Đề tài Tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại thu nhập lớn nhất song cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số NHTMCP đã coi chính sách mở rộng tín dụng là một giải pháp để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần. Nhưng không thể đồng nghĩa với việc hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, tìm cách lách rào kiểm soát, thông tin sai lệch mà vẫn phải thực hiện đúng quy trình tín dụng để giảm tỷ lệ nợ xấu, tránh tổn thất cho ngân hàng. Nhất là trong bối cảnh khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu, mà khởi nguồn là cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ, thì những tác động của nó lên nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập càng sâu và rộng với nền kinh tế thế giới nói chung và ngành ngân hàng Việt Nam nói riêng là không hề nhỏ. Những khoản cho vay không thu hồi được cả gốc và lãi đúng thời hạn càng lớn, tỷ lệ nợ xấu ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng bất động sản, đã có lúc đe dọa tới tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Do vậy, quản lý nợ xấu, hạn chế nợ xấu phát sinh và xử lý nợ xấu đã phát sinh là một yêu cầu cấp thiết, có vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động quản lý của ngân hàng. Trong một thời gian thực tập ngắn tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, đơn vị trực tiếp kinh doanh của Hội sở chính, một khu vực trọng điểm của hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, được tìm hiểu về hoạt động của Sở, nhất là hoạt động tín dụng, em đã chọn đề tài: “Tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp. Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại Chương II. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV Chương III. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV Em xin cảm ơn TS. Lê Thanh Tâm và các anh chị phòng Quan hệ khách hàng 2 – Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 6 DANH MỤC BẢNG BIỂU 7 Chương I. Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại 8 1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại 8 1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại 8 1.1.2. Phân loại NHTM 9 1.1.2.1. Theo hình thức sở hữu 9 1.1.2.2. Theo tính chất hoạt động 9 1.1.2.3. Theo cơ cấu tổ chức 9 1.1.3. Chức năng của NHTM 10 1.2. Những vấn đề cơ bản về nợ xấu của NHTM 11 1.2.1. Khái niệm 11 1.2.1.1. Theo ngân hàng Trung ương Liên minh châu Âu 11 1.2.1.2. Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng thống kê – Liên hiệp quốc 12 1.2.1.3. Theo định nghĩa của Việt Nam 12 1.2.2. Phân loại 13 1.2.3. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của NHTM 14 1.2.4. Dấu hiệu nhận biết nợ xấu 15 1.2.4.1. Dấu hiệu từ phía ngân hàng 15 1.2.4.2. Dấu hiệu từ phía khách hàng 16 1.2.5. Tác động của nợ xấu 16 1.2.5.1. Đối với ngân hàng thương mại 16 1.2.5.2. Đối với nền kinh tế 17 1.3. Quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại 18 1.3.1. Sự cần thiết quản lý nợ xấu tại các NHTM 18 1.3.2. Nội dung quản lý nợ xấu của NHTM 18 1.3.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh 18 1.3.2.2. Xử lý nợ xấu 21 1.3.3. Nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản lý nợ xấu 26 1.3.3.1. Nhân tố chủ quan 26 1.3.3.2. Nhân tố khách quan 29 Chương II. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 32 2.1. Tổng quan về Sở giao dịch I – BIDV 32 2.1.1. Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 32 2.1.1.1. Lịch sử hình thành 32 2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 34 2.1.2. Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh 36 2.1.2.1. Phân tích tài chính 36 2.1.2.2. Phân tích hoạt động 37 2.2. Thực trạng công tác quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV 42 2.2.1. Tình hình nợ xấu 42 2.2.2. Tình hình quản lý nợ xấu tại SGD I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 45 2.2.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh 45 2.2.2.2. Xử lý nợ xấu phát sinh 49 2.3. Đánh giá công tác quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV 52 2.3.1. Thành tựu 52 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 54 2.3.2.1. Hạn chế 54 2.3.2.2. Nguyên nhân 56 2.3.3.2. Nhân tố khách quan 58 Chương III. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV 62 3.1. Định hướng đối với vấn đề quản lý nợ xấu của SGD 62 3.1.1. Định hướng phát triển chung 62 3.1.2. Định hướng phát triển với hoạt động quản lý nợ xấu 63 3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu 63 3.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh 63 3.2.2. Xử lý nợ xấu đã phát sinh 65 3.3. Kiến nghị 69 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ 69 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước 70 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73

doc73 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3231 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch hàng là cá nhân và hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng là tổ chức tín dụng. Trong đó, cấu phần hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng là tổ chức kinh tế là cốt lõi bởi đây là đối tượng khách hàng có tổng dư nợ chiếm tỷ trọng lớn nhất. BIDV thực hiện xếp hạng với mỗi khách hàng doanh nghiệp thông qua việc chấm điểm 14 chỉ tiêu tài chính và phi tài chính có tính đến các yếu tố ảnh hưởng như: quy mô hoạt động; ngành nghề hoạt động; loại hình sở hữu của khách hàng… Tuỳ theo tổng số điểm đạt được mà mỗi khách hàng sẽ được phân vào một trong 10 nhóm hạng tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau. 2.2.2.2. Xử lý nợ xấu phát sinh - Tiến hành cơ cấu lại nợ Căn cứ vào thực trạng và khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp khó khăn tạm thời về tài chính nhưng vẫn kiên quyết tìm giải pháp vượt qua, vẫn có thiện ý trả nợ ngân hàng, SGD được cơ cấu lại nợ bằng nhiều hình thức thích hợp như giãn nợ, miễn giảm lãi suất hoặc cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư thêm. Cụ thể, trong tháng 12/2008, SGD đã miễn toàn bộ nợ lãi đối với Ông Lê Ngọc Tuấn. - Thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (BAMC) BAMC được thành lập theo quyết định số 57/QĐ-HĐQT ngày 05/12/2001, là một đơn vị hạch toán độc lập với nhiệm vụ bao gồm tiếp nhận, quản lý các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng và các tài sản đảm bảo nợ vay khác có liên quan đến khoản nợ tồn đọng của Sở giao dịch để xử lý; bán trực tiếp các tài sản được giao xử lý để thu hồi nợ theo giá trị thị trường. BAMC là công ty độc lập trực thuộc BIDV, thành lập theo Luật các TCTD và các quy định của Chính phủ. BAMC hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà để xử lý nợ và tài sản tồn đọng. Công ty được hưởng các ưu đãi về thuế, các điều kiện đặc biệt trong việc khai thác, chuyển nhượng tài sản. BAMC được chủ động xử lý tài sản đảm bảo nợ vay bằng biện pháp thích hợp theo quy định của pháp