PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế. Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu. Việc phát triển thị trường chứng khoán còn liên quan đến tiến trình cổ phần hóa đang diễn ra sôi động hiện nay. Tuy nhiên từ sau khi ra đời, kết quả hoạt động của thị trường chứng khoán không như mong đợi, một phần là do sự tham gia hỗ trợ rất hạn chế của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa hoạt động huy động vốn và cho vay truyền thống của các ngân hàng thương mại đã không còn đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai chủ thể trên đồng thời tìm ra giải pháp để thúc đẩy sự tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán, hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng khoán là cần thiết.
Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu “Tăng cường hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán”, một mặt tìm ra giải pháp đổi mới củng cố hoạt động của ngân hàng công thương Việt Nam, thành ngân hàng đa năng hiện đại với những hoạt động đa dạng, đồng thời giúp cho thị trường chứng khoán trở nên sôi động hơn, thực sự phát huy vai trò kênh dẫn vốn mới cho nền kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán , vai trò của ngân hàng thương mại đối với hoạt động của thị trường chứng khoán , từ đó chỉ ra lợi ích của ngân hàng thương mại cũng như của thị trường chứng khoán khi có sự tham gia của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
- Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán , phân tích đánh giá sự tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán , những hỗ trợ và hạn chế, phân tích nguyên nhân
- Thực trạng hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương và sự tham gia của ngân hàng công thương trên thị trường chứng khoán , đánh giá kết quả, phân tích hạn chế và nguyên nhân
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Về lý thuyết: Hoạt động của ngân hàng thương mại, cụ thể là hoạt động đầu tư chứng khoán và vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán.
- Về thực tế: Một số kết quả hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán giai đoạn 2004-2007 của Ngân hàng công thương Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp-phân tích
- Phương pháp quy nạp
- Phương pháp logic biện chứng
- Phương pháp thống kê mô tả
5. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, phụ lục, luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Hoạt động ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư của NHCTVN trên thị trường chứng khoán
Chương 3: Giải pháp tăng cường hoạt động đầu tư của NHCTVN trên thị trường chứng khoán
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 3
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 3
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại 3
1.1.1. Sự ra đời và quan niệm về NHTM 3
1.1.2. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại 4
1.1.3. Hoạt động của NHTM trên TTCK 8
1.1.4. Vai trò của Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán 12
1.2. Hoạt động đầu tư của NHTM trên TTCK 14
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM 14
1.2.2. Quy trình đầu tư chứng khoán của Ngân hàng thương mại 17
1.2.3. Danh mục đầu tư và quản lý danh mục đầu tư 18
1.3. Điều kiện để NHTM đầu tư trên TTCK 20
1.3.1. Cơ sở pháp lý: 20
1.3.2. Uy tín của ngân hàng 22
1.3.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật Ngân hàng 23
1.3.4. Năng lực đội ngũ cán bộ 24
1.3.5. Sự phát triển các hoạt động khác của Ngân hàng 24
1.3.6. Mô hình tổ chức của Ngân hàng 25
1.3.7. Sự phát triển của thị trường chứng khoán 25
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 27
2.1. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT VN 27
2.2. Thực trạng hoạt động đầu tư chứng khoán của NHCT VN 28
2.2.1 Cơ sở pháp lý về hoạt động đầu tư của NHTM trên TTCK tại Việt Nam 28
2.2.2. Tổ chức hoạt động đầu tư chứng khoán của Ngân hàng Công thương Việt Nam. 30
2.2.3. Quy mô hoạt động đầu tư chứng khoán 31
2.2.3.1. Chứng khoán nợ. 33
2.2.3.2. Chứng khoán vốn 39
2.2.4. Phương thức đầu tư, loại chứng khoán đầu tư 42
2.2.4. Thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán. 44
2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư của NHCT VN trên TTCK. 45
2.3.1. Những kết quả đạt được 45
2.3.1.2. Danh mục chứng khoán đầu tư 46
2.3.1.3. Phương thức đầu tư 46
2.3.1.5. Chất lượng hoạt động đầu tư 48
2.3.2. Hạn chế 48
2.3.2.1. Quy mô đầu tư nhỏ, phạm vi hẹp. 48
2.3.2.2. Phương thức đầu tư đơn điệu, danh mục đầu tư chưa hợp lý 49
2.3.2.3. Tổ chức hoạt động đầu tư chưa khoa học 51
2.3.2.4. Tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá hoạt động thấp 52
2.3.2.5. Chất lượng và hiệu quả đầu tư chưa cao 53
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế 53
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 60
3.1. Định hướng phát triển của Ngân hàng Công thương Việt nam 60
3.1.1. Mục tiêu, chiến lược trong thời gian tới. 60
3.1.2. Cơ hội thách thức đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam 60
3.1.3. Định hướng cho hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán 61
3.2. Giải pháp tăng cường hoạt động đầu tư của Ngân hàng Công thương Việt Nam trên Thị trường chứng khoán. 62
3.2.1. Nhóm giải phát để phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán tại ngân hàng 62
3.2.1.1. Hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động đầu tư theo hướng chuyên nghiệp, có tính chuyên môn hoá cao: 62
3.2.1.2. Đa dạng hoá và hoàn thiện các phương thức đầu tư. 65
3.2.1.3. Phát triển hoạt động đầu tư: trực tiếp và gián tiếp. 67
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực của NHCT VN nhằm tăng cường khả năng tham gia và đầu tư trên TTCK 68
3.2.2.1. Giải pháp về vốn, quy mô vốn đầu tư: 68
3.2.2.2. Đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. 76
3.2.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 78
3.3. Kiến nghị 83
3.3.1. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô. 84
3.3.2. Hoàn thiện môi trường pháp lý. 84
3.3.3. Đổi mới hoạt động phát hành chứng khoán Chính Phủ. 86
3.3.4.Kiểm soát và phát triển thị trường OTC 87
3.3.5. Thúc đẩy sự phát triển ổn định của thị trường chứng khoán 87
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
93 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2214 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớng doanh nghiệp hoạt động theo chủ đích của mình, phục vụ cho mục tiêu trở thành tập đoàn tài chính...
Với mục tiêu trở thành tập đoàn tài chính lớn, NHCT VN phải mở rộng hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát, có làm được điều đó NHCT VN mới có thể mở rộng và phát triển phạm vi hoạt động của mình sang nhiều lĩnh vực. Hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát giúp NHCT VN thực hiện được mục tiêu nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp trong khi đó vẫn huy động và sử dụng được nguồn vốn của các đối tượng khác tham gia trong doanh nghiệp cổ phần. Bên cạnh việc tìm kiếm các cơ hội đầu tư mới nhằm thực hiện hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát, NHCT VN thực hiện và thúc đẩy nhanh việc cổ phần hoá các Công ty con, các liên doanh như Công ty chứng khoán, Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản, Công ty cho thuê tài chính, Ngân hàng liên doanh Indovina, Công ty liên doanh Bảo hiểm, Công ty Cho thuê tài chính quốc tế... trong đó tỷ lệ sở hữu của NHCT VN trong các đơn vị này đảm bảo việc nắm quyền kiểm soát của NHCT VN. Trước mắt thực hiện cổ phần hoá các Công ty con, bởi lẽ đối với các Công ty con thì NHCT VN có thể chủ động trong việc quyết định mô hình tổ chức hoạt động. Tiếp theo đàm phán với các đối tác trong liên doanh để thực hiện cổ phần hoá các liên doanh, huy động vốn từ các đối tác, nhà đầu tư trong và ngoài nước để nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực tài chính cho các đơn vị này...
