MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
1.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
1.1.2. Nguồn tiền gửi
1.1.3. Nguồn vốn đi vay
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động huy động vốn
1.2.2. Các hình thức huy động vốn
1.2.2.1. Theo đối tượng huy động
1.2.2.2. Theo phương thức huy động
1.2.2.3. Theo thời gian huy động
1.2.2.4. Theo loại tiền huy động
1.2.3. Tăng cường huy động vốn của NHTM
1.2.3.1 Khái niệm
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
1.3.2. Các nhân tố khách quan
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẠI DƯƠNG
2.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ
2.1.3. Tổ chức bộ máy của ngân hàng TMCP Đại Dương
2.1.3.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Đại Dương
2.1.4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng thời gian qua
2.1.4.1. Huy động vốn
2.1.4.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng
2.1.4.3. Hoạt đồng đầu tư của Ngân hàng
2.1.4.4. Hoạt động kinh doanh đối ngoại - Tài trợ thương mại
2.1.4.5. Công tác phát triển các dịch vụ Ngân hàng
2.2 Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Dương
2.2.1 Tình hình huy độngVốn tại Ngân hàng Đại Dương
2.2.2 Vị trí nguồn vốn huy động trong tổng nguồn vốn
2.2.4 Tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng Đại Dương
2.2.5. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng Đại Dương
2.3. Đánh giá chung huy động vốn của Ngân hàng Đại Dương
2.3.1. Những kết quả đạt được
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế
2.3.2.1. Những hạn chế
2.3.2.2. Nguyên nhân
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG
3.1 ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG
3.1.1. Mục tiêu của ngân hàng Đại Dương
3.1.2 Định hướng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Đại Dương đến năm 2011
3.2 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG
3.2.1 Chú trọng công tác huy động vốn từ dân cư
3.2 2 Mở rộng hình thức huy động vốn
3.2.3. Vận dụng chế độ lãi suất linh hoạt
3.2.4. Hoàn thiện tiện ích phục vụ người gửi tiền
3.2.5. Nâng cao uy tín Ngân hàng
3.2.6. Xây dựng các chương trình marketing hiệu quả
3.2.7. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
3.3 KIẾN NGHỊ
3.3.1 Kiến nghị đối với Nhà nước
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
93 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3218 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình thì Ngân hàng Đại Dươngmặc dù đã cố gắng, song chưa có nhiều sản phẩm huy động có mức lãi suất và tiện ích nổi trội trên thị trường. Có lẽ chính vì vậy mà Ngân hàng Đại Dươngchưa dành được phần nhiều chiếc bánh thị phần huy động vốn.
Chính sách tiết kiệm cứng nhắc, chưa linh hoạt, chưa đa dạng, chưa phù hợp với thực tế; về thời hạn, về lãi suất, hình thức trả lãi… lãi suất tiết kiệm tuy còn được điều chỉnh song chậm thay đổi so với sự thay đổi của giá cả trong nền kinh tế thị trường, có những lúc lãi suất tiết kiệm còn thấp hơn tốc độ trượt giá, không có tác dụng khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng, ngược lại nhiều lúc lại cao hơn làm cho ngân hàng không giảm thấp được lãi suất cho vay với nền kinh tế. Những hình thức huy động vốn với sự linh hoạt áp dụng còn chậm, chưa triển khai đồng loạt các hình thức Ngân hàng thương mại trên thế giới đã áp dụng: tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm mua ô tô…
Tiết kiệm có kỳ hạn gửi nhiều lần lấy gọn, tiết kiệm gửi rút linh hoạt, tiết kiệm bậc thang, hiện tại Ngân hàng Đại Dương mới chỉ dừng lại ở hình thức huy động tiết kiệm có kỳ hạn gửi gọn lấy gọn tức là gửi 1 lần và lấy 1 lần vào thời điểm đáo hạn theo cách thức trả lãi trước hoặc sau.
Hình thức huy động tiết kiệm có bảo đảm bằng vàng đã được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nhưng Ngân hàng Đại Dương chưa triển khai.
Không đồng bộ trong khâu thanh toán giữa Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại trong việc phục vụ khách hàng, còn phải thực hiện thanh toán bù trừ thủ công, hoặc chưa cập nhật tự động các file truyền điện đến giữa Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Mặt khác hệ thống công nghệ đường truyền của Ngân hàng nhà nước quá lạc hậu, thường xuyên bị sự cố chậm tốc độ chuyển tiền, ảnh hưởng đến việc thanh toán của khách hàng, làm giảm một phần đáng kể hiệu quả huy động vốn. Hơn nữa, mạng lưới tuy đã mở rộng nhưng chưa phủ khắp các tỉnh thành trong cả nước, vì vậy khi khách hàng có nhu cầu thanh toán tiền đến đối tác các tỉnh lẻ phải thông qua trung gian Ngân hàng Nhà nước, gây mất thời gian và phiền hà về thủ tục trong công tác thanh toán, làm cho khách hàng nản lòng trong việc sử dụng các công cụ thanh toán này.
Vẫn chú trọng vào dịch vụ truyền thống, các hình thức dịch vụ khác còn nghèo nàn, chưa đưa vào sử dụng, nhiều dịch vụ còn đang trong quá trình thử nghiệm như: dịch vụ tư vấn đầu tư, tư vấn bảo hiểm, chuyển tiền thanh toán hàng hoá bằng thẻ, thanh toán qua máy POS tại siêu thị, bệnh viện, dịch vụ hàng tại nhà, quản lý danh mục đầu tư...
Cán bộ làm việc tại Ngân hàng Đại Dương chủ yếu được tuyển dụng từ sinh viên các trường đại học, còn non trẻ hạn chế về kinh nghiệm làm việc. Mặt khác, Ngân hàng Đại Dương đang bước đầu thực hiện đề án về nhân sự và phát triển nguồn nhân lực. Để nâng cao trình độ, cần có thời gian đào tạo và trải nghiệm thực tế.
Mạng lưới hoạt động ngày càng mở rộng, Ngân hàng luôn cố gắng nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, công nghệ hiện đại để phục vụ khách hàng, Tuy nhiên, do điều kiện mới triển khai ứng dụng phần mềm mới T24, đôi khi còn có sự cố khiến khách hàng phải đợi lâu khi giao dịch hoặc không rút được tiền từ máy ATM... làm ảnh hưởng đến việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và sử dụng vốn của Ngân hàng Đại Dương.
Qua phân tích ở chương 1 phần lý luận cơ bản và tình hình thực tế tại chương 2 ta thấy: Ngân hàng Đại Dương đã hình thành và phát triển trở thành một Ngân hàng thương mại lớn trong nước có đủ uy tín cả trong và ngoài nước, là ngân hàng đa năng trong hoạt động trong cơ chế thị trường, huy động vốn năm sau cao hơn năm trước, thu hút được nhiều nguồn vốn ngoại tệ, đáp ứng được nhu cầu về vốn của nền kinh tế góp phần đắc lực vào công cuộc đổi mới, vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Về công tác quản lý vốn, bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần tích cực trong việc đảm bảo an toàn vốn của ngân hàng.
Sau gần 14 năm trưởng thành và phát triển, tuy thời gian chưa dài nhưng những thành quả đạt được là rất đáng ghi nhận và cần phát huy tốt hơn, ngược lại những mặt còn hạn chế vừa do yếu tố khách quan, vừa do yếu tố chủ quan. Bước sang những năm đầu hội nhập kinh tế thế giới, xuất phát từ những yêu cầu của nền kinh tế trong nước, yêu cầu hoà nhập ở khu vực, Ngân hàng Đại Dương phải tiếp tục đổi mới, phát triển nhanh hơn nữa các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, để trở thành một tập đoàn tài chính ngân hàng có quy mô lớn tại Việt nam. Cần đánh giá đúng mức những thế mạnh tiềm ẩn, những khả năng vốn có về lao động, về trí tuệ của nhân dân lao động Việt Nam; phát huy nội lực trong nước kết hợp hài hoà với sự hợp tác từ bên ngoài tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa kinh tế việt nam tăng trưởng bình quân 8,5% - 9% năm trong vòng 5 năm tới, nhanh chóng đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp.
b. Nguyên nhân khách quan.