luật như: cải tạo, sửa chữa, nâng cấp tài sản để bán, cho thuê, khai thác kinh doanh, góp vốn… để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật và theo sự ủy thác, thỏa thuận của BIDV. Với việc chuyển giao các khoản nợ tồn đọng sang AMC để tiếp tục xử lý thu hồi nợ, Sở giao dịch có thể tập trung cho các hoạt động kinh doanh của mình mà vẫn yên tâm rằng khoản nợ xấu đã chuyển giao vẫn được tiếp tục xử lý, thu hồi tối đa dư nợ. Đồng thời, với chức năng nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động đặc thù của mình theo quy định của pháp luật cũng như với đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp trong lĩnh vực xử lý nợ, AMC có thể chủ động áp dụng các giải pháp xử lý nợ xấu một cách linh hoạt, thời gian xử lý nợ được rút ngắn. - Thành lập phòng quản trị tín dụng Hoàn thiện hồ sơ cấp tín dụng, bảo lãnh, thế chấp từ các phòng liên quan. Kiểm tra, rà soát tính đúng đắn, chính xác của hồ sơ tín dụng theo quy định; Tiếp nhận từ phòng quan hệ khách hàng hồ sơ giải ngân tín dụng, cấp bảo lãnh và kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp các điều kiện giải ngân, cấp bảo lãnh so với nội dung hợp đồng đã kí; Lập tờ trình giải ngân, cấp bảo lãnh lên cấp trên có thẩm quyền phê duyệt; Quản lý kế hoạch giải ngân, thông báo các khoản nợ đến hạn cho phòng Quan hệ khách hàng; lập đề nghị thu nợ; giám sát việc thực hiện hợp đồng; Theo dõi diễn biễn của các khoản tín dụng, phát hiện và xử lý rủi ro. Một khi nợ xấu xuất hiện, phòng quản trị tín dụng triển khai các biện pháp nhằm mục đích thu hồi vốn từ khách hàng vay. Nhờ có hoạt động của phòng quản trị tín dụng mà dư nợ xấu giảm đi đáng kể. - Thành lập phòng quản lý rủi ro 1 và 2 Nhiệm vụ của Phòng quản lý rủi ro 1 là tham mưu, đề xuất chính sách, biện pháp phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Phân tích, đánh giá rủi ro đối với danh mục tín dụng; Đề xuất trình lãnh đạo phê duyệt và kiểm tra, giám sát về cơ cấu, giới hạn tín dụng cho từng ngành, từng nhóm, từng khách hàng. Giảm nợ xấu, cơ cấu lại khoản vay cho khách hàng; Phân loại rủi ro, trích lập dự phòng và các biện pháp hạn chế rủi ro. Đánh giá tài sản đảm bảo theo định kỳ và theo quy định của BIDV. Nhiệm vụ của Phòng quản lý rủi ro 2 là đề xuất, triển khai các biện pháp hạn chế rủi ro tác nghiệp trong các khâu nghiệp vụ; Hỗ trợ các phòng nghiệp vụ độc lập và phối hợp phát hiện, đánh giá rủi ro tác nghiệp của các phòng, các sản phẩm đã có hoặc sắp có; Áp dụng hệ thống quản lý, đo lường rủi ro tác nghiệp và đề xuất các biện pháp hạn chế rủi ro phát hiện được; Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin về rủi ro tác nghiệp tại Sở giao dịch.Xây dựng và tổ chức thực hiện tự kiểm tra, kiểm soát nội bộ về việc thực hiện các nghiệp vu. Hoạt động của phòng quản lý rủi ro 1 và 2 nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng. Các khoản vay, khách hàng vay, dự án vay được thẩm định kỹ càng, đảm bảo khả năng thu hồi gốc và lãi của ngân hàng, xử lý nợ xấu phát sinh làm giảm dư nợ xấu trong tổng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu vẫn trong tỷ lệ chấp nhận được, từ 2% – 5%, làm lành mạnh tình hình tài chính của SGD. - Xây dựng quy trình xử lý tài sản đảm bảo Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của các bên; nếu không có thoả thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Riêng đối với tài sản bảo đảm có thế xác định được giá cụ thể, rõ ràng trên thị trường (trừ quyền sử dụng đất) thì tài sản được bán theo giá thị trường mà không phải qua thủ tục bán đấu giá, đồng thời phải thông báo cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác (nếu có). Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm; nếu không có thoả thuận hoặc không thoả thuận được thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Các phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo thoả thuận, bao gồm: Bán tài sản (Bên bảo đảm trực tiếp bán tài sản cho người mua, BIDV trực tiếp bán tài sản cho người mua, Bán thông qua tổ chức đấu giá); BIDV nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Trong trường hợp này, việc quyết định nhận tài sản để sử dụng thay thế thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện theo thủ tục mua tài sản của BIDV; BIDV nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ: người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, Công ty bảo hiểm trong trường hợp thế chấp quyền thụ hưởng tiền bảo hiểm nhân thọ, hoặc từ bên thứ ba có nghĩa vụ liên quan đến tài sản bảo đảm. Trong trường hợp này, vẫn phải thoả thuận và có cam kết bằng văn bản của bên bảo đảm về quyền truy đòi lại bên bảo đảm nếu không thu hoặc thu không đủ từ bên thứ ba vì bất kỳ lý do nào. Việc xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện một cách khách quan, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm, cá nhân, tổ chức có liên quan và phù hợp với các quy định của pháp luật. - Xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro BIDV là ngân hàng đầu tiên thực hiện chính sách trích lập dự phòng rủi ro theo Điều 7 từ quý IV năm 2006. Theo đó, đối với nợ nhóm 1 là 0%; nợ nhóm 2 là 5%; Nợ nhóm 3 là 20%; Nợ nhóm 4 là 50%; Nợ nhóm 5 là 100%. Ngân hàng được sử dụng quỹ DPRR để xử lý rủi ro trong các trường hợp sau: Khi khách hàng là các tổ chức bị phá sản, giải thể và đã hoàn thành việc thanh toán tài sản. Mức xử lý rủi ro bằng mức tổn thất sau khi thanh lý tài sản của tổ chức bị phá sản, giải thể. Tổn thất do nguyên nhân khách quan trong khi thực hiện nghiệp vụ thanh toán; trong quản lý về dự trữ  ngoại hối, dự trữ vàng, tiền gửi ngoại tề tại các Ngân hàng nước ngoài do những nguyên nhân bất khả kháng như: Đất nước nơi Ngân hàng Nhà nước gửi tiền bị chiến tranh, khủng bố, phá sản, thiên tai; Trong công tác kiểm ngân và kho quỹ. Các khoản tổn thất không có khả năng thu hồi khác như: Các khoản cá nhân, tổ chức phải bồi hoàn theo kết luận của các cơ quan pháp luật, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nhưng sau khi đương sự đã thực hiện việc bồi hoàn vẫn không có khả năng bồi hoàn đủ theo kết luận. Những khoản nợ vay của khách hàng được Chính phủ cho phép xóa nợ nhưng không được Chính phủ cấp nguồn để bù đắp và chưa được sử dụng dự phòng để xử lý. 2.3. Đánh giá công tác quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV 2.3.1. Thành tựu Tổng số nợ xấu đã được xử lý là 64,546 triệu đồng, bao gồm cả gốc lẫn lãi, được H.O đánh giá cao. Bảng 2.8. Kết quả xử lý nợ xấu của SGD Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu Thu nợ lũy kế từ đầu năm 2008 Gốc Lãi Tổng cộng 10,546 54 1 Nợ thương mại 8,766 54 Trước năm 2007 2,891 0 Trong năm 2007 5,876 0 Trong năm 2008 0 0 2 Nợ KHNN 1,780 0 Trước năm 2007 0 0 Trong năm 2007 1,780 0 Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu tín dụng của Sở giao dịch năm 2007 – 2008 - SGD đã thành công trong việc xử lý và thu hồi nợ xấu do tình hình kinh doanh