Đề tài Tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán theo 1826

Hiện còn khá nhiều DN lớn, DN hoạt động có hiệu quả, có sức hấp dẫn vẫn chưa lên sàn; trong khi không ít DN đã lên sàn từ khá sớm hoặc trước đây có sức hấp dẫn lớn nhưng nay lại gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Phần nhiều DN niêm yết có quy mô nhỏ, quan trọng hơn là chất lượng của không ít DN trên sàn còn yếu kém kể cả về hiệu quả hoạt động, cả về công tác hạch toán, cung cấp công khai, minh bạch thông tin.Theo đó, trong thời gian tới, cần phải đưa thêm nhiều DN lớn hấp dẫn lên sàn, trên cơ sở đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước ở một số DN thuộc các ngành lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm giữ hoặc phải có cổ phần chi phối, đồng thời, cần phải củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng hạch toán và cung cấp thông tin của các DN đã niêm yết.

pdf42 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2280 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán theo 1826, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông thường, nhưng được khuyến khích bởi chính sách ưu đãi về thuế của Nhà nước do Quỹ hưu trí tự nguyện sẽ góp phần làm giảm gánh nặng của Nhà nước trong việc bảo đảm an sinh xã hội. - Trụ cột IV - Các khoản đóng góp tự nguyện không hình thành Quỹ hưu trí như các hình thức viện trợ, Quỹ từ thiện... Một hệ thống an sinh xã hội được coi là hoàn chỉnh khi nó dựa trên tất cả các trụ cột này, và các trụ cột này có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, góp phần nâng cao mức sống của người hưởng lương hưu, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Vì vậy, ngân hàng thế giới đã và đang nỗ lực hỗ trợ nhiều quốc gia cải cách hệ thống an sinh xã hội, theo hướng dựa trên tối thiểu ba trụ cột căn bản: Quỹ hưu trí bắt buộc (trụ cột I), Quỹ hưu trí bổ sung (trụ cột II) và Quỹ hưu trí tự nguyện (trụ cột III). Xu hướng hiện nay cho thấy, hầu hết các nước đều tiến hành cải cách hệ thống hưu trí từ chỗ dựa vào một trụ cột thành hệ thống đa trụ cột. Điều này là do: - Thứ nhất, khi dân số trẻ, hệ thống thường đòi hỏi mức đóng góp thấp bởi số thành viên đóng góp nhiều hơn số thành viên hưởng lợi. Tuy nhiên, khi dân số già hóa và số thành viên đóng góp bị giảm sút, do Quỹ đã ấn định mức chi trả cho người hưởng lương hưu, vì vậy để đảm bảo lợi ích hưu trí, thì hoặc là hệ thống đòi hỏi một tỷ lệ đóng góp cao hơn, hoặc là Chính phủ phải gánh vác một phần trách nhiệm trợ cấp do Quỹ bị thâm hụt. Việc tăng mức đóng góp hoặc tăng thuế để hỗ trợ Quỹ hưu trí có thể sẽ gây những phản ứng xã hội tiêu cực. - Thứ hai, hệ thống Quỹ hưu trí bắt buộc do Nhà nước quản lý dựa trên cơ chế thực thu thực chi sẽ không hỗ trợ nhiều cho sự phát triển của thị trường vốn. Các khoản đóng góp của người lao động hiện tại được dùng để trả trực tiếp lương hưu cho những người về hưu, do đó, sẽ không có cơ hội và thời gian để tái đầu tư sinh lợi. Tuy nhiên, nếu hệ thống an sinh xã hội chỉ dựa trên trụ cột là các Quỹ hưu trí bổ sung, Quỹ hưu trí tự nguyện cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt khi chúng gây NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 20 phân hóa xã hội, khoảng cách giàu nghèo và không bảo đảm được thu nhập sau khi nghỉ hưu. Theo nghiên cứu của Bộ LĐTB&XH và Tổ chức Lao động quốc tế, do mất cân đối nghiêm trọng giữa thu và chi của hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, nên quỹ lương hưu BHXH dự kiến thâm hụt vào năm 2020 và đến năm 2033 sẽ hết nguồn chi trả cho người hưởng lương hưu. Do vậy, nếu không định hình giải pháp khắc phục tình trạng này, thì không chỉ tăng áp lực cho ngân sách Nhà nước, bởi ngân sách phải tăng chi liên tục từ năm 2008 tới nay (năm 2011 phải chi thêm xấp xỉ 3.900 tỷ đồng) do tăng lương hưu khi tiến hành tăng lương cơ bản, mà còn tác động tiêu cực đến hệ thống an sinh xã hội. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hệ thống BHXH Việt Nam là trụ cột thứ nhất trong các loại hình hưu trí. Trụ cột này là chế độ hưu trí bắt buộc, do Nhà nước quản lý, nhằm đảm bảo mức thu nhập tối thiểu cho người lao động (NLĐ) sau khi nghỉ hưu. Trong bối cảnh trụ cột thứ nhất này đang mất cân đối thu - chi, việc triển khai các trụ cột khác, nhất là trụ cột thứ ba (theo phân loại của WB) là chính sách BHHTBS là lựa chọn tất yếu để giảm tải cho trụ cột thứ nhất, tạo tiền đề cho cải thiện hệ thống an sinh xã hội. Kinh nghiệm này được áp dụng thành công tại nhiều nước trên thế giới, trong đó có Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia ... Nghiên cứu của CTCP Quản lý quỹ Đầu tư Việt Nam (VFM) cho thấy, xu hướng tại hầu hết các nước là thu nhập của người nghỉ hưu từ chính sách hưu trí cơ bản giảm dần, trong khi thu nhập từ BHHTBS tăng lên. Lương từ chính sách hưu trí cơ bản chiếm 60% tổng thu nhập của người nghỉ hưu ở Thái Lan, chiếm 20 - 25% ở Pháp và 58% ở Mỹ, còn thu nhập từ BHHTBS chiếm 20% tổng thu nhập của người nghỉ hưu ở Thái Lan, chiếm 55 - 60% ở Pháp và 30% ở Mỹ. Theo Bộ LĐTB&XH, có 80 nước đã triển khai chính sách BHHTBS. Trong khối APEC, chỉ còn Việt Nam là chưa triển khai chính sách này, nên đang ngày một gia tăng áp lực cho hệ thống hưu trí đơn tầng hiện tại. Vì vậy cần phải hình thành một hệ thống quỹ hưu trí đa trụ cột. Gần đây, nhà nước đang tích cực xây dựng, thí điểm, hoàn thiện và triển khai các văn bản pháp luật chi phối các quỹ hưu trí này theo lộ trình sau: Giai đoạn 1 (2012-2015): Hình thành khung pháp NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 21 lý, tổ chức thí điểm đối với một số tập đoàn, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Giám sát quá trình hoạt động và thực hiện các cải tiến cần thiết để hoàn thiện hệ thống; Giai đoạn 2 (2015-2020): Hoàn thiện khung pháp lý và mở rộng đối tượng tham gia đóng góp vào quỹ hưu trí bổ sung; Giai đoạn 3 (sau 2020): Nghiên cứu chuyển đổi mô hình Quỹ Hưu trí bổ sung từ hình thức tự nguyện sang hình thức bắt buộc. Trước khi triển khai thí điểm chúng ta cần có một khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh, đủ chặt để quản lý. Theo đó đến đầu năm 2015 chúng ta phải hình thành nên khung pháp lý và tổ chức thí điểm tại một số doanh nghiệp. Nhưng đến nay vẫn chưa hình thành nên khung pháp lý mà chỉ mới có dự thảo hoặc đang xây dựng dự thảo. Mục đích cuối cùng vẫn là phải hoàn thiện được một khung pháp lý phù hợp về quỹ hưu trí, chứ chúng ta không nên chỉ quan tâm về triển khai thí điểm như thế nào trong khi quy định vẫn chưa hoàn thiện.  Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách để triển khai thí điểm quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ hưu trí bổ sung => Ban hành và hoàn thiện khung pháp lý về việc triển khai quỹ hưu trí tự nguyện và quỹ hưu trí bổ sung. 2.2.2.2. Nghiên cứu cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích hoạt động của các loại hình quỹ đầu tư, khuyến khích đầu tư vào các sản phẩm quỹ mới; nghiên cứu chính sách về thuế thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán căn cứ trên thời hạn đầu tư, hình thức đầu tư và sản phẩm đầu tư. Theo các nhà đầu tư, các loại thuế đang đánh vào lĩnh vực chứng khoán là thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân đều đang bộc lộ những bất hợp lý. Việc áp dụng hình thức thuế khoán, tức là đánh thuế 0,1% trên phần chênh lệch giữa giá mua và giá bán là hợp lý, nhưng thực tế lại đánh 25% trên thu nhập chịu thuế. Nhà đầu tư không được trừ nhiều loại chi phí thực tế phát sinh trong quá trình đầu tư, nên mức thuế mà họ phải đóng có khi lên đến 50 - 60%. Ngoài những bất cập như chưa có chính sách ưu đãi thuế cho các sản phẩm mới như: quỹ mở, quỹ ETF, quỹ bất động sản... sự bất hợp lý và bức xúc nhất phải kể tới các quỹ đầu tư nước ngoài có văn NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 22 phòng đại diện tại Việt Nam bị đưa vào diện tính thuế thu nhập doanh nghiệp, thay vì nộp thuế khoán. Bởi vậy, việc xây dựng chính sách thuế đối với lĩnh vực chứng khoán cần được cân nhắc theo hướng tạo ra cơ chế ưu đãi về thuế hợp lý nhằm khuyến khích thị trường chứng khoán phát triển hiệu quả và lành mạnh hơn để đảm đương tốt hơn vai trò huy động vốn cho nền kinh tế. Thực tế, dòng tiền luân chuyển trên thị trường vốn quốc tế rất linh hoạt giữa các nước, nên nếu không có chính sách thu hút đầu tư đủ hấp dẫn, trong đó, có cơ chế thuế, thì sẽ khó thu hút được dòng vốn tham gia thị trường chứng khoán trong giai đoạn tới. Theo nhiều nhà đầu tư, việc đánh thuế, Ủy ban chứng khoán Nhà nước và Cục thuế nên phối hợp với nhau giao cho các công ty chứng khoán những mã nào giảm, những mã nào bị lỗ trừ, những mã nào tăng để tính thuế phù hợp. Khoảng 4 năm trở về trước, khi sự bất hợp lý này chưa xuất hiện rõ nét, có khá nhiều quỹ đầu tư nước ngoài đầu tư vào các công ty chưa đại chúng, thường là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, với tổng giá trị ước khoảng 2 tỷ USD. Nhưng nay, khoản vốn đầu tư này đã sụt giảm, đồng thời các khoản đầu tư mới gần như không phát sinh. Điều này khiến các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng, nền kinh tế Việt Nam nói chung đang khó thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, khi các doanh nghiệp khó tiếp cận được vốn (là một trong những khó khăn lớn nhất trong hoạt động), thì họ sẽ gặp khó trong kinh doanh, làm giảm doanh thu và lợi nhuận đóng thuế. Ở một góc độ nào đó, thực tế này làm giảm hiệu quả của các chính sách ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo các chuyên gia tài chính, chứng khoán không phải là cuộc chơi cho giới nhà giàu, mà là thị trường huy động vốn hiệu quả. Những tháng cuối năm 2012, các nhà đầu tư chứng khoán đã được giảm 50% thuế thu nhập cá nhân và họ mong muốn rằng năm nay sẽ tiếp tục được giảm thuế vì nền kinh tế khó khăn, đa phần nhà đầu tư bị thua lỗ, mà thua lỗ vẫn phải nộp thuế thì sẽ không khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào thị trường. Trưởng phòng phân tích và nghiên cứu công ty chứng khoán Vietcombank Tống Minh Tuấn kiến nghị, với khó khăn hiện tại của thị trường, các nhà quản lý, các cơ quan quản lý nên xem xét một đợt hỗ trợ mới về thuế NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 23 đối với các nhà đầu tư bán chứng khoán, hỗ trợ các nhà đầu tư thúc đẩy giao dịch mua vào để cải thiện tình hình hiện tại, cũng như lôi cuốn các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường giao dịch, làm tăng lượng tiền lưu thông trong thị trường và các luồng vốn mới vào thị trường. Các chính sách thuế là một công cụ tác động đến các hoạt động của các loại hình quỹ đầu tư đặc biệt là các quỹ đầu tư mới. Với một chính sách thuế hợp lý có thể khuyến khích việc hình thành các quỹ này nhiều hơn, thu hút sự tham gia của nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư cá nhân. Những văn bản pháp luật về các quỹ này đã được đưa ra trong khi các chính sách thuế dành cho nó vẫn còn rất mơ hồ hoặc chưa được đề cập đến. Điều này không thể tạo ra một động lực đủ hấp dẫn để hình thành và tham gia vào các quỹ đầu tư, quỹ hưu trí mới. Đồng thời với mục tiêu thu hút hút một lượng lớn nguồn vốn trung dài hạn vào TTCK thì việc đánh thuế thu nhập từ các hoạt động đầu tư chứng khoán với một mức thuế suất giống nhau, không phân biệt theo kỳ hạn đầu tư, sản phẩm dầu tư và hình thức đầu tư thì không thể nào khuyến khích sự tham gia của những nhà đầu tư muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán 2.2.2.3. Xây dựng cơ chế, chính sách, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho nhà dầu tư nước ngoài dễ tiếp cận thị trường chứng khoán Việt Nam. Khi đầu tư tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài thường gặp phải 3 rủi ro lớn nhất: bất ổn kinh tế vĩ mô, rủi ro hợp đồng, tiếp theo là các rủi ro về chính sách, lao động làm sụt giảm đi lòng tin của nhà ĐTNN tại Việt Nam. Trong rất nhiều nguyên nhân làm sụt giảm lòng tin của doanh nghiệp nước ngoài, đại diện các hiệp hội đều lên tiếng kêu ca về gánh nặng thủ tục hành chính. Ông Preben Hiorlund, chủ tịch Phòng Thương mại và công nghiệp Châu Âu (Eurocham) than phiền: "Các cơ quan chính quyền yêu cầu các doanh nghiệp thành viên của chúng tôi phải nộp các tài liệu bổ sung ngày càng nhiều, mặc dù các tài liệu và văn bản này không có trong yêu cầu pháp luật (Sở Kế hoạch Đầu tư coi những tài liệu này là NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 24 tiền đề để xem xét các hồ sơ đăng ký) và kết quả là tỷ lệ các doanh nghiệp phải mất hơn 3 tháng để hoàn tất toàn bộ thủ tục cần thiết để bắt đầu kinh doanh hoặc cấp phép cho một