MỤC LỤC
Chương 1: TÌM HIỂU VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI 3
1.1 Tăng trưởng kinh tế 3
1.1.1 Khái niệm 3
1.1.2 Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế 4
1.1.3 Các quan điểm về tăng trưởng kinh tế 4
1.2. Tiến bộ xã hội 5
1.2.1 Khái niệm 5
1.2.2 Các tiêu chí đánh giá tiến bộ xã hội 5
1.3. Công bằng xã hội 6
1.3.1. Khái niệm 6
1.3.2. Các thước đo về công bằng xã hội 7
1.3.3. Một số con số và bình luận 12
Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI 22
2.1 Lý luận chung về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội 22
2.2 Quan điểm của Đảng và Nhà Nước 23
Chương 3: THỰC TIỄN VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GẮN LIỀN VỚI TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TẠI NƯỚC TA HIỆN NAY 27
3.1 Những thành tựu đạt được 27
3.2 Những vấn đề còn tồn tại 30
3.3 Giải pháp góp phần hoàn thiện hơn nữa mục tiêu gắn liền tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội 32
Tài liệu tham khảo 37
Chương 1
TÌM HIỂU VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - TIẾN BỘ
VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1 Tăng trưởng kinh tế
1.1.1 Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Sự tăng trưởng kinh tế là quá trình ổn định mà theo đó năng lực có hiệu quả của nền kinh tế nâng dần theo thời gian dẫn đến mức tăng của sản lượng và thu nhập quốc dân. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.
Qui mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người (PCI).
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính).
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng.
Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số. Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc dân chia cho dân số.
Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn. Như vậy, có thể nói phát triển kinh tế bền vững bao hàm cả việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
37 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 12243 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một phần nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Nghèo tuyệt đối: Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Ông định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối... là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta."
Nghèo tương đối: Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó. Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng.
Mức chuẩn nghèo: Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối.
Đối với Việt Nam, Chính phủ đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo trong thời gian từ 1993 đến cuối năm 2005. Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2001, trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005", thì những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm)trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người: Thước đo này đựoc coi là một chỉ số đánh giá trình độ phát triển của một nước ở một thời kì nhất đinh. Những nhu cầu ơ bản này bao gồm mức min dinh dưỡng, sức khoẻ, mặc, ở và các khả năng đảm bảo sự phát triển cá nhân. Dù có những quan điểm khác nhau về các nhu cầu cơ bản, nhưng nhìn chung là có thể đo được các nhu cầu này. Một xã hội không được coi là công bằng khi đại đa số dân cư không được thoả mãn các nhu cầu cơ bản bất luận GNP/người cao hay thấp.
Chỉ số phát triển con người (HDI). (Human Development Index - HDI) là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về sự phát triển của một quốc gia.HDI là một thước đo tổng quát về phát triển con người. Nó đo thành tựu trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí sau:
Sức khỏe: Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, đo bằng tuổi thọ trung bình.
Tri thức: Được đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục (tiểu học, trung học, đại học).
Thu nhập: Mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người.
HDI là số trung bình cộng của các số sau:
Chỉ số tuổi thọ trung bình
Chỉ số học vấn: 2/3 tỉ lệ số người lớn biết chữ cộng với 1/3 số học sinh tuyển vào chia số học sinh trong cả nước.