của năm 2007 và trước đó để lại. Đặc biệt, SGD đã thu hồi được 5,876 triệu đồng dư nợ thương mại còn tồn tại trong năm 2007 và 1,780 dư nợ KHNN còn tồn đọng trong năm 2007. SGD đã triển khai các biện pháp thu nợ dựa vào những chủ trương sáng suốt và linh hoạt, cùng với sự giúp đỡ của NHNN và các cơ quan có thẩm quyền nên công tác thu hồi nợ đạt được những kết quả nhất định. - Trích và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro Bảng 2.9. Số dư quỹ DPRR 2008 -2009 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 31.12.2008 DPRR 240,336.468,483 -DPRR chung 140,886.761,921 - DPRR cụ thể 99,449.706,562 Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu tín dụng của Sở giao dịch năm 2007 – 2008 Với mục tiêu nâng cao tính an toàn trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, trong thời gian qua, SGD đã tích cực trích lập DPRR từ nguồn lợi nhuận hàng năm. SGD đã xây dựng cơ chế trích lập và sử dụng quỹ DPRR theo hướng chủ động, linh hoạt và phù hợp với thông lệ chuẩn mực quốc tế. Tỷ lệ DPRR/ Tổng dư nợ qua 3 năm gần đây giảm vào năm 2007 còn 0.59% nhưng lại tăng vào năm 2008 lên 1.23% do trong năm 2008 dư nợ tín dụng tăng tới 14% và số DPRR lên tới 71,270 triệu đồng, cao nhất trong 3 năm qua, tăng tính an toàn của hệ thống ngân hàng. Chỉ tính riêng trong tháng 12 năm 2008, SGD thực hiện trích thêm 3.238 triệu đồng DPRR, sử dụng quỹ DPRR 56 triệu đồng để xử lý nợ Ông Lê Ngọc Tuấn. - Công tác quản trị rủi ro tín dụng được nâng cao. Là một đơn vị có dư nợ lớn trong hệ thống NHĐT&PTVN, trong hoạt động tín dụng Sở giao dịch thực hiện phương châm tăng trưởng ổn định, bền vững, tăng trưởng đi kèm với kiểm soát và bảo đảm chất lượng tín dụng. Qua việc lập kế hoạch giải ngân, thu nợ hàng tháng, hàng quý đối với từng khách hàng, từng dự án, SGD đã thực hiện tốt việc kiểm soát chặt chẽ giới hạn tín dụng theo đúng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (H.O). Công tác quản trị rủi ro tín dụng đã làm giảm đáng kể dư nợ xấu trong tổng dư nợ của SGD, góp phần tăng lợi nhuận, tăng uy tín cho Sở trong hệ thống cũng như trên thị trường ngân hàng Việt Nam. Với kết quả xử lý nợ xấu như trên đã góp phần làm trong sạch bảng cân đối kế toán, nâng cao năng lực tài chính và lành mạnh hóa tài chính. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác quản lý nợ xấu còn chưa được đáp ứng tốt so với khả năng của SGD, cụ thể: - Chất lượng hoạt động tín dụng chưa cao. Mặc dù các khoản tín dụng đã được chuẩn hóa theo quy trình phân tích và chính sách tín dụng, nhưng vẫn còn những khoản tín dụng chưa đạt hiệu quả cao. Tín dụng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng quá trình thẩm định, phân tích khách hàng vay, dự án vay dựa trên những hồ sơ mà khách hàng cung cấp thiếu sự xác nhận từ nguồn thông tin khác, nội dung thẩm định còn chưa toàn diện, chưa chính xác làm giảm hiệu quả thẩm định, khả năng phân tích ngành nghề kinh tế, tác động xã hội còn hạn chế. - Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ còn chưa hiệu quả. Hệ thống còn chưa được thống nhất trong các phòng ban của Sở giao dịch, chưa tạo được sự nhất trí cao trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát. Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.  - Hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (BAMC) còn nhiều hạn chế. Các nghiệp vụ xử lý nợ của BMAC cũng còn rất hạn chế, chưa thực sự được chủ động trong công tác thu hồi nợ, chưa có đầy đủ các chức năng nghiệp vụ của một công ty chuyên về xử lý nợ như ở các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Như vậy đến năm 2008, tổng dư nợ xấu thu được của Sở Giao dịch là 10.546 triệu đồng, chỉ hoàn thành 67,17% kế hoạch HO giao. Thu nợ xấu chưa đạt được kế hoạch giao ngoài hiệu quả hoạt động của BAMC còn do những diễn biến xấu của nền kinh tế đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vốn đã có tình hình tài chính yếu kém, hiệu quả kinh doanh thấp, ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ của Sở Giao dịch. Kết quả xử lý nợ như vậy thực sự còn rất hạn chế, không đáp ứng kế hoạch được giao. Mặt khác, sự phối hợp giữa các phòng ban với BAMC còn một số hạn chế nhất định. Đây là nguyên nhân dẫn đến các phòng ban chức năng tại SGD bị hạn chế trong quản lý, điều hành, nắm bắt tình hình xử lý nợ của BAMC. Và BAMC cũng gặp khó khăn trong việc tiếp nhận thông tin cũng như sự tư vấn từ các phòng ban có liên quan tại SGD về các khoản nợ mà công ty nhận xử lý. - Việc áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu chưa thực sự đa dạng. Biện pháp chủ yếu để xử lý nợ xấu được BIDV sử dụng hiện nay là đẩy mạnh thu hồi nợ trực tiếp, cơ cấu lại con nợ, xử lý tài sản đảm bảo, dùng quỹ dự phòng rủi ro, dùng các biện pháp pháp lý và nguồn chính phủ xử lý. Sở giao dịch chưa triển khai được nhiều biện pháp thu hồi nợ xấu, làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận hoạt động kinh doanh. Ngoài các biện pháp truyền thống, cần phải có các biện pháp xử lý, tái cơ cấu các khoản nợ, tái cơ cấu các doanh nghiệp để họ có thể hoạt động hiệu quả hơn, từ đó ngân hàng có thể đẩy mạnh công tác thu hồi nợ xấu. - Về việc xử lý tài sản đảm bảo nợ vay để thu hồi nợ. Các văn bản liên quan tới nợ xấu còn chưa cụ thể, chồng chéo do đó ngân hàng chưa chủ động được trong xử lý tài sản đảm bảo. Xử lý tài sản cũng là một trở ngại với ngân hàng khi họ chưa được tự phát mại tài sản, nhất là khi khách hàng không hợp tác và nhiều khi cơ quan chức năng không hỗ trợ hiệu quả. Hay khi bán tài sản trên đất của doanh nghiệp nhà nước, giá trị quyền sử dụng đất thường bị chính quyền địa phương thu vào ngân sách nhà nước, không dùng để trả ngân hàng. 2.3.2.2. Nguyên nhân 2.3.2.2.1. Nguyên nhân chủ quan - Công tác quản lý tín dụng yếu kém của ngân hàng: Sự quản lý điều hành yếu kém của ngân hàng thể hiện trong một số nội dung như: chậm điều chỉnh, ban hành mới các cơ chế, chính sách phù hợp; chỉ đạo nghiệp vụ không sâu sát, kịp thời; không có các chính sách phòng ngừa rủi ro hoặc có nhưng không hoàn thiện. Nợ xấu có thể phát sinh từ tất cả các khâu trong quá trình cấp tín dụng của NHTM bao gồm: giai đoạn trước khi cho vay, giai đoạn giải ngân và giai đoạn quản lý vay của khách hàng. Ở giai đoạn trước khi cho vay, việc không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng, điều kiện cho vay, xem xét, đánh giá khách hàng, khoản vay không kỹ, không tốt sẽ dẫn đến phát sinh nợ xấu trong tương lai. Ở giai đoạn giải ngân và giai đoạn quản lý khoản vay: Giải ngân không tuân thủ theo quy định tín dụng; yếu kém trong khâu kiểm soát, theo dõi (không kiểm soát hoặc kiểm soát không chặt chẽ mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng, việc kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của khách hàng bị buông lỏng, việc kiểm soát, theo dõi danh mục khoản vay không được thực thi một cách có hiệu quả) sẽ dẫn đến khả năng phát sinh nợ xấu trong tương