dự án đã tăng lên đáng kể". Quá trình phê duyệt cấp phép vẫn quá dài ngày, bị trì hoãn, các thủ tục rườm rà, phức tạp yêu cầu doanh nghiệp phải trao đổi nhiều lần với chính quyền địa phương. Một dẫn chứng khác được ông Seck Yee Chung, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp Singapore nêu là việc tra cứu thông tin. “Một số thông tin hoàn toàn không có, hoặc rất khó để tìm kiếm được như thông tin về sở hữu đất, quyền sử dụng đất, về quy hoạch, về các vụ phá sản, kiện tụng”, khi thông quan hàng hóa vào Việt Nam, có những đòi hỏi về các khoản tiền không hợp pháp để được tạo điều kiện thuận lợi và nếu không chấp thuận, doanh nghiệp sẽ phải chịu sự chậm trễ, ách tắc. Vì sự kèm minh bạch này nên nhiều nhà doanh nghiệp Singapore đã ngần ngại đưa ra các quyết định đầu tư vào Việt Nam. Họ e ngại những rủi ro không thể dự báo trước. Thậm chí, họ không đủ cơ sở để xác định về đối tác làm việc với mình tại đây. Mặc dù dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vẫn tăng qua các năm nhưng giai đoạn hiện nay cần nhiều hơn nữa dòng vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK để phát triển. Do vậy, việc thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài là một vấn đề lớn cần phải đặc biệt quan tâm. Các thủ tục hành chính cũng cần phải được cải cách theo hướng đơn giản hóa các bước, theo tiêu chuẩn quốc tế để các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng hơn trong việc tiếp cận TTCK 2.2.3. Nâng cấp hạ tầng kỹ thuật thị trường Nâng cấp hạ tầng kỹ thuật thị trường bao gồm hệ thống giao dịch, hệ thống đăng ký lưu ký, thanh toán bù trừ, hệ thống công bố thông tin, hệ thống giám sát tạo sự tiện lợi trong hoạt động giao dịch, thanh toán của nhà đấu tư. a) Tăng cường hoạt động, nâng cấp công nghệ các Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký và phát triển các thị trường chứng khoán: NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 25 - Đưa hoạt động của thị trường giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết, thị trường trái phiếu Chính phủ chuyên biệt vào hoạt động. - Triển khai đấu thầu thiết kế, cung cấp, lắp đặt, chuyển giao hệ thống công nghệ thông tin của các Sở giao dịch và Trung tâm lưu ký để đáp ứng sự phát triển của thị trường. Ban hành tiêu chuẩn hoá của hệ thống công nghệ thông tin cho thị trường nhằm giảm chi phí đầu tư cho các tổ chức tham gia, tăng cường bảo mật. - Tiếp tục hoàn thiện đề án giao dịch trực tuyến tại Sở giao dịch chứng khoán HCM và giao dịch không sàn tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. - Tăng cường vai trò của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán, Hội kiểm toán viên hành nghề, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính..về việc là đầu mối phối hợp với Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch, Trung tâm lưu ký chứng khoán để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống công nghệ thông tin cho ngành chứng khoán. b) Cần hoàn thiện hệ thống thanh toán bù trừ, tái cấu trúc hệ thống đăng ký, lưu ký chứng khoán - Nếu hệ thống thanh toán bù trừ không được thiết ké tốt, và không có khả năng quản lỳ rủi ro phát sinh từ việc mất khả năng thanh toán của các thành viên, hoặc từ các nhiễu loạn trong hoạt động thì các vấn đề thanh khoản, tín dụng sẽ xảy ra. Vì vậy cần phải hoàn thiện hệ thống thanh toán bù trừ vì suy cho cùng sự thành công của bất kỳ thị trường tài chính nào cũng cần dựa trên sự vận hành hiệu quả, an toàn của hệ thống bù trừ và thanh toán. - Về phía TTLKCK, thủ tục lưu ký chứng khoán còn chậm, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT. Hoặc tình trạng việc cấp mã số giao dịch, cho NĐT nước ngoài thì thủ tục xin traning code vô cùng phức tạp và chậm trễ, khiến không ít NĐT nản lòng, Ngoài ra, việc công bố thông tin chưa được TTLKCK thực hiện 1 cách chính xác, chưa đáp ứng được yêu cần của NĐT, vì vậy cần nâng cáp hệ thống lưu ký, đắng ký chứng khoán cho cả NĐT trong nước lẫn nước ngoài. NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 26 - Triển khai các biện pháp để xây dựng hệ thống nhà đầu tư tổ chức chuyên nghiệp nhằm tạo sức cầu, giúp thị trường phát triển bền vững; tăng lòng tin và khuyến khích nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường. 2.2.4. Vấn đề công bố, minh bạch thông tin Như chúng ta biết công bố, minh bạch thông tin cung cấp nhiều lợi ích cho NĐT như giúp gia tăng sự bảo vệ NĐT, đảm bảo sự đối xử công bằng, giảm vấn đề chi phí đại diện và xung đột lợi ích. Minh bạch thông tin giúp NĐT có thêm nguồn thông tin chính xác để đánh giá hiệu quả vốn đầu tư của mình, tránh rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động công ty (thu nhập ảo, dùng những thủ thuật kế toán để làm giả số liệu tài chính..), tránh những thua thiệt so với cổ đông lớn trong việc biết trước thông tin để thực hiện những cơ hội đầu tư thuận lợi hơn. Ngoài ra nó cũng giúp NĐT có thông tin đầy đủ và chính xác để họ kiểm tra thông tin và chất lượng những giao dịch đã thực hiện. Họ có thể so sánh kết quả cũng như chi phí thực bỏ ra cho các nhà môi giới với các công ty môi giới chuyên nghiệp và cân nhắc quyết định của mình trong tương lai. Vì những lợi ích to lớn đó nên Thủ Tướng Chính Phủ đã đưa ra quyết định 1826/QD-TTg về phê duyệt đề án Tái cấu trúc thị trường chứng khoán và doanh nghiệp bảo hiểm trong đó có một nội dung như sau “Triển khai thực hiện các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế công bố thông tin, nâng cao chất lượng thông tin công bố, tăng cường tính minh bạch trên thị trường chứng khoán, kiên quyết xử lý nghiêm các hiện tượng thao túng, gian lận, lừa đảo, tạo dựng và công bố thông tin sai lệch trên thị trường chứng khoán”. Theo đó UBCK cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý, giám sát hoạt động thị trường bằng việc đẩy mạnh thực hiện công tác giám sát, thanh tra, xử lý một số thành viên thị trường và các cá nhân vi phạm. Cùng với việc tăng giám sát, quy chế xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán cũng cần được sửa đổi để xử phạt chặt chẽ hơn. Chúng ta cần thiết lập hệ thống kiểm soát giao dịch tự động của các cổ đông lớn, cổ đông nội bộ và người có liên quan từ CTCK, Sở GDCK, trong đó cơ sở dữ liệu thống nhất và phần mềm công bố thông tin thông suốt từ các tổ chức phát