Đề tài Tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế giá trị gia tăng (VAT) từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội

Mục lục LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT NGUỒN THU THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP. 1.1/ Kiểm tra, kiểm soát trong hệ thống quản lý nhà nước. 1 1.1.1 - Những vấn đề chung về quản lý. 1 1.1.2 - Kiểm tra, kiểm soát- một chức năng của quản lý Nhà nước. 2 1.1.3 - Kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính của doanh nghiệp. 5 1.2/ Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. 10 1.2.1 - Những vấn đề cơ bản về thuế GTGT. 10 1.2.2 - Vai trò của kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT. 12 1.2.2.1- Vai trò của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT 12 1.2.2.2 - Những mục tiêu cơ bản của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT: 14 1.2.3 - Nội dung của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. 16 1.2.3.1. Quy trình quản lý nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp. 16 1.2.3.2 Tổ chức bộ máy kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ doanh nghiệp 19 1.3/ Những nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát thuế GTGT từ các doanh nghiệp. 22 1.3.1 - Tác động của ý thức xã hội đối với việc chấp hành Luật pháp Nhà nước. 22 1.3.2 - Tác động của hệ thống Luật pháp 23 1.3.3 - Ảnh hưởng của hệ thống kiểm toán nội bộ 23 1.3.4 - Cơ sở vật chất kỹ thuật 24 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1/ Quá trình triển khai Luật Thuế GTGT với kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. 26 2.2/ thực trạng công tác kiểm soát nguồn thu thuế gtgt từ các doanh nghiệp theo quy trình quản lý thuế. 32 2.2.1 - Tác động của Quy trình quản lý thuế đối với Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. 32 2.2.2 - Những mặt tồn tại của Luật thuế GTGT và quy trình kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT. 36 2.3/ công tác tổ chức bộ máy quản lý thuế đối với kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. 40 2.4/ Công tác kiểm tra việc chấp hành luật thuế của các doanh nghiệp thông qua quyết toán thuế. 41 2.5/ Đánh giá công tác thanh tra thuế GTGT. 45 2.6/ về công tác kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp. 48 2.7/ Các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. 50 2.7.1 - Tác động của việc ban hành các văn bản pháp quy. 50 2.7.2 - Tác động của ý thức xã hội đối với kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. 52 CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT NGUỒN THU THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 3.1/ Những định hướng và quan điểm cơ bản về quản lí nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. 55 3.2/ Những giải pháp tăng cường kiểm soát thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội 59 3.2.1 - Xác định mô hình quản lý thu thuế trong giai đoạn tới. 59 3.2.2 - Hoàn thiện quy trình quản lý thu thuế và tổ chức bộ máy. 61 3.2.2.1- Hoàn thiện quy trình quản lý thu thuế. 61 3.2.2.2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức ngành Thuế. 62 3.2.3 - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế. 65 3.2.4 - Tăng cường công tác xử lý khiếu nại về thuế: 71 3.2.5 - Xây dựng hệ thống thông tin kiểm soát thu thuế. 76 3.3/ Kiến nghị đối với nhà nước. 77 3.3.1 - Về đối tượng chịu thuế: 77 3.3.2 - Về thuế suất thuế GTGT. 78 3.3.3 - Về áp dụng phương pháp tính thuế và sử dụng hoá đơn. 78 3.3.4 - Về khấu trừ thuế GTGT đầu vào. 80 3.4.5 - Xác định chính xác doanh thu, chi phí để tính thuế 80 3.4.6 - Tăng cường công tác kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp. 81 3.4.7 - Tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. 84 KẾT LUẬN

doc96 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2585 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế giá trị gia tăng (VAT) từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chặt chẽ, không chồng chéo, không gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện. Chính sách thuế phải bảo đảm việc quản lý thu thuế chặt chẽ, chống trốn lậu thuế, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế của ngành Thuế với doanh nghiệp và các đối tượng nộp thuế. 3.2/ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KIỂM SOÁT THU THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 3.2.1 - Xác định mô hình quản lý thu thuế trong giai đoạn tới. Thực chất của kiểm soát thu thuế nói chung, thu thuế GTGT nói riêng là giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thuế (chủ yếu là ngành Thuế) với các đối tượng nộp thuế - các doanh nghiệp nhằm đặt các mục tiêu của quản lý thu thuế. Do vậy, giải pháp trước tiên cần phải nhằm giải quyết tận gốc mối quan hệ giữa Cơ quan Thuế với các doanh nghiệp. Hay nói một cách khác, phải xác định được mô hình quản lý thu thuế trong giai đoạn tới. Qua 2 năm thực hiện Luật Thuế GTGT, mô hình quản lý thu thuế theo phương thức doanh nghiệp tự tính thuế, tự kê khai thuế và nộp tiền thuế vào Kho bạc Nhà nước về cơ bản đã thể hiện được đặc tính ưu việt của nó. Theo mô hình này, doanh nghiệp đã tự ý thức được nghĩa vụ của mình với Nhà nước, đã nâng cao được sự tự giác, tự nguyện. Mô hình này còn thể hiện được tính pháp lý của việc nộp thuế, theo đó doanh nghiệp không kê khai và nộp thuế cũng đồng nghĩa với việc vi phạm Pháp luật của Nhà nước. Chính vì vậy, trong giai đoạn tới, theo tác giả vẫn thực hiện theo mô hình doanh nghiệp tự tính, tự kê khai và nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước. Tuy vậy, chúng ta cần hoàn thiện mô hình này để kiểm soát nguồn thu thuế GTGT thực sự đạt được hiệu quả cao. Mục tiêu của nghiệp vụ quản lý thuế trong giai đoạn tới là: thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện các quy định về thuế của đối tượng nộp thuế, tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế và công tác thanh tra, kiểm tra thuế, thực hiện tự động hoá công tác xử lý thông tin thuế, phát hiện nhanh các trường hợp vi phạm về thuế nhằm hạn chế tình trạng trốn thuế, bảo đảm tăng thu cho NSNN. Với mục tiêu trên, phương hướng hoàn thiện mô hình này thể hiện chủ yếu trên những khía cạnh sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp và hộ kinh doanh lớn sẽ thực hiện việc tự tính, tự kê khai thuế và tự nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước. Thứ hai, việc nộp thuế phải được xác nhận của Kho bạc Nhà nước. Đồng thời hệ thống Kho bạc phải có sự thông tin liên tục và cập nhật hàng ngày với Cơ quan Thuế để xác định số thuế phải nộp, số thuế đã nộp của các đối tượng nộp thuế. Thứ ba, bộ phận xử lý tờ khai, chứng từ thanh toán thuế của cơ quan Thuế, nhập tờ khai thuế và chứng từ thanh toán thuế để phát hiện các trường hợp không nộp tờ khai thuế hoặc không nộp đủ thuế, phát hành thông báo nhắc nhở và cung cấp thông tin cho bộ phận thanh tra thuế, cưỡng chế thuế. Thứ tư là xử lý các vi phạm về thuế. Bộ phận Thanh tra