lai. - Quy trình nghiệp vụ ngân hàng còn thiếu chặt chẽ, thiếu đồng bộ Do quy trình nghiệp vụ thiếu chặt chẽ dẫn đến việc khách hàng lợi dụng, lừa đảo, chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Chính sách cho vay không phù hợp với đặc điểm thực trạng nền kinh tế có thể dẫn đến hậu quả tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Ngoài ra sự chậm trễ trong việc sửa đổi các quy trình tín dụng chưa hoặc không còn phù hợp với điều kiện thực tế cũng làm cho ngân hàng gặp phải khó khăn khi phải xử lý tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Quy trình tín dụng lỏng lẻo, không chặt chẽ, không thống nhất sẽ tạo điều kiện được cấp tín dụng cho những khách hàng không có khả năng trả nợ, cho những dự án không có khả năng thu hồi vốn hoặc thu hồi vốn lâu, quá hạn trả nợ ngân hàng. Quy trình lỏng lẻo cũng tạo điều kiện cho chính những nhân viên tín dụng có thể mưu lợi riêng, gây thiệt hại cho ngân hàng. Với chính sách mở rộng tín dụng để chiếm lĩnh thị phần, các NHTM có thể đơn giản hóa các thủ tục cho vay, hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, tìm cách lách rào kiểm soát, thông tin sai lệch… nên dễ gặp phải rủi ro. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số NHTMCP đã coi đây là một giải pháp để thu hút khách hàng. Quy trình tín dụng phải được xây dựng và thống nhất trong toàn NHTM, tránh tiện, duy ý chí. Quy trình này phải được Ban lãnh đạo ngân hàng thông qua phổ biến đến các phòng có liên quan cũng như các cán bộ tín dụng. Và được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung chung. Mỗi phòng chức năng trong ngân hàng cũng như cán bộ ngân hàng cần biết mình phải làm gì, đến mức nào. - Trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng ngân hàng còn nhiều hạn chế. Nhân viên tín dụng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, am hiểu lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan tới người vay, quan tâm thích đáng tới chu kì kinh doanh của người vay … Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kỹ lưỡng, rủi ro luôn rình rập họ. Đạo đức nghề nghiệp của nhân viên tín dụng cũng là một trong những yếu tố làm tăng các khoản nợ xấu. Nhân viên tín dụng cố tình làm sai quy định, tham ô để mưu lợi riêng làm tổn hại đến lợi ích của ngân hàng. Nhân viên tín dụng là người xem xét, đánh giá trực tiếp các phương án, dự án của doanh nghiệp. Nếu quy trình nghiệp vụ cho vay lỏng lẻo, dễ dàng thì nguy cơ lợi dụng chức vụ quyền hạn để vụ lợi cá nhân là cao. Điều đó làm cho nợ xấu tăng cao, làm tổn thất cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do khối lượng công việc công việc nhiều, số lượng khách hàng lớn nên cán bộ tín dụng ít có thời gian đi thực tế khách hàng, do đó không thể nắm bắt kịp thời tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng, dẫn đến chậm phản ứng khi khách hàng gặp phải những tình huống bất ngờ, xảy ra rủi ro thì đã muộn. - Cơ cấu cho vay không hợp lý Một thực tế là nguồn lợi nhuận của các NHTM Việt nam chủ yếu vẫn là thu nhập từ mảng tín dụng. Dư nợ cho vay chiếm 60% - 80% tổng tài sản có của NHTM. Trong đó, tín dụng ngắn hạn chiếm trên 70% tổng dư nợ nên rủi ro rất cao. Nguồn lợi nhuận từ dịch vụ ngân hàng chỉ chiếm 20% - 30%. Việc quản lý tín dụng vẫn theo kiểu tryền thống quá chú trọng vào tài sản đảm bảo là bất động sản nhà đất trong khi thị trường bất động sản Việt Nam mới chỉ trong giai đoạn hình thành, diễn biễn thất thường chứa nhiều bất ổn. Việc định giá bất động sản không chính xác, quá cao so với giá trị thực tế trên thị trường sẽ rất khó chuyển nhượng. Thêm vào đó, trường hợp hồ sơ pháp lý liên quan không rõ ràng hay thị trường bất động sản đóng băng sẽ gặp rủi ro lớn trong quá trình xử lý nợ. 2.3.3.2. Nhân tố khách quan - Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu Từ tình trạng phát triển bong bóng trong thị trường nhà đất Mỹ, cuộc khủng hoảng tín dụng địa ốc đã nổ ra, rồi sau đó lan rộng thành khủng hoảng tài chính. Sự kiện ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ sụp đổ hồi trung tuần tháng 9.2008 như cú vỡ của một khối ung, kéo theo đó là hàng loạt vụ phá sản. Ngành tài chính Mỹ suy sụp, dẫn tới sự chao đảo của tài chính toàn cầu. Tình hình nghiêm trọng đến mức đảo quốc Iceland cũng trượt tới bờ vực phá sản. Từ lĩnh vực tài chính, cuộc khủng hoảng đã lan rộng tới toàn bộ nền kinh tế. Sức mua giảm, đơn đặt hàng giảm, sản xuất công nghiệp đình đốn, tỷ lệ thất nghiệp tăng... Ngành công nghiệp ô tô của Mỹ là một ví dụ. Tưởng chừng bất khả chiến bại, nhưng rốt cuộc các đại gia ô tô Detroit đã lún vào thảm họa và phải nhờ tới tiền cứu trợ của chính phủ để cầm cự. Các tên tuổi lớn trong ngành ô tô thế giới như Toyota, Hyundai... cũng cắt giảm sản xuất, thậm chí Toyota còn tạm ngưng hoạt động tất cả 12 nhà máy ở Nhật Bản trong một thời gian. Và rồi, điều khủng khiếp nhất nhưng đã được dự báo trước đã xảy ra. Hàng loạt nền kinh tế mạnh như Nhật Bản, Đức, Mỹ... đều tăng trưởng âm, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc giảm liên tục ở mức kỷ lục: 2,2% trong tháng 11 và 2,8% trong tháng 12.2008 so với cùng kỳ năm trước. Tình hình bết bát tới mức người ta đã gọi những gì đang xảy ra là "Đại suy thoái phiên bản 2.0" nhằm liên hệ tới cuộc Đại suy thoái thời thập niên 30 của thế kỷ trước, khi nền kinh tế Mỹ suy thoái trung bình 14% năm và tỷ lệ thất nghiệp lên tới 25%. Vào thời điểm cuối năm 2008, hầu hết các dự báo đều cho rằng các nền kinh tế lớn như Mỹ, Đức, Nhật Bản sẽ tiếp tục suy thoái, nhưng có thể hồi phục vào cuối năm 2009. Trong bi quan, người ta vẫn giữ được chút lạc quan vì vào thời điểm đó vẫn còn một số cơ sở để niềm hy vọng bám víu, chẳng hạn như sự kiện ông Barack Obama - một nhân vật có sức truyền cảm hứng mãnh liệt - tiếp quản Nhà Trắng cũng như hàng loạt kế hoạch kích cầu - cứu trợ của Mỹ và nhiều nước khác. Tuy nhiên, khi bước vào năm mới được 1 tháng, sự lạc quan ít ỏi đó đã tan biến. Việt Nam ngày càng hội nhập sâu và rộng với ngành tài chính ngân hàng thế giới nói riêng và nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy Việt Nam cũng chịu những ảnh hưởng nhất định trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu gặp khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng toàn cầu khởi nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ mà cội nguồn sâu sa là việc cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ. Cuộc khủng hoảng đã làm phá sản hàng loạt những ngân hàng hàng đầu thế giới, hàng đầu nước Mỹ, Nhật Bản và Liên minh châu Âu. Cuộc khủng hoảng cũng đã có những tác động tiêu cực đến ngành ngân hàng Việt Nam. Đã có lúc tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam bị đe dọa, các khoản nợ xấu ngày càng tăng, làm tổn thất nghiêm trọng tới lợi ích của ngân hàng. Hệ thống ngân hàng đã có nhiều lần thay đổi về lãi suất, thậm chí một tháng tới 4 lần thay đổi, về dự trữ nội tệ hay ngoại tệ. Nguồn vốn huy động