hành, niêm yết và kinh doanh chứng khoán đến Trung tâm giao dịch chứng khoán và các phương tiện NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 27 truyền thông đại chúng; và áp dụng công nghệ thông tin một cách chủ động và nhanh chóng. Công ty kiểm toán không được thực hiện tất cả các nghiệp vụ kiểm toán của một tập đoàn mà phải chia phần việc cho các công ty kiểm toán khác để tránh tình trạng tập trung lợi ích có thể dẫn tới những tiêu cực có thể xảy ra. Trong công tác kiểm toán tại công ty, kiểm toán viên cần phải xác nhận cả những dự báo về lợi nhuận trong tương lai của công ty thay vì chỉ kiểm toán những dữ liệu quá khứ. Về việc công bố bản cáo bạch cần phải có một bản cáo bạch tóm tắt là thủ tục bắt buộc và người thực hiện bản tóm tắt này phải chịu trách nhiệm dân sự nếu tóm tắt có nội dung lừa dối, không chính xác hoặc mâu thuẫn với các phần khác của cáo bạch. Công ty niêm yết phải chỉ rõ trong bản cáo bạch của mình những rủi ro trong hoạt động của công ty và công bố rõ ràng đến công chúng. Những rủi ro đó bao gồm các khoản nợ của công ty trước khi phát hành cổ phiếu, những tranh chấp pháp lý liên quan đến công ty (nếu có). Để đảm bảo tính chuẩn mực của cáo bạch, UBCKNN nên quy định bản cáo bạch của công ty phải có 3 đối tượng cùng liên đới chịu trách nhiệm, gồm người công bố thông tin (thông thường là lãnh đạo công ty); kiểm toán viên độc lập và tổ chức cung cấp dịch vụ đầu tư. 2.2.5. Đẩy mạnh công tác đào tạo tấp huấn Trình độ của nhà đầu tư cá nhân về TTCK còn hạn chế,không phân biệt được lúc nào nên tham gia thị trường, khi nào không nên,một số nhà đầu tư còn không biết chỉ số VN -index dùng để làm gì? Nó có ảnh hưởng gì đến cổ phiếu hay không, các tài liệu các báo cáo tài chính, bản cáo bạch công ty niêm yết cũng không biết để làm gì, cũng như không biết phân tích nội dung nào quan trọng nhất trong báo cáo, các quyền lợi khi mua cổ phiếu như quyền biểu quyết đại hội, quyền mua và bán các quyền cổ đông… Việc thanh toán bù trừ chứng khoán cũng gây nhiều rắc rối cho nhà đầu tư, thời hạn thanh toán T+3 cho bù trừ cổ phiếu và T+1 cho bù trừ tiền tuy viết rõ ràng nhưng vẫn làm nhiều nhà đầu tư tưởng là cổ phiếu hoặc tiền đã về đến tài khoản. NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 28 Năm 2010 và đầu năm 2011, chỉ số chứng khoán trên TTCK việt Nam biến động có xu thế bất lợi làm nhiều nhà đầu tư chán nản, số nhà đầu tư rời bỏ thị trường có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, đầu tư trên TTCK vẫn là một trong những kênh đầu tư phổ biến trên thế giới. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam, TTCK vẫn còn mới mẻ, tạo ra nhiều cơ hội tốt cho các nhà đầu tư. Không vì sự biến động không thuận lợi mà chán nản rời bỏ thị trường. Khó khăn nguy cơ của người này nhưng lại là thuận lợi cơ hội của người khác. Song, việc nâng cao năng lực đầu tư không phải là việc dễ dàng, có thể mất nhiều thời gian nhưng không thể không làm. Trước mắt, các nhà đầu tư cần chú ý một số vấn đề sau: • Đầu tiên là, trang bị cho bản thân những kiến thức cơ bản không thể thiếu khi đầu tư chứng khoán, đó là: • Kiến thức về chỉ số VN – index, nắm chắc cách thức giao dịch trên TTCK cũng như đăng ký tài khoản giao dịch cùng với thanh toán bù trừ chứng khoán và tiền vốn, hiểu thời hạn thanh toán T+3 như thế nào? Thanh toán ra làm sao?.... • Bổ sung kiến thức, thông tin các mã chứng khoán bằng cách đọc thêm trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo đài, internet, báo cáo thường niên. Xem thông tin thị trường, nghiên cứu báo cáo tài chính, bản cáo bạch của công ty niêm yết trên TTCKmà bản thân ưu tiên, xem công bố thông tin về báo cáo tài chính năm và công bố thông tin bất thường khi lâm vào tình trạng phá sản; có quyết định giải thể;Quyết định hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, góp vốn liên doanh, chuyển đổi công ty; Quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty; thay đổi tên công ty;tăng hoặc giảm vốn điều lệ; các thông tin bất thường của công ty niêm yết, thông tin trong giờ giao dịch; các thông tin định kỳ trong ngày giao dịch, Tỷ lệ nắm giữ chứng khoán của người nước ngoài và giới hạn còn được mua đối với từng loại chứng khoán...Tóm tắt về vốn cổ phần, thống kê sô liệu phát hành/ chào bán, số nợ và phương án sử dụng tiền thu được từ đợt phát hành; - Chứng khoán phát hành; NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 29 - Thông tin về ngành kinh doanh; - Thông tin tài chính; - Thông tin về cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc; - Các đối tác liên quan tới đợt phát hành; - Các nhân tố rủi ro; Các chỉ số ROA, ROE, EPS, P/E luôn dễ dàng được tìm thấy trong các Bản tin chứng khoán lưu hành hằng ngày. Việc còn lại là nhà đầu tư chỉ tính toán và ra quyết định đầu tư khi đã có được những số liệu về các chỉ số đánh giá này. Ngoài ra, ta phải theo kịp tình hình nền kinh tế của các nước phát triển trên thế giới, bởi vì chúng ta không hề đi riêng rẻ, bởi vì các nền kinh tế luôn có ảnh hưởng tương hỗ với nhau, một nước mà có nền kinh tế không ổn định thì sẽ ảnh hưởng dây chuyền với các nền kinh tế xung quanh… • Nắm rõ biểu phí giao dịch của từng công ty chứng khoán và thuế thu nhập cá nhân,trong thời điểm hiện nay, các công ty chứng khoán nhiều nên việc chọn một nơi tin cậy để giao dịch cũng khá dễ dàng, thông thường các công ty có các biểu phí gần gần giống nhau, chi khác nhau ở các công cụ phái sinh như vay ứng trước, sử dụng đòn bẩy, …tuy nhiên chọn sàn cũng như để thuận tiện công việc và trao đổi thông tin với nhà đầu tư khác rất quan trọng, nó góp phần quyết định sự đầu tư thắng lợi. • Về thuế chứng khoán thì việc lựa chọn phương pháp kê khai, nộp theo thuế suất toàn phần 20% là thuận tiện cho các nhà đầu tư có danh mục đầu tư gồm nhiều cổ phiếu, giao dịch nhiều lần trong năm, vì chỉ phải tính toán lãi lỗ và quyết toán một lần cho toàn bộ các giao dịch trong cả năm. Trường hợp năm đầu tư bị lỗ hoặc số thuế phải nộp lớn hơn phần kê khai tạm nộp theo mức ấn định 0,1% theo từng lần giao dịch trong suốt cả năm, thì nhà đầu tư có thể thực hiện các thủ tục xin hoàn số thuế đã nộp thừa trong năm. Theo dự án cải cách thủ tục hành chính trong công tác thuế, hồ sơ, thủ tục và thời gian kiểm tra hoàn thuế đang và sẽ được đơn giản hóa hơn rất