Để hoàn thiện và thực hiện được hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu đòi hỏi bản thân lãnh đạo Ngân hàng có sự quan tâm đúng mức và đánh giá được vai trò tích cực của hoạt động này trong hoạt động đầu tư chứng khoán nói riêng và hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung, từ đó có những đầu tư thích đáng về mặt cơ sở vật chất, con người, nguồn vốn cho hoạt động này. Hiện nay hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu đã được một số ngân hàng triển khai, song mới ở mức độ sơ khai. Bên cạnh những nỗ lực của chính bản thân ngân hàng nhằm thực hiện hoạt động này đòi hỏi sự hợp tác, hỗ trợ tham gia của các ngân hàng, doanh nghiệp khác với tư cách các nhà đầu tư có tổ chức, sự hỗ trợ tạo điều kiện của các cơ quan quản lý nhà nước với nhằm tạo hành lang pháp lý, điều kiện thuận lợi cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu được thực hiện trôi chảy...
3.2.1.3. Phát triển hoạt động đầu tư: trực tiếp và gián tiếp.
Đến nay, NHCT VN chưa thành lập được công ty quản lý quỹ đầu tư, do vậy hoạt động đầu tư chứng khoán được thực hiện trực tiếp bởi Phòng Đầu tư hoặc gián tiếp qua Công ty chứng khoán NHCT VN. Nhưng thực tế cho thấy mặc dù Công ty chứng khoán NHCT là Công ty con, 100% vốn của NHCT VN nhưng hoạt động đầu tư chứng khoán của Công ty và hoạt động đầu tư chứng khoán của NHCT VN chưa có được sự phối kết hợp, trợ giúp, chia sẻ, thông tin, kinh nghiệm. Ở một góc độ nào đấy có thể nhìn nhận hoạt động của Công ty chứng khoán NHCT VN là độc lập với hoạt động đầu tư chứng khoán của NHCT, NHCT VN chưa tận dụng được lợi thế từ phía Công ty chứng khoán để thực hiện hoạt động đầu tư chứng khoán và ngược lại Công ty chứng khoán NHCT cũng chưa sử dụng được lợi thế là Công ty con của một NHTM lớn trong việc phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán của bản thân công ty mặc dù NHCT VN cấp 100% vốn điều lệ cho Công ty chứng khoán và Uỷ viên Hội đồng quản trị NHCT VN là Chủ tịch Công ty chứng khoán NHCT.
Như vậy, ngoài việc chủ động trực tiếp phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua Phòng Đầu tư như hiện tại, NHCT VN cần phát triển hoạt động đầu tư gián tiếp thông qua Công ty chứng khoán NHCT và Công ty Quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán khi Công ty này được thành lập và đi vào hoạt động. Để làm được điều đó trước mắt NHCT VN cần xây dựng và ban hành quy chế, cơ chế làm việc giữa Phòng đầu tư NHCT VN và Công ty chứng khoán NHCT VN, Công ty Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán trong việc phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán, trong đó quy định rõ quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong việc giới thiệu chia sẻ thông tin, cơ hội đầu tư nhằm tận dụng được các cơ hội đầu tư tốt trong trường hợp Phòng Đầu tư hoặc Công ty có những cơ hội đầu tư tốt nhưng không có hoặc không đủ các điều kiện cần thiết để tham gia do nguồn vốn đầu tư không đủ mạnh hoặc các ràng buộc khác bị vi phạm....
Trong khả năng nguồn vốn của mình, NHCT VN chủ động uỷ thác đầu tư cho các Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện đầu tư cho mình thông qua hợp đồng ủy thác đầu tư hoặc hợp đồng quản lý danh mục đầu tư.
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực của NHCT VN nhằm tăng cường khả năng tham gia và đầu tư trên TTCK
3.2.2.1. Giải pháp về vốn, quy mô vốn đầu tư:
Trước hết, khai thác nguồn hiện có và phát triển các nguồn mới cho hoạt động đầu tư, thông qua các giải pháp đối với nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động.
a. Vốn tự có:
Tăng vốn tự có đạt tỷ lệ an toàn vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước là điều kiện bắt buộc để đảm bảo mức an toàn tối thiểu trong hoạt động ngân hàng; là điều kiện tăng cường đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, hiện đại hoá NHCT; là nhân tố quyết định để NHCT VN có thể tăng quy mô tài sản nợ, tài sản có, nâng cao năng lực thu hút và phân bổ nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, do đó là điều kiện quan trọng để phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán.
Thực hiện cổ phần hoá là biện pháp tăng vốn chủ yếu, có ý nghĩa bao trùm, tạo sự đổi mới căn bản về phương thức tăng vốn tự có trong những năm tới. Thuê tư vấn xây dựng đề án cổ phần, xác định và đánh giá giá trị thực của NHCT VN, hoàn thành việc cổ phần hoá NHCT VN chậm nhất trong năm 2008. Mục tiêu đến hết năm 2010, NHCT VN đạt vốn điều lệ 13.300 tỷ đồng, trong đó Nhà nước chiếm 51%, còn lại cán bộ công nhân viên và các cổ động khác chiếm 49%.
Bên cạnh đó, thực hiện việc đánh giá lại tài sản bao gồm tài sản cố định và chứng khoán đầu tư, chênh lệch đánh giá lại tài sản cũng là một bộ phận được tính vào vốn tự có của Ngân hàng. Thực tế hiện nay chênh lệch này của NHCT VN cũng ước tính khoảng 1.000 tỷ đồng.
Tạo quỹ dự phòng chung để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại tài sản có và trích dự phòng rủi ro cụ thể, hoặc để dự phòng cho những khó khăn về tài chính của Ngân hàng phát sinh khi chất lượng tài sản bị suy giảm, quỹ này có tác dụng tăng cường năng lực dự phòng rủi ro và bổ sung vốn tự có.
Việc phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu dài hạn đủ điều kiện được tính vào vốn tự có cũng là một giải pháp cần thiết nhằm tăng vốn tự có trong điều kiện hiện nay.
Thực hiện các thủ tục cần thiết đưa cổ phiếu, trái phiếu do NHCT VN phát hành niêm yết tại sàn giao dịch chứng khoán trong nước cũng như nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành thêm cổ phần huy động vốn, tăng tính thanh khoản của các chứng khoán.
b. Vốn huy động
Nguồn vốn huy động là nhân tố quyết định mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng và cơ cấu nguồn vốn phải được xác định trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn, nhằm đảm bảo tính chủ động về nguồn vốn, tránh tình trạng thiếu vốn hoặc mất khả năng thanh toán. Với vị thế sẵn có là ngân hàng có chi phí đầu vào của nguồn vốn huy động VND thấp nhất Việt nam, NHCT VN có lợi thế cạnh tranh quan trọng cho lãi suất đầu ra trên thị trường. NHCT VN cần tiếp tục tập trung tăng trưởng các nguồn vốn giá rẻ, có mức độ ổn định cao trên cơ sở nền tảng hoàn thiện và phát triển các sản phẩm dịch vụ có liên quan mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng. Cơ cấu nguồn vốn huy động cần được điều chỉnh hợp lý, tạo sự cân đối giữa các loại cơ cấu: nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn không kỳ hạn với nguồn vốn có kỳ hạn, nguồn vốn ngắn hạn với nguồn vốn dài hạn, nguồn vốn nội tệ với nguồn vốn ngoại tệ nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn là cao nhất, hạn chế thấp nhất rủi ro về thanh khoản và rủi ro thị trường.
Nguồn vốn huy động trong nước được xác định là nguồn vốn chủ lực và có vai trò quyết định, nguồn vốn huy động từ nước ngoài được xác định là nguồn vốn bổ sung quan trọng. Đối với nguồn vốn nước ngoài cần khai thác nguồn vốn dài hạn, có giá đầu vào rẻ như nguồn vốn tài trợ uỷ thác hoặc thiết lập các hạn mức tín dụng dự phòng.