Chỉ số phát triển xã hội tổng hợp do Liên hợp quốc nêu ra. Bao gồm 73 chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế rất ít nước có thể thoả mãn các chỉ tiêu này. Vì vậy, đối với các nước đang phát triển, dù tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng không phải bao giờ cũng đạt được chỉ số phát triển xã hội cao. Việc đưa vào chỉ số phát triển xã hội tổng hợp quá nhiều chỉ số đã gây ra khó khăn trong tính toán đặc biệt là ở các nước đang phát triển
Chỉ số chất lượng vật chất cuộc sống: Được tính toán dựa trên 3 tiêu chí cơ bản là : tuổi thọ, tỉ lệ tử trẻ sơ sinh, tỉ lệ xoá nạn mù chữ. Chỉ số này đã phản ánh những khía cạnh cơ bản của sự phát triển xã hội và gián tiếp nói lên mức độ công bằng xã hội của một nước
1.3.3. Một số con số và bình luận
Tỷ lệ nhập học của các cấp giáo dục(%
Tuổi thọ(năm)
Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành(%)
GDP bình quân đầu người(ngàn VND)
GDP bình quân đầu người(USD
chỉ só tuổi thọ bình quân
chỉ số giáo dục
chỉ số GDP 2004
HDI 1999
HDI 2004
xếp hạng HDI
bình uân nhóm
72,6
72,9
94,4
11.182
710
0,80
0,87
0,60
0,714
0,756
Bà Rịa-Vũng Tàu
72,7
75
94,4
34.193
6516(1)
0,83
0,87
0,78
0,748
0,828
1
Hà Nội
82,7
97,9
97,9
19.206
1220(3)
0,85
0,93
0,69
0,799
0,824
2
TP.Hồ Chí Minh
75
93,2
93,2
23.921
1520(2)
0,85
0,87
0,72
0,793
0,814
3
(Số liệu: Cục thống kê)
Từ những con số trên cho thấy năm 2004 tỷ lệ nữ trong dân số thành phố là 51,7%, và bất bình đẳng giới vẫn thể hiện rõ rệt nhất ở vấn đề phân phối thu nhập. Tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động của thành phố là 44,9%, chênh lệch thu nhập bình quân đầu người của nam khoảng 1,63 lần so với nữ (chênh lệch trung bình cả nước là 1,45 lần), so với mức chênh lệch này ở Cà Mau là 2,3 lần; ở Bạc Liêu là 1,94 lần; ở Bà Rịa – Vũng Tàu là 1,77 lần thì thành phố Hồ Chí Minh có khá hơn, nhưng Hà Nội chỉ có 1,2 lần, còn các tỉnh Hải Dương, Bình Phước, Sóc Trăng chênh lệch này không đáng kể, và ở Hà Giang, Thái Nguyên, Cao Bằng và hưng Yên là 4 tỉnh có thứ hạng HDI và GDI thấp lại có thu nhập trung bình của nữ cao hơn so với thu nhập trung bình của nam, tuy không chênh nhau nhiều lắm nhưng cũng là một điều thú vị. Trở lại thành phố Hồ Chí Minh, sự chênh lệch thu nhập do nhiều vấn đề, có thể kể đến vài nguyên nhân như:
Tỷ lệ người trưởng thành mù chữ: Tỷ lệ nữ không biết chữ nhiều hơn nam. Năm 1999 – Nam: 3,8%; Nữ: 7,9%. Năm 2004 – Nam: 4,4%; Nữ: 10,3%.
Tỷ lệ lao động nữ không có chuyên môn: Năm 1999 có 75,5% nữ trong 70,9% tỷ lệ lao động không có chuyên môn. Năm 2004 có 58,7% nữ trong 55% tỷ lệ lao động không có chuyên môn.
Trong khi đó chỉ số phát triển của nữ ở thành phố cũng đã có những khích lệ đáng kể: Tuổi thọ của nữ năm 1999: 79,1 trong khi của nam: 71,5, đến năm 2004 tuổi thọ của nữ là 79 trong khi của nam là 73,6. Tỷ lệ nữ nhập học các cấp giáo dục năm 2004: 72,4% (trong khi tỷ lệ của nam là 77,7%). Tỷ lệ số nữ sinh viên trong tổng số sinh viên từ 39,1% năm 1998 cũng tăng lên 50,3% năm 2004. Tỷ lệ lao động nữ có trình độ cao đẳng trở lên từ 9% năm 1998 cũng tăng lên 13,8% năm 2004 (tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng trở lên trong cả nước là 9,3% năm 1998, 13,1% năm 2004). Tỷ lệ nữ trong Quốc hội khóa X (1997 – 2002): 16%; tỷ lệ nữ trong Quốc hội khóa XI (2002-2007): 23,1% (tỷ lệ nữ trong Quốc hội cả nước là 27,3%); Tỷ lệ nữ trong Hội đồng nhân dân cấp thành phố (1999 – 2004): 24,7
Mặc dù đã có nhiều khía cạnh tích cực trong mối quan hệ giới ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng khuynh hướng thiên vị giới vẫn đang tiếp tục làm tăng bất bình đẳng giữa nam và nữ được thể hiện ở một số mặt: Xét theo ngành nghề, có sự khác biệt lớn trong tỷ lệ nam giới và nữ giới có cùng thu nhập với công việc tương tự như nhau, ưu tiên tuyển nam hơn là nữ vẫn đang phổ biến, vì vậy nữ thường phải chấp nhận trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại việc; phụ nữ phải dành nhiều thời gian làm các công việc gia đình nên ít có cơ hội để tham gia vào các hoạt động đào tạo nâng cao chuyên môn; mức độ tham gia của phụ nữ trong các cấp chính quyền cấp cơ sở khá cao nhưng càng lên trên tỷ lệ này giảm dần; số lượng học sinh nữ trong độ tuổi từ 15 – 17 đang giảm so với học sinh nam…. Và sự bất bình đẳng đối với phụ nữ cũng thể hiện ở một số các lĩnh vực khó định lượng như: Tiếng nói của phụ nữ trong xã hội, quyền sở hữu đất đai và tài sản, việc tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, sự phân công lao động trong gia đình, việc thiếu quyền quyết định trong gia đình….