thuế lựa chọn các đối tượng có hiện tượng nghi vấn để thực hiện thanh tra, kiểm tra và tiến hành xử lý các hành vi vi phạm về thuế. Bộ phận cưỡng chế thuế sẽ thực hiện các biện pháp xử lý thu thuế đối với những doanh nghiệp cố tình không nộp thuế, trốn thuế. Mô hình này đòi hỏi phải có sự phối, kết hợp giữa 3 bộ phận cấu thành là Cơ quan Thuế, Kho bạc và Đối tượng nộp thuế. Trong đó, Cơ quan Thuế là người chịu trách nhiệm trực tiếp với Nhà nước và do vậy phải được nâng cao quyền tự chủ, tự quyết theo quy định của pháp luật. Cơ quan Thuế và Kho bạc Nhà nước qua quy trình quản lý thu thuế sẽ phát hiện những vi phạm pháp luật thuế của đối tượng nộp thuế. Bên cạnh đó, công tác thanh tra, kiểm tra phải được tăng cường. những vi phạm của đối tượng nộp thuế sẽ được xử lý nghiêm minh bằng một hệ thống Luật và văn bản dưới Luật đầy đủ và chặt chẽ. 3.2.2 - Hoàn thiện quy trình quản lý thu thuế và tổ chức bộ máy. 3.2.2.1- Hoàn thiện quy trình quản lý thu thuế. Như phần trước đã trình bày, Quy trình quản lý thu thuế hiện nay có những thủ tục rườm rà, chưa loại bỏ hoàn toàn tình trạng cán bộ chuyên quản thuế và việc ra thông báo thuế có nhiều vướng mắc. Do vậy, theo tác giả, cần hoàn thiện quy trình quản lý thu thuế theo hướng như sau: Thứ nhất, là cần xoá bỏ triệt để chế độ chuyên quản thuế. Xoá bỏ chế độ chuyên quản thuế sẽ hạn chế thấp nhất tình trạng tiêu cực, thông đồng của cán bộ thuế với doanh nghiệp trong việc trốn thuế, tránh thuế. Tuy vậy, khi xoá bỏ chế độ chuyên quản thuế sẽ phát sinh nhiều vấn đề. Trong đó, ngành Thuế sẽ có thể không nắm được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp để khai thác triệt để các nguồn thu cũng như giải quyết không thoả đáng những thắc mắc, khiếu nại về thuế của doanh nghiệp. Do vậy, khi xoá bỏ hoàn toàn chế độ chuyên quản thuế cũng phải kết hợp với biện pháp khác là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế, mặt khác trên góc độ pháp luật, ngành Thuế cần thành lập bộ phận độc lập để giải quyết những khiếu nại về thuế của đối tượng nộp thuế. Thứ hai, là xoá bỏ chế độ ra thông báo thuế của Cơ quan Thuế. Việc xoá bỏ thông báo thuế không có nghĩa là làm giảm tính bắt buộc, tính pháp lý của việc nộp thuế, trái lại nó khuyến khích các doanh nghiệp tự nguyện tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế. Mặt khác, bãi bỏ chế độ ra thông báo thuế còn làm giảm chi phí, nguồn lực cho Cơ quan Thuế. Thứ ba, bên cạnh việc xoá bỏ thông báo thuế, ngành Thuế cần kết hợp cơ chế kê khai thuế đồng thời với việc thanh toán thuế. Cơ chế này tạo điều kiện cho việc thông báo thuế một cách tự động, đồng thời giảm bớt thủ tục cho doanh nghiệp khi kê khai và nộp thuế. Để thực hiện cơ chế này, ngành Thuế cần ấn định một ngày cụ thể trong tháng hoặc đầu tháng sau mà trước thời gian đó, doanh nghiệp phải nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Thứ tư, trong giai đoạn 2001 - 2005, ngành Thuế cần rà soát lại toàn bộ các thủ tục hành chính thuế được quy định rải rác tại các Luật thuế, các văn bản dưới Luật để nghiên cứu xây dựng hệ thống thủ tục quản lý hành chính thuế thống nhất để đến giai đoạn 2006 - 2010, chính thức ban hành Luật về thủ tục hành chính thuế. Luật về thủ tục hành chính thuế sẽ có nội dung cơ bản là quy định cụ thể, chi tiết chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp. Đồng thời, Luật này cũng quy định những thủ tục mà doanh nghiệp phải thực hiện khi kê khai và nộp thuế trong quy trình quản lý thu thuế. Với sự ra đời của Luật về thủ tục hành chính thuế, việc nộp thuế sẽ trở nên khách quan, công bằng đối với mọi doanh nghiệp và tạo ra sự bình đẳng giữa cơ quan quản lý Nhà nước về thuế với các doanh nghiệp trước pháp luật. Thứ năm, quy trình quản lý thu thuế phải chú trọng tới việc phối kết hợp giữa các Cục thuế tại các địa phương .Sự phối kết hợp này cần phân định một cách rõ ràng các đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế, nhất là các doanh nghiệp hạch toán toàn ngành, các Tổng công ty thuộc đối tượng quản lý thu thuế của từng địa phương. Mặt khác, Quy trình quản lý thu thuế cũng cần quy định sự kết hợp giữa các Cơ quan Thuế ở các địa phương khác nhau trong việc thu thuế, phát hiện hoá đơn giả, mua bán hoá đơn, cũng như trong việc cưỡng chế thuế đối với các đối tượng nộp thuế. Với những biện pháp nêu trên, Quy trình quản lý thu thuế sẽ từng bước được hoàn thiện, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của kiểm soát thu thuế GTGT. 3.2.2.2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức ngành Thuế. Phần lớn các hệ thống quản lý thuế trên thế giới đều hoạt động theo nguyên tắc tự tính thuế và nộp thuế trên cơ sở tính tự giác của đối tượng nộp thuế. Mục tiêu cơ bản của hệ thống này là giảm tới mức tối thiểu mối quan hệ trực tiếp với những đối tượng nộp thuế chấp hành đúng quy định về thuế. Bằng cách đó, với lực lượng cán bộ có hạn của bộ máy quản lý thuế, có thể tập trung vào việc kiểm tra, phát hiện và xử lý những trường hợp vi phạm. Trong thời gian tới, số lượng các đối tượng nộp thuế sẽ tăng lên nhanh chóng. Những thay đổi này sẽ làm cho kiểm soát nguồn thu thuế GTGT ngày càng khó khăn hơn. Vì vậy, điều thiết yếu là phải cải tổ hệ thống quản lý thuế nhằm giúp cho hệ thống này theo kịp chuyển đổi của nền kinh tế. Một bộ máy quản lý thuế có hiệu lực phải đáp ứng các mục tiêu sau: - Phải xác định rõ và đầy đủ nhiệm vụ của Cơ quan Thuế. - Phải nâng cao hơn nữa quyền hạn và tính chủ động của tổ chức bộ máy Cục thuế Hà Nội. - Phải sửa đổi tổ chức bộ máy để thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý thuế. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành bộ máy quản lý thuế, theo tác giả, trước mắt Chính phủ cần ban hành một Nghị định mới thay thế Nghị định 281/HĐBT ngày 7/8/1990 của Hội đồng bộ trưởng về thành lập Hệ thống thu thuế Nhà nước, chuẩn bị bước đệm để ban hành Luật về thủ tục Hành chính thuế. Trên địa bàn Hà Nội, bộ máy Cục thuế cần được sửa đổi theo hướng: nâng cao khả năng quản lý đối tượng nộp thuế của bộ máy, tức là khi số lượng đối tượng nộp thuế tăng lên thì nhân lực cũng không cần tăng tỷ lệ thuận với số lượng đối tượng nộp thuế, bộ máy phải tạo điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại vào quản lý thuế, thực hiện chuyên môn hoá cao trong các khâu công việc. Vì vậy, trong giai đoạn tới Cục thuế Hà Nội cần phát triển hệ thống tuyên truyền thuế, dịch vụ phục vụ đối tượng nộp thuế, hình thành riêng Phòng xử lý tờ khai thuế, phòng thu các trường hợp chậm nộp, gian lận và cưỡng chế thuế; sắp xếp lại các Phòng Quản lý hiện nay để thực hiện chức năng của các Phòng Thanh tra, kiểm tra. Mô hình tổ chức sẽ chuyển hẳn sang cơ chế quản lý theo hệ thống tự tính thuế hoàn toàn và bộ máy quản lý được tổ chức theo chức năng công việc. Cơ cấu bộ máy Cục thuế được tổ chức theo mô hình sau: Sơ đồ 3 : CƠ CẤU BỘ MÁY CỤC THUẾ THEO CHỨC NĂNG CÔNG VIỆC Cục trưởng và các Cục phó cục thuế Phòng Dịch vụ đối tượng nộp thuế Phòng Thanh tra