nhiều, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nộp thuế được hoàn thuế. NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 30 Nghiên cứu luật chứng khoán rõ ràng, cổ đông ít vốn nên học luật chơi, trong đó lưu ý 2 điểm chính: cổ đông nhỏ được luật pháp trao cho quyền nhất định để tự bảo vệ mình nhưng cũng đừng quên quyền chỉ giới hạn trong số vốn góp, cổ đông ít vốn chiếm tỷ trọng lớn về số lượng nhưng chỉ nắm giữ khoảng 20 - 30% vốn, trong khi một vài cổ đông nắm giữ vốn lớn, gọi là cổ đông lớn có thể nắm giữ 70 - 80% vốn của công ty. Vì thế, quyền quyết định trong công ty thực chất thuộc về một vài cổ đông lớn. Nhà đầu tư nhỏ trước khi quyết định đầu tư vào công ty nào nên đọc kỹ bản điều lệ của công ty đó để biết rõ về quyền lợi của mình, nên chọn mặt gửi vàng, tránh tình trạng đến khi thua thiệt mới tìm hiểu luật chơi, cổ đông nhỏ phải biết liên kết lại để thực hiện quyền mà luật pháp đã trao cho họ. Cần đọc hiểu các phân tích về những rủi ro có thể ảnh hưởng đến TTCK và các rủi ro khi tham gia TTCK như: rủi ro thị trường (lãi suất, lạm phát, tỷ giá…), rủi ro cụt vốn khi thị trường giảm, rủi ro thanh khoản, rủi ro thời thế….Hầu hết các loại rủi ro này được các chuyên gia kinh tế phân tích rộng rãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng, sách báo - tạp chí, internet, báo cáo phân tích… nên việc tìm tòi và tham khảo tài liệu hiện nay rất dễ dàng. Cần phải biết học cách hạn chế cảm xúc đầu tư EQ. Thời gian qua, cái sự điên rồ của công chúng đã khiến nhiều nhà đầu tư Việt Nam trở thành triệu phú nhờ vào việc dám mạo hiểm đầu tư, gần đây nhất là đầu tư vào “dòng họ Sông Đà” trên sàn Hà Nội khi giá tăng gấp đôi thậm chí gấp 3 - 4 lần. Trong số những người này, dám chắc rằng những ai không ưa mạo hiểm hay quá chú ý đến phân tích cơ bản chỉ đếm trên đầu ngón tay. Dường như nhà đầu tư thất bại thường phạm những sai lầm giống nhau, đó là học đầu tư cổ phiếu nhưng không biết điều khiển cảm xúc, không biết nâng cao EQ bằng những bài học thực tế mà lại quá chú trọng đến việc bổ sung kiến thức, kỹ xảo đầu tư. Còn một biện pháp trong lúc thị trường lình xình đó là “sống chung với lũ” trong một thế giới mà tính liên thông ngày càng cao giữa các thị trường, dòng vốn quốc tế ngày càng được khơi thông thì chúng ta, những thị trường nhỏ, không thể nghĩ tới NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 31 chuyện "đèn nhà ai nấy sáng", "sống chết mặc bay", mà hiệu ứng lan truyền (spill-over effect) sẽ đổ lên chúng ta bất cứ khi nào. Nguy hiểm hơn, bây giờ tâm lý hoảng loạn có tính lan truyền toàn cầu, hoảng loạn tại thị trường Mỹ sẽ có thể nhanh chóng lan sang nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, rồi lan sang nhà đầu tư người Việt, chính vì thế để tránh gặp tình trạng dây chuyền và nghĩ đến lợi ích chung của TTCK ta cần sử dụng biện pháp trên việc này, tất nhiên biện pháp này cần được sự đồng lòng của tất cả các nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam. Kế đến là thực hiện những nguyên tắc tâm lý cho nhà đầu tư khi đầu tư chứng khoán như là: - Tự mình nghiên cứu thị trường, không nên hoàn toàn nghe theo lời khuyên hay quan điểm của người khác vì mỗi người đều có một ý kiến riêng về loại cổ phiếu nào đó và biết một số tin nóng, bạn nên kiểm tra lại những thông tin này. - Giữ bí mật về những lần giao dịch, đây là những khoản đầu tư của mình nên bạn không thể tiết lộ cho người khác biết. - Không ngừng phân tích thị trường khi tạm rút lui, lúc nào cũng giao dịch trên thị trường không phải là chiến lược khôn ngoan. Rút khỏi thị trường nghĩa là nhà giao dịch đứng ngoài thị trường, họ sẽ giao dịch trở lại khi có cơ hội tốt hơn. Thời gian yên tĩnh khi rút lui khỏi thị trường sẽ giúp họ có thêm cơ hội phân tích thị trường và xu hướng giá. Nguyên tắc phân tích không ngừng trong khi rút lui khỏi thị trường cũng giống như việc luyện tập của những vận động viên hàng đầu trong những kỳ nghỉ. Bạn vẫn đạt phong độ đỉnh cao và chắc chắn rằng mình sẵn sàng chuẩn bị khi thời cơ giao dịch đến. - Không nên đa dạng hóa danh mục mà nên tập trung vào một số cổ phiếu trọng tâm. Tôi tin rằng việc kiếm được nhiều lợi nhuận nhất lại phụ thuộc vào việc bạn giao dịch càng ít loại cổ phiếu càng tốt. Nguyên tắc này nghĩa là tập trung giao dịch một số loại cổ phiếu hàng đầu những cổ phiếu có nhu cầu lớn nhất tại thời điểm đó và không đầu tư vào những loại cổ phiếu mà bạn không hiểu nhiều về lĩnh vực đó, nguyên tắc này sẽ giúp bạn NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 32 trở thành người cực kỳ giàu có. Như Gerald Loeb đã từng nói rằng: “An toàn nhất là để tất cả số trứng của bạn vào một cái rổ và quan sát rổ đó”. - Tránh đầu tư vào những công ty được đồn là “sao sáng”, nên đầu tư vào công ty đơn giản càng tốt, Điều quan trọng nhất để đầu tư vào một công ty là tài sản và khả năng tạo ra lợi nhuận của nó. Trước khi đầu tư vào cổ phiếu của bất kỳ công ty nào, hãy tự hỏivà tự đối thoại với bản thân mình trong hai phút: cái gì tạo ra giá trị cho công ty này, và công ty có thể thành công không? Ngoài những nguyên tắc cơ bản như giá trị tài sản, doanh số bán hàng, tỷ số tiềm năng của lợi nhuận trên thị giá, khả năng thanh khoản, quan sát một số dấu hiệu khác để tìm ra những cổ phiếu tốt: người trong công ty có mua cổ phiếu đó không? Công ty có đang mua lại cổ phiếu của mình không? Nghiên cứu tâm lý TTCK kỹ, điều này khá là khó khăn bởi vì tâm lý thị trường là tâm lý của đám đông, câu “hãy tham lam khi người khác sợ hãi” và “hãy sợ hãi khi người khác tham lam” cho thấy lúc nào cũng đúng, thị trường luôn có những cái lý của nó, không nên ép nó vào suy nghĩ của bản thân, tuy nhiên vẫn có cách để nắm bắt được các diễn biến tâm lý trên thị trường, đó là sử dụng đồ thị phân tích kỹ thuật, bất cứ trang web của công ty chứng khoán nào cũng có. Ví dụ:www.fpts.com.vn; www.thanglongsc.com.vn; www.ssi.com.vn; www.dvsc.com.vn; www.vdsc.com.vn; Thêm vào đó cần phải học tập trau dồi kinh nghiệm đầu tư thường xuyên, kinh nghiệm đầu tư rất quan trọng, các nhà đầu tư cần phải ghi nhớ những kinh nghiệm mình đã tích được khi đối mặt với khó khăn để khi gặp những tình huống tương tự có thể nhanh chóng giải quyết. Điều này đặc biệt đúng trên TTCK vì mô hình cổ phiếu và xu hướng thị trường thường lặp đi lặp lại từ năm này sang năm khác và từ chu kỳ này sang chu kỳ khác. 2.2.6. Đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát Việc sử dụng thông tin nội bộ trong giao dịch chứng khoán thường được xem là vi phạm nghiêm trọng trên TTCK ở bất kỳ quốc gia nào. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng này là hoạt động của các công ty cổ phần và TTCK vẫn chưa NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 33 bảo đảm nguyên tắc công khai, công bằng và minh bạch. Việc thiếu minh bạch về thông tin thể hiện chỗ các quy định pháp luật hiện hành vẫn chưa cho phép các công ty cổ phần niêm yết và đăng ký giao dịch công bố thông tin rộng rãi trong cùng một thời điểm, mà phải gửi trước thông tin cho các sở giao dịch chứng khoán. Như vậy, các sở này được hưởng đặc quyền sở hữu thông tin trước và sau đó mới công bố. Cơ chế này đã tạo ra mảnh đất màu mỡ cho các hành vi giao dịch thông tin nội bộ phát triển. Ngoài ra, tại các phiên đấu giá cổ phiếu, thông tin về số lượng nhà đầu tư tham gia chỉ là một con số tổng hợp, còn thông tin nội bộ về danh sách các nhà đầu tư tổ chức (kể cả trong nước và nước ngoài) tham gia đấu giá cổ phần không được công bố, nhưng lại dễ bị rò rỉ. Tình trạng này gây ra không ít thiệt hại cho đông đảo nhà đầu tư cá nhân. Bên cạnh đó những cổ đông lớn là những người có khả năng chi phối, kiểm soát và hiểu rõ nhất các thông tin nội bộ của công ty. Vì vậy, các đối tượng này thường xuyên sử dụng lợi thế đó hoặc trao cho người thân những thông tin quan trọng của công ty để thực hiện các giao dịch vì mục đích tư lợi các nhân, gây thiệt hại cho công ty cả về uy tín lẫn tài sản… Pháp luật Việt Nam cũng đã có nhiều quy định về chế tài xử lý đối với các hành vi sử dụng thông tin nội bộ trong giao dịch chứng khoán và thao túng giá chứng khoán từ mức độ cảnh báo hành chính đến biện pháp răn đe hình sự. Mặc dù trên thực tế hành vi sử dụng thông tin nội bộ trong giao dịch chứng khoán đã có những chế tài rất nghiêm khắc để xử lý, nhưng loại giao dịch này vẫn diễn ra thường xuyên do lợi nhuận thu được từ hoạt động này là rất lớn. Do đó, để hạn chế được tình trạng cổ đông lớn sử dụng thông tin nội bộ trong giao dịch chứng khoán, ngoài việc UBCKNN và các cơ quan chức năng có thẩm quyền tăng cường hơn nữa việc kiểm tra, giám sát, thì việc hoàn thiện các quy định về công bố thông tin cũng phải đồng thời tiến hành song song. Vì nếu việc kiểm soát và công bố các thông tin tốt, thì các cổ đông nội bộ mà chủ yếu là những cổ đông lớn sẽ không có nhiều cơ hội trong việc sử dụng các thông tin nội bộ để giao dịch chứng khoán hoặc bán các thông tin này ra bên ngoài cho người khác nhằm mục đích tư lợi. Ở một số quốc gia trên thế giới, điển hình như Hoa Kỳ, Ủy ban chứng khoán (SEC) và các SGDCK thường yêu cầu tất cả các nhân viên trong công ty niêm yết phải báo cáo NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 34 về các giao dịch của họ. Vì các nhân viên làm việc trong công ty có thể có được những thông tin nội bộ về tình hình hoạt động của công ty, nên các nhà đầu tư có thể xem xét các bản báo cáo trên để biết rằng liệu các nhân viên nội bộ trong công ty có mua, bán chứng khoán một cách hợp pháp hay không. Đây cũng là một cơ chế đáng để chúng ta học hỏi, bởi theo cơ chếnày, các giao dịch nội bộ và các thông tin trong công ty sẽ được minh bạch, công khai hóa bởi trách nhiệm của từng cổ dông, từng nhân viên trong công ty. Thông qua đó, cổ đông có thể giám sát rất hiệu quả các giao dịch nội bộ của cổ đông lớn trong công ty cổ phần. Bên cạnh đó, chúng ta cần phải phát huy hơn nữa vai trò của Bộ luật Hình sự trong việc xử lý nghiêm khắc các hành vi sử dụng thông tin nội bộ trong giao dịch chứng khoán để thao túng giá chứng khoán và thu lợi bất chính. Vì vậy, cần phải xây dựng cơ chế phối hợp xử thật hiệu quả giữa ủy ban chứng khoán với cơ quan công an, Viện Kiểm sát và Tòa án. Trong đó, quy định rõ trách nhiệm phối hợp và phạm vi thẩm quyền xử lý cụ thể của từng cơ quan. 2.2.7. Điều chỉnh tỉ lệ tham gia của các nhà đầu tư Được nhắc đến khá nhiều trong đề án liên quan đến TTCK là việc khuyến khích sự tham gia của NĐT nước ngoài trên TTCK Việt Nam . Theo đó, nội dung đề án nêu rõ mục tiêu thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trung và dài hạn, góp phần phát triển TTCK. Ngoài các yêu cầu cải tổ về mặt cơ chế, chính sách để tạo điều kiện thông thoáng hơn cho phép NĐT nước ngoài tham gia TTCK, đề án đưa ra hai nội dung khác đáng chú ý. Một là, nghiên cứu điều chỉnh quy định về tỷ lệ tham gia của NĐT nước ngoài tại các DN Việt Nam ; mở cửa thị trường dịch vụ chứng khoán theo các cam kết quốc tế, phù hợp với điều kiện thực tế và lộ trình phát triển TTCK. Hai là, xây dựng cơ chế chuyển đổi từ DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sang công ty cổ phần để niêm yết. Đây là điểm đã được nhắc đến từ lâu, nhưng thực tế triển khai cho các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn nhiều vướng mắc. NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 35 Ngoài hai vấn đề trên, vai trò của NĐT nước ngoài trong việc tham gia tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán cũng được nhắc lại nhiều lần, theo nguyên tắc tạo điều kiện hỗ trợ các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài tham gia mua lại các tổ chức kinh doanh chứng khoán trong nước theo cam kết WTO, cho phép tổ chức nước ngoài mua sở hữu toàn bộ tổ chức kinh doanh chứng khoán. - Hiện Luật doanh nghiệp, Luật Đầu tư không qui định việc khống chế tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp VN trừ những lĩnh vực ngành nghề kinh doanh có điều kiện, tuy nhiên văn bản dưới Luật còn hạn chế tỷ lệ sở hữu NĐTNN tại doanh nghiệp công chúng là không quá 49% ; - Hiện nay các nhà đầu tư FDI ( 100% vốn nước ngoài ) đã được kinh doanh ở tất cả các ngành nghề không điều kiện, ngay cả lĩnh vực kinh doanh có điều kiện như tài chính, bảo hiểm , ngân hàng, tư vấn luật ….