Báo cáo phát triển con người năm 2006 của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) công bố ngày 10/11/2006 tại Hà Nội đã xếp hạng Việt Nam ở vị trí 109 trong tổng số 177 nước về Chỉ số phát triển con người (HDI – Human Development Index). Theo nhận xét của ông John Hendra, Điều phối viên thường trú Liên hiệp quốc, điều quan trọng là mặc dù thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam thấp hơn so với Angieri, Ai Cập, Nam Phi và Guatemala nhưng HDI lại cao hơn, đó là do kết quả khá ấn tượng của Việt Nam về tuổi thọ trung bình và giáo dục:
Chỉ số phát triển con người của Việt Nam 2004 (UNDP)
Trên bình diện cả nước, thành phố Hồ Chí Minh nằm trong nhóm top 10 các tỉnh, thành có chỉ số HDI cao.
Trong khi chỉ số phát triển con người HDI đo thành tựu trung bình, chỉ số phát triển giới (GDI – Gender – related Development Index) lại điều chỉnh các thành tựu trung bình đó để phản ánh sự bất bình đẳng giữa nam và nữ theo 3 chỉ tiêu của HDI. Chênh lệch giữa phụ nữ và nam giới ở một số khía cạnh của cuộc sống sẽ được thể hiện qua GDI. Giá trị GDI của Việt Nam năm 2004 là 0,78 so với giá trị HDI tương ứng là 0,79, như vậy ở nước ta giá trị GDI bằng 99,9% giá trị HDI, tương tự GDI của thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 là 0,813 so với giá trị HDI tương ứng là 0,814. Mặc dù tình hình phát triển giới của Việt Nam vẫn còn có khoảng cách đáng kể với một số nước trong khu vực. Việt Nam chỉ xếp hạng cao hơn Indonesia, Myanmar, Campuchia, Lào và Ấn Độ; còn thấp hơn nhiều so với Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc; tốc độ thay đổi chỉ số GDI cũng còn thấp hơn Campuchia, Lào, Trung Quốc và Ấn Độ.
Nguồn: UNDP (2001 – 2005)
Nhưng nếu tính theo sự phát triển bình đẳng giới giữa các tỉnh thành trong nước, chỉ số GDI đã được cải thiện khá tốt trong giai đoạn 1999 – 2004, xét theo giá trị tuyệt đối, năm 2004 Bà Rịa – Vũng Tàu có chỉ số GDI cao nhất: 0,825, kế tiếp là Hà Nội: 0,824 và thứ 3 là thành phố Hồ Chí Minh: 0,813, đáng chú ý một số tỉnh nằm trong nhóm HDI trung bình và thấp lại có tốc độ tăng GDI khá nhanh:
Thật sự các chỉ số HDI và GDI là những con số chưa thật hoàn hảo bởi vì chất lượng số thống kê còn chưa cao và thường được chỉnh sửa về giá trị và phương pháp tính, chẳng hạn về số liệu đi học có lẽ chưa phản ánh thực sự đúng thực tế vì ở nhiều tỉnh, thành tỷ lệ này phụ thuộc khá nhiều vào thời điểm điều tra. Tuy nhiên trên cơ sở số liệu có được, có thể hình dung ra được một số vấn đề khái quát về các chỉ số phát triển con người, từ đó dự báo những thách thức và xu hướng phát triển trong thời gian tương lai.
Hệ số GINI theo thành thị nông thôn và vùng, 2002,2004
Nguồn:TCTK, Điều tra mức sống hộ gia đình 2006.