Song song cùng tồn tại với Ngân hàng Đại Dương trên địa bàn là hàng loạt các Ngân hàng thương mại quốc doanh từ lâu đời (Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn) người dân còn chưa thực sự tin tưởng khi gửi tiền vào các Ngân hàng cổ phần. Hơn nữa, chính sách chăm sóc khách hàng của Ngân hàng Đại Dương chưa thực sự phát huy hiệu quả , thể hiện ở chỗ khi có đợt huy động tiết kiệm dự thưởng hay phát hành kỳ phiếu với lãi suất ưu đãi hoặc khuyến mại nhưng lượng khách hàng đến giao dịch không tăng lên nhiều, hầu hết vẫn là những khách hàng thường xuyên giao dịch đến hạn ra đổi sổ mà không hề biết trước có sản phẩm mới hay khuyến mãi. Cho nên, mặc dù có sự nỗ lực rất lớn trong công tác huy động vốn nhưng tỷ lệ tiết kiệm từ dân cư vẫn còn rất thấp.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG
3.1 ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG
3.1.1. Mục tiêu của ngân hàng Đại Dương
Tiếp tục thực hiện lộ trình tăng cường năng lực tài chính và nâng cao trình độ quản lý tài chính.
Phấn đấu trở thành một trong những ngân hàng hàng đầu trong hệ thống ngân hàng TMCP.
Có nhóm khách hàng đa dạng, rộng khắp trên các lĩnh vực, vùng kinh tế với những dịch vụ tài chính ngân hang đa năng, hiện đại và hiệu quả
Phát triển mạnh mẽ theo định hướng ngân hàng bán lẻ. Các sản phẩm, dịch vụ ưu tiên triển khai tập trung vào các sản phẩm cá nhân như huy động vốn và tiết kiệm, tín dụng tiêu dùng, phát hành thẻ và tài khoản cá nhân…
Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao.
Đảm bảo lợi nhuận tối đa cho khách hàng, ngân hàng và cổ đông.
Hoàn thiện chiến lược
Trên cơ sở đánh giá chiến lược phát triển và tái cơ cấu Ngân hàng Đại Dương 2005- 2009, tiếp tục hoàn thiện chiến lược phát triển đến 2011, tầm nhìn 2015 để đưa Ngân hàng Đại Dương thành một tập đoàn tài chính có thương hiệu hàng đầu ở Việt Nam.
Tái cơ cấu mô hình tổ chức
Tiến hành đánh giá mô hình tổ chức hiện đại để hoàn thiện, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của Ngân hàng Đại Dương trong tương lai theo hướng tổ chức khoa học, nâng cao năng lực quản trị rủi ro, đáp ứng yêu cầu mở rộng kinh doanh trên hai mảng: Thị trường Ngân hàng truyền thống và Ngân hàng đầu tư; hướng tới khách hàng, đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động hiệu quả và tăng trưởng bền vững.
Trong thời gian tới, Ngân hàng Đại Dương tập trung hoàn thiện chiến lược nhân sự, xác định Tổ chức – Nhân sự là vấn đề trọng tâm hàng đầu trong năm nay. Tổ chức lại các khối, cơ quan Hội sở, chuẩn hoá lại mô hình tổ chức của hệ thống…
Hoàn thiện dự án công nghệ thông tin
Khai thác một cách có hiệu quả những ưu việt của hệ thống Corebanking (T24); đầu tư tiếp các module về quản trị kinh doanh, tài chính và nhân sự.
Tích cực phát triển hệ thống kênh phân phối bao gồm các điểm giao dịch, hệ thống máy ATM, POS, kênh ngân hàng điện tử… Phát triển các sản phẩm mới như dịch vụ thanh toán và thương mại điện tử, hệ thống chuyển mạch và quản lý thẻ.
Đẩy mạnh phát triển thương hiệu Ngân hàng Đại Dương trên toàn quốc, đặc biệt là ở khu vực phía Nam.
Nâng cao chất lượng dịch vụ, chuẩn hoá phong cách phục vụ của nhân viên theo hướng chuyên nghiệp. Duy trì và phát triển văn hoá doanh nghiệp.
3.1.2 Định hướng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Đại Dương đến năm 2011
Trong hoàn cảnh và điều kiện thế giới ngày nay,nhu cầu về vốn để phát triển kinh tế đều được các quốc gia quan tâm, nhất là trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay vốn là một vấn đề mà Chính phủ đặc biệt quan tâm, việc huy động mọi nguồn vốn từ nội lực được đặt lên hàng đầu ngoài ra còn phải tận dụng cả nguồn vốn từ bên ngoài để có thể có những nguồn vốn lớn đầu tư cho nền kinh tế đất nước. Để tạo ra sự tăng trưởng cao, căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế của đất nước, của ngành, Ngân hàng Đại Dương đã đề ra định hướng chiến lược phát triển huy động vốn của mình.
Nhiệm vụ chiến lược của Ngân hàng Đại Dương trong thời gian tới là duy trì mức tăng trưởng, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng dư nợ cho vay và đầu tư hàng năm, duy trì các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Định hướng cho phát triển nguồn vốn của Ngân hàng Đại Dương với mục tiêu đề ra đến năm 2011:
Mức tăng trưởng huy động vốn bình quân hàng năm 23 - 25% năm. Bằng mọi biện pháp, hình thức mở rộng quan hệ với khách hàng để thu hút tiền gửi cả VNĐ và các loại ngoại tệ, nhằm thay đổi cơ cấu tiền gửi, theo hướng tiền gửi với lãi suất tăng lên, tiền gửi có kỳ hạn và dài hạn tăng, phát triển, mở rộng các loại tài khoản tiền gửi cổ truyền và đang thực hiện và mở rộng thêm các hình thức mới. Trong từng thời kỳ tiến hành phát hànhcổ phiếu để gia tăng vốn điều lệ và quy mô hoạt động một cách hợp lý. Phát triển phong phú các loại tiền gửi về nhiều nội dung kinh tế, với nhiều mốc kỳ hạn khác nhau, mức độ lãi suất ưu đãi, mức độ thuận tiện (không cần bằng chữ ký, hoặc chặt chẽ, tính khoa học cao). Đối với nguồn vốn ngoại tệ, tìm kiếm thu nhận, mở tài khoản tiền gửi cho các Tổ chức kinh tế trong nước, nước ngoài, các công ty liên doanh, các tổ chức phi chính phủ, cơ quan sứ quán, lãnh sự, các tổ chức quốc tế, các cá nhân và cả người nước ngoài không cư trú; nhận uỷ thác vốn đầu tư nước ngoài, hoặc trong nước, vay vốn của các tổ chức tín dụng.
Hoạt động huy động vốn là một bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó luôn có xu hướng vào mục tiêu tăng doanh lợi ngân hàng và tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Để tài trợ cho các danh mục tài sản không ngừng tăng trưởng, ngân hàng cần khối lượng vốn khổng lồ từ nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu kinh doanh như trên các ngân hàng không chỉ quan tâm đến việc mở rộng quy mô nguồn vốn mà phải xây dựng danh mục nguồn vốn có cơ cấu hợp lý, ổn định và chi phí thấp nhất.
Căn cứ vào thực lực của mình, những đặc thù trong điều kiện kinh tế xã hội và xu thế phát triển của nền kinh tế cũng như yêu cầu phát triển của Ngân hàng Đại Dương, sau đây là định hướng huy động vốn của Ngân hàng Đại Dương.
