từ việc đầu tư ở nước ngoài có sự tái phân phối thu nhập quốc nội từ lao động thành tư bản.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài kích thích việc xuất khẩu trực tiếp thiết bị máy móc. Đặc biệt là khi đầu tư vào các nước đang phát triển có nền công nghiệp cơ khí lạc hậu hoặc khi các công ty mẹ cung cấp cho các công ty con ở nước ngoài máy móc thiết bị, linh kiện, phụ tùng và nguyên liệu. Nếu công ty của nước đầu tư muốn chiếm lĩnh thị trường thì đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động vào việc xuất khẩu các linh kiện tương quan, các sản phẩm tương quan để tăng tổng kim ngạch xuất khẩu.
- Đối với nhập khẩu, nếu các nước đầu tư đầu tư trực tiếp vào ngành khai thác của nước chủ nhà, họ có được nguyên liệu giá rẻ. Trong điều kiện nhập khẩu ngang nhau, họ có thể giảm được giá so với trước đây nhập từ nước khác. Nếu sử dụng giá lao động rẻ của nước ngoài để sản xuất linh kiện rồi xuất về trong nước để sản xuất thành phẩm, họ có thể giảm được giá thành phẩm mà trước đây họ phải nhập khẩu.
Trong dài hạn, việc đầu tư ra nước ngoài sẽ đem lại ảnh hưởng tích cực cho cán cân thanh toán quốc tế của nước đầu tư. Đó là do việc xuất khẩu thiết bị máy móc, nguyên vật liệu... cộng với một phần lợi nhuận được chuyển về nước đã đem ngoại tệ trở lại cho nước đầu tư. Các chuyên gia ước tính thời gian hoàn vốn cho một dòng tư bản trung bình là từ 5 đến 10 năm.
Các tác động tiêu cực
- Trước mắt, do sự lưu động vốn ra nước ngoài mà việc đầu tư trực tiếp này lại gây ra ảnh hưởng tiêu cực tạm thời cho cán cân thanh toán quốc tế. Nguyên nhân là do trong năm có đầu tư ra nước ngoài, chi tiêu bên ngoài của nước đầu tư tăng lên và gây ra sự thâm hụt tạm thời trong cán cân thanh toán ngân sách. Vì vậy, nó khiến một số ngành trong nước sẽ không được đầu tư đầy đủ.
- Việc xuất khẩu tư bản có nguy cơ tạo ra thất nghiệp ở nước đầu tư. Hãy xem xét một trong những nguyên nhân mà các nhà tư bản đầu tư ra nước ngoài là nhằm sử dụng lao động không lành nghề, giá rẻ của những nước đang phát triển. Điều này tất yếu làm tăng thất nghiệp cơ cấu trong số lao động không lành nghề của nước đầu tư. Thêm vào đó, nước sở tại lại có thể xuất khẩu sang nước đầu tư hoặc thay cho việc nhập khẩu trước đây từ nước đầu tư, họ tự sản xuất được hàng hoá cho mình càng làm cho nguy cơ thất nghiệp này thêm trầm trọng. Xu hướng giảm mức thuê mướn nhân công ở nước chủ đầu tư và tăng mức thuê công nhân ở nước sở tại dẫn đến sự đối kháng về lao động ở nước đầu tư và quyền lợi lao động ở nước chủ nhà.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư
Tác động tích cực
FDI bổ sung vốn cho nền kinh tế: FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển mà còn là một luồng vốn ổn định hơn so với các luồng vốn đầu tư quốc tế khác, bởi FDI dựa trên quan điểm dài hạn về thị trường, về triển vọng tăng trưởng và không tạo ra nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, do vậy, ít có khuynh hướng thay đổi khi có tình huống bất lợi.
FDI cung cấp công nghệ mới cho sự phát triển: Có thể nói công nghệ là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng và sự phát triển của mọi quốc gia, đối với các nước đang phát triển thì vai trò này càng được khẳng định rõ. Bởi vậy, tăng cường khả năng công nghệ luôn là một trong những mục tiêu ưu tiên phát triển hàng đầu của mọi quốc gia. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu này đòi hỏi không chỉ cần nhiều vốn mà còn phải có một trình độ phát triển nhất định của khoa học - kỹ thuật.
Đầu tư nước ngoài (đặc biệt là FDI) được coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và sự phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài.
Chuyển giao công nghệ thông qua con đường FDI thường được thực hiện chủ yếu bởi các TNC (công ty xuyên quốc gia), dưới các hình thức chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của một TNC và chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC. Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC sang nước chủ nhà (nhất là các nước đang phát triển được thông qua các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh mà bên nước ngoài nắm phần lớn cổ phần dưới các hạng mục chủ yếu như tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketing.
Theo số liệu thống kê của trung tâm nghiên cứu TNC của Liên hợp quốc, các TNC được cung cấp khoảng 95% trong số các hạng mục công nghệ mà các chi nhánh của TNC ở các nước đang phát triển nhận được trong năm 1993. Cùng với hình thức chuyển giao trên, chuyển giao công nghệ giữa các chi nhánh của các TNC cũng tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây. Trong giai đoạn 80-96 các TNC được thực hiện khoảng 8254 hợp đồng chuyển giao công nghệ theo kênh này, trong đó 100 TNC lớn nhất thế giới chiếm bình quân khoảng 35%. Bên cạnh việc chuyển giao các công nghệ sẵn có, thông qua FDI, các TNC còn góp phần làm tăng năng lực ngiên cứu và phát triển (R&D) công nghệ của nước chủ nhà. Đến năm 1993 đã có 55% chi nhánh của các TNC lớn và 45% chi nhánh của các TNC vừa và nhỏ thực hiện các hoạt động R&D ở các nước đang phát triển. Trong những năm gần đây, xu hướng này còn tiếp tục tăng nhanh ở các nước đang phát triển châu á. Mặt khác, trong quá trình sử dụng các công nghệ nước ngoài (nhất là ở các doanh nghiệp liên doanh) các doanh nghiệp trong nước học được cách thiết kế, chế tạo từ công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của mình. Đây là một trong những tác động tích cực quan trọng của FDI đối với việc phát triển công nghệ ở các nước đang phát triển.