Lãi suất huy động được điều hành linh hoạt để thực hiện mục tiêu huy động vốn của Ngân hàng trong từng thời kỳ theo nguyên tắc kinh doanh thương mại và thị trường. Bảo đảm tính hợp lý và hiệu quả cao trong điều hành lãi suất huy động giữa các khu vực, địa bàn và các thời kỳ khác nhau. Giải pháp cụ thể:
Để huy động vốn có hiệu quả, NHCT cần xây dựng hệ thống sản phẩm dịch vụ huy động vốn đa dạng, tiên tiến trên cơ sở phát triển các sản phẩm dịch vụ truyền thống, đồng thời triển khai các sản phẩm huy động vốn mới phù hợp với đặc điểm nhóm khách hàng và thị trường mục tiêu, dựa trên nền tảng hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại.
Tập trung huy động nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp. Mục tiêu chiến lược của NHCT là phải huy động được nguồn tiền gửi doanh nghiệp chiếm tỷ trọng 30-35% tổng nguồn vốn huy động.
Tiền gửi của doanh nghiệp là nguồn vốn có lãi suất đầu vào thấp và có tiềm năng rất lớn. Theo số liệu thống kê, đến cuối năm 2006 Việt Nam có khoảng 100 nghìn doanh nghiệp các loại, mỗi năm có khoảng 10-15 nghìn doanh nghiệp mới ra đời và hầu hết là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Trong những năm tới số lượng doanh nghiệp còn có thể gia tăng nhanh hơn, điều này tạo ra một khu vực thị trường hấp dẫn đối với các ngân hàng cả trong thu hút nguồn vốn, cấp tín dụng và sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Phần lớn nguồn vốn của các doanh nghiệp có thời hạn ngắn và thường xuyên biến động, vì vậy nếu càng thu hút được tiền gửi của nhiều doanh nghiệp thì sẽ tạo ra độ ngưng đọng vốn lớn và hạn chế được sự bất ổn định. Chiến lược của NHCT là cần mở rộng đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp và tập trung khai thác tối đa nguồn vốn của các đối tượng này.
Sản phẩm huy động vốn là tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản tiền gửi ngắn hạn với các loại kỳ hạn và phương thức trả lãi linh hoạt, phát hành chứng chỉ tiền gửi hoặc công cụ nợ ngắn hạn có khả năng chuyển nhượng.
Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán, tăng cường các hoạt động marketing và mở rộng khả năng ứng dụng các dịch vụ ngân hàng khác liên kết với dịch vụ huy động vốn.
Mở rộng huy động vốn từ các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức đoàn thể, đơn vị sự nghiệp có thu…v.v. Mục tiêu chiến lược của NHCT là huy động nguồn vốn này chiếm 10-15% tổng nguồn vốn huy động. Các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức đoàn thể, đơn vị sự nghiệp có thu,... cũng là những tổ chức có tiềm năng nguồn vốn, lãi suất đầu vào thấp, có khả năng thu hút được nhiều. Để thu hút được nhiều nguồn vốn này, NHCT phải có chính sách marketing, chính sách chăm sóc khách hàng thật sự chuyên nghiệp để huy động vốn qua các loại tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi không kỳ hạn, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn với lãi suất linh hoạt.
Các tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng là nguồn cung ứng vốn quan trọng. Mục tiêu chiến lược của NHCT là thu hút nguồn vốn này chiếm tỷ trọng 15-20% tổng nguồn vốn huy động.
Đối với KBNN: Khai thác vốn thông qua các tài khoản tiền gửi thanh toán (thông qua dịch vụ đại lý thanh toán) và tài khoản tiền gửi kỳ hạn ngắn có lãi suất linh hoạt. Đặc biệt coi trọng chính sách marketing và bảo đảm dịch vụ thanh toán thuận tiện.
Đối với các tổ chức tài chính gồm Quỹ Bảo hiểm xã hội, các công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư, Quỹ hỗ trợ phát triển quốc gia,...: Tập trung huy động vốn thông qua các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, phát hành các công cụ nợ như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu với nhiều loại kỳ hạn (cả ngắn hạn và trung dài hạn). Thông thường nguồn vốn của nhóm khách hàng này có tính chất như những khoản đầu tư, do đó khách hàng rất quan tâm đến lãi suất và tính thanh khoản của các sản phẩm huy động. Đối với các TCTD gồm NHTM nhà nước, NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, Ngân hàng chính sách xã hội: Đây là những đối tác quan trọng của NHCT trên thị trường liên ngân hàng. Với mục đích tạo vốn và tăng cường thanh khoản, NHCT có thể khai thác nguồn vốn của các tổ chức này (cả VND và ngoại tệ) vào những thời điểm cần thiết thông qua các sản phẩm truyền thống là tài khoản tiền gửi và tài khoản tiền vay ngắn hạn; ngoài ra, cũng có thể thu hút vốn bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn và có khả năng chuyển nhượng. Thông thường nguồn vốn này có chi phí đầu vào tương đối cao và rất nhạy cảm với lãi suất thị trường nên việc khai thác nó cần được tính toán một cách kỹ lưỡng để bảo đảm hiệu quả kinh doanh tối ưu.
Mở rộng khai thác nguồn vốn từ các tổ chức phi chính phủ trong nước và ngoài nước, trong đó cần chú ý tới các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam vì đây là nhóm khách hàng có tiềm năng nguồn vốn không nhỏ. Hiện nay các tổ chức này thường mở tài khoản ở các ngân hàng nước ngoài, trong khi các ngân hàng Việt Nam gần như chưa tiếp cận được.
Khai thác hiệu quả nguồn vốn trong các tầng lớp dân cư. Mục tiêu chiến lược của NHCT là huy động nguồn vốn này chiếm tỷ trọng 35-40% tổng nguồn vốn huy động.
Đây là nhóm khách hàng mục tiêu quan trọng của NHCT. Nguồn tiền tiết kiệm ở khu vực dân cư có tiềm năng rất lớn, mức độ ổn định cao. Cũng giống như khu vực doanh nghiệp, sự cạnh tranh thu hút vốn ở khu vực thị trường này ngày càng trở nên rất quyết liệt. Đặc điểm của nguồn vốn này là tổng khối lượng vốn trong xã hội rất lớn nhưng không tập trung mà có ở rất nhiều cá thể thuộc các tầng lớp dân cư, tiềm lực nguồn vốn rất khác nhau và nhu cầu đầu tư cũng rất đa dạng, tuy nhiên giá huy động nguồn vốn này rất cao. Yêu cầu về giải pháp là ngân hàng phải có lãi suất huy động phù hợp với thị trường, sản phẩm huy động đa dạng, chất lượng dịch vụ cao, kênh phân phối thuận tiện.
Để khai thác nguồn vốn trong thanh toán, NHCT cần mở rộng dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, tăng cường số lượng tài khoản tiền gửi cá nhân và thực hiện các dịch vụ thanh toán cá nhân thông qua tài khoản hoặc hệ thống thanh toán thẻ, kết hợp bán chéo sản phẩm.
Tiếp tục đa dạng hoá các sản phẩm huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư trên cơ sở kỳ hạn và lãi suất linh hoạt. NHCT sẽ cung cấp danh mục sản phẩm huy động tiết kiệm có tính tiện ích cao, có khả năng đáp ứng các nhu cầu đa dạng của người gửi tiền bao gồm: Các sản phẩm tiết kiệm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, trong đó kỳ hạn huy động linh hoạt (theo tuần, tháng hoặc năm), trong mỗi loại kỳ hạn khách hàng có thể lựa chọn bất kỳ hình thức trả lãi nào (trả trước, trả sau hoặc trả định kỳ). Ngân hàng cũng sẽ phát triển và ứng dụng hiệu quả một số sản phẩm tiết kiệm đặc thù như: Tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm lãi suất bậc thang, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm có thể rút gốc và lãi nhiều lần, kết hợp sản phẩm tiết kiệm với bảo hiểm hay một số sản phẩm tiết kiệm gắn liền với những dịch vụ gia tăng khác. Các sản phẩm tiết kiệm cần phải được tiêu chuẩn hoá, tăng thêm tính tiện ích bằng việc cho phép một khách hàng có thể thực hiện giao dịch tiền gửi tiết kiệm ở nhiều điểm giao dịch của NHCT.