và điều tra thuế (theo đối tượng) Phòng Đốc thu và Cưỡng chế thuế Phòng Xử lý tờ khai thuế Các Phòng quản lý nội bộ Mô hình này đáp ứng được các yêu cầu, mục tiêu được đưa ra ở trên, cụ thể là: - Mô hình này cho phép tăng cường hiệu suất quản lý, tạo điều kiện cho cán bộ phát triển chuyên môn theo chức năng (tính thuế, theo dõi, cưỡng chế thu nộp, thanh tra), Cơ quan Thuế có thời gian để tập trung vào việc phát hiện những hiện tượng vi phạm và kịp thời xử lý. Hơn nữa cũng hạn chế được tiêu cực do giảm việc tiếp xúc giữa cán bộ thuế với đối tượng nộp thuế. - Mô hình này không gây áp lực về nhân lực quản lý khi trong tương lai, số lượng đối tượng nộp thuế tăng lên. - Mô hình này được tổ chức theo chức năng, do đó bảo đảm Cơ quan Thuế hoạt động hữu hiệu hơn, tạo điều kiện hiện đại hoá công tác quản lý bằng việc ứng dụng máy tính hoàn toàn các khâu quản lý. Tại các Chi cục thuế, bộ máy Chi cục thuế sẽ được củng cố theo hướng: phát triển hệ thống tổ chức thông tin tuyên truyền thuế, dịch vụ phục vụ đối tượng nộp thuế thông qua các tổ nghiệp vụ ở các chi cục. Bên cạnh việc xây dựng mô hình bộ máy tổ chức, Cục thuế Hà Nội cần quan tâm đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ thuế thông qua đào tạo từ trình độ cơ bản, chuyên sâu đến nâng cao. Cán bộ thuế phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, giỏi về kế toán, thành thạo kỹ năng làm việc, kỹ năng quản lý, có trình độ tin học và ngoại ngữ; Cán bộ thuế phải có phẩm chất đạo đức tốt và có tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Với mục tiêu đó, việc đào tạo cán bộ thuế phải được thực hiện theo hướng sau: - Đào tạo cán bộ theo hướng chuyên môn hoá sâu theo từng chức năng công việc, phù hợp với mô hình quản lý theo phương pháp tự tính, tự khai, tự nộp thuế. - Trang bị kiến thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn, bảo đảm cán bộ có khả năng tốt trong việc phân tích, đánh giá khả năng thực thi của chính sách thuế làm cơ sở cho hoạch định chính sách thuế cũng như đề xuất các biện pháp quản lý thu. - Đào tạo một lực lượng cán bộ thực sự giỏi, cán bộ đầu ngành, nhiều kinh nghiệm quản lý để đảm đương công việc mũi nhọn của ngành và các lĩnh vực quản lý thuế phức tạp, đồng thời đáp ứng yêu cầu của công tác cán bộ trong quá trình hội nhập khu vực. 3.2.3 - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Thanh tra, kiểm tra thuế: về mặt nhận thức, công tác thanh tra, kiểm tra hiện nay được coi là mặt công tác chủ yếu, quan trọng hàng đầu của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Tuy vậy, công tác thanh tra trên thực tế vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của cơ chế tự kê khai và nộp thuế của các doanh nghiệp, các hiện tượng trốn lậu thuế, thất thu thuế vẫn là vấn đề nhức nhối của toàn hệ thống thuế nói chung và Cục thuế Hà Nội nói riêng. Do vậy, theo tác giả, ngành Thuế phải rà soát lại toàn bộ các hoạt động, định hướng lại các mục tiêu và xây dựng quy trình thanh tra, kiểm tra thuế một cách độc lập. Và đây phải là công tác trọng tâm của việc kiểm soát nguồn thu thuế GTGT trong giai đoạn tới. Trên góc độ kiểm soát, thanh tra, kiểm tra thuế là một hoạt động ngoại kiểm do Cơ quan thế với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thuế tiến hành. Vì vậy, để củng cố và hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế, trước tiên cần xác định rõ mục tiêu của hoạt động thanh tra, kiểm tra thu thuế GTGT. Mục tiêu chung nhất mà mọi cuộc thanh tra thuế phải đạt tới là: - Phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm của doanh nghiệp trong việc tuân thủ các quy định pháp luật về thuế GTGT. - Phát hiện và xử lý những vi phạm của doanh nghiệp trong việc chấp hành chế độ tài chính - kế toán do Nhà nước quy định. - Thu thập thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhằm cung cấp cho bộ phận xây dựng chính sách thuế để có những điều chỉnh kịp thời về chính sách thuế cũng như về biện pháp quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp. Tiếp theo việc xác định mục tiêu, công tác thanh tra cần xác định trình tự của một cuộc kiểm soát. Ở đây, cần xác định trong kiểm soát thu thuế GTGT, đối tượng cụ thể của kiểm soát là thực trạng tài chính của doanh nghiệp, các phần hành kiểm soát có thể là quan hệ thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh hay nghiệp vụ về TSCĐ... Khách thể của kiểm soát là các doanh nghiệp, chủ thể của kiểm soát là Cơ quan Thuế. Trong kiểm soát thu thuế GTGT, phạm vi của kiểm soát bao gồm kiểm soát về thông tin và kiểm soát tính quy tắc. Theo đó, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải hướng vào việc đánh giá tính trung thực và hợp pháp của các tài liệu kế toán và đánh giá tình hình thực hiện các thể lệ, chế độ, Luật pháp về thuế GTGT của doanh nghiệp. Với những yếu tố trên, trình tự của một cuộc thanh tra phải bao gồm 3 bước cơ bản là: - Bước 1: Chuẩn bị kiểm soát bao gồm tất cả các công việc khác nhau nhằm tạo ra cơ sở pháp lý và nguồn lực con người, phương tiện cho việc kiểm soát. - Bước 2: Tiến hành kiểm soát. - Bước 3: Kết thúc kiểm soát và đưa ra kết luận thanh tra, đưa ra các biện pháp xử lý vi phạm. Với ba bước như trên, việc xây dựng một Quy trình thanh tra, kiểm tra thu thuế GTGT là nhu cầu vô cùng cần thiết. Theo tác giả, Quy trình thanh tra có thể được mô tả trên sơ đồ 4. * Thu thập thông tin: ở bước chuẩn bị thanh tra, việc thu thập thông tin cần hướng đến việc đưa ra quyết định về thanh tra mà chưa đặt ra mục đích thu thập bằng chứng để đưa ra kết luận thanh tra. Các thông tin được đưa ra nói chung phản ánh chiều rộng của đối tượng thanh tra hơn là chiều sâu. Do vậy, nó phát hiện những dấu hiệu của việc vi phạm Luật thuế mà những tiêu chuẩn để phát hiện chính là các quy định pháp luật về thuế. Ở giai đoạn này, các dấu hiệu vi phạm sẽ được phát hiện bởi Phòng Xử lý tờ khai thuế (khi doanh nghiệp có dấu hiệu kê khai không đúng thuế), Phòng Thống kê, máy tính (khi doanh nghiệp tính sai thuế suất và thuế phải nộp hoặc còn nợ đọng thuế), Phòng Thanh tra và điều tra thuế (khi doanh nghiệp có tiền án tiền sự về vi phạm Luật thuế). * Xác định mục tiêu và phạm vi thanh tra: Trên cơ sở những dấu hiệu vi phạm của doanh nghiệp, Phòng Thanh tra và Điều tra thuế sẽ xác định mục tiêu của cuộc thanh tra. Mục tiêu đó có thể là kiểm tra sau hoàn thuế, kiểm tra quyết toán thuế, khấu trừ thuế hay kiểm tra việc sử dụng hoá đơn, chứng từ cũng như việc tuân thủ chế độ hạch toán kế toán và luân chuyển chứng từ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, một cuộc thanh tra thuế thường bao gồm tất cả các mục tiêu trên và thường kết hợp thanh tra cùng một lúc với việc chấp hành các Luật Thuế GTGT và Luật thuế TNDN. Bên cạnh việc xác định mục tiêu thanh tra, cần xác định phạm vi của việc thanh tra. Việc thanh tra có thể tiến hành trên một hay một nhóm các doanh nghiệp có cùng dấu hiệu vi phạm. Phạm vi thanh tra còn phải xác định được thời gian thực hiện các nghiệp vụ cần thanh