FDI giúp phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm: Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài là thu được lợi nhuận tối đa, củng cố chỗ đứng và duy trì thế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Do đó, họ đặc biệt quan tâm đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở các nước tiếp nhận đầu tư. Số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp FDI ngày càng tăng nhanh ở các nước đang phát triển. Ngoài ra, các hoạt động cung ứng dịch vụ và gia công cho các dự án FDI cũng tạo ra thêm nhiều cơ hội việc làm. Trên thực tế, ở các nước đang phát triển, các dự án FDI sử dụng nhiều lao động đào tạo nhiều việc làm cho phụ nữ trẻ. Điều này không chỉ mang lại cho họ lợi ích về thu nhập cao mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở các nước này. FDI cũng có tác động tích cực trong phát triển nguồn nhân lực của nước chủ nhà thông qua các dự án đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo. Các cá nhân làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có cơ hội học hỏi, nâng cao trình độ bản thân khi tiếp cận với công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến. Các doanh nghiệp FDI cũng có thể tác động tích cực đến việc cải thiện nguồn nhân lực ở các công ty khác mà họ có quan hệ, đặc biệt là các công ty bạn hàng. Những cải thiện về nguồn nhân lực ở các nước tiếp nhận đầu tư còn có thể đạt hiệu quả lớn hơn khi những người làm việc trong các doanh nghiệp FDI chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp trong nước hoặc tự mình thành lập doanh nghiệp mới. Đầu tư nước ngoài còn có vai trò đáng kể đối với tăng cường sức khoẻ và dinh dưỡng cho người dân nước chủ nhà thông qua các dự án đầu tư vào ngành y tế, dược phẩm, công nghệ sinh học và chế biến thực phẩm.
FDI giúp mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu: Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhờ có đẩy mạnh xuất khẩu, những lợi thế so sánh của yếu tố sản xuất ở nước chủ nhà được khai thác có hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Các nước đang phát triển tuy có khả năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh tranh được nhưng vẫn rất khó khăn trong việc thâm nhập thị trường quốc tế. Bởi thế, khuyến khích đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong chính sách thu hút FDI của các nước này. Thông qua FDI các nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới, vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các TNC thực hiện. ở tất cả các nước đang phát triển, các TNC đều đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu do vị thế và uy tín của chúng trong hệ thống sản xuất và thương mại quốc tế. Đối với các TNC, xuất khẩu cũng đem lại nhiều lợi ích cho họ thông qua sử dụng các yếu tố đầu vào rẻ, khai thác được hiệu quả theo quy mô sản xuất (không bị hạn chế bởi quy mô thị trường của nước chủ nhà) và thực hiện chuyên môn hoá sâu từng chi tiết sản phẩm ở những nơi có lợi thế nhất, sau đó lắp ráp thành phẩm.
FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại nền kinh tế mà còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. FDI là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngọi, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI. Ngược lại, chính FDI lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước chủ nhà, vì nó làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề kinh tế mới và góp phần nâng cao nhanh chóng trình độ kỹ thuật và công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, phát triển năng suất lao động của các ngành này. Mặt khác, dưới tác động của FDI, một số ngành nghề được kích thích phát triển, nhưng cũng có một số ngành nghề bị mai một và dần bị xoá bỏ.
Tác động tiêu cực
- Về lâu dài, việc các công ty xuyên quốc gia (TNCs) đem vốn đến đầu tư và hàng năm lại chuyển lợi nhuận về nước sẽ tạo ra gánh nặng ngoại tệ đối với các nước này, đặc biệt là sau khi TNCs thu hồi vốn.
- Vấn đề việc làm không phải lúc nào cũng đi theo chiều hướng mong đợi của chúng ta, những nước tiếp nhận vốn đầu tư. Những năm gần đây, do sự phát triển của khoa học công nghệ, lao động không lành nghề trở nên có hiệu suất thấp. Thực tế cho thấy, các công ty có vốn FDI nhìn chung ít sử dụng lao động tại chỗ (trừ những doanh nghiệp gia công xuất khẩu hoặc doanh nghiệp chỉ sử dụng công nhân với lao động giản đơn, dễ đào tạo) và để hạ giá thành sản phẩm, họ đã sử dụng phương thức sản xuất tập trung tư bản nhiều hơn. Nó có tác động làm giảm việc làm, đi ngược với chiến lược việc làm của các nước đang phát triển.
- Các ngành công nghiệp mới mẻ, hiện đại của các nước công nghiệp phát triển đã có điều kiện xuất hiện ở những quốc gia này song chủ yếu lại bị các nước đầu tư kiểm soát, kết cấu kinh tế thì bị phụ thuộc vào đối tượng ngành hàng sản xuất mà nước đầu tư quyết định kinh doanh. Không chỉ có vậy, sự dịch chuyển những kỹ thuật công nghệ kém tiên tiến, tiêu hao nhiều năng lượng từ các nước đầu tư đã gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức...
TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI
Khái niệm: Kỳ vọng lớn nhất của các nước đang phát triển trong việc thu hút đầu tư nước ngoài là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế với hai lý do chính. Thứ nhất, đầu tư nước ngoài được coi là một nguồn vốn quan trọng để bổ sung vốn đầu tư trong nước. Thứ hai, đầu tư nước ngoài tạo cơ hội cho các nước nghèo tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn, dễ dàng chuyển giao công nghệ hơn, thúc đẩy quá trình phổ biến kiến thức, nâng cao kỹ năng quản lý và trình độ lao động... Tác động này được xem là tác động tràn của đầu tư nước ngoài, góp phần làm tăng năng suất của các doanh nghiệp trong nước và cuối cùng là đóng góp vào tăng trưởng kinh tế nói chung. Vậy Tác động tràn là tác động gián tiếp xuất hiện khi có mặt của các doanh nghiệp FDI làm cho các doanh nghiệp trong nước thay đổi hành vi của mình như thay đổi công nghệ, thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh… Có 4 kênh xuất hiện tác động tràn nhiều nhất: kênh di chuyển lao động, kênh phổ biến & chuyển giao công nghệ, kênh liên kết sản xuất và kênh cạnh tranh.
Các kênh chủ yếu xuất hiện tác động tràn
Kênh di chuyển lao động
Lao động có kỹ năng chuyển từ doanh nghiệp FDI tới doanh nghiệp trong nước được coi là một kênh quan trọng có thể tạo ra tác động tràn tích cực. Tác động tràn xảy ra nếu như số lao động này sử dụng kiến thức đã học được trong thời gian làm việc tại các doanh nghiệp FDI vào công việc trong doanh nghiệp trong nước. Có hai cách để tạo ra tác động tràn. Đó là số lao động này tự thành lập Công ty riêng hoặc làm thuê cho các doanh nghiệp trong nước, nhất là trong cùng ngành mà doanh nghiệp FDI đang hoạt động.
Kênh phổ biến & chuyển giao công nghệ
Đây là một kênh rất quan trọng để tạo ra tác động tràn tích cực của FDI.
Sự chuyển giao có 3 loại: Chuyển giao trong nội bộ doanh nghiệp là hình thái chuyển giao giữa công ty đa quốc gia (MNC) với công ty con tại nước ngoài tức doanh nghiệp FDI.
Hình thái thứ hai là chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp bản xứ hoạt động trong cùng ngành. Người quản lý bản xứ làm việc trong doanh nghiệp FDI sau khi học hỏi được nhiều kinh nghiệm có thể mở công ty riêng cạnh tranh lại với công ty FDI. Đối với doanh nghiệp FDI đây là một sự tổn thất nhưng đối với kinh tế của nước nhận FDI thì đây là hiện tượng tốt vì công nghệ được lan truyền sang toàn xã hội góp phần tăng cường nội lực. Một thí dụ khác của hình thái này là xí nghiệp bản xứ đã có sẵn và hoạt động cạnh tranh trong cùng lãnh vực với doanh nghiệp FDI có thể quan sát, nghiên cứu hoạt động của doanh nghiệp FDI từ đó cải thiện hoạt động của mình. Có thể gọi hình thái thứ hai liên quan đến chuyển giao công nghệ là sự chuyển giao hàng ngang giữa các doanh nghiệp vì là sự chuyển giao giữa các doanh nghiệp độc lập và ở trong cùng một ngành.
Hình thái thứ ba là chuyển giao hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong đó doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ sang các doanh nghiệp bản xứ sản xuất sản phẩm trung gian (điển hình là sản phẩm công nghiệp phụ trợ như phụ tùng, linh kiện xe máy) cung cấp cho doanh nghiệp FDI, hoặc trường hợp doanh nghiệp bản xứ dùng sản phẩm của doanh nghiệp FDI để sản xuất ra thành phẩm cuối cùng (chẳng hạn doanh nghiệp bản xứ dùng nguyên liệu chất dẻo - plastic - do doanh nghiệp FDI cung cấp để sản xuất các loại đồ dùng trong nhà). Trong cả hai trường hợp, công nghệ được chuyển giao từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp bản xứ, và đây là hiệu quả lan toả lớn nhất, quan trọng nhất nên các nước đang phát triển đặc biệt quan tâm và đưa ra các chính sách làm tăng hiệu quả nµy.
Kênh liên kết sản xuất
Kênh liên kết sản xuất là một kênh rất quan trọng tạo ra tác động tràn. Tác động “ngược chiều” có thể xuất hiện nên các doanh nghiệp trong nước cung cấp nguyên liệu hoặc phân phối sản phẩm của các doanh nghiệp nước ngoài. Mức độ tác động càng cao nếu khối lượng sản phẩm phân phối hoặc nguyên liệu cung cấp càng nhiều, tức là quan hệ tỷ lệ thuận.
Liên kết sản xuất bao gåm hai hình thức là liên kết dọc (sản phẩm của doanh nghiệp này là nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp kia) và liên kết ngang (các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm).
Kênh cạnh tranh
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI có thể tạo ra áp lực cạnh tranh lớn cho các doanh nghiệp trong nước, trước hết là đổi mới doanh nghiệp trong cùng nhóm ngành. Trong khu vực doanh nghiệp FDI chịu sức ép cạnh tranh lớn nhất giữa các doanh nghiệp này với nhau thì các doanh nghiệp trong nước lại cho rằng họ đang chịu sức ép cạnh tranh mạnh ngang nhau từ các doanh nghiệp FDI và chính các doanh nghiệp trong nước. Trong khi doanh nghiệp FDI chịu áp lực mạnh nhất về sản phẩm như chủng loại, mẫu mã, thì các doanh nghiệp trong nước lại đánh giá cao nhất về công nghệ có trình độ cao hơn từ các doanh nghiệp FDI.
Chương 2:
TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI ĐẾN KHU VỰC KINH TẾ TRONG NƯỚC
TÌNH HÌNH THU HÚT FDI CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1988 - 2012
Số dự án
Tổng vốn đăng ký
(Triệu đô la Mỹ) (*)
Tổng số vốn thực hiện (Triệu đô la Mỹ)
Tổng số
15904
246339.4
100192.9
1988-1990
211
1603.5
1991
152
1284.4
428.5
1992
196
2077.6
574.9
1993
274
2829.8
1117.5
1994
372
4262.1
2240.6
1995
415
7925.2
2792.0
1996
372
9635.3
2938.2
1997
349
5955.6
3277.1
1998
285
4873.4
2372.4
1999
327
2282.5
2528.3
2000
391
2762.8
2398.7
2001
555
3265.7
2225.6
2002
808
2993.4
2884.7
2003
791
3172.7
2723.3
2004
811
4534.3
2708.4
2005
970
6840.0
3300.5
2006
987
12004.5
4100.4
2007
1544
21348.8
8034.1
2008
1171
71726.8
11500.2
2009
1208
23107.5
10000.5
2010
1237
19886.8
11000.3
2011
1191
15618.7
11000.1
Sơ bộ 2012
1287
16348
10046.6
Tổng vốn FDI đăng ký trong các điều ước quốc tế cụ thể từ năm 2000 đến 2012 đạt trên 60 tỷ USD, Trong hai thập kỷ qua, tổng nguồn vốn FDI giải ngân đạt 11.5 tỷ USD.