Một là, thực hiện những cải tiến trong hệ thống phân phối như:
Không ngừng củng cố, nâng cao hiệu quả hệ thống mạng lưới hoạt động kinh doanh nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu thị trường để tăng cầu về tài sản ngân hàng của khách hàng tạo động lực cho hoạt động huy động vốn;
Mở rộng các quan hệ đại lý;
Tiếp tục khai thác, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng tại hội sở và các chi nhánh, tạo tiền đề cho việc mở rộng các sản phẩm dịch vụ tài chính có chất lượng cao, được thực hiện khép kín từ đó nâng dần sức cạnh tranh của ngân hàng trong hoạt động dịch vụ;
Hai là, mở rộng các hình thức huy động vốn, ngân hàng có thể đưa ra các hình thức tiền gửi tiết kiệm hoặc tiền gửi có kỳ hạn nhưng lại có một số thuộc tính của tiền gửi không kỳ hạn, chủ động khai thác những nguồn mới, làm cho ngân hàng ít lệ thuộc vào các nguồn, nhóm nguồn tiền gửi hay biến động.
Ba là, nâng cao chất lượng, dịch vụ thanh toán, cải tiến, hiện đại hoá trong hệ thống thanh toán theo hướng giảm sự ràng buộc vào các giấy tờ, tăng an toàn trong hoạt động thanh toán góp phần củng cố lòng tin của khách hàng.
Bốn là, điều chỉnh cơ cấu huy động vốn theo thời gian phù hợp với việc sử dụng, đảm bảo vốn trung và dài hạn, đáp ứng đủ nhu cầu tăng trưởng tài sản có thời hạn dài, ngăn ngừa các rủi ro có thể gặp phải thông qua các giải pháp mang tính định hướng như: làm tăng tính ổn định của nguồn vốn; thực hiện chế độ bảo hiểm tiền gửi; tăng khả năng kiểm soát độ nhạy cảm của tài sản và nguồn vốn và kiểm soát khe hở lãi suất; tăng khả năng hoán đổi kỳ hạn giữa các tài sản và nguồn vốn sao cho thích hợp.
Năm là, tiến hành phân đoạn thị trường theo những tiêu thức khác nhau (như phân loại theo địa bàn, điều kiện kinh doanh vùng, tập quán tiêu dùng, mức độ cạnh tranh…) để từ đó xây dựng chiến lược sản phẩm, giá cả, phân phối… thích hợp cho từng phân đoạn thị trường.
Sáu là, thực hiện trả lãi cho các tiền gửi và áp dụng hệ thống lãi suất mang tính cạnh tranh. Xóa hẳn việc vay vốn với chi phí cao trên thị trường liên ngân hàng, tạo ra sự chủ động hoàn toàn về vốn;
Những định hướng này luôn bám sát chiến lược kinh doanh của ngân hàng nhưng để chúng trở thành hiện thực cần áp dụng đồng bộ các giải pháp
3.2 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG.
Huy động vốn thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại là vấn đề quan trọng trong cơ chế thị trường là một kênh huy động vốn linh hoạt góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là nước ta đang ở trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Muốn thu hút được tất cả các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thì chính các Ngân hàng thương mại cần phải tìm hiểu nhu cầu, tâm lý của từng thành phần kinh tế và đáp ứng một cách tốt nhất các nhu cầu đó. Dưới sự tác động của nhiều nhân tố: tốc độ phát triển, thu nhập dân cư, lãi suất,… công tác huy động vốn luôn là vấn đề thách thức đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
3.2.1 Chú trọng công tác huy động vốn từ dân cư
Chiến lược huy động vốn hướng đến đối tượng dân cư là một chính sách chiều sâu và bền vững đảm bảo khả năng huy động vốn với số lượng lớn và rất bền vững. Ngân hàng mở rộng khách hàng gửi tiền và đa dạng hoá các hình thức gửi tiền, nguồn trong thanh toán để phục v ụ dân cư.
Đối tượng khách hàng gửi tiền hiện tại chủ yếu là các tổ chức kinh tế có quan hệ tín dụng và cá nhân có thu nhập cao ngân hàng chưa chú trọng khai thác các đối tượng khách hàng có thu nhập trung bình, lượng tiền gửi nhỏ. Nếu như không mở rộng đối tượng khách hàng khác trong nền kinh tế thì ngân hàng không thể đạt được mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn. Mặt khác, nếu giữ một tỷ trọng quá cao một loại khách hàng có cùng những đặc điểm về nguồn vốn, khi có những biến động nhất định thì những khách hàng này có cùng xu hướng phản ứng như nhau. Ví dụ: vì một lý do nào đó mà hàng loạt khách hàng rút tiền tại ngân hàng làm cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản.
Mặt khác, mở rộng khách hàng có thể giúp ngân hàng thay đổi được cơ cấu vốn huy động vì mỗi nhóm khách hàng có đặc điểm riêng. Nếu ngân hàng chỉ chú trọng vào một nhóm khách hàng sẽ làm cho cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng cứng nhắc, điều này sẽ không có lợi cho hoạt động của ngân hàng vì trong mỗi thời điểm khác nhau, các ngân hàng có cơ cấu nguồn vốn không giống nhau. Do đó, việc mở rộng đối tượng khách hàng giúp cho hoạt động kinh doanh ngân hàng đạt kết quả cao hơn,.
Vốn trung dài hạn từ dân cư còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn tiền gửi, tiền gửi của các Tổ chức kinh tế có xu hướng giảm mạnh. Bên cạnh việc duy trì tốt quan hệ với một bộ phận các công ty, khách hàng trong ngành Quốc phòng, ngân hàng vẫn đang phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt trong hoạt động huy động vốn với các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng trong khu vực, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại nhà nước có quy mô lớn, uy tín lâu năm như ngân hàng Công thương Ba Đình, ngân hàng Ngoại thương… Chính vì vậy, chính sách khách hàng hay mở rộng đối tượng khách hàng gửi tiền luôn được ngân hàng coi trọng. Trong công tác khách hàng, Ngân hàng Đại Dương nên chia khách hàng ra làm nhiều loại để có chính sách chăm sóc phù hợp. Với những khách hàng lâu năm, có giao dịch thường xuyên, có số dư tiền gửi lớn, được ngân hàng tín nhiệm, thì ngân hàng sẽ có một chính sách ưu đãi về lãi suất, cũng như việc xét thưởng đối tác.
Để khai thác tốt tiền gửi các tầng lớp dân cư Ngân hàng Đại Dương cần làm tốt việc tuyên truyền, vận động bằng các phương pháp hoặc tiếp xúc trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại trúng, thông qua hội nghị khách hàng. Ngân hàng Đại Dương nên đơn giản hoá thủ tục giao dịch giúp cho người dân dễ dàng thực hiện giao dịch, rút ngắn thời gian giao dịch. Ngân hàng Đại Dương cần phân loại theo nhóm các đối tượng để có cách thức thu hút vốn phù hợp xuất phát từ sự khác nhau trong thói quen sử dụng tiền.
Đối với những bộ phận kinh doanh có ít tiền nhàn rỗi dài ngày trong công việc kinh doanh họ sẽ thường xuyên quan tâm đến sự tiện lợi trong các dịch vụ hoặc việc gửi và lĩnh tiền từ ngân hàng có dễ dàng hay không hơn là lãi suất. Để phục vụ những đối tượng này, ngân hàng có thể bố trí tổ nhóm công tác để thu nhận và chi trả kịp thời tại các hộ kinh doanh của họ ngay khi họ có nhu cầu. Việc làm này làm gia tăng chi phí ở mức độ nhất định nhưng đổi lại ngân hàng sẽ thu hút được lượng vốn rẻ do đây là tiền gửi giao dịch. Cùng với thời gian khi công việc này trở nên phổ biến số lượng khách hàng này sẽ tăng lên, số dư tiền gửi không kỳ hạn sẽ tăng lên nhanh chóng với chi phí bình quân ngày càng giảm dần, đây là kết quả có thể dự đoán được đồng thời giúp ngân hàng tiếp cận với dịch vụ ngân hàng tại nhà.