tra. Trên khía cạnh này, phạm vi thanh tra có thể là tháng, quý hoặc năm tài khoá mà doanh nghiệp thực hiện quyết toán. Các mục tiêu và phạm vi của cuộc thanh tra thường kết hợp chặt chẽ với nhau, thể hiện ở 2 hình thức: thanh tra định kỳ và thanh tra đột xuất. Thanh tra định kỳ (ví dụ thanh tra quyết toán thuế hàng năm của doanh nghiệp) sẽ hướng tới việc tạo lập nền nếp tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế. Ngược lại, thanh tra đột xuất thường gắn liền với việc xử lý các vụ việc cụ thể hay nghiên cứu tìm hiểu các dấu hiệu vi phạm cụ thể được thể hiện trên một nhóm đối tượng doanh nghiệp. * Lập kế hoạch thanh tra. Sau khi đã xác định được các mục tiêu và phạm vi của cuộc thanh tra, Phòng Thanh tra và điều tra thuế sẽ lập ra kế hoạch thanh tra, bao gồm các bước công việc cụ thể. Kế hoạch thanh tra phải quy định cụ thể chức năng, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của từng cán bộ khi kiểm tra doanh nghiệp. Để một cuộc thanh tra bảo đảm tính pháp lý, Cơ quan Thuế cần ra Quyết định thanh tra. Nội dung của Quyết định thanh tra bao gồm : + Căn cứ pháp lý để thanh tra, kiểm tra. + Nội dung, yêu cầu, phạm vi của cuộc thanh tra, kiểm tra. + Thời hạn thanh tra, kiểm tra. + Thành viên Đoàn thanh tra, kiểm tra và quyền hạn, trách nhiệm của Đoàn thanh tra, kiểm tra. + Quyền và nghĩa vụ của đối tượng được thanh tra, kiểm tra. Lập kế hoạch thanh tra có ý nghĩa rất quan trọng trong một cuộc thanh tra. Ở khâu này, kế hoạch càng được chuẩn bị tốt thì càng đạt được mục tiêu nhanh chóng, giảm bớt thời gian và chi phí, đồng thời nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra. * Tiến hành kiểm tra. Đây là giai đoạn trọng tâm của cuộc thanh tra. Cán bộ thanh tra sẽ kiểm tra các tài liệu kế toán, đối chiếu các số liệu với tờ khai thuế GTGT. Công việc được tiến hành cả đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Trong giai đoạn này, trước tiên là sử dụng phương pháp kiểm soát chứng từ, bao gồm các phương pháp kiểm tra cân đối và đối chiếu. Khi có dấu hiệu nghi vấn, việc kiểm soát phải bao gồm cả những phương pháp kiểm soát ngoài chứng từ, kiểm tra hàng tồn kho của doanh nghiệp. Theo tác giả, không nên quy định những dấu hiệu nghi vấn trong Quy trình thanh tra, kiểm tra mà nên đưa những nội dung đó vào một tài liệu đặc biệt lưu hành nội bộ của công tác thanh tra thuế. Trong đó, cần đúc rút những kinh nghiệm trong việc phát hiện dấu hiệu vi phạm của các doanh nghiệp, từ việc sử dụng những phương pháp kiểm soát đến việc phát hiện hoá đơn, chứng từ kế toán giả mạo v.v... Trên cơ sở sử dụng các phương pháp kiểm soát, việc kiểm tra sẽ đưa ra được thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Đặc biệt cần lưu ý đến những chứng từ được thanh toán bằng tiền mặt, kiểm tra việc khấu trừ chi phí đầu vào của các giao dịch mua hàng hoá, dịch vụ. * Kết luận thanh tra: Qua việc kiểm tra, kiểm soát thực trạng tài chính của doanh nghiệp, việc thanh tra phải đưa ra những kết luận của kiểm tra. Những kết luận này phải đáp ứng những mục tiêu đã đặt ra khi chuẩn bị thanh tra và phải trả lời những nghi vấn một cách cụ thể. Kết luận thanh tra bao gồm những nội dung cơ bản như sau: + Kết luận về việc chấp hành chế độ kế toán của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có sử dụng hoá đơn đúng mục đích hay không? Có ghi chép đầy đủ các nghiệp vụ mua, bán hàng hoá vào chứng từ kế toán hay không, chi phí có được phản ánh một cách trung thực và tuân thủ theo các quy định của Nhà nước không? + Kết luận về việc kê khai trung thực và đầy đủ doanh thu mua, bán hàng hoá và số thuế GTGT phải nộp. + Kết luận về tính kịp thời của việc nộp thuế vào NSNN qua Kho bạc của doanh nghiệp. + Xác định số thuế GTGT chính xác được khấu trừ tiếp vào kỳ sau, số thuế GTGT phải nộp, số thuế GTGT được hoàn lại của doanh nghiệp sau khi quyết toán thuế. Những thông tin qua phân tích, tổng hợp trên kết luận của thanh tra sẽ làm cơ sở cho việc xử lý vi phạm và bổ sung tiếp vào các thông tin cần thu thập để tiếp tục phát hiện dấu hiệu vi phạm ở các doanh nghiệp khác. * Xử lý vi phạm: Xử lý vi phạm là đặc trưng của hoạt động thanh tra, làm cho việc thanh tra khác với kiểm tra thông thường. Tuy vậy, việc xử lý vi phạm phải tuân thủ đúng Luật pháp. Do đó, các hình thức xử lý vi phạm Luật Thuế GTGT phải được quy định một cách cụ thể, chi tiết. Đối với việc xử lý vi phạm theo tác giả cần phân định rõ ràng 3 hình thức tuỳ theo mức độ vi phạm của doanh nghiệp. - Xử lý bằng biện pháp hành chính: biện pháp này áp dụng đối với những vi phạm Luật Thuế GTGT mang tính chất không thường xuyên, không có chủ ý của doanh nghiệp, ví dụ phạt nộp chậm thuế. Đặc biệt, cần đưa thêm các hành vi vi phạm khác vào việc xử lý hành chính, đó là kê khai sót doanh thu, hạch toán không đúng doanh thu mua và bán hàng hoá, dịch vụ (các vi phạm này hiện vẫn chưa có biện pháp xử lý). - Xử lý bằng biện pháp kinh tế: biểu hiện dưới hình thức phạt tiền. Biện pháp này được áp dụng đối với những vi phạm mang tính chất thường xuyên nhưng chưa đến mức độ nghiêm trọng phải khởi tố. Do vậy, diện phạt rất rộng, bao gồm các vi phạm đã bị xử lý hành chính nhưng vi phạm lại từ lần thứ hai trở đi. Theo tác giả, cần có hình thức phạt tiền luỹ tiến, nghĩa là doanh nghiệp vi phạm nhiều lần thì càng bị phạt tiền nhiều hơn. - Xử lý bằng biện pháp hình sự: Biện pháp này được áp dụng với việc vi phạm mang tính chất thường xuyên, ngày càng nghiêm trọng, gây thiệt hại, thất thu thuế lớn đối với NSNN. Để xử lý bằng biện pháp hình sự, Cơ quan Thuế sẽ thực hiện cưỡng chế nộp thuế, phong toả tài khoản của doanh nghiệp tại Ngân hàng, tịch thu tài sản hoặc khởi tố theo quy định của pháp luật. Đây là những biện pháp mạnh, cứng rắn và có phần áp đặt. Tuy vậy, nó thể hiện một cách rõ nét nhất tính quyền lực của Luật thuế và có tính răn đe mạnh. Xử lý vi phạm của một cuộc thanh tra phải được lập thành một Quyết định riêng do Cơ quan Thuế soạn thảo, Quyết định này sẽ do Phòng Đốc thu và cưỡng chế thuế thực hiện. 3.2.4 - Tăng cường công tác xử lý khiếu nại về thuế: Theo hệ thống Luật thuế của Việt Nam hiện nay thì quy trình khiếu nại được xử lý như sau: - Đối tượng nộp thuế có quyền khiếu nại việc cán bộ thuế, Cơ quan Thuế thi hành không đúng Luật thuế. Đơn khiếu nại được gửi đến Cơ quan Thuế trực tiếp quản lý thu thuế hoặc quyết định xử lý trong thời hạn (quy định trong Luật) là 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo hoặc quyết định xử lý của cán bộ thuế, Cơ quan Thuế. - Trong khi chờ giải quyết, đối tượng nộp thuế vẫn phải thực hiện theo thông báo hoặc quyết định xử lý Cơ quan Thuế. - Cơ quan Thuế nhận khiếu nại có quyền yêu cầu người khiếu nại cung cấp các hồ sơ, tài liệu liên quan để xem xét trong thời hạn 15 ngày hoặc đến 30 ngày đối với các vụ việc phức tạp. - Cơ quan Thuế phải hoàn trả tiền thuế hoặc tiền phạt thu không đúng cho đối tượng nộp thuế, hoặc truy thu tiền thuế, tiền phạt nếu phát hiện có sự khai man trốn