Ứng dụng phổ biến hình thức chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng đối với những khoản tiền gửi lớn nhằm tăng thêm sức hấp dẫn doanh nghiệp và công chúng.
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu hoặc các công cụ nợ khác để huy động vốn vào những thời điểm thích hợp. Các công cụ nợ do ngân hàng phát hành được phép chuyển nhượng, trái phiếu dài hạn được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
Phát triển mạng lưới huy động trên cơ sở thị trường
Tiến hành nghiên cứu, đánh giá thị trường huy động vốn trong nước theo từng khu vực, địa bàn để có căn cứ bố trí mạng lưới huy động, tiến tới lập bản đồ phân bố mạng lưới chi nhánh và điểm giao dịch cho toàn hệ thống. Mục đích của tổ chức lại mạng lưới huy động là để có thể phục vụ được nhiều khách hàng hơn, thu hút được nhiều vốn hơn nhưng với chi phí hoạt động thấp hơn.
Mở rộng mạng lưới huy động ở những khu vực thị trường mục tiêu của NHCT, trong đó cần đặc biệt lưu ý thành lập mới các điểm huy động vốn và tập trung khai thác vốn ở những đô thị lớn, các trung tâm kinh tế, thương mại; khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở; khu đô thị mới, khu dân cư tập trung. Những địa bàn huy động vốn không có hiệu quả sẽ không mở rộng mạng lưới, thậm chí có thể đóng cửa một số điểm huy động, thu hẹp mạng lưới huy động.
Trên mỗi địa bàn hoặc khu vực thị trường, ngân hàng sẽ tiến hành phân loại đối tượng khách hàng theo tiềm năng về nguồn vốn có thể cung ứng. Khách hàng được phân loại thành các nhóm: Tốt, khá, trung bình và ít tiềm năng; trên cơ sở đó sẽ xây dựng chiến lược tiếp thị riêng cho từng nhóm khách hàng và tổ chức mạng lưới huy động phù hợp. Mục tiêu của NHCT là phát triển và mở rộng đối tượng khách hàng được xếp vào loại có tiềm năng nguồn vốn từ khá trở lên.
Đổi mới thiết kế và xây dựng các điểm huy động vốn, hình thành phong cách giao dịch mang đậm thương hiệu NHCT, tạo sự khác biệt và thể hiện những đặc tính riêng có trong dịch vụ huy động vốn của NHCT trên thị trường.
Tận dụng tối đa lợi thế về mạng lưới và cơ sở khách hàng để tăng cường bán chéo sản phẩm, kết hợp huy động vốn và thu phí dịch vụ. Trước hết cần phối hợp với các công ty bảo hiểm để thực hiện bán chéo sản phẩm bảo hiểm, làm dịch vụ đại lý thu phí bảo hiểm và chi trả tiền bảo hiểm; ngoài ra, ngân hàng cũng sẽ đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức cung cấp dịch vụ công cộng như điện, nước, điện thoại và một số hàng hoá khác để làm dịch vụ thanh toán và thu hút các khoản tiền thu phí dịch vụ từ các tổ chức này.
Đổi mới cơ chế quản lý vốn
Tăng cường quản lý giá huy động vốn
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế điều hành lãi suất linh hoạt, phù hợp với quan hệ cung cầu vốn trong từng thời kỳ và mặt bằng lãi suất ở từng địa bàn.
Xây dựng và áp dụng cơ chế tính giá thành huy động vốn theo từng sản phẩm, coi đây là căn cứ quyết định danh mục sản phẩm huy động theo hướng có hiệu quả nhất.
Tăng cường quản lý, định hướng và điều tiết lãi suất huy động trong hệ thống để tránh cạnh tranh không lành mạnh. Việc điều hành lãi suất cần thông qua các công cụ gián tiếp là chủ yếu, các công cụ trực tiếp chỉ sử dụng trong những trường hợp cần thiết.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý vốn tập trung
Tăng cường quản lý vốn tập trung nhằm tối ưu hoá quá trình huy động và sử dụng vốn, tạo điều kiện giảm chi phí đầu vào, giảm chi phí thanh khoản và nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn.
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống định giá vốn điều chuyển nội bộ theo nguyên tắc mua – bán vốn. Hệ thống này sẽ được xây dựng theo hướng giá hạch toán nội bộ gắn với từng sản phẩm huy động. Mỗi sản phẩm huy động sẽ có một mức giá nội bộ riêng, căn cứ vào đó chi nhánh lựa chọn sản phẩm huy động phù hợp với đặc điểm địa bàn và điều kiện kinh doanh cụ thể của chi nhánh.
Hệ thống giá hạch toán nội bộ sẽ được điều chỉnh linh hoạt theo lãi suất thị trường. Sử dụng hệ thống này như là một công cụ hiệu quả để điều tiết và định hướng huy động vốn, trực tiếp là điều chỉnh tốc độ tăng trưởng và cơ cấu nguồn vốn. Mặt khác, bằng cơ chế này NHCT cũng sẽ dễ dàng điều chỉnh thị trường huy động theo hướng có hiệu quả nhất.
Một số giải pháp khác
Mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý huy động vốn.
Tăng tính thanh khoản cho các sản phẩm huy động vốn, bảo đảm khả năng chuyển nhượng của các công cụ nợ và chứng chỉ tiền gửi, niêm yết một số sản phẩm huy động trên thị trường chứng khoán.
Củng cố hình ảnh của ngân hàng trên thị trường bằng chất lượng dịch vụ cao, thủ tục nhanh và thuận tiện, phong cách giao dịch chuyên nghiệp và các kế hoạch marketing có hệ thống.
Thực hiện chính sách ưu đãi lợi ích vật chất, ưu đãi về vốn, lãi suất cho vay và đầu tư, ưu đãi về phí dịch vụ, chăm sóc đặc biệt đối với những khách hàng lớn, khách hàng chiến lược của NHCT, những khách hàng có vốn tiền gửi lớn tại NHCT.
Tăng chất lượng, tiện ích các sản phẩm, dịch vụ của NHCT để tạo sự hấp dẫn khuyến khích các khách hàng mở tài khoản và thực hiện mọi giao dịch qua NHCT.
3.2.2.2. Đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng.
a. Quản lý rủi ro tín dụng.
Cùng với sự phát triển của đất nước, nhu cầu vốn cho nền kinh tế ngày càng tăng, dẫn đến mức độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng lên tương ứng. Sự tăng trưởng tín dụng của các NHTM phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế cả nước nói chung. Tuy nhiên sự tăng trưởng tín dụng cũng kéo theo sự gia tăng rủi ro tín dụng, điều này làm ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn và làm hạn chế việc mở rộng tín dụng của các NHTM.
Những rủi ro tín dụng dù có xuất phát từ những nguyên nhân khách quan hay chủ quan đều phản ánh rõ nét những yếu kém trong công tác quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM. Những biện pháp nhằm ngăn ngừa, quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa được các ngân hàng đưa ra và thực hiện một cách đầy đủ, triệt để, đặc biệt là các biện pháp liên quan đến yếu tố con người. Vì vậy các giải pháp tốt trong quản lý rủi ro tín dụng là vấn đề quan tâm hàng đầu của các ngân hàng nhằm tạo ra sự tăng trưởng tín dụng một cách ổn định, bền vững.
Ngân hàng công thương Việt Nam phải đặt ra mục tiêu: tăng trưởng tín dụng với chất lượng cao và bền vững, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội. Do đó việc phát triển tín dụng phải đi đôi với chất lượng tín dụng.
Cần phải tập trung đưa ra những chiến lược kinh doanh phù hợp, đổi mới quy trình và bộ máy cho vay sao cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và đảm bảo an toàn khi cho vay.