Đối với những người có thu nhập cao thường quan tâm tới lãi suất, độ an toàn, vấn đề bảo mật và gửi kỳ hạn dài, ngân hàng nên chủ động cung cấp thông tin về các phương tiện bảo quản và lãi suất các hình thức huy động để khách hàng lựa chọn vì trong thực tế những người này rất do dự khi trực tiếp tìm hiểu về các yếu tố trên có thể xuất phát từ những lý do tế nhị.
Đối với khách hàng có thu nhập đều đặn và gửi tiền tích luỹ dần do một công việc tại thời điểm xác định trong tương lai Ngân hàng Đại Dương nên hướng họ chuyển đổi kỳ hạn tại các thời điểm thích hợp đem lại lợi ích cho khách hàng. Việc làm này còn thể hiện sự tận tình và một trong những cách thức hấp dẫn khách hàng quan trọng vì đại bộ phận cán bộ công chức chính là người có nhiều dự định nhưng thu nhập tức thời không lớn.
Đối với những doanh nghiệp hiện có đang hoạt động trên địa bàn ngân hàng có thể cử cán bộ tiếp xúc với các doanh nghiệp để giới thiệu sản phẩm và các dịch vụ ngân hàng kèm theo phục vụ cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời qua đó ngân hàng có thể theo dõi tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó có thể thấy được khi nào doanh nghiệp thừa vốn, thiếu vốn và có thể tư vấn cho khách hàng. Đối với những doanh nghiệp mới thành lập, ngân hàng nên chủ động tiếp cận và giới thiệu các sản phẩm đã có, chỉ ra những ưu điểm, tạo ra ấn tượng tốt đối với doanh nghiệp. Ngoài ra ngân hàng có thể thực hiện chính sách tặng quà, cho vay đối với những khách hàng lớn khiến họ thấy được lợi ích khi giao dịch với ngân hàng.
3.2 2 Mở rộng hình thức huy động vốn
Hạn chế trong tăng trưởng nguồn vốn một phần xuất phát từ nguyên nhân kỳ hạn tiền gửi chưa đa dạng. Ngân hàng Đại Dương chưa đa dạng được nhiều loại kỳ hạn vì vậy chưa cung cấp được những sản phẩm, dịch vụ đa dạng, điều này hạn chế cơ cấu cho vay và khả năng cung cấp tài sản có tính lỏng khác nhau, khả năng chuyển hoán kỳ hạn của tài sản không cao bằng các Ngân hàng thương mại khác.
Mở rộng các hình hức tiền gửi trong dân bao gồm cả tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi sử dụng thẻ, tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm tích luỹ, tiết kiệm bậc thang. Đa dạng hoá kỳ hạn tiết kiệm không chỉ dừng lại việc chỉ có tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn kiểu 3 tháng, 6 tháng, 1năm… Ngân hàng Đại Dương cần có giải pháp tự động chuyển hoá tiền gửi không kỳ hạn sang có kỳ hạn cho dân. Ví dụ, những người đã gửi tiết kiệm không kỳ hạn ở Ngân hàng Đại Dương từ 2 tháng trở lên có thể chuyển cho họ được hưởng quyền lợi tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, kỳ hạn tiền gửi tiết kiệm có thể 2 tháng, 3 tháng, 4 tháng, 5 tháng, 6 tháng… không cần theo quý: ½ năm, 1 năm như hiện tại. Linh hoạt về thời hạn cũng là một sự hấp dẫn tiền gửi.
“Chứng khoán hoá” các khoản tiền gửi trung, dài hạn để người sở hữu có thể linh hoạt chuyển đổi khi cần thiết. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp ngân hàng có thể nâng cao tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn. Với hình thức này, ngân hàng có thể phát hành thẻ tiết kiệm vô danh với thời hạn gửi tiền. Ngân hàng không phát hành đồng loạt mà thực hiện giống như các khoản tiền gửi tiết kiệm bình thường khác. Công cụ tạo nhiều thuận lợi cho cả khách hàng và ngân hàng.
Đối với khách hàng: Hình thức này khắc phục được nhược điểm của các khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường là họ có thể sử dụng làm quà tặng, khi đến hạn không cần người gửi tiền đến nhuận tiền tại ngân hàng mà có thể nhờ người khác lấy.
Đối với ngân hàng: Khi áp dụng hình thức huy động vốn này, ngân hàng có thể theo dõi đối tượng như một khoản tiết kiệm bình thường do đó không đòi hỏi ngân hàng phải thay đổi công nghệ. Mặt khác, ngân hàng có thể tăng được tiền gửi dài hạn. Việc quản lý và sử dụng nguồn vốn cũng rất đơn giản và dễ thực hiện.
Hiện nay ở hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung vẫn có hiện tượng: khách hàng gửi ở nơi nào thì phải rút tiền ở nơi đó hoặc nếu khách hàng muốn rút tiền gửi trước hạn thì người gửi phải rút toàn bộ số tiền đã gửi, bất kể số tiền này nhiều hay ít, gửi theo kỳ hạn nào. Người gửi tiền phải đối phó bằng cách chia khoản tiền gửi thành nhiều sổ để tránh thiệt hại khi có nhu cầu đột xuất phải rút tiền trước hạn. Biện pháp này làm cho cả ngân hàng và khách hàng đều gặp khó khăn. Để giải quyết vấn đề này Ngân hàng Đại Dương có thể từng bước mở rộng các loại hình huy động mới phù hợp với thực tiễn như: gửi một nơi rút nhiều nơi, gửi một lần rút nhiều lần, gửi nhiều lần rút một lần (tiết kiệm gửi góp) hay gửi nhiều lần rút nhiều lần với số tiền vào các khoảng thời gian được thoả thuận từ đầu kỳ gửi, vừa tạo thuận lợi cho người gửi tiền, vừa tạo thêm tích luỹ cho người gửi, qua đó Ngân hàng Đại Dươngsẽ tăng cường nguồn vốn. Ví dụ: Người có thu nhập hàng tháng 2 triệu đồng/tháng nhưng chỉ tiêu hết 1 triệu đồng/tháng có thể gửi góp vào ngân hàng trong một thời gian 2 năm, 3 năm, 5 năm… để rút ra mua sắm tài sản có giá trị lớn. Ngược lại, người được hưởng khoản tiền lớn (thừa kế, cho tặng không có tiền tiêu hàng tháng có thể rút một khoản tiền nhỏ bé để chi tiêu hàng ngày, hay người vừa có thu nhập có thể rút một khoản tiền nhỏ bé đẻ chi tiêu hàng ngày, hay người vừa có thu nhập vừa cần chi tiêu nhưng thời gian thu nhập và chi tiêu không ăn khớp nhau (3 tháng thu một lần, một tháng chi tiêu một lần) có thể thực hiện hình thức gửi nhiều lần rút nhiều lần trong kế hoạch thời gian dài 1 năm, 2 năm, 3 năm… bằng những hình thức đó, đa dạng các kênh như vậy, Ngân hàng Đại Dương sẽ thu hút được các loại tiền còn đang nằm trong dân, nhất là đối với cán bộ công nhân viên Nhà nước với thời gian dài.
Sử dụng công cụ tiền gửi có mục đích. Đây là hình thức tiết kiệm trung, dài hạn. Khi khách hàng mang tiền gửi vào ngân hàng dưới hình thức này thì giữa ngân hàng và khách hàng đều biết rõ mục đích của việc gửi tiền. Đối tượng chủ yếu của hình thức này là người có thu nhập thấp nhưng ổn định có dự định chi tiêu trong tương lai, có nhu cầu mua sắm tài sản có giá trị lớn nhưng mức tiết kiệm của họ trong thời gian ngắn không thể đáp ứng được. Do biết được mục đích gửi tiền của khách hàng, ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng về thời gian và phương thức gửi tiền.