thuế. - Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định của cơ quan giải quyết khiếu nại hoặc quá thời hạn quy định mà chưa được giải quyết thì có quyền khiếu nại lên Cơ quan Thuế cấp trên trực tiếp hoặc khởi kiện đến Toà án theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp không khởi kiện ra toà thì quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính là quyết định cuối cùng. Có thể tóm tắt quy trình khiếu nại về thuế theo sơ đồ sau: Sơ đồ 5 : QUY TRÌNH KHIẾU NẠI VỀ THUẾ Đối tượng nộp thuế Cơ quan Thuế trực tiếp quản lý hoặc Quyết định xử lý Thuế (Cục Thuế, Chi cục Thuế) Cơ quan Thuế cấp trên trực tiếp (Cục Thuế, Tổng cục Thuế) Toà án hành chính Bộ tài chính Nói chung, việc tiếp nhận, giải quyết đơn thư khiếu nại về thuế đã được bảo đảm kịp thời, đúng thời gian quy định, không có đơn thư khiếu tố tồn đọng hoặc quá hạn. Trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, việc xử lý khiếu nại về thuế đóng vai trò quan trọng. Qua việc xử lý khiếu nại, kiểm soát thu thuế có thể thu thập thông tin về tình hình thực hiện chính sách thuế của các doanh nghiệp, về những vướng mắc của các văn bản pháp luật về thuế. Đặc biệt, việc xử lý khiếu nại thuế có thể phát hiện những trường hợp khai man, trốn thuế, tránh thuế của đối tượng nộp thuế. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp đang kiến nghị giảm thuế, Luật Thuế GTGT trong quá trình thực hiện chưa bảo đảm công bằng, trung lập thì việc giải quyết khiếu nại thuế lại càng trở nên bức xúc. Tuy vậy, trong thời gian qua việc giải quyết khiếu nại về thuế có một số điểm lưu ý là: - Hầu hết các trường hợp khiếu nại đều do Cơ quan Thuế trực tiếp quản lý hoặc Cơ quan Thuế cấp trên giải quyết. Rất ít trường hợp khiếu nại lên Bộ Tài chính hoặc khởi kiện ra toà. - Số lượng đơn khiếu nại tập trung nhiều ở khu vực các doanh nghiệp tư nhân do hiểu biết về pháp luật thuế của đối tượng nộp thuế còn hạn chế. - Chưa có một tổ chức giải quyết khiếu nại về thuế riêng. Hiện nay, Phòng Thanh tra - Xử lý tố tụng về thuế chịu trách nhiệm giúp Thủ trưởng Cơ quan Thuế trong việc giải quyết khiếu nại về thuế. Do vậy, thời gian và nhân lực bố trí cho việc này còn hạn chế, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết khiếu nại về thuế. Thực trạng trên làm cho Cơ quan Thuế chưa được nhận thức đúng đắn là một cơ quan quản lý Nhà nước độc lập, mang nặng tính áp đặt, quyền hành. Nhiều doanh nghiệp có vướng mắc về thuế nhưng không muốn khiếu nại mà tìm cách lách Luật để kinh doanh. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, để giải quyết khiếu nại về thuế có một hệ thống toà án thuế thực hiện và hệ thống này được tổ chức theo ngành dọc. Ở địa phương, Toà án thuế được tổ chức độc lập với Cơ quan Thuế, ở Trung ương có Toà án thuế quốc gia trực thuộc Tổng cục Thuế. Quy trình khiếu nại có thể tóm tắt theo sơ đồ sau: Sơ đồ 6 : QUY TRÌNH XỬ KHIẾU NẠI VỀ THUẾ THEO KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN Đối tượng nộp thuế Toà án Thuế địa phương Toà án Thuế quốc gia Toà án Hành chính Mô hình tổ chức khiếu nại trên có ưu điểm rõ nét là bảo đảm sự độc lập của Cơ quan Thuế ở địa phương với Toà án thuế địa phương, do đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia khiếu nại về thuế, bảo đảm công bằng trong xã hội. Ở Việt Nam, theo tác giả về lâu dài cũng cần thành lập một Toà án chuyên giải quyết khiếu nại thuế ở địa phương. Đồng thời, pháp luật cũng cho phép Cơ quan Thuế có quyền khởi tố các đối tượng nộp thuế vi phạm nghiêm trọng Luật thuế lên Toà án hành chính (như ở Nga đã thành lập bộ phận cảnh sát thuế). Trong thời gian trước mắt, cần có tổ chức thực hiện việc giải quyết khiếu nại về thuế riêng, đó là một Phòng độc lập trực thuộc Cục thuế địa phương. Bên cạnh việc tổ chức bộ phận khiếu nại thuế, cũng cần đào tạo một đội ngũ cán bộ chuyên trách giải quyết khiếu nại về thuế, bảo đảm lợi ích của các đối tượng nộp thuế cũng như lợi ích của Nhà nước theo đúng quy định của pháp luật. 3.2.5 - Xây dựng hệ thống thông tin kiểm soát thu thuế. Việc xây dựng được một hệ thống thông tin hoàn chỉnh, sẽ là một công cụ đắc lực trong kiểm soát nguồn thu NSNN, đặc biệt là nguồn thu thuế GTGT. Thực hiện kiểm soát thu thuế GTGT từ việc kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế và Kho bạc Nhà nước đến việc mua, bán hoá đơn, sử dụng hoá đơn giả... đã cho thấy rằng kiểm soát thu thuế GTGT chỉ được thực hiện tốt trên cơ sở hạ tầng là một hệ thống thông tin hoàn chỉnh giữa Cơ quan Thuế, Kho bạc và doanh nghiệp, giữa các Cục thuế địa phương với nhau. Do vậy, một yêu cầu bức xúc đối với kiểm soát thu thuế GTGT là phải hoàn thiện lại hệ thống thông tin này. Mục tiêu xây dựng hệ thống thông tin kiểm soát thu thuế bao gồm các yêu cầu sau: - Phát hiện nhanh chóng, kịp thời và chính xác các hiện tượng trốn thuế, tính và kê khai không đúng tiền thuế, nộp thuế thiếu vào Kho bạc và các vi phạm trong việc sử dụng hoá đơn. - Tính phạt tự động số tiền thuế chậm nộp, số tiền thuế nộp thiếu và các vi phạm Luật Thuế GTGT khác. - Tổng hợp thông tin về tình hình thu thuế hàng ngày, hàng tháng lên Cục thuế, Tổng cục Thuế. Các biện pháp thực hiện: - Thực hiện trang bị máy tính và nối mạng toàn ngành Thuế, nối mạng giữa các Cục thuế địa phương và Kho bạc tỉnh, thành phố. Việc nối mạng máy tính toàn ngành Thuế sẽ làm cho quá trình xác minh các hoạt động của Doanh nghiệp, xác minh hoá đơn chính xác và kịp thời hơn hiện nay. Mặt khác, do cơ chế nộp thuế gồm kê khai và nộp thuế ngay tại Kho bạc nên việc nối mạng giữa Cơ quan Thuế và Kho bạc sẽ giúp cho Cơ quan Thuế nắm bắt được tình hình nộp thuế của các doanh nghiệp, phát hiện những hiện tượng vi phạm Luật thuế một cách nhanh chóng. - Thực hiện trang bị chương trình thuế trên máy vi tính cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp kê khai thuế, số hoá đơn đầu ra, đầu vào. Hàng tháng, doanh nghiệp gửi file dữ liệu cho Cơ quan Thuế xử lý. Quá trình xử lý thông tin trên nhiều doanh nghiệp khác nhau sẽ làm cho quá trình xác minh hoá đơn trở nên đơn giản, thuận tiện. Ngoài ra, để hoàn chỉnh hệ thống thông tin kiểm soát thu thuế, Cơ quan Thuế cũng cần nối mạng với các cơ quan quản lý doanh nghiệp khác như Sở Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thống kê để quản lý số lượng doanh nghiệp, cấp mã số thuế cho các doanh nghiệp, từ đó tiến tới một hệ thống thông tin quản lý doanh nghiệp chung trên địa bàn và toàn quốc. 3.3/ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC. Những vướng mắc trong Luật Thuế GTGT hiện nay vừa làm cho các doanh nghiệp lúng túng trong việc kê khai và nộp thuế, vừa làm kiểm soát thu thuế GTGT khó khăn trong việc thực hiện. Do vậy, cần phải tháo gỡ những vướng mắc này mà việc tháo gỡ đòi hỏi phải xuất phát từ những quy định của pháp luật nên Nhà nước có vai trò rất quan trọng. Theo tác giả, cần phải giải quyết những vướng mắc này theo từng quy định cụ thể về đối tượng chịu thuế, thuế suất đến các khâu khấu trừ thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế cũng như xác định rõ ràng các khoản doanh thu chi phí của doanh nghiệp, giúp cho các doanh nghiệp thực hiện Luật Thuế GTGT một cách ngày càng tốt hơn. 3.3.1 - Về đối tượng chịu thuế: Trong giai đoạn trước mắt 2001 - 2005, Chính phủ cần giảm và hạn chế đến mức thấp nhất các hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT để tránh hiện tượng không công bằng giữa các mặt hàng chịu thuế và không chịu thuế GTGT. Trước mắt, kiến nghị Nhà nước bổ sung các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản xuất và nhập khẩu vào diện chịu thuế GTGT. Việc đưa các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt vào diện đối tượng chịu thế GTGT cần tính đến việc giảm thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt để đồng bộ với việc đánh thuế GTGT. Trong giai đoạn 2005 - 2010, Nhà nước cần đưa thêm các đối tượng chịu thuế GTGT các mặt hàng là sản phẩm ở khâu sản xuất nông nghiệp để bảo đảm thực hiện thuế GTGT liên hoàn và thống nhất ở tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, bảo đảm tính công bằng, trung lập của thuế GTGT. 3.3.2 - Về thuế suất thuế GTGT. Trong quá trình thực hiện Luật Thuế GTGT 2 năm vừa qua cho thấy việc định ra nhiều mức thuế suất cùng với sự không rõ ràng trong việc phân biệt hàng hoá chịu thuế theo công dụng, mục đích sử dụng gây khó khăn rất nhiều cho việc tính thuế. Do đó, trong giai đoạn 2001 - 2005, Nhà nước cần giảm số lượng thuế suất tối đa còn 02 mức thuế suất. Việc điều chỉnh mức thuế suất GTGT là để bảo đảm nguồn thu NSNN trong khi thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu (đến năm 2006 phải thực hiện xong). Mức thuế suất sẽ chỉ còn 2 mức là 8% và 10%. Trong đó, sắp xếp lại để hạn chế các sản phẩm, dịch vụ thuộc nhóm thuế suất 8%, còn lại đa số các sản phẩm, dịch vụ áp dụng mức thuế suất 10%, để đến giai đoạn 2006 - 2010, áp dụng thống nhất một mức thuế suất 10% đối với tất cả các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Ngoài ra, để bảo đảm tính công bằng, trung lập của thuế GTGT, Nhà nước cần xoá bỏ tất cả các quy định ưu đãi miễn, giảm thuế GTGT cho tất cả các đối tượng. 3.3.3 - Về áp dụng phương pháp tính thuế và sử dụng hoá đơn. Việc quy định 2 phương pháp tính thuế gây phức tạp cho kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Do vậy, trong thời gian tới cần sửa đổi phương pháp tính thuế theo hướng một phương pháp là phương pháp khấu trừ thuế. Để có thể tiến đến áp dụng một phương pháp tính thuế, cần thực hiện các biện pháp sau: - Phân loại các hộ kinh doanh tư nhân có quy mô nhỏ, thu nhập thấp đưa ra khỏi diện phải nộp thuế GTGT. Quy định mức doanh số để xác định đối tượng là hộ kinh doanh nhỏ. Đối với đối tượng này chuyển sang áp dụng nộp thuế theo mức tỉ lệ % ấn định trên doanh thu. - Thực hiện chế độ kế toán đối với các hộ kinh doanh có quy mô lớn để chuyển dần các đối tượng này sang áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. - Đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã bắt buộc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Đến giai đoạn 2005 - 2010, việc tính thuế chỉ thực hiện một phương pháp duy nhất là khấu trừ thuế. Đối với việc sử dụng hoá đơn, Nhà nước cần áp dụng các biện pháp sau: - Trong giai đoạn 2001 - 2005, các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ phải sử dụng hoá đơn GTGT. Đối với các hộ kinh doanh lớn tính thuế theo phương pháp trực tiếp, các hộ kinh doanh nhỏ nộp thuế theo mức thuế ấn định thì sử dụng hoá đơn bán hàng không ghi thuế GTGT. Đến cuối giai đoạn này, khi các hộ kinh doanh lớn đã chuyển sang thực hiện chế độ kế toán và tính thuế theo phương pháp khấu trừ cũng phải sử dụng hoá đơn GTGT. Đồng thời, Nhà nước cần quy định doanh nghiệp tự phát hành hoá đơn vào cuối giai đoạn này. - Đối với việc sử dụng hoá đơn tự in, Nhà nước cần quy định thống nhất các nội dung trên tờ hoá đơn và nghiêm cấm không khấu trừ các hoá đơn không đúng theo mẫu quy định. Đối với các doanh nghiệp cho lưu hành các hoá đơn không đủ yếu tố theo quy định, Nhà nước cần có quy định phạt tiền với mức độ nặng, đủ răn đe. Các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về việc quản lý hoá đơn do mình phát hành. Nhà nước cũng quy định trách nhiệm của doanh nghiệp khi làm mất hoá đơn và trách nhiệm của công ty in hoá đơn trong việc chống làm giả hoá đơn. Đặc biệt, đối với các hành vi làm giả hoá đơn, mua bán hoá đơn, Nhà nước cần đưa vào khung hình phạt của Bộ Luật Hình sự. Giải quyết các vấn đề liên quan đến hoá đơn, theo tác giả cần đưa ra những quy định xử lý cụ thể. Đây chính là cái thiếu hiện nay của các quy định của pháp luật. Khi đã được quy định cụ thể, rõ ràng, hiện tượng thông đồng giữa các doanh nghiệp với nhau mua bán hoá đơn nhưng báo mất, ghi liên 1 khác liên 2 để trốn thuế, khấu trừ thuế sẽ được nghiêm trị, tạo ra sự trong lành cho môi trường kinh tế. 3.3.4 - Về khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Như trên đã trình bày, phương pháp thống nhất để tính thuế sẽ là phương pháp khấu trừ. Tuy vậy, trong giai đoạn trước mắt, chưa thể thực hiện ngay phương pháp này vì thực tế các điều kiện như phân loại hộ kinh doanh, chế độ kế toán tại các hộ kinh doanh..v.v... chưa cho phép. Do vậy, Nhà nước vẫn phải quy định các phương pháp tính thuế khác nhau. Việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào phải theo hướng khuyến khích việc sử dụng hoá đơn, cụ thể là: khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hoá dịch vụ mua vào có hoá đơn bán hàng theo một tỉ lệ % cao hơn đối với trường hợp không có hoá đơn. Khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ % (thấp hơn tường hợp có hoá đơn bán hàng) áp dụng đối với hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản, sắt thép, phế liệu, đất, đá, cát, sỏi... mua trực tiếp của người tự sản xuất. 3.4.5 - Xác định chính xác doanh thu, chi phí để tính thuế Doanh thu và chi phí là cơ sở để tính thuế GTGT đầu ra, thuế GTGT đầu vào, từ đó xác định số thuế phải nộp. Do vậy, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải xác định chính xác doanh thu bán hàng và chi phí mua hàng của doanh nghiệp. Nhằm tăng cường việc kiểm soát doanh thu chịu thuế GTGT, theo tác giả, vấn đề cốt lõi là kiểm soát được việc viết hoá đơn của doanh nghiệp. Đối với các đơn vị bán lẻ, đây là công việc khó khăn, nhưng với những quy định xử phạt nghiêm minh kết hợp với việc thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra thì chắc chắn việc kê khai thuế sẽ được thực hiện đầy đủ. Mặt khác, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT cũng cần tăng cường phương pháp đối chiếu giữa doanh thu bán hàng của người bán với chi phí mua hàng của người mua. Việc kiểm tra sẽ phát hiện những vi phạm như kê khai thiếu doanh thu, khấu trừ khống hoá đơn đầu vào, viết hoá đơn liên 1 khác liên 2 để trốn thuế. Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, doanh thu được xác định là giá trị khối lượng hoàn thành trên biên bản nghiệm thu công trình giữa bên A và bên B nhưng doanh thu thực tế lại là giá trị quyết toán sau khi được các cấp có thẩm quyền duyệt. Nhằm giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần có quy định về căn cứ để xác định chính xác doanh thu chịu thuế GTGT, thời điểm viết hoá đơn và kê khai thuế, nhằm tránh tình trạng thuế đầu ra phải nộp thấp hơn thuế đầu vào được khấu trừ (như phần trước đã trình bày), gây thất thu thuế cho Nhà nước. Biện pháp này sẽ tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. 3.4.6 - Tăng cường công tác kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp. Như trên đã trình bày, mô hình quản lý và quy trình quản lý thu thuế trong thời gian tới đòi hỏi tính tự giác, tự nguyện cao của các doanh nghiệp, các đối tượng nộp thuế. Công tác kiểm toán nội bộ nếu được thực hiện tốt sẽ giúp doanh nghiệp kiểm soát mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh trong doanh nghiệp đồng thời trợ giúp một cách tích cực kiểm soát nguồn thu thuế GTGT ngay tại doanh nghiệp. Tuy vậy, thực trạng công tác kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp hiện nay đang còn rất yếu, chưa thúc đẩy tính tự giác của doanh nghiệp đối với việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho NSNN. Do đó, một trong những giải pháp quan trọng, có tính đồng bộ là tăng cường công tác kiểm toán nội bộ để tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế GTGT tại doanh nghiệp. Công tác kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp hiện chưa được tổ chức một cách nghiêm túc theo đúng yêu cầu của quản lý Nhà nước và nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh, một phần là do các doanh nghiệp chưa nhận thức đúng đắn vai trò của kiểm toán nội bộ, một phần khác là do chưa có sự quản lý, hướng dẫn chuyên môn của các cơ quan chức năng của Nhà nước. Một khung pháp lý vững chắc và đầy đủ chưa được kiến tạo khiến các doanh nghiệp vừa lúng túng trong việc thực hiện lại vừa cố ý đùn đẩy, không muốn tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ độc lập. Theo tác giả, đứng trước một vấn đề còn lạ lẫm với thực tế kinh doanh của Việt Nam, Nhà nước cần ban hành một Đạo Luật về kiểm toán vừa tạo cơ sở pháp lý vững chắc, vừa mang ý nghĩa hướng dẫn hiện thực cho sự phát triển của kiểm toán nội bộ. Việc tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động của kiểm toán nội bộ phải hướng đến thiết lập một cơ chế hoạt động, các hình thức kiểm toán cũng như phải thiết lập các quy định, chuẩn mực và các mối quan hệ của kiểm toán nội bộ trong quá trình hoạt động. Những nội dung này rất rộng, nhưng trong phạm vi bài viết này tác giả chỉ đề cập các vấn đề trên trong mối liên hệ với kiểm soát nguồn thu thuế nói chung, thuế GTGT nói riêng. Về cơ chế hoạt động trong giai đoạn hiện nay, kiểm toán nội bộ chỉ thực sự hoạt động hiệu quả khi có những yêu cầu cơ bản liên quan đến địa vị, chức năng kiểm toán nội bộ và mối quan hệ của kiểm toán nội bộ với các nhà quản lý doanh nghiệp, với các bộ phận khác trong doanh nghiệp được thực hiện tốt. Bởi vì, những mối quan hệ này góp phần nâng cao địa vị, chức năng và phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ. Theo đó, kiểm toán nội bộ phải được giao quyền hạn rộng rãi để có thể kiểm soát toàn bộ các hoạt động, phải được phép thực hiện các hoạt động kiểm soát phù hợp với các chuẩn mực nghề nghiệp và được quyền sử dụng mọi hồ sơ, thông tin và gặp gỡ tiếp xúc với các đối tượng có liên quan đến thu thập bằng chứng làm sáng tỏ các vấn đề trong khi thực hiện kiểm toán. Với những yêu cầu đó, kiểm toán nội bộ có thể nắm bắt toàn bộ các hoạt động mua, bán hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp và sẵn sàng cung cấp thông tin về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với các nhà quản lý có vai trò quyết định trong việc tăng cường tính tự giác của doanh nghiệp trong quản lý thu thuế. Một bộ máy kiểm toán nội bộ hiệu quả có thể tư vấn với Ban lãnh đạo về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đúng theo Luật định. Việc thiết lập các quy định, chuẩn mực khi thực hiện kiểm toán và các mối quan hệ của kiểm toán nội bộ trong quá trình hoạt động là vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, kiểm toán viên nội bộ phải khách quan, độc lập với các hoạt động mà họ kiểm toán. Hơn nữa, việc bố trí cán bộ trong bộ máy kiểm toán nội bộ phải thực sự là những người có trình độ học vấn, có đạo đức nghề nghiệp, có kỹ năng và kiến thức chuyên môn và phải được cấp chứng chỉ kiểm toán viên của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Với các quy định, chuẩn mực này, bộ phận kiểm toán nội bộ sẽ đem lại những thông tin chính xác, khách quan cho Ban lãnh đạo doanh nghiệp, để từ đó Ban lãnh đạo doanh nghiệp nhận biết được thực trạng tình hình thực hiện nghĩa vụ với NSNN. Về hình thức kiểm toán, trong việc tự giác thực hiện nộp thuế cho NSNN, kiểm toán nội bộ cần chú trọng tới kiểm toán tuân thủ. Kiểm toán nội bộ phải kiểm tra tình hình kê khai và nộp thuế hàng tháng của doanh nghiệp theo đúng các quy định của Luật thuế. Bên cạnh đó, kiểm toán nội bộ còn kiểm tra độ tin cậy của các giao dịch mua, bán hàng hoá, phát hiện những hoá đơn, chứng từ không hợp pháp, phát hiện và loại bỏ những vi phạm như hoá đơn giả, mua bán hoá đơn, kê khai thiếu doanh thu trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Ngoài ra, kiểm toán nội bộ còn góp phần củng cố và hoàn thiện chế độ hạch toán kế toán tại doanh nghiệp, giúp cho kiểm soát nguồn thu thuế GTGT được thuận lợi hơn. Như vậy, hệ thống kiểm toán nội bộ có vai trò rất quan trọng trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT ngay tại doanh nghiệp. Chính vì vậy, một trong những kiến nghị rất bức thiết hiện nay là Nhà nước cần tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc để tăng cường hơn nữa công tác kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp. 3.4.7 - Tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT là một hoạt động của quản lý Nhà nước, được điều chỉnh bằng một hệ thống Luật pháp hoàn chỉnh. Do vậy, nó cũng có tính xã hội và phải mang tính xã hội, trong đó có sự giám sát của nhân dân. Mặt khác, hoạt động kiểm soát phải có sự phối hợp đồng bộ giữa nhiều cơ quan chức năng, trong đó có sự lãnh đạo của Chính quyền các cấp. Tại hầu hết các nước có nền kinh tế chuyển đổi, Cơ quan Thuế được tổ chức theo ngành dọc thống nhất tổ chức từ Trung ương đến địa phương, nhằm tập trung nguồn thu vào NSNN. Ở Việt Nam, việc thống nhất quản lý, chỉ đạo điều hành cũng theo mô hình đó. Tuy vậy, do nhu cầu thực tế của công tác tổ chức hành thu và thi hành Luật thuế, phải cần có sự phối hợp của Chính quyền địa phương nên Chính quyền địa phương có ảnh hưởng lớn đến công tác tổ chức và chỉ đạo của Cơ quan Thuế ở các địa phương và việc quản lý nguồn thu có nhiệm vụ bảo đảm nhu cầu chi tiêu cho bộ máy Chính quyền địa phương. Hơn nữa, Việt Nam đang trong quá trình cải cách, nền kinh