đã có nhiều nhà đầu tư FDI ; - Trong khối các doanh nghiệp tư nhân chưa niêm yết, cũng đã được phép bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài ở tỷ lệ không hạn chế. Trong mấy năm qua, nhiều chủ doanh nghiệp tư nhân đã chủ động bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài ở mức không hạn chế hoặc ở mức đa số ( nhiều hơn số thương vụ bán tại khối công ty niêm yết ) và trong tình hình hiện nay việc bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tại khối doanh nghiệp chưa niêm yết dễ dàng hơn nhiều , được giá hơn nhiều so với công ty niêm yết ; - Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hầu như tất cả TTCK phát triển và đang phát triển đều không hạn chế tỷ lệ sở hữu của NĐTNN, trừ 1 vài lĩnh vực nhạy cảm nhằm tạo điều kiện cho cộng đồng doanh nghiệp dễ dàng trong huy động vốn và trong việc thu hút nhà đầu tư chiến lược nước ngoài ; - Nếu chúng ta mở rộng cho NĐTNN ở mức không hạn chế sẽ tạo nhiều điều kiện cho các doanh nghiệp niêm yết dễ dàng hơn trong huy động vốn và công nghệ., tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp gia nhập các tập đoàn quốc tế nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, gia tăng sức cạnh tranh … NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 36 - Vấn đề mở rộng cho nhà ĐTNN có vẻ nhạy cảm nếu như không hiểu sâu về bản chất vấn đề, nhưng nếu tìm hiểu kỹ về kinh nghiệm thế giới thì vấn đề trở nên đơn giản và không có gì là nhạy cảm cả ; Tuy nhiên, ngoài cơ chế khuyến khích tham gia, Đề án cũng một lần nữa nhắc lại yêu cầu tăng cường áp dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm thu hút vốn nước ngoài trung và dài hạn, kiểm soát dòng vốn ngắn hạn; giám sát và chủ động có giải pháp xử lý tình huống đối với dòng lưu chuyển vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài theo Đề án quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. 2.2.8. Phân định rõ hoạt động đầu tư và áp dụng các giải pháp kỹ thuật thu hút dòng vốn đầu tư Theo nghiên cứu của VAFI: Nếu xét về “độ mở" của thị trường chứng khoán Việt Nam so với các nước trên thế giới thì nước ta rất hẹp. Do đó, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu mở rộng cho nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp niêm yết và trong ngành ngân hàng; Cho phép các công ty quản lý quỹ nước ngoài thành lập các quỹ đầu tư theo pháp luật trong nước nhưng huy động vốn trên thị trường quốc tế và coi các quỹ này là nhà đầu tư trong nước. Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng cần nghiên cứu một công cụ huy động vốn mà nhiều nước áp dụng rất hiệu quả để tăng cường thu hút dòng vốn FII, ví dụ như cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phiếu phổ thông không có quyền biểu quyết. Thông lệ thế giới đã chỉ ra rằng, có nhiều loại hình quỹ đầu tư nước ngoài hay nhà đầu tư nước ngoài không cần sở hữu cổ phiếu phổ thông có quyền biểu quyết, họ cũng không có nhu cầu đi dự đại hội cổ đông. NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 37 III. Lộ trình thực hiện tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư trong đề án 1826 và thực trạng 3.1. Lộ trình thực hiện 3.1.1. Tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư a) Năm 2012 - 2014: - Ban hành quy định, hướng dẫn triển khai các loại hình quỹ đầu tư mới; xây dựng cơ chế thuế hợp lý khuyến khích các sản phẩm quỹ mới; nghiên cứu triển khai thí điểm quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ hưu trí bổ sung; - Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nhằm thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài; mở cửa thị trường dịch vụ chứng khoán theo cam kết WTO; rà soát các quy định pháp luật về đầu tư, từng bước nâng tỷ lệ sở hữu, tiến tới dỡ bỏ hạn chế sở hữu đối với nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp nhà nước không cần chi phối; - Tăng cường công tác thanh tra, giám sát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định của pháp luật trên thị trường chứng khoán. b) Năm 2015: Hiện đại hóa hạ tầng công nghệ thông tin thị trường, bao gồm hệ thống giao dịch; hệ thống giám sát; hệ thống đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ; hệ thống công bố thông tin. 3.2. Thực trạng Từ đầu năm 2012 trong bối cảnh thị trường đã có dấu hiệu suy giảm mang tính hệ thống: giá chứng khoán liên tục sụt giảm, đa phần các công ty chứng khoán (CTCK), công ty niêm yết (công ty NY) bị thua lỗ, không ít nhà đầu tư mất niềm tin và dần rút khỏi thị trường... Đứng trước những khó khăn, thách thức đó, một loạt chính sách nhằm sắp xếp, đổi mới và từng bước tái cấu trúc TTCK đã được triển khai thực hiện trong thời gian qua. Sau nhiều tháng chờ đợi, TTCK Việt Nam đã đón nhận một sự kiện rất quan trọng, đánh dấu một cột mốc cho sự cải tổ toàn diện TTCK Việt Nam, đó là việc Thủ tướng NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 38 Chính phủ đã phê duyệt “Đề án tái cấu trúc TTCK và doanh nghiệp bảo hiểm” ban hành kèm theo Quyết định số 1826/2012/QĐ-TTg ngày 06/12/2012. Tháng 7/2013, sau nửa năm từ khi Đề án chính thức được phê duyệt, thực trạng triển khai các giải pháp này đã và đang đạt được những kết quả nhất định. Thuận lợi có, khó khăn cũng có. Nhưng trên hết là ngành Quỹ ở Việt Nam đã và đang có những chuyển biến rất tích cực trong thời gian qua, tạo niềm tin cho nhà đầu tư và động lực cho TTCK phát triển. Có thể nói, lộ trình tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư xét trên khía cạnh các QĐT đang đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho các QĐT đang hoạt động và triển khai một số loại hình QĐT mới, đạt tới mục tiêu đa dạng hóa các loại hình QĐT trên thị trường, liên tiếp trong thời gian cuối năm 2012, Bộ Tài chính đã ban hành một số Thông tư nhằm hoàn thiện hơn các quy định pháp luật cho hoạt động của QĐT trên TTCK. Cụ thể, ngày 26/7/2012, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 224/2012/TT-BTC hướng dẫn thành lập và quản lý quỹ đóng, quỹ thành viên thay thế Quyết định số 45/2007/QĐ-BTC ngày 05/06/2007 và có hiệu lực kể từ ngày 15/3/2013. Thông tư này ra đời đã góp phần giải đáp, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc về thành lập và quản lý QĐT dạng đóng và Quỹ thành viên, trong đó quy định rõ ràng về danh mục đầu tư của Quỹ đóng và Quỹ thành viên. Ngày 27/12/2012, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 228/2012/TT-BTC hướng dẫn thành lập và quản lý QĐT BĐS và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2013. QĐT BĐS được kỳ vọng sẽ cung cấp một kênh đầu tư mới có sức hấp dẫn vào thị trường BĐS Việt Nam nói riêng, và có thể tạo ra động lực phát triển thêm hàng hóa mới cho TTCK giai đoạn sau. Cũng ngày 