Tiết kiệm tuổi già và tiết kiệm tích luỹ (hay tiết kiệm nhân thọ): đây là hình thức tương tự như bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Ai cũng có lúc đến tuổi già phải sinh sống, do đó khi còn mạnh khoẻ, còn lao động tới mỗi người dành một ít tiền từ thu nhập hàng tháng của mình gửi tiền tiết kiệm tuổi già để đến lúc hết tuổi lao động có thêm nguồn để sinh sống. Hình thức tiết kiệm tuổi già cùng với bảo hiểm xã hội và bảo hiểm nhân thọ sẽ đảm bảo cho người già có sức sống ổn định và cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Tiết kiệm nhà ở: Những người dân có nhu cầu làm nhà, mua nhà ở nhưng tài chính có hạn, gửi dần tiền tích luỹ được vào ngân hàng đến lúc nào đó có thể rút ra để mua nhà, xây nhà. Ngân hàng cần có chính sách cho vay ưu đãi để làm nhà, mua nhà đối với những người gửi thường xuyên, đều đặn và có quy mô đến một độ lớn nào đó thì có thể cho vay thêm để mua nhà, xây nhà bằng cách kết hợp lợi ích của người dân với lợi ích của ngân hàng, sẽ mở ra triển vọng tốt đẹp cho hình thức này.
Tiết kiệm học đường: Hình thức này dành cho những gia đình trẻ có con hoặc chưa có con nhưng muốn tiết kiệm để sau này có một khoản tiền chi trả cho con cái học hành, hình thức này cũng tương tự như hình thức các công ty bảo hiểm đang áp dụng và đã thành công như vậy ngân hàng cũng có thể áp dụng vì đây là hình thức phù hợp với tâm lý và mong muốn của người Việt Nam.
Tiền tiết kiệm mua sắm phương tiện đắt tiền(ô tô, xe máy…): Cũng như người làm nhà, mua nhà, người mua sắm ô tô, xe máy nhưng chưa đủ tiền. Số tiền có được và thu nhập hàng tháng có thể gửi vào ngân hàng để đến lúc nào đó có thể rút ra mua sắm. Ngân hàng cũng cần có cơ chế cho vay ưu đãi thêm đối với những người gửi thường xuyên và có số dư đang kể.
Ngoài ra Ngân hàng Đại Dương cũng có thể tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm các hình thức tiết kiệm như tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm rút dần, tiết kiệm tích điểm để trao thưởng,…càng đa dạng thì càng dễ thu hút được khách hàng đến giao dịch.
Ngân hàng Đại Dương cần tổ chức kiểm soát, phân tích điều kiện, tình hình huy động vốn tại từng thời điểm để có biện pháp thiết thực nhằm tăng khả năng huy động vốn. Bám sát các địa bàn đông dân cư để mở thêm các bàn tiết kiệm để tăng cường công tác huy động vốn.
Ngoài việc xem xét đưa ra các hình thức huy động mới vào kinh doanh, Ngân hàng Đại Dương cũng nên huy động vốn qua việc phát hành các giấy tờ có giá (như kỳ phiếu, trái phiếu). Hiện nay Ngân hàng Đại Dương đang bắt đầu triển khai thức huy động vốn qua hình thức này. Chi phí huy động qua hình thức này tuy lớn hơn chi phí huy động qua nguồn tiền gửi nhưng lại nhỏ hơn chi phí của nguốn tiền vay, nó giúp ngân hàng chủ động cơ cấu lại nguồn vốn, tăng cường nguồn vốn trung dài hạn, nguồn có kỳ hạn dài.
Đối với phát hành kỳ phiếu và trái phiếu:
Đây là hình thức huy động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả trong thời gian qua tuy nhiên các loại kỳ phiếu, trái phiếu này còn khá đơn điệu về kỳ hạn và lãi suất chủ yếu vẫn là kỳ hạn 3 và 6 tháng và nếu khách hàng đã mua kỳ phiếu, trái phiếu phải đợi đến khi đáo hạn mới được rút điều này làm cho tính lỏng của các loại kỳ phiếu, trái phiếu này rất kém chính vì vậy trong thời gian tới Ngân hàng Đại Dương cần phải có những thay đổi tích cực để kỳ phiếu và trái phiếu thực sự trở thành một sản phẩm hấp dẫn đối với khách hàng.
Cần nghiên cứu đưa vào triển khai sản phẩm kỳ phiếu, trái phiếu có lãi suất điều chỉnh theo thị trường hoặc lãi suất thả nổi. Đồng thời để tăng tính lỏng cho các kỳ phiếu trái phiếu này cần thực hiện nghiệp vụ chiết khấu kỳ phiếu, mua một nơi chiết khấu được nhiều nơi để thuận tiện hơn cho khách hàng khi cần tiền. Bên cạnh đó hiện nay kỳ phiếu do Ngân hàng Đại Dương phát hành chỉ có loại chứng chỉ ghi danh. Thời gian tới nên đưa thêm loại vô danh tạo tiện ích hơn hơn cho khách hàng .
Đối với kỳ phiếu và trái phiếu, người mua tuy được hưởng lãi suất cao nhưng khi đến hạn mà người mua không đến đổi sổ thì sẽ chỉ được hưởng lãi không kỳ hạn kể cả khi kỳ hạn thực gửi là bội số của kỳ hạn đăng ký ban đầu chính vì vậy có nhiều khách hàng đã phải chịu thiệt khi để chứng chỉ tiền gửi của mình quá hạn với thời gian khá lâu khi đó kỳ hạn đầu tiên khách hàng được hưởng lãi suất cam kết trên sổ còn những kỳ hạn tiếp theo chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn trong khi đó những khách hàng đó là khách hàng lâu năm, có gắn bó với ngân hàng chính vì thế ngân hàng cần có chính sách chăm sóc những khách hàng mua kỳ phiếu, trái phiếu của ngân hàng. Đối với những chứng chỉ tiền gửi đó Ngân hàng có thể là gọi điện thông báo sổ đến hạn cho khách hàng hoặc có chính sách lãi suất ưu đãi hơn cho những kỳ hạn quá hạn của khách hàng.
Phát hành trái phiếu dài hạn:
Đây là công cụ huy động vốn dài hạn khá hiệu quả của Ngân hàng Đại Dương nhằm tăng vốn tài trợ cho các dự án, các công trình trọng điểm của Đảng và Nhà nước góp phần cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Tuy nhiên để khai thác tối đa tiềm năng vốn của nền kinh tế thì việc đa dạng hóa công cụ này rất cần thiết.
Nhằm huy động vốn trung hạn và dài hạn chính vì thế Ngân hàng Đại Dương có thể nghiên cứu các kỳ hạn dài hơn như 10, 15, 20 năm so với hiện tại chỉ mới có loại 3 năm và 5 năm, nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao và Ngân hàng kinh doanh có lãi.
Ngoài ra Ngân hàng Đại Dương cũng cần có sự nghiên cứu và xin phép Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước để phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu có lãi suất có thể điều chỉnh, trái phiếu dài hạn có thể chuyển đổi sang công cụ nợ khác,… tạo điều kiện thuận lợi cho mọi khách hàng có thể mua trái phiếu của ngân hàng.
Như vậy đa dạng hóa và cung cấp các dịch vụ tiện ích kèm theo phát hành kỳ phiếu, trái phiếu là một phương thức hữu hiệu để thu hút khách hàng gửi tiền với kỳ hạn dài vào Ngân hàng Đại Dương đồng thời tạo điều kiện cho Ngân hàng Đại Dương có được nguồn vốn trung và dài hạn để có thể chủ động hơn trong các hoạt động đầu tư của mình. Vì thế Ngân hàng Đại Dương cần phải nỗ lực hơn nữa để biến kỳ phiếu trái phiếu trở thành một công cụ huy động vốn hữu hiệu phục vụ cho sự tăng trưởng nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng.