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO ĐỐI TÁC
(Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 15/12/2012)
Hiện có khoảng nhiều nhà tài trợ song phương và đa phương đang hoạt động, cung cấp nguồn FDI cho nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội của Việt Nam. Riêng năm 2012, các doanh nghiệp Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam số vốn cấp mới và tăng thêm đạt hơn 5 tỷ USD - chiếm gần 40% tổng vốn FDI vào Việt Nam 2012, tiếp tục là nhà đầu tư Đài Loan đứng thứ hai với 24,9 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ ba với 24,8 tỷ USD. Singapore đứng thứ tư với 4,67 tỷ USD…
Trong đó, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút được nhiều nhà đầu tư nhất với tổng vốn đầu tư đăng ký là 103.5 tỉ USD, chiếm 50% tổng vốn đầu tư đăng ký năm 2013. Đứng thứ nhì là khu vực bất động sản, với tổng vốn FDI đăng ký là 49.7 tỷ USD, chiếm 24% tổng vốn đăng ký năm 2013. Tiếp theo là dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 5%...
TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI ĐẾN KHU VỰC KINH TẾ TRONG NƯỚC
Kênh di chuyển lao động
Trong số lao động chuyển đi khỏi khu vực doanh nghiệp FDI, khoảng 42% là lao động có kỹ năng, tỷ lệ thấp nhất trong nhóm ngành dệt may - da giày (37%) và cao nhất là nhóm ngành chế biến thực phẩm (50,3%). Nếu so sánh chỉ tiêu này thì khả năng có thể sinh ra tác động tràn ở ngành chế biến thực phẩm cao hơn là dệt may.
Tuy nhiên 32% số doanh nghiệp FDI được hỏi cho rằng lao động đã chuyển đi khỏi chủ yếu chuyển tới các doanh nghiệp FDI khác, 23% cho rằng số lao động này tự mở Công ty và 18% trả lời lao động chuyên đi làm cho các doanh nghiệp trong nước (số còn lại trả lời không biết). Như vậy, tuy tính linh hoạt về di chuyển lao động khá cao của khu vực doanh nghiệp FDI trong ba nhóm ngành trên, nhưng 1/3 số lao động chỉ di chuyển trong nội bộ khu vực doanh nghiệp FDI và rất có thể phần lớn trong số họ là lao động có kỹ năng. Kết quả này có phần ủng hộ cho nhận định về hiện tượng co cụm về lao động của khu vực FDI hay thấy ở các nước đang phát triển.
Chỉ có 4,6% doanh nghiệp trong nước thuộc nhóm ngành chế biến thực phẩm trả lời đã tiếp nhận lao động từ doanh nghiệp FDI, trong khi không doanh nghiệp nào trong hai nhóm còn lại tuyển được lao động từ các doanh nghiệp FDI chuyển sang.
* Nguyên nhân hiệu quả chuyển giao rất yếu
- Phần lớn đối tác phía Việt Nam trong các liên doanh FDI là doanh nghiệp quốc doanh (SOEs). Người quản lý, lãnh đạo kinh doanh được gửi tới các liên doanh thường là cán bộ ở SOEs hoặc ở các bộ chủ quản của SOEs liên quan. Trong số nầy cũng có nhiều người vốn có tinh thần doanh nghiệp, tinh thần trách nhiệm và ham học hỏi nên đã làm việc hiệu quả trong các liên doanh, tích cực hấp thu tri thức và kinh nghiệm từ đồng nghiệp nước ngoài. Nhưng một phần khá lớn họ là những người hành động như các quan chức và dồn hết quan tâm về những vấn đề khác, thay vì làm cho liên doanh phát triển.
- Nguyên tắc nhất trí 100% thành viên hội đồng quản trị áp dụng vào việc quyết định các vấn đề kinh doanh trong liên doanh kéo dài quá lâu, cải thiện quá chậm gây ảnh hưởng hoạt động của doanh nghiệp FDI. Vì lý do nầy, MNCs đầu tư ở Việt Nam có khuynh hướng lập doanh nhgiệp 100% vốn nước ngoài thay vì liên doanh. Các liên doanh trong quá khứ cũng có khuynh hướng xin chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài.
Tóm lại, phân tích kết quả từ hai góc độ: (1) lao động chuyển đi khỏi doanh nghiệp FDI và (2) nguồn lao động mới tuyển dụng của doanh nghiệp trong nước đều cho thấy có hiện tượng di chuyển lao động giữa doanh nghiệp FDI và trong nước, nhưng ở mức rất thấp. Ngay cả khi chưa tính đến kỹ năng của số lao động di chuyển này, điều đó cũng có nghĩa là khả năng xuất hiện tác động tràn cũng rất thấp theo kênh này.
Kênh phổ biến & chuyển giao công nghệ
Cho đến nay, chỉ tiêu hay được dùng để đo khả năng hấp thụ công nghệ là trình độ học vấn hoặc chuyên môn của lao động trong doanh nghiệp và chỉ tiêu biểu thị cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp thể hiện qua chỉ tiêu cho các hoạt động R&D. Năm 2003 các doanh nghiệp trong nước có tỷ lệ lao động có kỹ năng thấp hơn rất nhiều so với tỷ trọng lao động kỹ năng của doanh nghiệp FDI. Đáng quan tâm hơn tỷ trọng này còn có xu hướng giảm đi theo các năm
Các doanh nghiệp FDI chỉ tiêu cho hoạt động R&D cao gấp gần 3 lần so với các doanh nghiệp trong nước, trong đó mức chênh lệch cao nhất ở nhóm ngành cơ khí - điện tử. Nếu tính cả chỉ tiêu mức độ tập trung vốn thì có thể thấy sản phẩm có khí điện tử của khu vực doanh nghiệp FDI có hàm lượng công nghệ cao hơn nhiều và vì vậy khả năng năng xẩy ra tác động tràn là thấp.