2002
2004
Việt Nam
0,42
0,42
Thành thị
0,41
0,41
Nông thôn
0,36
0,37
Vùng
Việt Nam
ĐB sông Hồng
0,39
0,39
Đông Bắc Bộ
0,36
0,39
Tây Bắc Bộ
0,37
0,38
Bắc Trung Bộ
0,36
0,36
DH Nam Trung Bộ
0,35
0,37
Tây Nguyên
0,37
0,40
Đông Nam Bộ
0,42
0,43
ĐB sông Cửu Long
0,39
0,38
Tỷ lệ nghèo của VN giai đoạn (1993-2006)
Về mặt xã hội, mặc dù đời sống của người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm, nhưng chỉ số bất bình đẳng về thu nhập (Gini) ở VN còn cao, và tăng qua các năm (năm 2004 Gini là 0,423, năm 2006 hệ số này là 0,425). Hệ số Gini cao thể hiện phân hóa thu nhập, phân hóa giàu nghèo cao giữa các tầng lớp dân cư. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, thời kỳ trước năm 1990, các nước có thu nhập thấp có hệ số Gini từ 0,389 (Bangladesh) đến 0,550 Kenya, các nước thu nhập trung bình có hệ số Gini từ 0,378 (Nam Triều Tiên) đến 0,605 (Braxin), các nước kinh tế thị trường công nghiệp có tỷ số Gini từ 0,285 (Nhật ) đến 0,404 (Úc), các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa (trước năm 1990) có hệ số Gini từ 0,284 đến 0,317. Hệ số Gini của VN năm 2006 được thể hiện qua đường cong Lorenz
Lorenz của VN năm 2006, với hệ số Gini=0,425
HỆ SỐ GINI CỦA VIỆT NAM TỪ 1993-2006
1993: 0.34
1994:0.35
1995:0.357
2004:0.37
2005:0.423
2006:0.36
(1) Theo số liệu thống kê, hệ số chênh lệch thu nhập bình quân đầu người của nhóm 20% cao nhất so với nhóm 20% thấp nhất trong cả nước năm 1990 là 4,1 lần, năm 1991 là 4,2 lần, năm 1993 là 6,2 lần, năm 1994 là 6,5 lần, năm 1995 là 7,0 lần, năm 1996 là 7,3 lần, năm 1999 là 7,6 lần, năm 2002 là 8,1 lần và năm 2004 là 8,4 lần. Trong 14 năm, hệ số chênh lệch tăng lên 2,05 lần.
(2) Một chỉ số khác về khoảng cách giàu nghèo trong xã hội là tỷ trọng tổng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất (nhóm 1 và nhóm 2) trong tổng thu nhập (của cả 5 nhóm). Theo quy ước mà Bộ Tài chính sử dụng, nếu tỷ trọng này nhỏ hơn hay bằng 12% thì bất bình đẳng là cao; nằm trong khoảng 12 - 17%, là bất bình đẳng vừa; nếu lớn hơn hay bằng 17% là tương đối bình đẳng.
Khoảng cách giàu - nghèo không phải chỉ là một chỉ tiêu kinh tế. Nó còn phản ánh sự gắn kết xã hội và là một thể hiện của sự bình đẳng trong xã hội.
Số liệu thống kê cho kết quả: tỷ trọng này của Việt Nam năm 1995 là 21,1%; năm 1996 là 21%; năm 1999 là 18,7%; năm 2002 là 18%, năm 2004 là 17,4%. Trong 9 năm, sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm hộ từ tương đối bình đẳng đang tiến dần về bất bình đẳng vừa.
(3) Hệ số Gini (G) là một chỉ số khác nữa thể hiện sự bình đẳng hay bất bình đẳng trong xã hội. Hệ số G có trị số nằm trong khoảng từ 0 đến 1. G = 0 là trường hợp bình đẳng hoàn hảo, trong khi đó G = 1 là bất bình đẳng hoàn hảo.
Các số liệu thống kê Việt Nam cho thấy, hệ số Gini năm 1994 là 0,350, năm 1995 là 0,357, năm 1996 là 0,362, năm 1999 là 0,390, năm 2002 là 0,420, năm 2004 là 0,423. Sự bình đẳng đang giảm dần, sự bất bình đẳng đang lớn dần.
(4) Hệ số chênh lệch thu nhập giữa các nhóm hộ có thu nhập cao nhất và thấp nhất trong cả nước và tại một số vùng, theo kết quả điều tra của TCTK, trong các năm 1996 và 1999 như sau:
Trong mười năm trở lại đây, không tìm thấy số liệu điều tra.
Các số liệu, tính toán theo các phương pháp khác nhau, tự chúng đã nói lên khá rõ về khoảng cách giàu nghèo trong xã hội và động thái của nó trong thời gian qua ở nước ta. Rất tiếc không tìm được số liệu sau năm 2004 và nhất là những năm gần đây.