27/12/2012, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 229/2012/TT-BTC hướng dẫn thành lập và quản lý Quỹ hoán đổi danh mục - ETF. Thông tư có hiệu lực từ ngày 1/9/2013. Đây được coi là căn cứ pháp lý quan trọng nhất cho phép quỹ ETF ra đời ở Việt Nam. Trong năm 2013, Bộ Tài chính đã đưa ra Dự thảo Thông tư hướng dẫn thiết lập Quỹ hưu trí tự nguyện nhằm xây dựng hành lang pháp lý cho việc hình thành và hoạt NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 39 động của Quỹ hưu trí tự nguyện trong thời gian tới. Các thông tư này góp phần tạo ra một khung pháp lý hoàn chỉnh, chặt chẽ theo thông lệ quốc tế, hình thành những bước đệm vững chắc cho sự hình thành và phát triển của các loại hình QĐT mới. Điểm nổi bật của Đề án là việc tái cấu trúc TTCK được hình thành trên cơ sở xác định phạm vi, hoạch định những mục tiêu và có biện pháp cụ thể. Nếu như trước đây, chúng ta đặt nhiệm vụ tái cấu trúc CTCK lên trên hết thì Đề án này đã xác định cần phải tái cấu trúc toàn diện TTCK, trong đó đưa ra các vấn đề ưu tiên thực hiện trước và đặt trọng tâm đối với từng lĩnh vực. Đối với lĩnh vực tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư: Với một TTCK còn non trẻ, chúng ta rất cần sự tham gia của những nhà đầu tư chuyên nghiệp, những nhà tạo lập thị trường để làm tăng sức cầu cho thị trường. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam hiện nay vẫn thiếu vắng các nhà đầu tư chuyên nghiệp, một phần nguyên nhân là do bị ảnh hưởng bởi những khó khăn chung của nền kinh tế thế giới, một phần vì Việt Nam chưa có cơ chế phát triển các nhà đầu tư tổ chức. Theo đó, quy mô giao dịch trên thị trường của các nhà đầu tư tổ chức chưa cao. Vì thế, tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư sẽ được triển khai theo hướng: đẩy mạnh đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, tập trung phát triển nhà đầu tư tổ chức, chuyên nghiệp, nhằm tạo sức cầu ổn định, giúp thị trường phát triển lành mạnh, bền vững; củng cố lòng tin và khuyến khích nhà đầu tư cá nhân tích cực tham gia thị trường, tăng thanh khoản cho thị trường, đồng thời thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Đề án cũng đề ra các biện pháp để đối phó với sự biến động của dòng vốn ngoại, bài học mà chúng ta có được từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Về số lượng nhà đầu tư, hiện có khoảng gần 1 triệu tài khoản của nhà đầu tư trên thị trường. Trong 9 tháng qua, có 551 nhà đầu tư nước ngoài được cấp mã giao dịch (208 cá nhân, 344 tổ chức), tăng 65,5% so với cùng kỳ năm trước (cá nhân tăng 10,1%, tổ chức tăng 138,9%). Ở đây có vấn đề cần chú ý là số lượng nhà đầu tư không những thấp so với dân số, lao động, mà còn chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân và cũng có không ít tài khoản đã lâu không giao dịch; số nhà đầu tư là tổ chức còn chiếm tỷ trọng nhỏ (dưới 10%), ngược với các nước phát triển. Tính đầu cơ, phong trào, đám đông còn khá nặng. NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 40 Hiện còn khá nhiều DN lớn, DN hoạt động có hiệu quả, có sức hấp dẫn vẫn chưa lên sàn; trong khi không ít DN đã lên sàn từ khá sớm hoặc trước đây có sức hấp dẫn lớn nhưng nay lại gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Phần nhiều DN niêm yết có quy mô nhỏ, quan trọng hơn là chất lượng của không ít DN trên sàn còn yếu kém kể cả về hiệu quả hoạt động, cả về công tác hạch toán, cung cấp công khai, minh bạch thông tin...Theo đó, trong thời gian tới, cần phải đưa thêm nhiều DN lớn hấp dẫn lên sàn, trên cơ sở đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước ở một số DN thuộc các ngành lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm giữ hoặc phải có cổ phần chi phối, đồng thời, cần phải củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng hạch toán và cung cấp thông tin của các DN đã niêm yết. Trong 6 tháng đầu năm 2013, dòng vốn ngoại chảy vào TTCK có diễn biến tích cực. Tổng lượng vốn đầu tư gián tiếp ước đạt 160 triệu USD, tăng 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhiều NĐT tổ chức lớn đang xúc tiến các hoạt động để giải ngân vào TTCK Việt Nam. Bởi vậy, triển vọng thu hút thêm dòng vốn ngoại của thị trường còn lớn. Đặc biệt TTCK Việt Nam đã thu hút được sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Đầu tháng 6/2013, hãng tin Reuters đã công bố dữ liệu về diễn biến của các TTCK châu Á kể từ đầu năm 2013 đến nay. Theo đó, nếu tính theo USD, mức tăng trưởng của TTCK Việt Nam ước đạt 23%, đứng đầu khu vực châu Á. Còn tính theo nội tệ, mức tăng của TTCK Việt Nam đứng thứ 2 chỉ sau Nhật Bản với tỷ lệ ước đạt khoảng 24%. Kết quả triển khai đề án tái cấu trúc các CTCK trong năm 2012 đạt được nhiều kết quả. Các CTCK đã có sự phân loại, xử lý và giám sát chặt chẽ theo nhóm và kịp thời trình ban hành các văn bản pháp lý sửa đổ, bổ sung nhằm thúc đẩy việc tái cấu trúc các tổ chức kinh danh chứng khoán, đặc biệt là các CTCK. Hoạt động tái cấu trúc về vốn, cổ đông chiến lược, nghiệp vụ kinh doanh, công nghệ, nhân sự, tổ chức của CTCK tiếp tục đang được triển khai. Bên cạnh đó, một số tổ chức kinh doanh chứng khoán cũng cần có thời gian để có thể xây dựng được phương án tái cấu trúc tối ưu. Việc thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của CTCK không đáp ứng được theo quy định cũng cần có thời gian để công ty xử lý các nghĩa vụ có liên quan, đặc biệt là đối với nhà đầu tư. Một NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 41 mặt tiêu chuẩn niêm yết cần nâng cao nhưng cũng cần có giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong vấn đề huy động vốn cũng như tránh những xáo trộn lớn trong điều kiện kinh tế còn có nhiều khó khăn... Với bối cảnh kinh tế còn tiềm ẩn nhiều khó khăn, năm 2013 có thể sẽ là năm quyết định để tháo gỡ những nút thắt cản trở sự phát triển của kinh tế cũng như thị trường chứng khoán. Tuy nhiên để thực hiện tốt các công việc trên thì cần phải có quyết tâm mặc dù đã có tiền đề được tạo ra từ trước đó. NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO nam-va-mot-so-giai-phap-phat-trien/28602.tctc chung-khoan-9-thang Quyết định 1826/QD-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ngày 06.12.2013

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_5_thi_truong_tai_chinh_nhdem1_k22_6584.pdf
Luận văn liên quan