Chi cho R&D ở nhóm ngành dệt may cao hơn hẳn so với ngành chế biến thực phẩm và mức chênh lệch giữa doanh nghiệp trong và nước ngoài là thấp. Đáng lưu ý là xu hướng giảm tỷ trọng chi tiêu bình quân cho R&D so với doanh thu trong khu vực doanh nghiệp FDI, đặc biệt trong nhóm ngành cơ khí, điện tử. Điều này có thể có nhiều nguyên nhân, chẳng hạn các doanh nghiệp không có đối thủ cạnh tranh trong nước.
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến việc xuất hiện tác động tràn là khả năng tiếp cận công nghệ mới của chính các doanh nghiệp FDI. Nhiều nghiên cứu cho rằng công nghệ mới chủ yếu do các Công ty mẹ tạo ra, trong khi các Công ty con ở các nước đang phát triển hầu như chi tập trung vào khâu sản xuất chiếm lĩnh thị trường dựa trên các lợi thế về công nghệ do Công ty cung cấp. Vì vậy, khả năng tiếp cận công nghệ mới của các Công ty con hoạt động ở nước nhận đầu tư càng cao, càng có lợi cho quá trình sinh ra tác động tràn tích cực qua rò rỉ công nghệ. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy tới 70% doanh nghiệp FDI rất ít khi tiếp cận với công nghệ từ Công ty mẹ chuyển giao và 36% cho rằng ý tưởng đổi mới công nghệ bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn cũa. Như vậy, thực tế là các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam hoạt động khá độc lập với Công ty mẹ ở nước ngoài đặc biệt là trong đầu tư đổi mới công nghệ. Có 2 cách lý giải cho điều này. Một là bản thân các Công ty mẹ cũng là Công ty nhỏ, do đó năng lực cho hoạt động R&D không cao và không thể hỗ trợ nhiều cho các Công ty con. Lý giải này phù hợp với nhận định khá phổ biến hiện nay là các Công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là các Công ty vừa và nhỏ. Cách lý giải thứ 2 là Việt Nam chưa phải là thị trường đầu tư trọng tâm, hoặc trình độ công nghệ trong nước yếu dẫn đến không cần thiết phải đầu tư với công nghệ cao hơn.
Kênh liên kết sản xuất
Kết quả điều tra cho thấy, chỉ 31% nguyên liệu sản xuất mà các doanh nghiệp FDI sử dụng được mua từ các doanh nghiệp trong nước, số còn lại mua từ doanh nghiệp FDI, nhập khẩu hoặc mua trực tiếp từ hộ gia đình. Quan trọng hơn, chỉ số này hầu như không thay đổi qua 3 năm từ 2001 – 2003. Về lý do nhập khẩu nguyên liệu, có tới 42,6% doanh nghiệp FDI cho rằng nguyên liệu đó không có ở Việt Nam, 15% cho rằng có những giá cao hơn nhập ngoại, 25% cho rằng chất lượng không tốt bằng nguyên liệu ngoại nhập.
Kết quả cũng tương tự khi xem cơ cấu nguồn cung cấp nguyên liệu của các doanh nghiệp trong nước. Trung bình cho cả 3 ngành chỉ 8% - 13% tổng giá trị nguyên liệu mà doanh nghiệp sử dụng được mua từ các doanh nghiệp FDI trong nước.
Xét kênh phân phối sản phẩm cho thấy tỷ lệ sản phẩm mà các doanh nghiệp FDI phân phối thông qua các doanh nghiệp trong nước tương đối thấp, nhất là nhóm ngành dệt may. Một nguyên nhân khách quan quan trọng là chính sách áp đặt tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc với doanh nghiệp FDI.
Cơ cấu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp FDI
2001
2002
2003
Cơ khí - điện tử
Xuất khẩu
25.34
25.41
24.36
Tiêu thụ nội địa
74.66
74.86
75.64
Bán cho doanh nghiệp trong nước
42.64
42.98
43.83
Bán cho doanh nghiệp FDI
21.34
20.49
20.32
Tự phân phối
36.02
36.53
35.84
Dệt may - da giày
Xuất khẩu
79.96
79.43
79.81
Tiêu thụ nội địa
20.04
20.57
20.19
Bán cho doanh nghiệp trong nước
35.79
33.97
34.11
Bán cho doanh nghiệp FDI
3.16
2.78
2.78
Tự phân phối
61.06
63.25
63.11
Thực phẩm
Xuất khẩu
2.58
27.76
23.21
Tiêu thụ nội địa
7.42
72.24
76.79
Bán cho doanh nghiệp trong nước
60.08
48.39
48.39
Bán cho doanh nghiệp FDI
13.06
13.48
13.03
Tự phân phối
26.85
38.14
38.58
Nguồn: Điều tra doanh nghiệp của CIEM
Hiệu quả lan toả từ FDI đến các thành phần khác trong nền kinh tế càng cao thì nội lực càng được tăng cường. Qua sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước (SOEs, doanh nghiệp tư nhân, các đơn vị cá thể,...), công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp FDI đến các thành phần khác của nền kinh tế. Để kiểm chứng hiệu quả này, xét ngành cụ thể là ngành may mặc:
Dệt vải và may mặc là những ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam. Năm 2001, hai ngành này chiếm độ 11% giá trị tính thêm trong toàn bộ ngành công nghiệp chế biến.Từ đầu thập niên 1990s, may mặc trở thành ngành xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Vào giữa thập niên 1990, ngành này chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu và độ 50% kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp. Với sự lớn mạnh của ngành da giày và một số ngành xuất khẩu khác, vị trí của ngành may mặc có giảm nhưng vẫn chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 2001.