Khoảng cách giàu - nghèo không phải chỉ là một chỉ tiêu kinh tế. Nó còn phản ánh sự gắn kết xã hội và là một thể hiện của sự bình đẳng trong xã hội. Nói cách khác, nó là một chỉ số vừa của môi trường kinh tế vừa của môi trường xã hội.
Xã hội cần có đông lực để phát triển. Khoảng cách giàu - nghèo ắt sẽ nảy sinh. Nhưng sự bền vững của phát triển ở tất cả các nước, và hơn thế nữa định hướng xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận khoảng cách giàu - nghèo đi vào phân cực quá một ngưỡng cho phép.
Để cử tri cả nước có điều kiện theo dõi khía cạnh này, Quốc hội và Chính phủ nên bổ sung báo cáo của mình tại kỳ họp này , và trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế xã hội hàng năm từ nay về sau, một chỉ tiêu về khoảng cách giàu nghèo trong xã hội nước ta.
Chương 2
MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
2.1 Lý luận chung về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
Tăng trưởng là điều kiện của phát triển, của tiến bộ, đó là tiền đề về vật chất - kinh tế để thực hiện công bằng. Một xã hội có nền kinh tế phồn vinh, giàu có phải là một xã hội đạt được và duy trì được sức tăng trưởng kinh tế, cũng như vậy, những dấu hiệu trì trệ và suy thoái, thậm chí khủng hoảng (gắn với lạm phát) phải nhận biết từ mức tăng trưởng chậm lại, giảm sút tăng trưởng. Không có một nền kinh tế tăng trưởng thì không thể có tiềm lực vật chất để tiếp tục đầu tư cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, không có vốn và các nguồn lực nói chung để có thể tái sản xuất mở rộng, càng không thể có điều kiện vật chất để cải thiện, nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống của dân cư.
Trong quan hệ với tiến bộ và phát triển, nếu tăng trưởng kinh tế là điều kiện và tiền đề thì tiến bộ và phát triển là kết quả và công bằng xã hội là động lực và mục tiêu của quá trình tăng trưởng, tiến bộ và phát triển. Nói một cách khác, công bằng xã hội đóng vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, là nhân tố bảo đảm ổn định và lành mạnh xã hội, kể cả xác lập ổn định tích cực của chính trị, là động lực đồng thời là mục tiêu của đổi mới để phát triển đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Công bằng xã hội, trên thực tế, vừa là điều kiện quan trọng để tạo ra ổn định xã hội, vừa là một động lực để tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, cần phải dựa vào công bằng xã hội để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời phải kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Có như thế mới vừa đảm bảo được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa thực hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Để thấy rõ mối tương quan ấy, chúng ta cần nghiên cứu, xem xét những biến đổi trong cấu trúc xã hội và phân tầng xã hội. Chuyển sang kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá - đó là những tác nhân quan trọng thúc đẩy những biến đổi trong cấu trúc xã hội được thể hiện một cách điển hình trong hiện tượng phân tầng xã hội theo mức sống của các nhóm dân cư. Hơn nữa, trong hiện trạng này còn chứa đựng và phản ánh rất nhiều biến đổi xã hội khác.
Tăng trưởng là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cải thiên mức sống: Từ những năm 70 trở lại đây. Hầu hết các nước đang phát triển đều ưu tiên hàng đầu từ tăng trưởng nhanh kinh tế sang các vấn đề khác rộng hơn là xóa đói giảm nghèo, giảm bất bình đẳng. Tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhưng mức sống người dân không được cải thiện, phần lợi ích tăng lên chủ yếu rơi vào tay người giàu, dẫn đến bất bình đẳng ngày càng tăng. Nguyên nhân xuất phát từ việc phân phối thu nhập. Hình thức phân phối thu nhập được sử dụng hầu hết các nước đang phát triển là phân phối theo chức năng yếu tố đóng góp (sở hữu nhiều tư bản sẽ có thu nhập càng lớn). Phân phối thu nhập bất bình đẳng thì tổng cầu trong nền kinh tế bị người giàu có thu nhập chi phối, xã hội có xu hướng tập trung sản xuất hàng hóa xa xỉ phục vụ người giàu mà bỏ qua hàng hóa khác. Ngược lại phân phối thu nhập phân phối, xã hội sẽ hướng sản xuất các hàng hóa thiết yếu nhiều hơn phục vụ nhu cầu đại bộ phận dân chúng.