Ngoài ra, công tác tuyển chọn, đào tạo và đào tạo lại, nâng cao tư cách, phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng cũng được các ngân hàng đặc biệt quan tâm và mang tính thường xuyên hơn. Các hoạt động khác như công tác kiểm soát nội bộ ngày càng được chú trọng nhằm phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro cũng như các sai xót trong quá trình cho vay để có biện pháp xử lý kịp thời, tránh việc gây những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Thành lập phòng xử lý rủi ro tín dụng hoặc công ty khai thác tài sản ... đã góp phần đưa hoạt động tín dụng của các NHCTVN phát triển ổn định, chất lượng tín dụng dần được nâng cao, đảm bảo tín dụng tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ hiện nay tại các NHTM trên địa bàn vẫn còn cao hơn mức quy định (5%). Nợ quá hạn còn cao chủ yếu là do hậu quả của các năm trước để lại, chưa giải quyết dứt điểm, song vẫn có tình trạng phát sinh mới về nợ quá hạn, cho thấy rủi ro tín dụng luôn tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi NHCT VN phải chú trọng hơn nữa đến công tác phòng chống, quản lý rủi ro nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại xảy ra.
b. Xử lý nợ quá hạn tồn đọng:
-Ngân hàng cùng khách hàng xác định các khoản nợ khó đòi, lên phương án xử lý trên nguyên tắc 2 bên đạt được thỏa thuận tối đa về việc điều chỉnh lại thời hạn nợ, giãn nợ, xóa nợ, giảm lãi, xóa lãi; xử lý tài sản đảm bảo tiền vay; chuyển nợ thành cổ phần của ngân hàng tại doanh nghiệp; các biện pháp cho vay tiếp để phục hồi sản xuất tạo nguồn trả nợ; sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp. Những vướng mắc vượt quá thẩm quyền của khách hàng được tập hợp về Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính để xử lý.
- Đối với số nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan, phải áp dụng các biện pháp tận thu, quy trách nhiệm cụ thể cho cá nhân (kể cả lãnh đạo và cán bộ nhân viên), khởi tố trước pháp luật.
- Đối với số nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan: đối với doanh nghiệp cần thiết duy trì cho nền kinh tế được xem xét cho khóa nợ, khoanh nợ hoặc giãn nợ. Để làm việc này, Chính phủ sẽ tạo nguồn tương ứng cho ngân hàng như xóa, khoanh, giãn nợ tương ứng, chuyển vốn; không chuyển gánh nặng từ doanh nghiệp sang ngân hàng. Các doanh nghiệp khác phải giải thể, phá sản theo pháp luật để thu hồi nợ cho ngân hàng.
- Cùng với các NHTM khác thực hiện hoạt động mua, bán nợ giữa các tổ chức tín dụng nhằm đa dạng hóa các hoạt động tín dụng. Các khoản nợ được mua bán có thể là nợ trong hạn, hoặc nợ quá hạn.
- Giải tỏa số tài sản thế chấp hiện đang đóng băng trong ngân hàng: khai thác, xử lý số tài sản tồn đọng này nhằm khơi thông nguồn vốn. Việc xử lý chủ yếu tập trung vào tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, thủ tục pháp lý như: bổ xung, hoàn chỉnh thủ tục giấy tờ đối với những tài sản đảm bảo tiền vay để có thể bán, cho thuê, ngân hàng đưa vào sử dụng, đem liên doanh liên kết.
- Củng cố hoạt động của công ty khai thác quản lý tài sản thế chấp tồn đọng.
3.2.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Bên cạnh các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động, tăng vốn điều lệ, đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng Công Thương Việt Nam cần xây dựng được đội ngũ cán bộ, chuyên gia có đủ năng lực, trình độ nghiệp vụ và kỹ năng quản lý, điều hành đáp ứng yêu cầu hoạt động của Ngân hàng.
Để có thể mở rộng phạm vi kinh doanh theo hướng chuyên môn hóa sâu từng nghiệp vụ, bản thân nhân viên của NHCT VN cũng phải được đào tạo kỹ năng chuyên sâu thì mới có thể đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh. Ngoài sự hỗ trợ từ phía các cơ quan chức năng, NHCT VN cần phát huy vai trò chủ động của mình hơn nữa trong việc tuyển chọn và cử nhân viên kinh doanh đi học, đào tạo chuyên sâu. NHCT VN cần có chiến lược đào tạo cán bộ tác nghiệp và quản lý. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thắng lợi của mọi hoạt động kinh doanh ngân hàng và là khởi nguồn của sự sáng tạo nhằm nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng. Khi tuyển dụng cán bộ, NHCT VN đã có chủ định sử dụng họ vào lĩnh vực đầu tư chứng khoán, ưu tiên đối với các ứng viên đã có kinh nghiệm trong hoạt động đầu tư chứng khoán, đặc biệt là các chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư tại các tổ chức trong nước cũng như nước ngoài. Ngoài các tiêu chuẩn về sức khỏe, bằng cấp, trình độ giao tiếp… NHCT VN cần phải chú ý ngay từ đầu tới năng lực thực sự của họ. Về công tác đào tạo, NHCT VN cần đào tạo được một đội ngũ cán bộ giỏi cả về chuyên môn lẫn ngoại ngữ, tin học để có thể tư vấn và thực hiện mọi yêu cầu của khách hàng về nghiệp vụ chứng khoán. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ này phải có phẩm chất tốt như năng nổ, nhiệt tình, luôn học tập để không ngừng đổi mới kiến thức và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp. NHCT VN có thể phối hợp với UBCKNN, thông qua Trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán, Quỹ đào tạo và phát triển TTCK ở Việt Nam để mở các lớp đào tạo, tập huấn trang bị kiến thức và kỹ năng kinh doanh cho cán bộ. Có như vậy mới có thể từng bước gây dựng đội ngũ nhân sự chất lượng cao cho ngành chứng khoán.
3.2.2.4. Đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng
Đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng trên cơ sở tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống, đồng thời đưa vào sử dụng rộng rãi các dịch vụ ngân hàng hiện đại, trong đó đặc biệt chú trọng các dịch vụ gắn kết giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn - thị trường chứng khoán nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về dịch vụ ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh của thị trường vốn - thị trường chứng khoán. Trên cơ sở hiện đại hoá công nghệ và hệ thống công nghệ thông tin, cần đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Phát triển hệ thống giao dịch theo hướng tự động hóa, hệ thống giao dịch trực tuyến và giao dịch một cửa. Tích cực xúc tiến thương mại điện tử và phát triển dịch vụ ngân hàng mới dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng ảo, internet banking, home banking, telephone banking, thanh toán. Các dịch vụ này sẽ đem lại nhiều tiện ích và gia tăng giá trị cho người sử dụng. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và dân cư tiếp cận, sử dụng dịch ngân hàng một cách an toàn.
3.2.2.5. Mở rộng quan hệ với khách hàng, với các NHTM.
Hiện nay, theo xu thế phát triển hội nhập và toàn cầu hoá, các ngân hàng thương mại đều theo đuổi mô hình ngân hàng thương mại đa năng và trở thành một tập đoàn tài chính. Do vậy, thị trường bị chia sẻ trên mọi lĩnh vực hoạt động, kể cả hoạt động đầu tư chứng khoán cũng không bị loại trừ. Để phát triển được hoạt động này viẹc phát triển, mở rộng các quan hệ với khách hàng, với các NHTM, các tổ chức khác cũng rất quan trọng. Sự quan hệ chặt chẽ, chia sẻ thông tin đôi khi giúp NHCT mở rộng hoạt động đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư và nâng cao tính thanh khoản. Phân loại khách hàng thành loại khách hàng truyền thống, khách hàng tiền năng, khác hàng vãng lai. Trong mỗi loại khách hàng trên lại được chia thành loại khách hàng VIP, khách hàng quan trọng, khách hàng thông thường. Chỉ tiêu để phân loại khách hàng được kết hợp bởi các yếu tố sau: thời gian khách hàng quan hệ với ngân hàng; khối lượng, giá trị giao dịch; cường độ giao dịch; vị trí xã hội của khách hàng,v.v… Mỗi một khách hàng có những chính sách riêng như đối với loại khách hàng truyền thống, khách hàng VIP, khách hàng quan trọng nên có những ưu đãi về phí, không gian giao dịch và được ngân hàng cung cấp các thông tin về thị trường thường xuyên,v.v... Đối với những khách hàng tiềm năng nên có những chương trình khuyết trương, Marketing nhằm thu hút sự chú ý của họ. Thiết lập một mối quan hệ mật thiết, thường xuyên có sự trao đổi, chia sẻ thông tin với các định chế tài chính. Bên cạnh đó cần thành lập các hiệp hội như hiệp hội đầu tư, kinh doanh trái phiếu... để thống nhất các mục tiêu phát triển và chương trình hoạt động tránh tình trạng hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, trồng chéo, lôi kéo khách hàng của nhau từ đó gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của thị trường.