cũng có thời điểm bị thu hẹp, làm giảm khả năng kinh doanh, giảm tính thanh khoản của ngân hàng. Trong cuộc khủng hoảng cũng đã có những dự báo về tình hình sáp nhập, mua lại những ngân hàng bé, vốn chủ sở hữu thấp, tình hình kinh doanh ảm đạm. - Môi trường pháp lý chưa đầy đủ Hầu hết Chính phủ các nước đều nhận ra tác động tiêu cực của các khoản nợ xấu đối với nền kinh tế và đã phối hợp thực hiện các biện pháp như ban hành luật, quy định về xử lý nợ xấu. Hành lang pháp lý phải rõ ràng, thuận lợi và đủ mạnh để giải quyết nợ xấu, cụ thể phải có các Luật có hiệu lực về thế chấp, tịch thu tài sản và phá sản ngân hàng, có chính sách thích hợp có giới hạn ngân sách cứng đối với những doanh nghiệp có vấn đề. Ở các nước phát triển trên thế giới, Nhà nước đã ban hành Luật để xử lý thu hồi nợ xấu vì đây là vấn đề quan trọng của đất nước. Cơ chế pháp lý có hiệu quả là cần phải có các biện pháp thích hợp và xử lý nợ có hiệu quả để tránh tình trạng thủ tục rườm rà kéo dài qua nhiều tầng lớp. - Môi trường tự nhiên Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên là yếu tố khó dự đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Vi vậy khi có thiên tai địch họa xảy ra, khách hàng cùng ngân hàng sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, phương án kinh doanh bị đổ bể, doanh nghiệp không có nguồn thu… điều đó đồng nghĩa với ngân hàng phải cùng chia sẻ rủi ro với khách hàng của mình. - Môi trường kinh tế xã hội Môi trường kinh tế xã hội trong nước biến động chịu ảnh hưởng của những biến động từ nền kinh tế thế giới đó là nguyên nhân làm phát sinh rủi ro trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới các lĩnh vực của nền kinh tế trong đó ngân hàng là ngành chứa đựng nguy cơ rủi ro lớn nhất. Sự thay đổi các mối quan hệ quốc tế, các quan hệ ngoại giao của Chính phủ cũng chính là nguyên nhân gây rủi ro lớn cho kinh doanh tín dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó hoạt động kinh doanh tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào thói quen, truyền thống, tập quán của người dân. Những yếu tố đó nhiều khi gây khó khăn và hạn chế việc mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Những tác động của môi trường bên ngoài tới bên vay làm cho họ bị tổn thất tài chính dẫn đến việc không thực hiện được đầy đủ và đúng hạn cam kết trả nợ gốc và lãi đối với ngân hàng thậm chí là mất khả năng thanh toán đi đến phá sản hoặc giải thể. Nhóm tác động bất khả kháng như biến động thị trường, thay đổi về lãi suất, tỷ giá, ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và khu vực và những nguyên nhân do thay đổi cơ chế chính sách của kinh tế vĩ mô gây ra cho khách hàng những gánh nặng nợ nần không đáng có. - Nhân tố từ phía khách hàng Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ì… là nguyên nhân làm gia tăng nợ xấu. Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai lệch, mua chuộc… Nhiều người vay đã không tính toán kỹ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong trường hợp còn lại, người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Tài chính của nhiều doanh nghiệp không minh bạch gây ra khó khăn trong việc thẩm định, đánh giá doanh nghiệp. Một số khách hàng có tư tưởng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để tính toán lừa đảo, chụp giựt, móc ngoặc, sử dụng vốn sai mục đích, vay không có ý định trả nợ. Trong đó, có giám đốc doanh nghiệp nhà nước còn có những hành vi vi phạm pháp luật như tiêu pha vô tội vạ, tiền chùa biếu xén hoặc có ý định chuyển tài sản nhà nước sang tài sản cá nhân, còn thất thoát, mất mát vỡ nợ thì nhà nước chịu. Chương III. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV 3.1. Định hướng đối với vấn đề quản lý nợ xấu của SGD 3.1.1. Định hướng phát triển chung BIDV nói chung và Sở giao dịch nói riêng là sự lựa chọn, tín nhiệm của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp hàng đầu của cả nước, cá nhân trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính ngân hàng. Được cộng đồng trong nước và quốc tế biết đến và ghi nhận như là một trong những thương hiệu ngân hàng lớn nhất Việt Nam, được chứng nhận bảo hộ thương hiệu tại Mỹ, nhận giải thưởng Sao vàng Đất Việt cho thương hiệu mạnh… và nhiều giải thưởng hàng năm của các tổ chức, định chế tài chính trong và ngoài nước. Là niềm tự hào của các thế hệ cán bộ nhân viên và của ngành tài chính ngân hàng trong 50 năm qua với nghề nghiệp truyền thống phục vụ đầu tư phát triển đất nước. Mục tiêu hoạt động của BIDV là trở thành ngân hàng chất lượng – uy tín hàng đầu Việt Nam. Với phương châm hoạt động là hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của BIDV Nhiệm vụ: kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực về tài chính, tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật, không ngừng nâng cao lợi nhuận của ngân hàng, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Chính sách kinh doanh: chất lượng – tăng trưởng bền vững – hiệu quả an toàn. Cung cấp đầy đủ, trọn gói các dịch vụ ngân hàng truyền thống và hiện đại. Cam kết với khách hàng: cung cấp những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao, tiện ích nhất; chịu trách nhiệm cuối cùng về sản phẩm dịch vụ đã cung cấp. Qua 50 năm xây dựng và trưởng thành, BIDV đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần đắc lực cùng toàn ngành ngân hàng thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của công nghệ thông tin và tri thức, với hàng trang truyền thống 50 năm phát triển, BIDV tự tin tới những mục tiêu và ước vọng to lớn hơn trở thành một tập đoàn tài chính ngân hàng có uy tín trong nước, trong khu vực và vươn ra thế giới. 3.1.2. Định hướng phát triển với hoạt động quản lý nợ xấu Tín dụng: Đa dạng hóa các hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng trên cơ sở đảm bảo chất lượng tín dụng, để phục vụ mục tiêu an toàn và sinh lời của Sở giao dịch. Dư nợ tín dụng (không bao gồm ODA và ĐVTV) là 7,100,000 triệu đồng tính cho cả năm 2009. Chính sách với các khoản nợ xấu bao gồm quy định mức rủi ro có thể chịu được đối với từng nhóm khách hàng, từng ngành hoặc từng vùng và chuẩn bị các điều kiện chung sống cùng rủi ro, các yếu tố cấu thành khoản nợ xấu, trách nhiệm giải quyết, phạm vi thanh lý và khai thác. Tỷ lệ nợ xấu là 3% trong năm 2009. Trích lập dự phòng rủi ro một cách hợp lý dựa trên cơ sở phân loại nợ và giá trị tài sản đảm bảo của từng khoản vay. Năm 2009, Sở giao dịch trích dự phòng rủi ro là 60,000 triệu đồng. Chính sách giải quyết nợ xấu liên quan tới nhiều bên: khách hàng, ngân hàng, tòa án, chính quyền địa phương… Lập bộ phận chuyên trách giải quyết các khoản nợ xấu. 3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu 3.