tế xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí và pháp luật còn nhiều hạn chế, sự tuân thủ tự nguyện pháp luật nói chung và pháp luật về thuế nói riêng chưa cao, do đó đòi hỏi sự phối hợp chỉ đạo của các cấp Chính quyền và sự phối hợp thực hiện của các cơ quan chức năng khác: Công an, Quản lý thị trường. v.v.. Trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT, các lực lượng này có vai trò quan trọng, đặc biệt là trong việc phát hiện các hành vi trốn lậu thuế, mua bán hoá đơn thật, hoá đơn giả v.v.. Các lực lượng này còn thực hiện các biện pháp cưỡng chế thuế theo chức năng, nhiệm vụ của mình, giúp việc thi hành Luật thuế trở nên có hiệu lực hơn. Theo tác giả, sự phối hợp giữa Cơ quan Thuế và Hải quan địa phương trong thời gian qua chưa thật sự đồng bộ, nhất là trong việc kiểm soát thu thuế GTGT hàng nhập khẩu. Để bảo đảm thống nhất công tác hành thu, Chính phủ cần xem xét đề án thống nhất tổ chức ngành Thuế và Hải quan tại các địa phương nhằm tập trung, tạo điều kiện thuận lợi cho kiểm soát thu thuế trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, mối quan hệ giữa ngành Thuế và hệ thống Ngân hàng thời gian qua chưa được thuận lợi. Nhiều Ngân hàng, do yêu cầu của khách hàng đã không thực hiện lệnh thu cưỡng chế thuế của Cơ quan Thuế. Theo tác giả, Nhà nước cần có những biện pháp xử lý đối với những Ngân hàng không thực hiện lệnh thu của Cơ quan Thuế nhằm tạo ra sự nghiêm minh của Luật thuế. Tóm lại, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT không chỉ là hoạt động độc lập của riêng ngành Thuế. Để thực hiện tốt công tác này, cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như của toàn xã hội. KẾT LUẬN Qua 2 năm triển khai thực hiện trên địa bàn Hà Nội, Luật Thuế GTGT đã thực sự đi vào đời sống kinh tế – xã hội. Việc thực hiện Luật Thuế GTGT đã khuyến khích các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh và đầu tư, góp phần tăng kim nghạch xuất khẩu của Thủ đô hàng năm 20 %, tăng GDP hàng năm trên 9 %. Với đặc tính chuyên môn hoá cao, công bằng và trung lập, thuế GTGT đã trở thành công cụ hiệu quả điều tiết vĩ mô nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp tiếp cận nhanh hơn và sâu hơn với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bên cạnh đó, việc thực hiện Luật Thuế GTGT cũng góp phần giúp các doanh nghiệp trong nước tiếp cận nhanh hơn với thị trường quốc tế trong bối cảnh Việt nam hội nhập với các tổ chức kinh tế và thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới. Quá trình triển khai thực hiện Luật Thuế GTGT cũng là quá trình ngành Thuế Hà Nội thực hiện một bước cải cách phương thức quản lý thu thuế, trong đó nổi bật nhất là áp dụng quy trình quản lý thu thuế mới mà nội dung cơ bản là các doanh nghiệp tự kê khai và nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước. Việc thực hiện quy trình quản lý thu thuế mới đã thể hiện những ưu điểm rõ nét là nâng cao ý thức chấp hành Luật thuế của các doanh nghiệp, đưa hoạt động nộp thuế vào NSNN trở thành một hoạt động thường xuyên của các doanh nghiệp. Tuy vậy, phương thức quản lý thu thuế mới vẫn chưa được thực hiện tốt, kết quả thu thuế từ các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt thấp, các hiện tượng vi phạm Luật thuế, trốn thuế và tránh thuế còn diễn ra dưới nhiều hình thức, ngày càng tinh vi hơn đang là một thách thức đối với ngành Thuế Thủ đô. Trong bối cảnh đó, bằng những lý luận và thực tiễn, trên cơ sở phân tích quá trình triển khai việc thực hiện Luật thuế GTGT, kết quả thu thuế GTGT trên địa bàn Hà Nội, cơ cấu tổ chức của bộ máy Cục thuế Hà Nội cũng như quy trình quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp đang được áp dụng tại Cục thuế Hà Nội. Chuyên đề đã nêu lên thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và đề ra giải pháp cụ thể để tăng cường hơn nữa công tác kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Cụ thể chuyên đề đã hoàn thành một số nhiệm vụ sau : 1- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. Nêu rõ được tầm quan trọng của công tác kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. 2- Phân tích và đánh giá thực trạng công tác kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội trong những năm qua. Chỉ ra nguyên nhân và một số bất cập về cơ chế chính sách và quy trình quản lý thuế. 3- Đề ra những giải pháp cụ thể để tăng cường hơn nữa hoạt động kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới. Các giải pháp chủ yếu luận án đưa ra là: - Giải pháp về cải cách bộ máy quản lí thuế. - Những giải pháp về nghiệp vụ quản lí thuế. - Xử lí và khiếu nại về thuế. - Một số giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc trong Luật thuế GTGT Những giải pháp, kiến nghị trên còn mang nhiều tính gợi mở. Do vậy tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, thẳng thắn trao đổi của các Thầy, Cô giáo, các vị Lãnh đạo và các đồng nghiệp. /. CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN GTGT Giá trị gia tăng NSNN Ngân sách nhà nước TNDN Thu nhập doanh nghiệp DNNNTW Doanh nghiệp Nhà nước trung ương DNĐP Doanh nghiệp địa phương ĐTNN Đầu tư nước ngoài DN Doanh nghiệp CT Công ty CTXD Công ty xây dựng XNK Xuất nhập khẩu TSCĐ Tài sản cố định UBTVQH Uỷ ban thường vụ quốc hội HTX Hợp tác xã TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo tình hình thực hiện chính sách động viên nguồn thu những năm vừa qua và những nội dung cơ bản về cải cách hệ thống thuế, chính sách thuế giai đoạn 2, Bộ Tài chính tháng 01/2000 Báo cáo tổng kết công tác quản lý thu thuế doanh nghiệp ngoài quốc doanh các năm 1998,1999 Báo cáo tổng kết một năm triển khai thực hiện các luật thuế mới, Trình Quốc hội khoá X-kỳ họp thứ 7, tháng 5/2000 Báo cáo v/v thực hiện VAT thí điểm và kiến nghị bổ sung, Tổng cục thuế, tháng 11/1993 Biên bản kiểm tra quyết toán thuế của một số đơn vị Bài giảng Kiểm toán tài chính GS - TS Nguyễn Quang Quynh Lý thuyết kiểm toán Trường đại học Kinh quốc dân GS - TS Nguyễn Quang Quynh Luật doanh nghiệp Luật thuế GTGT và Luật thuế TNDN, Quốc hội khoá IX kì họp thứ 10 Qui trình quản lý thu thuế các doanh nghiệp ban hành kèm theo quyết định số 1368TCT/QĐ/TCCB ngày 09/12/1998 Bộ Tài chính-Tổng cục thuế, Hệ thống hoá các văn bản pháp luật về thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi, bổ sung, Nhà xuất bản Tài chính tháng 1-2001 Victor Z.Brink and Herbert Witt, Kiểm toán nội bộ hiện đại-đánh giá các hoạt động và hệ thống kiểm soát, Nhà xuất bản Tài chính 2000 Tạp chí Kế toán các số năm 1999 Thông tin Tài chính các số 1999 Thời báo Tài chính số 3 - 3/2000 Tạp chí Tài chính các số năm 1999, 2000, 2001 Tạp chí Thuế nhà nước các số 1999, 2000, 2001 Bản tin Thuế nhà nước - Các số năm 1998, 1999 Thuế Hà Nội các số 1999, 2001, 2001 Mục lục LỜI MỞ ĐẦU

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTăng cường kiểm soát nguồn thu thuế giá trị gia tăng (VAT) từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội.doc
Luận văn liên quan