3.2.2.6. Xây dựng chính sách khách hàng và chiến lược thị trường cho Công ty chứng khoán NHCT VN
Khách hàng là nhân tố quyết định hàng đầu trong hoạt động hoạt động kinh doanh chứng khoán. Do vậy, NHCT VN cần phải xây dựng chính sách khách hàng toàn diện, vừa giữ nền tảng là các khách hàng truyền thống, vừa khai thác được các khách hàng tiềm năng và tập trung vào các khách hàng chiến lược.Chính sách khách hàng sẽ trở thành định hướng để công ty chứng khoán NHCT triển khai các hoạt động của mình. Việc xây dựng chính sách khách hàng dựa trên việc phân loại khách hàng. Trên thị trường chứng khoán nước ta, các khách hàng có thể được phân loại như sau:
- Các tổ chức phát hành chứng khoán: Bao gồm các doanh nghiệp cổ phần hóa, các Công ty cổ phần, các Tổng công ty mạnh và Kho bạc.
* Các công ty cổ phần và các doanh nghiệp cổ phân hóa: Đây là các khách hàng có tiềm năng rất lớn ở nước ta hiện nay. Đối với các doanh nghiệp này, CTCK có thể triển khai rất nhiều loại hình nghiệp vụ như bảo lãnh phát hành, lưu ký, tư vấn niêm yết và tư vấn đầu tư… Bên cạnh đó, các cổ đông của các công ty cổ phần cũng là những nhà đầu tư tiềm năng mà qua đó công ty có thể thực hiện hoạt động môi giới, quản lý danh mục đầu tư. Các công ty cổ phần và doanh nghiệp cổ phần hóa cần được phân chia làm hai loại để tiếp cận, đó là:
+ Các công ty có đủ điều kiện niêm yết và các công ty đã niêm yết: là các doanh nghiệp lớn, cổ phiếu của họ tập trung sự chú ý của các nhà đầu tư. Các cổ phiếu này có sự rủi ro tốt hơn vì thông tin được công bố công khai và minh bạch. Rủi ro chủ yếu xuất phát từ phía thị trường và các nhà đầu tư.
+ Các công ty chưa đủ điều kiện niêm yết: đây là các công ty nhỏ nhưng chiếm tỷ trọng khá lớn trong các công ty cổ phần ở nước ta. Cổ phiếu của các công ty này thường ít được giao dịch nhưng trong tương lai, khi thị trường ngoài OTC đã phát triển thì các công ty này sẽ trở thành khách hàng tiềm năng của CTCK. Đây là một thị trường có tiềm năng rất lớn trong tương lai.
* Các Tổng công ty mạnh: Là các khách hàng lớn và có nhiều tiềm năng về phát hành Trái phiếu. Do vậy, thị trường Trái phiếu sẽ tập trung rất nhiều ở khu vực này. Đặc biệt, do đặc điểm về mô hình tổ chức, các Tổng công ty 91 ở nước ta đều có các công ty tài chính riêng. Nhiệm vụ của các công ty tài chính này là tập trung nguồn vốn chưa sử dụng của các đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty để đầu tư và huy động vốn đầu tư cho các chương trình đầu tư của Tổng công ty. Do đó các công ty này vừa là các nhà đầu tư tiềm năng, vừa là các nhà phát hành trên thị trường chứng khoán. Để phát triển hoạt động, CTCK cần phải định hướng đây là những khách hàng truyền thống và có các chính sách cụ thể trong các dịch vụ của mình đối với những khách hàng
- Các nhà đầu tư:
Các nhà đầu tư là đối tượng khách hàng mà CTCK có thể triển khai hoạt động môi giới, lưu ký chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư,…Trong đó, hoạt động môi giới đang chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của các công ty chứng khoán. Hơn nữa, các nhà đầu tư sẽ đem lại một phần thu nhập ổn định, thường xuyên cho công ty. Do đó, CTCK cần định hướng đối với các hoạt động của mình trong việc phục vụ các khách hàng này theo nguyên tắc:
- Xây dựng quy trình nghiệp vụ đơn giản, nhanh chóng, tạo sự thuận tiện cho khách hàng.
- Cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời cho các nhà đầu tư.
- Chú trọng hoạt động tư vấn giúp khách hàng quyết định đầu tư có hiệu quả, nâng cao uy tín của công ty
- Trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, CTCK chỉ phát triển hoạt động khi thu hút được các nhu cầu đầu tư. Bên cạnh các nhà đầu tư nhỏ, thị trường cũng cần các nhà đầu tư có tổ chức. Đây là những khách hàng rất quan trọng do lượng vốn đầu tư lớn, có nhu cầu đầu tư thường xuyên.
Hiện nay, trong điều kiện các quỹ đầu tư còn ít, CTCK có thể tiếp cận các Tổng công ty, các Công ty tài chính và hệ thống các Công ty bảo hiểm. Đây là một thị trường còn rất nhiều tiềm năng chưa được khai thác.
Tóm lại, chính sách khách hàng là nhân tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán. Do đó, CTCK cần phải xây dựng chính sách khách hàng một cách toàn diện để khai thác tối đa tiềm năng của thị trường. Đồng thời, đối với mỗi đối tượng khách hàng, công ty cần có chính sách cụ thể để đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất.
Bên cạnh việc xây dựng chính sách khách hàng, cần thực hiện các biện pháp thu hút khách hàng để mở rộng và phát triển nghiệp vụ chứng khoán như: đẩy mạnh tiếp thị, quảng cáo, triển khai ứng dụng marketing để phát triển nghiệp vụ chứng khoán; đổi mới phong cách giao tiếp, phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình và nhanh chóng.
3.2.2.7. Nâng cao khả năng thu thập và xử lý thông tin
Thông tin luôn là yếu tố cấu thành cơ bản của mọi hoạt động kinh doanh, với hoạt động đầu tư chứng khoán tầm quan trọng của nó lại càng được coi trọng. Nếu như một ngân hàng có những kênh thông tin kịp thời và chính xác, sẽ giúp cho họ đánh giá được thực chất giá trị của trái phiếu, cổ phiếu dự đoán được xu thế của thị trường và đưa ra được những quyết định đúng đắn. Như vậy, đối với thông tin, ngân hàng phải thực hiện đồng thời hai việc: thu thập và phân tích thông tin. Ngân hàng không thể phân tích, đánh giá tốt được chứng khoán mà mình quan tâm nếu như thiếu thông tin, nhưng nếu trình độ phân tích thông tin không tốt thì dù thông tin có quý đến mấy cũng không có giá trị. Việc thu thập và phân tích thông tin này không chỉ gói gọn với thị trường trong nước mà phải trải rộng ra cả thị trường quốc tế.