3.2.3. Vận dụng chế độ lãi suất linh hoạt
Lãi suất là một công cụ quan trọng trong công tác huy động vốn của các ngân hàng đặc biệt là huy động vốn từ các tầng lớp dân cư, do đó một chính sách lãi suất linh hoạt vừa có sức cạnh tranh vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng là rất cần thiết. Tuy nhiên nếu tăng lãi suất tiền gửi thì lại phải tăng lãi suất cho vay điều đó sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp sử dụng vốn vay và gây áp lực cho công tác tín dụng. Do vậy, ngân hàng cần phải có chính sách lãi suất vừa hấp dẫn người gửi tiền, vừa hạn chế gia tăng lãi suất đầu ra:
Nâng cao lãi suất tiền gửi trung và dài hạn, hạ lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và ngắn hạn, đảm bảo lãi suất trung bình vẫn không tăng lên đối với toàn bộ nguồn huy động.
Có biện pháp khuyến khích khách hàng duy trì được số dư tài khoản với thời gian dài hơn thời hạn ban đầu bằng cách thưởng phần trăm lãi suất.
Hiện nay mức lãi suất huy động nói chung của các ngân hàng còn nhiều bất cập, lãi suất huy động vốn (VNĐ) có chiều hướng tăng trong khi đó lãi suất cho vay lại hạ do cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Để tăng cường huy động vốn, ngân hàng cần tăng lãi suất tiền gửi, nhưng điều này gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp sử dụng vốn vay. Vì vậy, ngân hàng cần có chính sách lãi suất vừa hấp dẫn người gửi lại vừa hạn chế gia tăng lãi suất đầu ra.
Lãi suất tiền gửi trung và dài hạn cần được tăng lên, đồng thời hạ lãi suất tiền gửi không kỳ hạn hoặc kỳ hạn ngắn để đảm bảo lãi suất trung bình không bị tăng lên đối với toàn bộ vốn huy động. Việc nâng cao lãi suất trung dài hạn phải nằm trong khung giá, phải có tính cạnh tranh, ngân hàng có thể dựa vào khung lãi suất kỳ phiếu, trái phiếu của các ngân hàng lớn để đưa ra mức lãi suất vừa hấp dẫn, mang tính cạnh tranh.
Các hình thực trả lãi phải được thực hiện linh hoạt. Bên cạnh việc áp dụng hình thức trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi hàng tháng, Ngân hàng Đại Dương có thể áp dụng hình thức lãi suất luỹ tiến theo số lượng gửi tiền. Với cùng một kỳ hạn như nhau, ngân hàng có thể thay đổi mức lãi suất với những khoản tiền lớn. Với chính sách lãi suất nhạy cảm như vậy, ngân hàng có thể thu hút được những khoản tiền lớn.
Trong những năm tới, khi dịch vụ ngân hàng phát triển, công tác thanh toán qua ngân hàng được hiện đại hoá, ngân hàng sẽ tiến tới không trả lãi đối với các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn như ở các ngân hàng nước ngoài đã làm hiện nay.
Ngược lại, với các khoản tiền gửi trung và dài hạn thì mục đích chính của người gửi tiền là để hưởng lãi hoặc tích luỹ cho các mục đích mua sắm… Do đó, ngân hàng có thể tăng lãi suất loại tiền gửi này để khuyến khích người dân. Tuy nhiên, tăng ở mức vừa phải để đảm bảo tốc độ tăng huy động lớn hơn tốc độ tăng chi phí để không làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh.
Đối với khách hàng rút tiền trước hạn, khách hàng được hưởng lãi suất bậc thang, ngược lại, ngân hàng có thể khuyến khích người gửi giữ tiền trên tài khoản với một thời gian dài hơn kỳ hạn gửi ban đầu. Ví dụ: người gửi tiết kiệm một năm nhưng không rút tiền trong 2 năm thì có thể được ngân hàng thưởng thêm một tỷ lệ phần trăm nào đó.
3.2.4. Hoàn thiện tiện ích phục vụ người gửi tiền:
Để mở rộng huy động vốn trong thời gian tới ngoài việc tìm kiếm các khách hàng mới thì Ngân hàng Đại Dương cần chú trọng duy trì được những khách hàng truyền thống đã có sẵn. Muốn vậy cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng phục vụ và hoàn thiện tiện ích phục người gửi tiền thông qua một số nội dung sau:
Hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật:
Đối với những địa điểm giao dịch đã có sẵn cần phải có đề án cải tạo, hoàn thiện địa điểm giao dịch tạo một không gian giao dịch lịch sự, thuận tiện, hiệu quả cho cả ngân hàng và khách hàng. Trong quá trình mở rộng mạng lưới, Ngân hàng Đại Dương cần chú trọng lựa chọn địa thế thuận lợi và xây dựng cơ sở vật chất khang trang, một địa điểm giao dịch sang trọng, có nơi đỗ xe, có sơ đồ chỉ dẫn, có dịch vụ tư vấn,… là một nhân tố quan trọng thu hút khách hàng tới giao dịch. Khách hàng sẽ cảm thấy an tâm hơn, hài lòng hơn khi đến giao dịch tại một địa điểm thuận tiện, sang trọng và hiện đại.
Hoàn thiện chính sách chăm sóc khách hàng như chăm sóc khách hàng có số dư lớn nhân dịp sinh nhật, các ngày lễ tết như Tết âm lịch, 8/3, 2/9, 20/10 và một số ngày lễ lớn, thực hiện việc thông báo số dư tài khoản, sổ đến hạn để khách hàng thấy được sự quan tâm của ngân hàng không chỉ tới số dư tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng mà là tới cả bản thân khách hàng.
Mở rộng dịch vụ quỹ lưu động, giao dịch với khách hàng lớn tại địa điểm do khách hàng chỉ định như nhà của khách hàng, nơi khách hàng thu tiền,… để nhận tiền tại nhà, có xe ô tô đưa đón, dịch vụ bảo vệ cho khách hàng khi khách hàng đến giao dịch với những khoản tiền lớn. Bên cạnh đó ngân hàng có thể tổ chức Hội nghị khách hàng để nắm nguyện vọng và phổ biến chế độ, chính sách Ngân hàng cho khách hàng.
Bố trí cán bộ tư vấn, giải đáp thắc mắc của khách hàng thông qua điện thoại: Không phải khách hàng nào cũng có thời gian để đến ngân hàng tìm hiểu các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đang cung cấp trước khi chọn cho mình một sản phẩm phù hợp chính vì thế việc tư vấn qua điện thoại là một công việc cần thiết. Ngân hàng cần thông báo rộng rãi số điện thoại, địa chỉ liên hệ để khách hàng tiện liên lạc và giao dịch.
Nâng cao chất lượng cán bộ huy động vốn:
Đảm bảo ngoài việc thực hiện tốt chuyên môn còn phải có khả năng tư vấn giúp đỡ khách hàng tận tình chu đáo đem lại sự hài lòng cho khách hàng về sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Do đó, cần phải có sự tuyển chọn, bố trí, đào tạo cán bộ huy động vốn có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp.