Trong hai ngành may mặc và dệt nầy, các nước, các nền kinh tế đầu tư tích cực nhất là Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore và Hong Kong. Nhiều công ty Nhật cũng tích cực. Trừ Singapore, các dự án của các nước nầy có tỉ lệ xuất khẩu rất cao và tỉ lệ K/L thấp. Điều nầy cho thấy các nước công nghiệp mới ở Á châu và Nhật Bản đã tận dụng lao động Việt Nam để sản xuất và xuất khẩu mặt hàng điển hình có hàm lượng lao động cao.
Những doanh nghiệp FDI có dùng (mặc dù số lượng chưa nhiều) nguyên liệu và bán thành phẩm sản xuất trong nước nằm trong 2 trường hợp sau: Một là các xí nghiệp liên doanh với các đối tác phía Việt Nam, các đối tác nµy thường là các công ty quốc doanh mà sản xuất chính của họ là các mặt hàng trung gian đó. Một trong những động cơ hoặc điều kiện để lập liên doanh với nước ngoài là tiêu thụ bán thành phẩm hay nguyên liệu họ có sản xuất. Hai là các doanh nghiệp FDI ngành may mặc mua bán chế phẩm hay nguyên liệu từ những liên doanh FDI khác. Từ giữa thập niên 1990, FDI vào Việt Nam để sản xuất các sản phẩm nµy bắt đầu tăng và vào đầu năm 2003 đã có trên dưới 50 doanh nghiệp vốn nước ngoài sản xuất sợi và vải tại Việt Nam.
Kết quả khảo sát này cho thấy sự liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp thuần tuý vốn trong nước là rất yếu. Doanh nghiệp FDI có khuynh hướng dùng nguyên liệu và bán thành phẩm nhập khẩu hoặc do các công ty FDI khác sản xuất.
Nguyên nhân là vì doanh nghiệp nhà nước trong ngành không cung cấp các sản phẩm chất lượng cao và/hoặc không đảm bảo các điều kiện về giao hàng. Doanh nghiệp tư nhân trong nước còn quá yếu.
Sự xuất hiện của dòng vốn FDI tạo áp lực cạnh tranh lớn đối với DN trong nước:
- Năm 2005 Chỉ có 31% nguyên liệu sản xuất các DN FDI hiện đang sử dụng được mua từ các DN trong nước, còn lại phần lớn là nhập khẩu hoặc mua lại từ các DN FDI khác.
- Khu vực FDI hiện đang góp 100% sản lượng một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí, ôtô, máy giặt, máy điều hòa, tủ lạnh, điện tử; 60% cán thép; 28% ximăng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử; 25% thực phẩm đồ uống...
- Trong năm năm 2001-2005, xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) ước đạt 33,8 tỉ USD, chiếm trên 33% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Nếu tính cả xuất khẩu dầu thô, tỉ lệ này đạt gần 55%. Khu vực FDI chiếm khoảng 15% tổng sản phẩm nội địa (GDP), 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Sức ép cạnh tranh có tác động hai mặt, thứ nhất làm đối thủ cạnh tranh yếu hơn có nguy cơ bị thu hẹp thị phần, giảm sản xuất, thậm chí phải rút lui khỏi thị trường. Đây là mặt tiêu cực của cạnh tranh. Tuy nhiên, cạnh tranh lại kích thích các đối thủ tự đầu tư đổi mới để vươn lên đứng vững trên thị trường, từ đó năng suất sản xuất được cải thiện.
Đó chính là tác động tích cực của FDI. Kết quả nghiên cứu cho thấy các DN qui mô lớn chậm đổi mới trang thiết bị sẽ bị tác động cạnh tranh nhiều, còn DN vừa và nhỏ dường như có lợi thế về tính linh hoạt nên tránh được sức ép cạnh tranh hơn.
Vì vậy, để tận dụng tốt những lợi thế của FDI vào Việt Nam thì chính sách khuyến khích FDI của Chính phủ và các địa phương cần hướng tới đạt được cả tác động tích cực trực tiếp lẫn gián tiếp.
Kênh cạnh tranh:
Thực tế cho thấy, trong khi khu vực doanh nghiệp FDI chịu sức ép cạnh tranh lớn nhất giữa các doanh nghiệp này với nhau, thì các doanh nghiệp trong nước lại cho rằng họ đang chịu sức ép cạnh tranh mạnh ngang nhau từ doanh nghiệp FDI và chính các doanh nghiệp trong nước. Trong khi doanh nghiệp FDI chịu áp lực mạnh nhất về sản phẩm (chủng loại, mẫu mã mới), thì doanh nghiệp trong nước lại đánh giá cao nhất sức ép về công nghệ có trình độ cao hơn từ phía doanh nghiệp FDI.
Đánh giá về sức ép cạnh tranh
Doanh nghiệp FDI
Doanh nghiệp trong nước
DN NN
DN TN
DN FDI
Hộ GĐ
DN trong nước
DN FDI
Hộ GĐ
Vệ thị phần
4.18
4.88
7.00
2.81
6.02
6.62
2.85
Về sản phẩm
4.00
5.00
7.24
2.90
6.12
6.41
2.62
Về công nghệ
3.47
4.59
7.14
2.45
6.11
7.43
2.75
Về lao động có tay nghề
3.97
4.47
6.25
2.36
5.76
7.00
3.23
Nguồn: Điều tra doanh nghiệp của CIEM
Các doanh nghiệp FDI liên tục tung các sản phẩm mới ra thị trường, trong khi các doanh nghiệp trong nước dường như vẫn đang phải dồn sức lực vào dây chuyền và công nghệ sản xuất.