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh - Đào tạo phát triển nguồn nhân lực Chất lượng cán bộ tín dụng đóng vai trò then chốt trong việc sàng lọc được các khách hàng tốt, dự án tốt. Cán bộ tín dụng phải tiếp xúc nhiều với khách hàng ở nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau, nhiều vùng, nhiều lãnh thổ thậm chí nhiều quốc gia khác nhau. Để có được sự đánh giá chính xác về khách hàng họ phải thực sự am hiểu khách hàng, lĩnh vực ngành nghề mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Cán bộ tín dụng phải có kỹ năng phân tích tổng thể và chi tiết các thông tin về khách hàng cũng như về dự án đề nghị vay vốn, đồng thời mỗi cán bộ tín dụng cũng cần phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến khách hàng vay vốn. Như vậy, cán bộ tín dụng cần phải được đào tạo bài bản và tự đào tạo kỹ lưỡng và toàn diện. Mặt khác, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng cũng rất quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng các khoản cho vay. Nợ xấu rất dễ phát sinh khi cán bộ tín dụng cố tình làm sai quy trình tín dụng hay bỏ sót một vài bước trong quy trình để nhằm nhận được những khoản bồi thường từ khách hàng. - Thực hiện nghiêm ngặt quy trình quản lý tín dụng Thực tế cho thấy, hoạt động của ngân hàng dựa trên cở chính sách tín dụng, nhất quán hợp lý có hiệu quả hơn là dựa vào kinh nghiệm và trao quyền quyết định cho một cá nhân lãnh đạo. Một chinh sách cho vay không đồng bộ, thiếu tính thống nhất có thể là nguyên nhân tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số NHTMCP đã coi chính sách mở rộng tín dụng là một giải pháp để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần. Nhưng không thể đồng nghĩa với việc hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, tìm cách lách rào kiểm soát, thông tin sai lệch… mà vẫn phải thực hiện đúng quy trình tín dụng để tránh tổn thất cho ngân hàng. - Sử dụng hệ thống công cụ phái sinh. Đây cũng là một giải pháp hữu hiệu để hạn chế nợ xấu phát sinh, giảm chi phí hoạt đông, tăng thu nhập cho ngân hàng. Công cụ tài chính phái sinh là các hợp đồng tài chính mà giá trị của nó có mối liên hệ chặt chẽ hoặc được bắt nguồn từ các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất hoặc tỷ giá. Chúng được sử dụng để phòng tránh, phân tán rủi ro, bảo vệ, tạo lợi nhuận, chống biến động giá trị hoặc để đầu cơ thu lợi nhuận. Thị trường Phái sinh có thể giúp doanh nghiệp cũng như ngân hàng giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Các công cụ trên thị trường tài chính phái sinh rất đa dạng, nhưng nhìn chung có 4 công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn; Hợp đồng tương lai; Hợp đồng quyền chọn và Hợp đồng hoán đổi. Hợp đồng kỳ hạn là thoả thuận trong đó người mua và người bán chấp nhận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, thời điểm xác định trong tương lai với mức giá ấn định vào hiện tại. Hợp đồng kỳ hạn cho phép các bên mua bán với mức giá tương lai, không phụ thuộc vào giá thị trường hiện tại. Hợp đồng quyền chọn cho phép người mua hợp đồng có quyền chọn mua, quyền chọn bán một mặt hàng với mức giá định sẵn tại ngày đáo hạn hợp đồng. Hợp đồng hoán đổi là thoả thuận về trao đổi lãi suất hoặc tiền tệ, thông thường là thanh toán tiền lãi. Hai bên sẽ trao đổi lãi của một đồng tiền sang lãi của tiền khác. Giao dịch hoán đổi lãi suất và hoán đổi tiền tệ là sản phẩm của thị trường phi tập trung, được kết hợp trực tiếp giữa hai NH, hoặc giữa NH với khách hàng Các NHTM, việc áp dụng các công cụ phái sinh còn rất hạn chế, đặc biệt ở các NHTMQD, trong khi khối NH này có lợi thế hơn vì quy mô hoạt động và vốn. Hoạt động phòng ngừa rủi ro thông qua các công cụ phái sinh chỉ có thể được tiến hành một cách sôi động khi có nhiều chủ thể tham gia trên thị trường với sự đa dạng về nhu cầu. NH đóng vai trò trung gian dàn xếp để đáp ứng các nhu cầu đa dạng đó theo nguyên tắc thương mại và thị trường - Đổi mới công nghệ ngân hàng Việc đổi mới công nghệ không những đưa ra được những sản phẩm mới, nhiều tiện ích trên cùng một sản phẩm mà còn tạo điều kiện cho công tác quản lý điều hành theo phương pháp hiện đại như hoạt động, kinh doanh phân tán nhưng quản trị điều hành tập trung tại Trụ sở chính, cho phép Trụ sở chính có thể giám sát chặt chẽ việc thực hiện quy trình nghiệp vụ tại từng chi nhánh. Tập trung nâng cao năng lực quản trị, điều hành, kiểm tra kiểm soát, quản trị rủi ro, bảo mật và an ninh dữ liệu. Các nghiệp vụ quản lý rủi ro tín dụng, quản lý rủi ro tác nghiệp và thị trường tiếp tục được nghiên cứu, tìm kiếm nhằm mua những chương trình phần mềm hiện đại để theo dõi, kiểm soát rủi ro. 3.2.2. Xử lý nợ xấu đã phát sinh - Giám sát xử lý nợ xấu một cách có hiệu quả thông qua hoạt động phân tích, phân loại nợ xấu theo định kỳ Để việc xử lý nợ xấu được kịp thời, đạt được hiệu quả cao thì khâu cảnh báo, phát hiện sớm nợ xấu phát sinh là rất quan trọng, quyết định trực tiếp đến quá trình xử lý nợ xấu sau này. Việc giám sát nợ xấu cần được thực hiện thường xuyên, liên tục và có thể được thực hiện theo các hướng: Giám sát từng khoản vay và giám sát tổng thể danh mục tín dụng. Giám sát từng khoản vay một cách thường xuyên nhằm phát hiện những dấu hiệu cảnh báo sớm để có những biện pháp khắc phục kịp thời, giúp giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra. Thường xuyên thực hiện rà soát và phân tích báo cáo tài chính của khách hàng nhằm đánh giá được thực trạng tình hình hoạt động của khách hàng vay vốn. Thường xuyên đi thăm thực tế khách hàng. Để có một bức tranh rõ nét về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Giám sát tổng thể danh mục tín dụng – phân tích tổng thể danh mục tín dụng nhằm đánh giá chất lượng của danh mục tín dụng, phân loại danh mục tín dụng theo từng nhóm với các tiêu chí để có thể đánh giá mức độ rủi ro của từng nhóm cụ thể nhằm xác định các giải pháp xử lý thích hợp. Do đó, cần phải tiến hành phân tích tổng thể danh mục tín dụng một cách định kỳ, thường xuyên để có thể phát hiện sớm sự phát sinh của các khoản nợ xấu, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời, tránh cho ngân hàng phải gánh chịu những biến động bất lợi trong hoạt động tín dụng do nợ xấu phát sinh. Tình hình thực hiện các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn, phân loại nợ và trích lập dự phòng, quản lý rủi ro tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ở Việt Nam được xem là còn nhiều điểm bất cập, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong đó, riêng vấn đề phân loại nợ theo phương pháp định lượng, hay định tính vẫn chưa được triển khai áp dụng thống nhất cho tất cả các TCTD.   Cần phải có lộ trình để các TCTD triển khai thống nhất cách phân loại nợ theo phương pháp định tính, thay vì định lượng như hiện nay: Các TCTD chủ yếu phân loại nợ theo tiêu chí định lượng (theo kỳ hạn trả nợ đã được gia hạn nợ, hoặc cơ cấu lại nợ) khiến tỷ lệ nợ xấu chưa phản ánh chất lượng tín dụng thực tế. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho các TCTD chưa xác định được chính xác (ở mức độ cho phép) mức độ rủi ro hiện có và rủi ro tiềm tàng. Nhiều TCTD chưa xây dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, yếu tố cốt lõi của hệ thống quản lý rủi ro tín dụng để hỗ trợ việc thẩm định, giám sát khách hàng và phân loại nợ theo thông lệ quốc tế. Trên thực tế, NHNN đã có quy định nhằm hướng tới việc phân loại nợ, hạn chế rủi ro tiếp cận chuẩn quốc tế. Theo điều 7, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (QĐ 493) về phân loại nợ và trích lập dự phòng, các TCTD phải áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (hạn cuối là tháng 5/2008), nhưng đến nay, vẫn có rất ít ngân hàng triển khai. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) được Thống đốc NHNN chấp thuận cho thực hiện chính sách trích dự phòng rủi ro theo quy định tại Điều 7, QĐ 493 từ quý IV/2006 (bằng phương pháp chấm điểm các nhóm chỉ tiêu tài chính, phi tài chính của từng khách hàng, kết hợp với phương pháp chuyên gia và phương pháp thống kê để xếp hạng khách hàng). Nhờ đó, hiện các tiêu chí phân loại nợ của BIDV đã tiệm cận chuẩn mực thông lệ quốc tế; hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV phản ánh khá chính xác chất lượng tín dụng theo thông lệ quốc tế, để từ đó đưa ra được các biện pháp, giải pháp xử lý nợ xấu và kiểm soát nợ xấu phát sinh. Tuy nhiên, không phải TCTD nào cũng “dám” làm như vậy nếu nhìn vào các con số: phân loại nợ theo điều 6, QĐ 493, tỷ lệ nợ xấu của BIDV (năm 2005) là 12,47%, trong khi đó theo chuẩn mực quốc tế do kiểm toán quốc tế thực hiện (triển khai phân loại theo điều 7) thì kết quả này lên đến 31%! Cuối năm 2007, tỷ lệ nợ xấu của BIDV (áp dụng theo điều 7) là 3,9%, nhưng nếu phân loại theo quy định tại điều 6 sẽ chỉ còn khoảng 1,57%! Do đó, cần phải có lộ trình để các tất cả các TCTD Việt Nam áp dụng phân loại nợ theo điều 7 trong thời gian tới. Mỗi loại đối tượng khách hàng vay có những đặc điểm, đặc thù khác nhau về lĩnh vực hoạt động, tình hình tài chính, khả năng phục hồi, tài sản đảm bảo nợ vay, nguyên nhân phát sinh nợ xấu… Vì vậy, việc phân loại nợ theo các tiêu thức trên để làm cơ sở xây dựng các phương án xử lý nợ sẽ hiệu quả hơn và thu hồi nợ cho ngân hàng một cách nhanh chóng. - Chuyển nợ thành vốn góp cổ phần gắn với tái cấu trúc doanh nghiệp Một hướng đi mới trong việc xử lý nợ xấu là chuyển nợ thành vốn góp gắn với tái cấu trúc DN, đây là hoạt động khá mới tại Việt Nam và cũng chỉ có Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) của Bộ Tài chính đã thực hiện thành công hoạt động này. Sau khi mua nợ từ các chủ nợ, DATC đàm phán với chủ sở hữu, cổ đông khác của DN để chuyển nợ thành vốn góp. Sau khi trở thành cổ đông, DATC thực hiện các giải pháp tái cấu trúc DN như xoá một phần nợ và lãi, hoãn trả nợ, thay đổi thời gian trả nợ, hỗ trợ về thị trường, quản trị, hỗ trợ về tài chính như cho vay, bảo lãnh… nhằm phục hồi từ DN kinh doanh thua lỗ, mất khả năng thanh toán thành DN hoạt động kinh doanh có lãi, chính hiệu quả hoạt động của DN sẽ tạo nguồn trả nợ cho DATC. Các DN đã được DATC tái cấu trúc thành công đến nay đều hoạt động kinh doanh có lãi, đã trả hết nợ ngân sách, nợ bảo hiểm xã hội, trả gần hết nợ cho DATC, đặc biệt một số đơn vị đạt tỷ suất lợi nhuận trên vốn khoảng 30%. Xử lý nợ xấu thông qua mua - bán nợ hoặc mua - bán nợ gắn với tái cấu trúc DN khách nợ là hoạt động kinh doanh rủi ro, nhưng thực tế cho thấy có thể xây dựng các tiêu chí để kiểm soát, quản trị các rủi ro này. Cần có những quy định, văn bản pháp luật cụ thể và thống nhất về việc chuyển đổi nợ thành vốn cổ phần để giải quyết nợ xấu cho ngân hàng đồng thời cũng giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, làm thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung phát triển hơn. Tuy nhiên, điều quan trọng là hiệu quả kinh tế phải được đặt lên hàng đầu, mọi phương án kinh doanh mua - bán nợ và tái cấu trúc DN phải được nghiên cứu kỹ để đảm bảo đạt được hiệu quả cao nhất, không để xảy ra tình trạng DN tiếp tục hoạt động không hiệu quả sau khi được cơ cấu lại. Có thể thấy, việc chuyển nợ thành vốn góp gắn với tái cấu trúc DN là một hướng đi mới trong việc xử lý triệt để nợ xấu và góp phần làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của nền kinh tế nói chung và của chủ nợ nói riêng. Với hình thức này, ngân hàng có thể chuyển số tiền từ hình thức cho vay sang hình thức góp vốn và tham gia vào công tác điều hành, quản lý doanh nghiệp vừa có lợi cho con nợ vừa có lợi cho chủ nợ là ngân hàng. - Nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (BAMC) Cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh tế trong hội nhập, các thể chế của nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng sẽ hình thành và phát triển ngày càng đa dạng. Do đó, cần phải có hệ thống pháp lý chuẩn mực để điều chỉnh hoạt động của các thể chế mới được hình thành. BAMC nói riêng và AMC nói chung là một trong những thể chế quan trọng đó. Trong thời gian tới, Việt Nam đang hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao liên tục, đòi hỏi một lượng vốn lớn cần được huy động cho đầu tư phát triển. Các khoản nợ sẽ tăng nhanh và thị trường mua bán nợ hình thành là một tất yếu khách quan. Điều này đòi hỏi môi trường pháp lý cần được hoàn thiện theo hướng xây dựng hoàn chỉnh hệ thống văn bản qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ trên thị trường mua bán nợ, mà AMC là một trong các đối tượng chịu sự điều chỉnh của hệ thống văn bản qui phạm pháp luật này. Các bước đi cụ thể là phải rà soát lại và xây dựng các văn bản qui phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ mua bán nợ giữa AMC với các tổ chức tín dụng, giữa AMC với các tổ chức kinh tế và cá nhân. Các quan hệ nào thiếu sẽ được bổ sung, quan hệ nào mâu thuẫn, chồng chéo sẽ được chỉnh sửa cho thống nhất. Đồng thời, nâng cao quyền tự chủ hơn nữa trong kinh doanh cho BAMC. Về xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường mua bán nợ, trước mắt, khi thị trường đang trong giai đoạn hình thành, chỉ nên xây dựng, ban hành nghị định về mua bán nợ. Nghị định mới xây dựng cần làm rõ các nội dung như: đảm bảo lợi ích của các bên tham gia hoạt động mua bán nợ, như lợi ích của chủ nợ, khách nợ, các công ty môi giới, kinh doanh nợ; xác định rõ địa vị pháp lý và các quyền đặc biệt của chủ nợ; các ưu đãi của Nhà nước đối với hoạt động mua bán nợ, ví dụ như truy cập hệ thống dữ liệu tài chính doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng...  AMC cũng cần tăng vốn điều lệ và có được những chế tài đặc biệt để làm công cụ xử lý nợ - những cơ chế này phải được các Bộ Tư pháp, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Tòa án... cùng bàn bạc thống nhất với nhau để trao cho DATC quyền lực mạnh hơn. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên sớm có những định chế tài chính để thành lập các công ty dịch vụ thu hồi nợ. Về phía mình,AMC cần chủ động chuẩn hóa quy trình thu thập thông tin sâu hơn về các khoản nợ, khách nợ. Chuẩn hóa tiêu chí phân loại, xây dựng cơ sở dữ liệu về nợ tồn đọng... áp dụng thống nhất trong DATC để có thể xây dựng được phương án xử lý có hiệu quả và khả thi. Bên cạnh đó, BAMC nên tạo điều kiện tối đa cho các con nợ có thiện chí trả nợ được chủ động huy động các nguồn vốn để trả nợ vay. Điều này sẽ giúp giảm các chi phí phát sinh cũng như tiết kiệm được thời gian mà hiệu quả đạt được là khá cao. Còn đối với các con nợ không có thiện chí trả nợ thì cần phải xử lý kiên quyết, triệt để, kể cả việc đưa ra cơ quan pháp luật xử lý theo quy định hiện hành. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ - Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng Đó là những hoạt động liên quan tới công bố thông tin tài chính doanh nghiệp có xác minh của kiểm toán, các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu và chuyển nhượng bất động sản hay các thủ tục liên quan đến phá sản, phân chia tài sản trong các quan hệ dân sự như hôn nhân, thừa kế… Khuôn khổ pháp lý càng đồng bộ, rõ ràng thì quá trình giải quyết các vấn đề liên quan đến nợ xấu trở nên nhanh chóng và ngăn ngừa hiệu quả các tiêu cực làm nguy cơ nợ xấu phát sinh. - Hoàn thiện cơ chế pháp lý trong việc xử lý tài sản đảm bảo Đảm bảo sự thống nhất áp dụng trong toàn hệ thống về đảm bảo tiền vay, từ khâu xem xét, thẩm định, đánh giá, chấp nhận biện pháp bảo đảm và tài sản bảo đảm cũng như kiểm tra, rà soát, đánh giá lại tài sản và xử lý tài sản khi khách hàng vay (KHV) vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Đặc biệt là hình thức bảo đảm tiền vay bằng quyền sử dụng đất, bất động sản. Chính phủ cần có các quy định cụ thể, tạo khuôn khổ pháp lý cho công ty BAMC có thể chủ động phát mại tài sản và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, nhất là các cơ chế về đấu giá, phát mại các tài sản cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng quyền sở hữu đất, phát mại các tài sản thuộc sở hữu của DNNN. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước - Tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng vì mục tiêu sinh lợi của hoạt động ngân hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn cho từng NHTM cũng như toàn hệ thống. Các quy định của NHNN ban hành ra phải được các ngân hàng thực hiện một cách thống nhất, không phân biệt NHTM cổ phần và NHTM nhà nước, NHTM trong nước và NHTM có vốn nước ngoài hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. NHNN cũng kiểm tra, theo dõi thường xuyên họat động của các NHTM, nhất là hoạt động tín dụng, phát hiện các dấu hiệu phát sinh các khoản nợ xấu cho NHTM, đề ra các biện pháp xử lý nợ xấu dứt điểm làm trong sạch tình hình tài chính của NHTM. Thông qua đó, nâng cao tính minh bạch, công khai, tăng cường lòng tin của khách hàng với ngân hàng. - Sửa đổi hệ thống tài khoản kế toán, hướng dẫn hạch toán kế toán theo sát với thông lệ quốc tế, phản ánh đúng kết quả hoạt động thực tế của ngân hàng và khách hàng. - Đẩy mạnh cải cách khu vực ngân hàng, mạch máu lưu chuyển vốn của nền kinh tế, góp phần vận hành có hiệu quả nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập càng sâu và rộng với hệ thống ngân hàng thế giới nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung. Đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa các NHTM trên cơ sở công nghệ hiện đại, trình độ quản lý, kinh nghiệm làm việc tiên tiến đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng trong nước và mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh ra nước ngoài. Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các NHTM nhà nước để tăng cường năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, kỹ năng quản trị phù hợp với thực tế một nền kinh tế năng động, tăng trưởng liên tục, bền vững. - NHNN cần có cơ chế hỗ trợ nguồn vốn để các NHTM tăng cường, mở rộng và phát triển hoạt động của mình, đáp ứng nhu cầu ngày càng to lớn của nền kinh tế. Đặc biệt là nâng cao khả năng trích lập dự phòng rủi ro, chủ động đối phó với các khoản nợ xấu, nhất là các khoản nợ không lường trước được và không có khả năng thu hồi. Nguồn vốn hỗ trợ phải đúng thời điểm, đặc biệt là trong bối cảnh hệ thống ngân hàng gặp khó khăn, nền kinh tế suy thoái, để tăng tính thanh khoản của hệ thống, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, đưa đất nước qua cơn thách thức như hiện nay. KẾT LUẬN Quản lý nợ xấu trong hoạt động ngân hàng nhằm làm tăng chất lượng các khoản vay, các dự án vay, giảm chi phí hoạt động, tăng thu nhập, tăng tính thanh khoản, nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng trong điều kiện ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung hội nhập ngày càng sâu với nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu chưa có điểm dừng, thì quản lý nợ xấu trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, trở thành vấn đề quan trọng, xuyên suốt trong cương lĩnh hoạt động quản lý ngân hàng nói chung và SGD nói riêng. Trong thời gian vừa qua, Chính phủ mà trực tiếp là NHNN đã có những chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp với diễn biến của nền kinh tế Việt Nam và nền kinh tế thế giới, góp phần làm hạn chế, giảm thiểu nợ xấu trong toàn ngành, đảm bảo tính thanh khoản của ngành và từng bước vực dậy nền kinh tế đang gặp phải rất nhiều khó khăn, thử thách trước mắt. Đề tài: “Tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” về cơ bản đã hoàn thành được các nhiệm vụ sau: - Khái quát những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại - Tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV. Những thành tựu mà SGD đạt được, những hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, đề xuất các biện pháp tăng cường quản lý nợ xấu. - Đề tài cũng đã đưa ra những kiến nghị với Chính phủ, NHNN về giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro nợ xấu phát sinh. Mặc dù đã hết sức cố gắng trong việc nghiên cứu, thu thập tài liệu nhưng do thời gian và trình độ có hạn, đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những góp ý của thầy cô giáo để bài viết hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS. TS Lưu Thị Hương; PGS. TS Vũ Duy Hào- Giáo trình Tài chính doanh nghiệp- Đại học Kinh tế quốc dân. 2. Peter S Rose- Quản trị Ngân hàng Thương mại- NXB Tài chính- Đại học kinh tế quốc dân. 3. Giáo trình Tín dụng Ngân hàng- Tập thể biên soạn- Học viện Ngân hàng. 4. PGS. TS. Phan Thị Thu Hà - Giáo trình Ngân hàng Thương mại- Đại học kinh tế quốc dân. 5. Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam 6. Frederic S. Mishkin, 2001, Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kĩ thuật. 7. Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD giai đoạn 2006 - 2008 8. Kỷ yếu 15 năm thành lập SGD (1991 – 2006) 9. Báo cáo một số chỉ tiêu tín dụng của Sở giao dịch năm 2007 - 2008 10. Các trang thông tin: Website www.vcb.com Website www.sbv.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.DOC
Luận văn liên quan