Khả năng thu thập, phân tích, ước lượng, dự báo và đánh giá tình hình thị trường của NHCT nói riêng và các NHTM nói chung là rất hạn chế. Điều này thể hiện qua các nguyên nhân: thứ nhất, Thị trường chứng khoán Việt Nam mới hình thành chưa có những công ty lớn hoạt động chuyên về việc cung cấp thông tin đã phân tích. Chưa có những thước đo tiêu chuẩn về rủi ro, lãi xuất, v.v...do đó rất khó để có một đánh giá thống nhất và chính xác về thị trường. Thứ hai, với khoảng thời gian 7 năm hoạt động của thị trường chứng khoán, ngay cả những công ty hoạt động ngay từ đầu cũng không thể khẳng định đã nắm bắt được xu thế của thị trường, hơn nữa cũng chưa thể tập trung đào tạo được một đội ngũ nhân viên giỏi về chuyên môn trong lĩnh vực này.
Những nhân viên ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực thu thập và phân tích thông tin thị trường hầu hết đều không được đào tạo đúng chuyên ngành, kết quả là rất hiếm người có khả năng nhậy cảm với những thông tin như một chuyên gia. Mỗi một ngân hàng đều có những đánh giá và nhận định riêng về thị trường mà không thể so sánh để chỉ ra đâu là đúng, đúng được bao nhiêu và còn bao nhiêu chưa thể xác định được.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô.
Sự ổn định về chính trị tại Việt Nam là điều đó được khẳng định, song Chính phủ phải tiếp tục đảm bảo được yêu cầu ổn định môi trường kinh tế vĩ mô nhằm khuyến khích tiết kiệm, nâng cao khả năng huy động vốn trên thị trường tài chính. Một mức độ lạm phát được kiềm chế vừa đủ để duy trì nền kinh tế phát triển, mức thâm hụt ngân sách trong giới hạn an toàn, các chiến lược phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo và tạo công ăn việc làm sẽ là những tiền đề cơ bản để phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán bền vững.
Trên cơ sở sự ổn định của kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế đều đặn, lãi suất, tỷ giá hối đoái được kiểm soát tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành trái phiếu của Chính phủ, các nhà đầu tư có cơ hội lựa chọn, điều chỉnh danh mục đầu tư của mình.
3.3.2. Hoàn thiện môi trường pháp lý.
Xây dựng một hệ thống các quy định pháp luật thống nhất là điều kiện quan trọng nhằm phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán của các NHTM nói chung và NHCT VN nói riêng.
Hoạt động đầu tư chứng khoán của các ngân hàng thương mại hiện đang bị chi phối bởi nhiều văn bản pháp lý khác nhau. Qua các hoạt động thực tiễn cho thấy, khung pháp lý cho hoạt động đầu tư chứng khoán của các ngân hàng thương mại còn chưa đầy đủ, thiếu tính đồng bộ và còn phức tạp.
Hoạt động đầu tư chứng khoán của các NHTM bị điều chỉnh bởi các quy định của Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư và Luật chứng khoán. Nhưng do Luật chứng khoán mới ban hành nên chưa có được các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật này, do đó, cần sớm xây dựng và ban hành các nghị định của Chính phủ hướng dẫn các chủ thể khi tham gia vào thị trường chứng khoán nói chung, thị trường trái phiếu nói riêng.
Hoạt động kinh doanh trái phiếu của các NHTM có khối lượng giao dịch là rất lớn, các hoạt động này giúp cho trái phiếu luân chuyển thuận lợi, nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu, nhưng hầu hết các giao dịch này được thực hiện trên trên thị trường OTC. Trong khi đó Luật chứng khoán mới ra đời thị trường này chưa được đề cập đến một cách rõ ràng.
Trong luật mới đề cập đến các nhà kinh doanh trái phiếu chưa có điều luật về nhà tạo lập thị trường trái phiếu (tại điều 6, Chương 1, Luật chứng khoán).
Tại mục 20 điều 6, Chương 1, Luật chứng khoán có viết: “môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng” vô hình chung Luật chứng khoán không qui định các ngân hàng thương mại được hoạt động môi giới, như vậy các ngân hàng thương mại không được hoạt động trên thị trường trái phiếu với tư cách là nhà tạo lập thị trường (vì hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu bao gồm hoạt động môi giới, tự doanh, thực hiện lệnh). Điều này mâu thuẫn với Quyết định số 163/2003/QĐ-TTg ngày 05/08/2003 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 có viết:
“- Khuyến khích ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm lớn thành lập công ty quản lý quỹ; đa dạng hoá các loại hình đầu tư tập thể.
- Xây dựng và phát triển hệ thống các nhà tạo lập thị trường; hệ thống các nhà kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp.”
Trong khi đó lại cho phép các ngân hàng thương mại được phép bảo lãnh phát hành trái phiếu tại mục 14, điều 6, Chương 1, Luật chứng khoán có viết: “ Tổ chức bảo lãnh phát hành là công ty chứng khoán được phép hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán và ngân hàng thương mại được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận bảo lãnh phát hành trái phiếu theo điều kiện do Bộ tài chính quy định” và được phép được phép đầu tư vào chứng khoán tại mục 11. điều 6, chương 1, Luật chứng khoán viết : “Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng khoán".
Như vậy Luật chứng khoán cho phép các ngân hàng thương mại được phép bảo lãnh phát hành trái phiếu, được đầu tư vào trái phiếu không có lý gì lại cấm các ngân hàng thương mại hoạt động môi giới trái phiếu. Trong hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu tiềm lực về vốn, công nghệ, nhân lực,v.v...có quyết định rất lớn, với tình hình kinh doanh hiện nay chỉ có các ngân hàng thương mại mới đủ sức đáp ứng được các yêu cầu trên. Do vậy Chính phủ cần phải sớm trình Quốc hội bổ sung, điều chỉnh Luật chứng khoán có điều luật về nhà tạo lập thị trường, và cho phép các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh trái phiếu với vai trò là người tạo lập thị trường trái phiếu.
Như vậy, việc ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với hoạt động thị trường chứng khoán và đầu tư trên thị trường chứng khoán sẽ tạo niềm tin cho nhà đầu tư, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ vào thị trường, góp phần tăng tính sôi động của thị trường chứng khoán, do đó thúc đẩy các NHTM tham gia đầu tư.
3.3.3. Đổi mới hoạt động phát hành chứng khoán Chính Phủ.
Việc thực hiện chính sách Ngân sách Nhà Nước Việt Nam thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể. Các chính sách thu đã có những chuyển biến tích cực, tạo cơ sở cho việc kiểm soát bội chi Ngân Sách Nhà Nước. Hoạt động phát hành các chứng khoán Chính Phủ, bao gồm tín phiếu, trái phiếu Kho Bạc, Trái phiếu công trình đã tạo được lượng hàng hóa quan trọng cho thị trường trái phiếu, đồng thời thu hút mạnh nhiều đối tượng tham gia vào thị trường. Các hình thức huy động bằng phát hành trái phiếu của Chính Phủ ngày càng đa dạng và phong phú, lãi suất ngày càng hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, hình thức huy động này còn một số hạn chế như thời hạn của các trái phiếu còn ngắn, phương thức phát hành còn chưa phù hợp, thị trường trái phiếu Chính Phủ chưa sôi động, chưa có lịch trình phát hành đều đặn, lãi suất chưa phải là lãi suất của thị trường.
Chính Phủ nên có những phương thức đấu giá với chu kỳ đều đặn hơn. Không nên sử dụng phương thức bán lẻ mà chỉ nên sử dụng phương thức đấu giá hoặc phát hành thông qua tổ hợp các ngân hàng thương mại Nhà Nước. Hai phương thức này tập trung được nguồn thu và tạo điều kiện hơn cho các giao dịch thứ cấp sau này.
Các ngân hàng thương mại Nhà Nước sẽ là thành viên chính thức của thị trường trái phiếu Chính Phủ và các tổ chức này sẽ đóng vai trò tạo lập thị trường cho loại trái phiếu trên, một mặt sẽ tiết kiệm được chi phí phát hành, mặt khác sẽ tàm tăng tính sôi động của thị trường trái phiếu Chính phủ.