Do đó tăng trưởng chỉ tạo điều kiện vật chất dể giảm nghèo vè tài sản, trí tuệ, bệnh tật...chứ chưa đủ để cải thiện mức sống người dân. Muốn cải thiện thì tăng trưởng phải đi đôi với vấn đề công bằng được thực hiện thông qua phân phối lại dưới hình thức thuế và trợ cấp xã hội.
2.2 Quan điểm của Đảng và Nhà Nước
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ không phải là nguyên nhân kìm hãm tăng trưởng kinh tế .
Tăng trưởng kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để giải quyết vấn đề xã hội. Không thể có công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế kém phát triển, cũng không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong một xã hội mà con người ốm yếu về thể chất, trình độ dân trí thấp và một bộ phận đáng kể lực lượng lao động chưa được đào tạo, thất nghiệp, nghèo đói. Ngay cả trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội cũng luôn là một đòi hỏi khách quan, tất yếu.
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, lực lượng sản xuất thấp kém, không đồng đều, cơ cấu dân số đông, việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội ở nước ta phải tính đến mục tiêu phát triển kinh tế. Để công bằng xã hội có nội dung thực chất và tạo động lực phát triển kinh tế, cần dứt khoát từ bỏ phương thức phân phối bình quân, cào bằng, bao cấp; khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước; xoá bỏ lối quản lý xin - cho... Chẳng hạn, trong chiến lược xóa đói giảm nghèo ở nước ta, một mặt, cần tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức xã hội trong các chương trình xóa đói giảm nghèo; mặt khác, cần tăng cường các hoạt động giám sát, định hướng, tổ chức giúp người dân thoát nghèo một cách vững chắc theo kiểu "dạy người dân cách tự câu lấy cá cho mình".
Thứ hai, để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ.
C.Mác đã chỉ rõ, công bằng là sự thể hiện yêu cầu bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Điều này có nghĩa là những người khác nhau nhưng cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ như nhau. Nói cách khác, xã hội đối xử ngang nhau với những người có đóng góp như nhau. Mức độ hưởng thụ của cải xã hội được xác định dựa trên những cống hiến của họ đối với xã hội. Công bằng xã hội cần được hiểu như vậy để tránh lặp lại lối phân phối bình quân chủ nghĩa mà thực chất là cào bằng, không công bằng đã xuất hiện ở nước ta thời kỳ trước đổi mới. Cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề công bằng xã hội như vậy nhằm khuyến khích mọi người đóng góp nhiều hơn cho xã hội, tức là tạo nên động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Với quan điểm chung đó, việc phân phối trong lĩnh vực kinh tế chủ yếu dựa vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; đồng thời, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Mặt khác, những đóng góp khác không phải trong hoạt động kinh tế, như những cống hiến trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục,... cũng cần và phải tính đến nhằm bảo đảm cho người lao động được hưởng lợi ích tương xứng, Nhiều người đã đóng góp sức lực, trí tuệ và hy sinh xương máu trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong khi thi hành nhiệm vụ xã hội cũng phải được xã hội bù đắp một cách thoả đáng. Giải quyết vấn đề này không chỉ dừng ở mức độ đạo lý, mà nó phải mang tính pháp lý, được xã hội thừa nhận.
Ngoài ra, Đảng ta cũng chủ trương rằng, để có công bằng xã hội, cần thiết lập và bảo đảm sự công bằng trong việc tiếp cận các nguồn lực xã hội, như nguồn vốn, tài nguyên, thông tin, kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế cũng như các cơ hội tìm kiếm thị trường và việc làm...
Thứ ba, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã cụ thể hóa tinh thần này trên từng lĩnh vực. Về kinh tế, Đảng ta chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân làm giàu theo luật pháp, tạo cơ hội để các hộ nghèo thoát đói nghèo một cách bền vững, khắc phục tình trạng bao cấp, tư tưởng ỷ lại; tiếp tục cải cách chính sách tiền lương. Về mặt y tế, tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe, xây dựng và hoàn thiện các chính sách trợ cấp, bảo hiểm y tế cho các đối tượng chính sách và người nghèo trong khám chữa bệnh, chú trọng triển khai các dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến khích phát triển đa dạng các dịch vụ y tế ngoài công lập... Về giải quyết vấn đề xã hội, thực hiện đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng... Trên từng lĩnh vực, các địa phương phải chủ động đề ra và thực hiện những bước đi, mục tiêu và các giải pháp cụ thể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng vùng, miền.