Bột giặt Daso đang phải đối mặt với Omo, Tide; sữa Vinamilk, Nutifood phải cạnh tranh với Nestle, Abott, Mead&Johnson, Dumex...; bia Sài Gòn, Laser đang "chống trả" Heineken, Tiger, Foster…Thị trường hàng điện tử Việt Nam dù nhỏ nhưng có sự hiện diện đầy đủ của các "anh hào" điện tử toàn cầu: Sony, Panasonic, Toshiba, Samsung, LG... Các DN Việt Nam rất vất vả trong cuộc cạnh tranh này, thất bại là khả năng khó tránh khỏi". Năm 2004 các sản phẩm lắp ráp trong nước đang chiếm khoảng 70% thị phần hàng điện tử Việt Nam, tuy nhiên phần lớn vẫn là những thương hiệu của các tập đoàn điện tử hàng đầu thế giới.
Trong năm 2004, các sản phẩm thương hiệu Việt Nam chỉ chiếm 6% thị phần sản phẩm điện tử nghe nhìn; 48% là các sản phẩm có thương hiệu Nhật Bản và 35% là các thương hiệu Hàn Quốc... Đối với sản phẩm điện tử gia dụng, thương hiệu Việt Nam chỉ chiếm 3%; các thương hiệu Nhật chiếm 53%; các thương hiệu Hàn Quốc là 35%...
Một số DN sản xuất hàng tiêu dùng trong nước đã nỗ lực rất lớn và đạt được những thành quả bước đầu trong cuộc cạnh tranh với các thương hiệu nước ngoài. Có thể kể sản phẩm nước tăng lực Number One của Công ty Tân Hiệp Phát như một điển hình. Bất ngờ xuất hiện một cách ấn tượng trên thị trường với phong cách mới lạ và độc đáo, những chai nước tăng lực Number One đã kéo tụt doanh số của những "đại gia" nước giải khát có ga, nhảy lên vị trí số một cả về thị phần lẫn doanh số của ngành giải khát trong một thời gian dài. G7 - sản phẩm cà phê hòa tan của Công ty Cà phê Trung Nguyên ngay khi xuất hiện đã lập tức cho thấy khả năng... đe dọa các đại gia khác trong lĩnh vực này. Ngay lập tức, thị trường cà phê hòa tan sôi động với những phản ứng của Nescafe khi thương hiệu này cùng lúc tung ra đến ba loại phục vụ những đối tượng thích gu cà phê từ nhạt đến đậm. Netcafe cũng đưa ra thông điệp "100% cà phê Việt Nam" nên "Hương vị Việt Nam hơn" để đối chọi với lời kêu gọi "Người Việt dùng hàng Việt" của Trung Nguyên...
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÁC ĐỘNG TRÀN
Để tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả hơn nữa nguồn vôn ĐTNN ,đòi hỏi phải tiếp tục cải thện hơn nữa môi trường đầu tư, làm cho Việt Nam thực sự là một trong những địa bàn đầu tư hấp dẫn hàng đầu trong khu vực ĐNA.
Về môi trường pháp lý, cần khẩn trương soạn thảo các văn bản hướng dẫn luật Đầu tư, luật Doanh nghiệp và ban hành sớm các văn bản này để các nhà đầu tư cũng như các cư quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương có thời gian tìm hiểu và chuẩn bị áp dụng .đồng thời tiến hành rà soát các chính sách có liên quan để kịp thời chỉnh sửa .hoàn chỉnh .đảm bảo sự thống nhất của cả hệ thống luật pháp chính sách về đầu tư, khẩn trương rà soát các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường để thực hiện theo đúng lộ trình .
Về thủ tục hành chính, tập trung sức hoàn thiện cơ chế một cửa ở các cơ quan cấp phép và quản lý đầu tư, tăng, cường phân cấp mạnh hơn nữa quản lý đầu tư đi dối với tăng cường cơ chế phối hợp giám sát và kiểm tra, giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, hải quan, xuất nhập khẩu…
Về kết cáu hạ tầng, tiếp tục huy đọng mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó có việc ban hành quy chế khuyến khích tư nhân đầu tư nang cấp các công trình giao thông, cảng biển dịch vụ viễn thông… cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất .kinh doanh.
Để phát huy lợi thế về nguồn nhân lưc ,cần tăng cường mạnh mẽ công tác đào tạo ,nhất là đào tạo nghề với các tổ chức trong và ngoài nước, nhằm đáp ứng tốt ơn nhu cầu lao đọng kỷ thuật ca của các nhà đầu tư.
Vế xúc tiến đầu tư ,cần triển khai xây dựng các mối xúc tiến đầu tư một số địa bàn trọng điểm, đổi mới phương háp xúc tiến đầu tư, nhất là chuyển mạnh sang hình thức vận động đầu tư theo dự án và đối tác trọng điểm.
Cần duy trì cơ chế lãnh đạo thường xuyên giữa lãh đạo chính phủ ,các bộ .ngành với các nhà đầu tư, nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các khó khan, vướng mắt của các dự án đang hoạt động, bảo đảm các dự án đang hoạt đông có hiệu quả, đúng tiến độ.
Các ban hành các chính sách hợp lý nhằm phát triển nhanh ngành công nghiệp phụ trợ, bảo đảm giải quyết tốt hơn việc cung cấp nguyên liệu phụ tùng, linh kiện cho các nhà ĐTNN. Trong quá trình đó cần chú trọng sự liên kết với khu vực kinh tế trong nước và nước ngoài, tăng cường tác động lan tỏa của ĐTNN đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Mặc dù sẽ đối mặt với không ít thử thách, hoạt động ĐTNN tại Việt Nam vẫn đang đứng trước thời cơ mối chưa từng có. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trung ương và địa phương trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nắm bắt thời cơ mới đẻ tạo nên một làn sóng đầu tư nước ngoài mới có hiệu quả, góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển inh tế xã hội của đất nước ta.