Công khai các chỉ tiêu tài chính:
Ngân hàng cần phải công khai các chỉ tiêu tài chính quan trọng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để khách hàng có sự hiểu biết về ngân hàng một cách đầy đủ. Mặt khác cũng cần đẩy mạnh mối quan hệ với cấp ủy và địa phương nơi hoạt động để tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các cơ quan chức năng
Cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục giấy tờ:
Để hấp dẫn người gửi tiền và giảm bớt khối lượng giấy tờ cần phải xử lý mà vẫn đảm bảo được tuân thủ đúng các nguyên tắc kế toán ngân hàng cần phải hiện đại hóa, vi tính hóa tất cả các quy trình xử lý nghiệp vụ. Trước đây khách hàng rất ngại đến ngân hàng gửi tiền vì thủ tục giấy tờ rất rườm rà mất thời gian, nhân viên phục vụ thiếu mềm mỏng, tận tình nhiều nơi còn biểu hiện cửa quyền hách dịch. Hiện nay Ngân hàng Đại Dương đã và đang không ngừng đổi mới toàn diện hoạt động của mình, tổ chức lại bộ máy, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào quy trình nghiệp vụ. Từng bước áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại, đồng thời tiếp tục thực hiện cải tiến các nghiệp vụ thanh toán truyền thống cho phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế
Mặt khác, thủ tục giấy tờ trong giao dịch cũng cần được chú trọng hơn để giảm bớt công việc và thời gian cho khách hàng. Thiết kế giấy tờ giao dịch một cách khoa học, dễ đọc, dễ hiểu, ngắn gọn,… đảm bảo cho khách hàng có thể tiếp cận và hiểu một cách thấu đáo về nghiệp vụ giao dịch.
3.2.5. Nâng cao uy tín Ngân hàng
Bên cạnh yếu tố hưởng lợi từ những khoản tiền lãi mà ngân hàng trả cho những món tiền gửi vào ngân hàng sau những thời gian nhất định thì yếu tố an toàn cũng không kém phần quan trọng đối với những người gửi tiền. Chính vì thế uy tín của ngân hàng là sự đảm bảo cho sự an tâm của khách hàng. Thông thường khách hàng sẽ đánh giá uy tín của Ngân hàng thông qua quy mô vốn, hoạt động lâu năm, trình độ nghiệp vụ, cơ sở vật chất kỹ thuật, danh tiếng trên thương trường… để đánh giá xem ngân hàng có đáng tin cậy để đem tài sản của mình gửi vào đó trong một khoảng thời gian nhất định hay không.
Như vậy uy tín của ngân hàng là tổng hợp tất cả các mặt hoạt động của ngân hàng, để khẳng định được uy tín của mình với khách hàng, đối tác và kể cả đối thủ cạnh tranh đòi hỏi phải có một sự nỗ lực hết mình của cả một tập thể với chiến lược cụ thể. Muốn vậy trước tiên cần phải thường xuyên đảm bảo khả năng thanh toán trong mọi trường hợp không được phép thất chi, hoãn chi với khách hàng vì lý do thiếu tiền. Bên cạnh đó phải thực hiện khâu thanh toán nhanh chóng, chính xác thông qua áp dụng công nghệ hiện đại trong giao dịch: như máy đếm tiền, máy rút tiền tự động, máy soi tiền,… tham gia các kênh thanh toán trong và ngoài địa bàn để đảm bảo tính chính xác, tiết kiệm thời gian, thuận tiện cho khách hàng.
Cần tạo dựng và duy trì hình ảnh các nghiệp vụ huy động cũng như ngân hàng trong con mắt xã hội và với khách hàng tiềm năng thông qua nhân viên ngân hàng như: thực hiện nghiệp vụ nhanh chóng, thái độ lịch sự, hướng dẫn nhiệt tình, vui vẻ, thể hiện phong cách giao tiếp hiện đại theo nét văn hóa riêng có của Ngân hàng Đại Dương, thực hiện đúng Slogan của Ngân hàng Đại Dương“ Vững vàng tin cậy”.
3.2.6. Xây dựng các chương trình marketing hiệu quả
Ngày nay thông tin tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo là hoạt động cần thiết của tất cả các hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh ngân hàng nói riêng, nó vừa là một phương tiện, phương pháp kỹ thuật, nghệ thuật vừa là công cụ để nối liền hoạt động kinh doanh của ngân hàng với thị trường. Trong thời gian qua công tác tuyên truyền đã được Ngân hàng Đại Dương chú trọng triển khai nhưng chưa thực sự có hiệu quả. Trong thời gian tới Ngân hàng cần phải tập trung hơn nữa cho công tác tuyên truyền quảng cáo tập trung một số vấn đề như lãi suất tiền gửi, hình thức huy động, các hình thức khuyến mại, khai trương chi nhánh, phòng giao dịch mới,…Thực tế cho thấy nhiều đợt phát hành kỳ phiếu, trái phiếu của ngân hàng với lãi suất hấp dẫn trong một thời hạn ngắn mà vẫn không thu hút được nhiều khách hàng. Đó là do phần lớn người dân không biết đến những thông tin này ngoại trừ những khách hàng đã có mối liên hệ thường xuyên với ngân hàng hoặc những khách hàng có giao dịch với ngân hàng vào đúng thời điểm huy động của ngân hàng.Vì vậy việc tuyên truyền, quảng cáo cần phải tiến hành thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng để từng người dân có thể biết đến những dịch vụ mà ngân hàng đang cung cấp và lợi ích của họ khi gửi tiền cũng như sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Cụ thể công tác khuyếch trương cần phải chú trọng những vấn đề sau:
Cần phải khảo sát tất cả các đơn vị hành chính, tổ chức kinh tế, trường học, bệnh viện, tòa nhà, có địa điểm xung quanh trụ sở, chi nhánh, phân lọc các đơn vị có số lượng lao động tập trung. Tiếp cận và xây dựng mối quan hệ với các đơn vị trên.
Phối kết hợp tất cả các phòng ban trong chi nhánh tận dụng các mối quan hệ để tiếp thị các doanh nghiệp mở tài khoản, sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như: dịch vụ thanh toán trong nước, quốc tế, tín dụng, trả lương qua tài khoản và sử dụng dịch vụ ATM,…
Thực hiện dán áp phích quảng cáo cho các đợt tăng lãi suất, sản phẩm huy động mới. Gửi thư kèm tờ rơi, quà tặng cho từng phòng ban các đơn vị, từng khách hàng để giới thiệu về sản phẩm huy động mới, sự gia tăng lãi suất, chất lượng dịch vụ,…Khuyếch trương hình ảnh ngân hàng thông qua treo các băng rôn khẩu hiệu, tham gia tài trợ cho các chương trình hoạt động phổ biến tại các khu vực đông dân cư.
Tham gia vào các tổ chức mang tính yểm trợ như: Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng ASEAN, Hiệp hội ngân hàng châu Á, tham gia các Hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế,.. qua đó nhằm nâng cao uy tín, đảm bảo khả năng an toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
3.2.7. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Con người là yếu tố trung tâm quyết định đến sự thành bại của mọi tổ chức doanh nghiệp. Đối với Ngân hàng thương mại thì yếu tố con người là quan trọng hơn cả. Muốn cho sự nghiệp kinh doanh của ngân hàng ngày càng phát triển, hoạt động quản lý kinh doanh và chiến lược khách hàng được tiến hành thuận lợi, đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên quan tâm và đưa ra chiến lược con người phù hợp bắt đầu từ khâu tuyển dụng, sắp xếp bố trí công tác, thực hiện đào tạo và đào tạo cán bộ để có thể bắt kịp với những thay đổi.
Dù hoạt động ở lĩnh vực nào, cán bộ, nhân viên ngân hàng cần quán triệt sâu sắc tinh thần tận tụy, chu đáo với sự nghiệp của toàn đơn vị. Cán bộ ngân hàng được coi như tấm gương phản chiếu về ngân hàng, là một yếu tố củng cố uy tín của ngân hàng. Do vậy phải tạo cho cán bộ ngân hàng một phong cách chuyên nghiệp, tác phong phục vụ khách hàng lịch sự, văn minh và có trách nhiệm. Mọi thành viên cần hiểu rõ khách hàng là người bạn đồng hành của ngân hàng và “khách hàng là người trả lương cho chúng ta”, cần hiểu nhu cầu và mong muốn của họ để từ đó mới thực hiện thành công chiến lược khách hàng vì chiến lược này phải được duy trì thường xuyên lâu dài.