3.3.4.Kiểm soát và phát triển thị trường OTC
Do còn nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ điều kiện niêm yết trên TTCK tập trung nên việc phát triển thị trường OTC theo đúng nghĩa cũng rất quan trọng trong giai đoạn TTCK VN chưa phát triển.
Với một số lượng rất lớn chứng khoán lưu hành trên thị trường tự do đã cho thấy một tiềm năng và yêu cầu cấp thiết trong việc phát triển thị trường giao dịch OTC ở Việt Nam hiện nay. Khó khăn cơ bản cho việc phát triển thị trường OTC là các chứng khoán phần lớn dưới dạng vật chất và chưa được lưu ký ở các tổ chức lưu ký, việc mua bán chủ yếu thực hiện thanh toán trực tiếp mà không thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân hàng, trình độ, ý thức của các nhà đầu tư chưa cao, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và thiếu hoàn thiện.
Để các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường OTC có hiệu quả, phải có những biện pháp nhất đinh, cụ thể :
- Có đội ngũ nhân viên đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh chứng khoán, đặc biệt là trong việc thực hiện các giao dịch mua bán thay cho khách hàng trên thị trường chứng khoán
- Có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật nối mạng viễn thông đối với các quầy giao dịch của thị trường OTC để có thể sử dụng nhằm cân bằng thị trường, đóng vai trò là người tạo thị trường.
Việc hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện cấu trúc thị trường chứng khoán, trên cơ sở đó góp phần phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây cũng chính là điều kiện quan trọng cho việc thúc đẩy các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường.
3.3.5. Thúc đẩy sự phát triển ổn định của thị trường chứng khoán
Một là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, sớm triển khai hướng dẫn Luật Chứng khoán (đã có hiệu lực từ 1-1-2007) theo hướng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đồng bộ với các quy định khác của pháp luật Việt Nam, nhưng phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Nâng cao năng lực quản lý và kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng, trong đó chú trọng kiểm soát các hoạt động kinh doanh đối với thị trường OTC để bảo đảm sự ổn định của thị trường và cả đối với các nhà đầu tư nước ngoài để tránh sự thao túng thị trường của những nhà đầu tư này.
Hai là, tiếp tục phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn), tạo điều kiện tốt và thông thoáng hơn theo các cam kết khi gia nhập WTO cho việc phát triển các nhà đầu tư là doanh nghiệp, các định chế tài chính trung gian và các tổ chức phụ trợ trên thị trường, song phải đảm bảo khả năng cạnh tranh trong điều kiện mới, có nghĩa là phải năng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành và kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Ba là, nâng cao năng lực hoạt động của TTCK trên cơ sở hiện đại hoá hệ thống công nghệ thông tin, trước hết là ở các trung tâm giao dịch chứng khoán và các nhà đầu tư là doanh nghiệp. Đồng thời với việc này là tăng cường tính công khai và minh bạch của TTCK từ việc công bố thông tin, cáo bạch, báo cáo hoạt động của các nhà đầu tư là doanh nghiệp và các định chế liên quan khác .
Bốn là, chú trọng đào tạo cho đội ngũ những nhà quản lí, những người tham gia kinh doanh chứng khoán, và các nhà đầu tư. Đi đôi với việc này là tăng cường tuyên truyền để nhiều người cùng biết và định hướng đúng đắn cho việc đầu tư có hiệu quả, tránh hiện tượng đầu tư kiểu phong trào như vừa qua.
Năm là, tăng cường hoạt động giám sát đối với TTCK nhằm giảm thiểu rủi ro, cảnh báo và ngăn chặn sớm sự đổ vỡ của các nhà đầu tư. Cần chú trọng tăng cờng thanh tra giám sát an toàn hoạt động của các ngân hàng thương mại để hạn chế tác động tiêu cực liên quan đến TTCK như:
- Chấn chỉnh việc cho vay của ngân hàng thương mại đối với công ty chứng khoán để kinh doanh trên TTCK, đồng thời tăng cường giám sát hoạt động của các công ty này theo các quy định hiện hành về kinh doanh chứng khoán.
- Chú trọng giám sát nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của TTCK, chống nhà đầu tư nước ngoài thao túng thị trường, đảm bảo tính công khai và minh bạch trong hoạt động của các công ty chứng khoán và các định chế trung gian.
- Tiến tới thành lập cơ quan giám sát thị trường tài chính (sau năm 2010) để thực hiện chức năng giám sát và bảo đảm an toàn cho toàn bộ thị trường tài chính trên cơ sở phát triển của TTCK, hệ thống ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác.
Ngoài ra, nhà nước cần tạo điều kiện cho các NHTM nhà nước phát hành và niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán, phát triển các thị trường tiền tệ, đặc biệt là các công cụ phái sinh và giấy tờ có giá ngắn hạn.
KẾT LUẬN
Hoạt động đầu tư chứng khoán ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng. Thúc đẩy sự tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán là một xu thế khách quan và là nhu cầu cấp thiết. Bằng cách vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, luận văn đã giải quyết được các vấn đề sau :
Thứ nhất, trình bày những vấn đề cơ bản về hoạt động của ngân hàng thương mại, làm nổi bật vai trò của hoạt động Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. Thứ hai, đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư của Ngân hàng Công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán hiện nay, trong đó đi sâu phân tích những kết quả đạt được cũng như những hạn chế của hoạt động đầu tư , từ đó tìm ra nguyên nhân của những hạn chế. Thứ ba, thông qua các nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động đầu tư chứng khoán của Ngân hàng Công thương Việt Nam để đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động đầu tư của Ngân hàng Công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán trong thời gian tới.
Hoạt động đầu tư của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán là một lĩnh vực tương đối mới và hàm chứa nhiều rủi ro. Những kết quả nghiên cứu của luận văn chỉ là một số đóng góp nhỏ và chưa thể bao quát toàn bộ các khía cạnh, lĩnh vực. Do vậy, chắc chắn còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
Tác giả xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các Thầy, Cô giáo Khoa Ngân hàng- tài chính, Trường đại học kinh tế quốc dân, đặc biệt là Thầy giáo, Tiến sỹ Đặng Ngọc Đức và các cán bộ tại Ngân hàng Công thương Việt Nam đã tận tình giúp đỡ trong việc hoàn thành luận văn này. Tác giả mong muốn nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các Thầy, Cô giáo và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ tài chính (2002), Chiến lược Tài chính - tiền tệ Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010, Hà nội.
PGS.TS. Nguyễn Văn Nam, PGS.TS. Vương Trọng Nghĩa (Đồng chủ biên), (2002), Giáo trình "Thị trường chứng khoán", NXB Tài chính.
Peter S. Rose (1996), Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Tài chính.
Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1997), Luật Các tổ chức tín dụng, Hà Nội.
Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật chứng khoán, Hà Nội.
PGS.TS Lưu Thị Hương – Chủ biên (2005), Giáo trình "Tài chính doanh nghiệp", NXB Thống kê.
Th.S Lê Thị Mai Linh – Chủ biên (2003), Giáo trình "Phân tích và đầu tư Chứng khoán", NXB Chính trị quốc gia.
TS. Nguyễn Hữu Tài - Chủ biên (2002), Giáo trình "Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ", NXB Thống kê.
Uỷ ban Chứng khoán nhà nước – Tài liệu nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
Báo cáo tổng kết NHCT VN năm 2003, 2004, 2005, 2006
Báo cáo tổng kết của Công ty Chứng khoán NHCT VN năm 2004, 2005, 2006.
Trang Web TTGDCK TP Hồ Chí Minh, TTGDCK TP Hà Nội.
Trang Web Bộ Tài chính.
Trang Web Luật Việt Nam.
Uỷ Ban chứng khoán Nhà Nước (2005), Hội thảo về Phát triển thị trường Trái phiếu Chính phủ, do UBCKNN tổ chức.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tăng cường hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán.docx