Bên cạnh việc chú trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài và tác đọng trực tiếp của nó đến tăng trưởng kinh tế cần chú ý tác động tràn của nó đến khu vực kinh tế trong nước. Sau đây là một số giải pháp:
Hoàn thiện cơ chế phát triển thị trường các yếu tố đặc biệt là thị trường lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản, thị trường vốn, đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập quốc tế, nhanh chống hoàn thành hệ thống doanh nghiệp phụ trợ với các doanh nghiệp FDI tạo nên những nhóm ngành có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Một trong những lí do chính cản trở tác động tràn là sự chênh lệch về trình độ công nghệ và thiếu sự liên kết giữa 2 khu vực doanh nghiệp. Chênh lệch về trình độ công nghệ thể hiện qua mức tập trung vốn trên đầu lao động thường gây trở ngại cho việc chuyển giao công nghệ ở những ngành đòi hỏi vốn lớn như cơ khí điện tử. Do vậy để nâng cao hiệu quả tác động tràn một mặt các donh nghiệp trong nước phải đổi mới công nghệ mặt khác phải năng cao trình độ lao động để tăng khả năng tiếp thu của người lao động trong việc sử dụng hững công nghệ có tính phức tạp .
Để nâng cao trình độ người lao động ,cần tăng cường mạnh mẽ công tác đào tạo ,nhất là đào tạo nghề với sự tham gia của các tổ chức trong nước và ngoài nước ,nhằm đáp ứng tốt nhất nu cầu lao động kỷ thuật cao của nhà đầu tư .
Để nâng cao khả năng cạnh tranh , các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới ,nâng cao chất lượng sản phẩm và cung cấp các dịch vụ bán hàng .từ đó có thể nâng cao chiếm lĩnh thị trường để nâng cao tính liên kết .
Đối với kênh chuyển giao công nghệ thì cần có sự liên kết giữa các công ty mẹ và các công ty con đối với các công ty xuyên quốc gia. Cá công ty mẹ thường chú trọng đến việc cung cấp công nghệ, cung cấp dây chuyền sản xuất cho các công ty con, còn các công ty con là nơi vận hành các kết quả nguyên cứu ,là nơi vận hành các dây chuyền sản xuất mới nhất. Do đó các công ty con này khi chuyển giao dây chuyền công nghệ cho các các công ty nhà nước thì không những phải hướng dẫn việc vận hành, sử dụng công nghệ đó mà còn phải đào tạo công nhân lành nghề để sử dụng các công nghệ đó một cách có hiệu quả hơn.
Chú trọng thu hút vốn dầu tư nhưng cần nhấn mạnh hơn nữa tác động tràn. Thay vì khuyến khích thu hút FDI vào một số ngành hiện nay, chỉ nên quy định lĩnh vực cấm đầu tư và cho phép đầu tư vào các lĩnh vực ngoài các lĩnh vực cấm .
Đẩy mạnh cổ phàn hóa doanh nghiệp mở cửa hơn nữa cho sự gia nhập thị trường các donh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp ngài quốc doanh trong nước trong một số ngành hiện nay mà vẫn do doanh nghiệp nhà nước nắm. Đồng tời thực hiện cam kết giảm thuế và hang rào phi thuế quan.Mục đích của biện pháp trên là nhằm giảm mức độ tập trung của FDI vào một số ngành sản xuất thay thế nập khẩu, thu hút nguồn vốn này vào tất cả các ngành. Qua đó tạo cơ hội để có các tác động lan tỏa cho các doanh nghiệp trong nước và kinh tế.
KẾT LUẬN
Trong khoảng gần 20 năm kể từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành việt nam đã thu hút những kết quả khá ấn tượng về thu hút FDI. Cùng với sự tăng trưởng nhanh về GDP của cả nền kinh tế ,khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP.Thành quả trên được đánh giá là kết quả của chính sách cải cách kinh tế ở việt nam thực hiện trong giai đoạn vừa qua ,đòng thời kết quả đó cũn gợi mở hai chiều về tăng trưởng kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong thời gian qua chính sách thu hút đầu tư nước ngoài cũng không kém phần hấp dẫn so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng hiệu lực và chính sách thực thi thấp làm giảm dòng vốn FDI đăng kí và gây khó khăn cho giải ngân nguồn vốn này. Dù dưới góc đọ nào biến đọng thất thường về FDI cũng gây khó khăn về kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh trong việc thu hút FDI ngày càng gay gắt.
Ngoài ra, ít dự án có quy mô lớn cũng là một dấu hiệu không tốt nếu xét về chuyển giao công nghệ và phổ biến kiến thức. Cá công ty lớn thường có năng ực về công nghệ, nên sự biểu hiện của các công ty này ít ra cũng là sự biểu hiện cho việc đầu tư sản xuất các hàng hóa vốn có hàm lượng công nghệ cao. Các công ty lớn còn mang lại nhiều niềm hy vọng cho các nước nhận đầu tư có được tác động tràn tích cực từ chuyển giao công nghệ và kiến thức.
Mức thu nhập cao phản ánh nưng suất lao động của khu vực có vồn FDI là một biều hiện bình thường ở các nước đan phát triển. Năng suất lao động cao từ khu vực ở khu vực FDI thường mong đợi sẽ lan tỏ ra các khu vực khác và thực tế một số quốc gia đẫ kiểm định điều đó là có xảy ra.Tuy nhiên,trong trường hợp của việt nam cầ phải xem xét. Khu vực có FDI tập trung trong ngành sản xuất thay thế nhập khẩu, tức được bảo hộ và trong chừng mực nào đó có sức mạnh thị trường. Do vậy, khả năng sinh ra tác động tràn tích cực hay tác động tràn lan tỏa chắc chắn bị hạn chế. FDI tập trung cao trong các ngành được bảo hộ. Tập trung vốn có thể ngăn vản quá trình di chuyển lao động giữa các doanh nghiệp FDI. Như vậy, khả năng tác động tràn tích cực do di chuyển lao động là rất hạn chế.
Do vậy chính phủ cần tạo môi trường đầu tư thuận lợi tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư Việt Nam nhưng đồng thời cần chú ý tới tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển hơn nữa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thanh_nhom_chuyen_de_1_6336.doc