Bên cạnh đó cần có chính sách động viên, khuyến khích cán bộ của mình tự nâng cao nghiệp vụ bằng cách hỗ trợ cả về vật chất và tinh thần, tạo mọi điều kiện cho các cán bộ được tìm hiểu, nghiên cứu, học tập hay tiếp cận với các mô hình, quy trình nghiệp vụ ở các nước có hệ thống ngân hàng hiện đại. Qua đó giúp các cán bộ có thể học hỏi kinh nghiệm, vận dụng một cách phù hợp với thực tế ở nước ta.
Đồng thời cũng cần phải kiện toàn bộ máy quản lý, bố trí sắp xếp nhân lực hợp lý ổn định theo định hướng chọn người có trình độ khả năng phù hợp với vị trí công việc. Tổ chức bộ máy hoạt động theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả.
Để có được kết quả như trên Ngân hàng Đại Dương cần chú trọng ngay từ khâu tuyển dụng cán bộ cho đến khâu đào tạo, quản lý để có được một đội ngũ cán bộ vừa có năng lực phẩm chất tốt vừa vững vàng về nghiệp vụ chuyên môn chỉ có như thế mới có thể quản lý điều hành tốt công tác huy động vốn cũng như làm tiền đề cho việc mở rộng quá trình huy động vốn trong tương lai.
3.3 KIẾN NGHỊ
3.3.1 Kiến nghị đối với Nhà nước
Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định:
Để góp phần đưa nền kinh tế nước ta đi vào phát triển và ổn định, trước hết, chính phủ cần quản lý tốt các nhân tố vĩ mô trong đó quan trọng nhất là kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất để mọi tài sản dù thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều được sung dụng vào các mục tiêu kinh tế, đồng thời bảo đảm khả năng sinh lời hợp lý trong mọi hoạt động đầu tư.
Hoàn thiện môi trường pháp lý:
Nhà nước tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi, ban hành các bộ luật, văn bản dưới luật có liên quan đến hoạt động kinh tế nói chung, đến hoạt động các ngân hàng nói riêng tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động của doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại đi đúng giới hạn cho phép và phân rõ trách nhiệm của người đi vay và người cho vay trong quan hệ tín dụng.
Ổn định về tiền tệ: Khi lòng tin của dân chúng vào sự ổn định của đồng tiền Việt Nam được nâng cao thì công tác huy động vốn sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Nhà nước cần xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, định hướng đầu tư, tiếp tục duy trì lạm phát ở mức thấp, ổn định giá trị đồng tiền nội tệ để khuyến khích đầu tư, thực hiện đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp,…tạo môi trường ổn định cho các doanh nghiệp hoạt động.
Có chính sách kinh tế hợp lý:
Các chính sách kinh tế của Nhà nước đều có ảnh hưởng đến tất cả các thành phần kinh tế nói chung đến hoạt động ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy khi Nhà nước thực thi những chính sách kinh tế hợp lý sẽ tạo một môi trường hoạt động hiệu quả cho ngân hàng, đặc biệt là những chính sách kích thích đầu tư. Muốn vậy Nhà nước cần phải thực hiện đơn giản hoá các thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, công chứng và tài sản thế chấp, lệ phí đăng ký sở hữu tài sản,…
Sớm hình thành thị trường vốn ở quy mô toàn quốc để mọi nguồn vốn phân tán, nhỏ bé đều được tập trung vào các cơ hội đầu tư sinh lời. Sự thiếu vắng của một thị trường vốn được tổ chức quy mô, bài bản và hiệu quả là một trong những nguyên nhân chính yếu làm cho tiềm năng vốn còn rất lớn ở trong dân cư hiện nay chưa được khai thác đúng mức vào các hoạt động kinh tế ích nước lợi nhà.
Gấp rút kiện toàn về mặt tổ chức, thể chế và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp cũng là một bước đi cần thiết để thị trường vốn sớm phát huy tác dụng.
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý vĩ mô trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đối với nền kinh tế và là ngân hàng của các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước có vị trí quan trọng trong việc đề ra định hướng chiến lược kinh tế nói chung và chiến lược huy động vốn phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước nói riêng. Trên cơ sở Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng Ngân hàng Nhà nước xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ hệ thống các văn bản dưới luật, các quyết định, quy định của Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả.
Tổ chức thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng đặc biệt đối với các trường hợp huy động vốn trái phép, cạnh tranh không lành mạnh giữa các Ngân hàng thương mại.
Khởi thảo và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia một cách linh hoạt trong đó cần phải khuyến khích tiết kiệm, tập trung vốn nhàn rỗi đầu tư cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy các Ngân hàng thương mại và tổ chức cạnh tranh lành mạnh, tự chủ trong kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước cần dùng lãi suất làm “đòn bẩy” thúc đẩy các Ngân hàng thương mại chú trọng công tác huy động vốn.
Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường phối hợp tốt với các ngành quản lý quỹ đầu tư nước ngoài, quỹ viện trợ từ các tổ chức Chính phủ và phi chính phủ nước ngoài nhằm động viên mọi nguồn vốn nước ngoài vào Việt nam qua kênh hệ thống các Ngân hàng thương mại.
Ban hành cơ chế phát hành và sử dụng các phương tiện thanh toán điện tử: thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,… nhằm giúp các ngân hàng nhánh chóng triển khai dịch vụ thanh toán thẻ có hiệu quả.
Cho phép các Ngân hàng thương mại được phép mua bán các loại giấy tờ có giá như: trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu kho bạc,… nhất là các giấy tờ có giá dài hạn. Đồng thời cũng cần có các khoản vay ưu đãi hỗ trợ về mặt tài chính cho các Ngân hàng thương mại trong việc đổi mới công nghệ ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước cần quy định cụ thể các thông tin, số liệu về hoạt động mà các tổ chức tín dụng bắt buộc phải công khai cho công chúng biết theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Qua đó giúp khách hàng có được đánh giá đúng đắn về ngân hàng và đưa ra quyết định đúng đắn cho riêng mình.
KẾT LUẬN
Ngân hàng với vai trò là "kênh dẫn vốn" cho nền kinh tế phải có đủ nguồn vốn đáp ứng mọi nhu cầu ngày càng phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, mỗi ngân hàng thương mại phải đưa ra những giải pháp cụ thể trong từng thời kỳ nhằm thu hút tối đa nguồn vốn huy động trong nước với những hình thức huy động vốn ngày càng phong phú và đa dạng hoá phù hợp với cung cầu vốn của nền kinh tế.
Với động cơ này, luận văn đã đi vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn. Luận văn đã làm sáng tỏ vấn đề, trong công tác huy động, Các Ngân hàng thương mại không chỉ hoàn thiện những hình thức sẵn có mà còn phải tiếp cận và chọn lọc để sử dụng các hình thức mới phù hợp với hoạt động của từng ngân hàng.
Luận văn trên là kết quả đạt được của tôi từ những nghiên cứu lý luận và thực tế trong nhiều năm công tác tại Ngân hàng Đại Dương.
Với mong muốn đóng một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào hoạt động thực tế nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Đại Dương. Tác giả mong muốn những ý kiến, giải pháp của mình trong luận văn này sẽ có cơ hội thử nghiệm tại Ngân hàng Đại Dương cũng như các Ngân hàng thương mại khác và thông qua đó góp phần nâng cao vị thế của Ngân hàng Đại Dương trong công tác huy động vốn.
Xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
Nguyễn Văn Nam, Vương Trọng Nghĩa (2001), Quản trị Ngân hàng thương mại,NXB Tài chính, Hà Nội.
Ngân hàng TMCP Đại Dương ( 2006, 2007, 2008), Báo cáo thường niên, Hà nội.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2002), Quyết định 1287/2002/QĐ-Ngân hàng Nhà nước của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước, Hà nội
Cao Sỹ Kiêm (1995), Đổi mới chính sách tiền tệ - tín dụng – ngân hàng trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Dương.doc