Thứ tư, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người.Con người không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực để phát triển xã hội mới. Xây dựng xã hội mới chính là để phát triển con người toàn diện; ngược lại, trong số các nguồn lực để xây dựng xã hội mới, con người là vốn quý nhất. Trong thời đại ngày nay, muốn tăng trưởng kinh tế phải quan tâm giải quyết vấn đề công bằng xã hội, tạo điều kiện cho con người có thể phát huy mọi năng lực và hưởng thụ xứng đáng những thành quả của chính mình. Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta nhấn mạnh việc thực hiện chỉ tiêu GDP phải gắn với chỉ tiêu HDI trong suốt quá trình phát triển và trong từng chính sách xã hội. Như vậy, có thể nói, tăng cường đầu tư cho con người là cơ sở để thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội một cách có hiệu quả, thiết thực.
Thứ năm, phát huy vai trò của nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động xã hội là nhân tố cơ bản đảm bảo kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Công bằng xã hội là vấn đề của quan hệ lợi ích, lấy tăng trưởng kinh tế làm tiền đề, nhưng không phải là hệ quả trực tiếp của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế tác động đến việc phân phối lợi ích thông qua những khâu trung gian; trong đó, trước hết phải kể đến cơ chế kinh tế và chính sách xã hội của nhà nước.
Thị trường chỉ góp phần thực hiện công bằng xã hội theo cách thức riêng của nó, cụ thể là bằng cách phân phối lợi nhuận theo quy luật của thị trường. Theo đó, người có đóng góp nhiều thì hưởng lợi nhiều, giỏi thắng kém thua và nhờ vậy, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan điểm nhất quán của Đảng ta là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, việc phân phối thu nhập được thực hiện không chỉ theo lao động, mà còn theo mức độ đóng góp các nguồn lực khác, như vốn, tài sản, đất đai vào tăng trưởng kinh tế, trong đó phân phối thu nhập theo lao động là hình thức phân phối chủ yếu, và như thế được coi là công bằng. Tuy vậy, đối với một thị trường chưa hoàn hảo, còn có độc quyền, có cạnh tranh bất bình đẳng thì nguyên tắc phân phối của thị trường cũng chưa phải đã là công bằng. Ngoài ra, hiện nay, ở nước ta, còn nhiều đối tượng có những khiếm khuyết về sức khỏe, năng lực, trí tuệ, còn nhiều khu vực dân cư các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa kinh tế hàng hóa chưa phát triển… mà sự phân phối của thị trường không đến được. Trong điều kiện như vậy, sự điều tiết của “bàn tay hữu hình” - Nhà nước là sự can thiệp cần thiết, bảo đảm cho tất cả mọi người đều được hưởng thụ tương xứng với những cống hiến của họ cho xã hội trên nhiều lĩnh vực mà thị trường không làm được. Vì vậy, tăng cường vai trò của nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là xu hướng tất yếu, là một biện pháp đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó, Đảng ta cũng chỉ đạo tích cực đẩy mạnh xã hội hóa trong giáo dục, y tế và các dịch vụ công cộng khác với phương châm không bao cấp tràn lan và không vì mục tiêu lợi nhuận.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu tổng quát. Không nghi ngờ gì nữa, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những tiêu chí cơ bản nhất cần phải đạt tới. Thực tế cho thấy, tăng trưởng kinh tế có thể tạo cơ sở để thực hiện công bằng xã hội và ngược lại, nó cũng có thể làm cho công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng hơn, vì vậy nó cũng ảnh hưởng tới các vấn đề khác của xã hội. Cũng như vậy, việc thực hiện công bằng xã hội không chỉ thể hiện tính nhân văn của xã hội, mà còn có thể thúc đẩy hay kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Quan hệ giữa chúng không phải là đồng thuận và có tính tự phát. Hiệu quả của mối quan hệ này ở nước ta hiện nay được phát huy đến đâu - điều đó không chỉ phụ thuộc vào tính tất yếu khách quan của nền kinh tế, mà còn phụ thuộc vào quan điểm chỉ đạo của Đảng và mức độ hiện thực hóa các quan điểm đó trong thực tiễn cuộc sống
Chương 3
THỰC TIỄN VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GẮN LIỀN VỚI TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TẠI NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1 Những thành tựu đạt được
Qua 20 năm (1986 - 2006) thực hiện chính sách Đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 khởi xướng, chúng ta đã có những đổi mới quan trọng về nhận thức mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể đã chuyển sang tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân cư. Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích tập thể một cách chung chung, trừu tượng; thi hành chính sách phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân - cào bằng đã từng bước thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất - kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ vậy, công bằng xã hội ngày một thể hiện rõ hơn. Đã coi phát triển giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân, tạo điều kiện để ai cũng được học hành; có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo. Nhìn chung, mối quan hệ giữa tăng trương kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết có hiệu quả. Qua 20 năm đổi mới, nền kinh tế luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao, đã góp phần quan trọng đưa nền kinh tế vượt qua thời kỳ suy giảm và phát triển tương đối toàn diện.
Về tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,51. Kết quả thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010) ước tính GDP tăng bình quân 7,2%/năm (năm 2009 - 2010, ước theo kế hoạch của Chính phủ); GDP tuyệt đối tăng 2 lần; GDP/đầu người tăng 3,17 lần và đã vượt ngưỡng 1.000 USD. Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất gia tăng đáng kể: ). Theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, Việt Nam đặt mục tiêu tăng GDP 5%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế 2009 nhích dần qua mỗi quý, đưa cả năm lên 5,32%, cao hơn kế hoạch đề ra. Tổng cục Thống kê nhận định kinh tế Việt Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Số liệu do Tổng cục Thống kê vừa công bố cho thấy, trong quý IV, GDP tăng 6,9%, kéo tốc độ cả năm vượt mức 5,2% mà các cơ quan dự báo kinh tế đã ước tính. Đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng GDP đã giảm từ 70% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) xuống còn khoảng 52% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng GDP đã tăng từ 16% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 20% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố tăng trưởng tổng hợp (TFP) đã tăng từ 14% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 28% (giai đoạn 2006 - 2010
Các số liệu trên cho thấy, hiệu quả quản lý nền kinh tế đất nước được nâng cao trong vòng 20 năm qua, nền kinh tế đất nước tăng trưởng liên tục và thuộc nhóm "thị trường mới nổi" có nhiều tiềm năng; vị trí kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao đáng kể.
Đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt
Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2007, 60% tầng lớp dân cư nước ta có mức sống từ trung bình trở xuống chỉ chiếm 36,7% tổng chi tiêu của cả nước và tiếp tục giảm còn 35,5% vào năm 2006; trong khi đó, 20% tầng lớp dân cư giàu nhất chiếm 41,8% (năm 1993) và tăng lên 43,3% (năm 2006) tổng chi tiêu của cả nước.
Do kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối khá và việc điều chỉnh mức lương tối thiểu (từ 180 nghìn đồng cuối năm 2000 lên 350 nghìn đồng năm 2005) cùng với việc triển khai chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo nên đồi sống của các tầng lớp dân cư cả ở thành thị và nông thôn nhìn chung được cải thiện. Kết qủa điều tra mức sống do Tổng cục Thông kê thực hiện những năm qua cho thấy thu nhập bình quân một người một tháng theo giá thực tế năm 2003 – 2004 đã tăng 64% so với năm 1999. Kết quả mức sống của các hộ gia đình năm 2003 - 2004 so với năm 1999: 84% số hộ gia đình đời sống được nâng lên, 11,2% đời sống vẫn như cũ và chỉ 4,8% đời sống bị giảm sút. Năm 2005 GDP bình quân đầu người của nước ta là 640 USD. Nhờ cải thiện được GDP tính theo đầu người, Việt Nam đã rút ngắn được khoảng cách GDP đầu người với các nước trong khu vực.
Công tác xoá đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, y tế,khoa học công nghệ
Dù nước ta hiện không còn nằm trong số 50 quốc gia nghèo nhất của thế giới theo tiêu chí xếp loại của UNDP (với mức GINI dưới 750USD/người/năm), nhưng vẫn chỉ là quốc gia có thu nhập trung bình ở ngưỡng thấp theo tiêu chí đánh giá của Ngân hàng Thế giới (thu nhập trung bình GDP/người từ 936 USD đến 3.705 USD). Tuy nhiên, nhờ đường lối sáng suốt của Đảng ta trong việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu về tiến bộ xã hội. Cụ thể là, chỉ số HDI đạt 0,733, xếp hạng 105/177 quốc gia, thuộc nhóm trung bình cao (nhóm trung bình từ 0,503 đến 0,798). Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm xuống còn khoảng 11% theo tiêu chí Việt Nam (nếu theo tiêu chí quốc tế là 2 USD/người/ngày thì số hộ nghèo còn khoảng 40%). Bảo hiểm y tế được mở rộng đến 52% dân số, 100% số xã có trạm y tế và 78% số xã có bác sĩ phụ trách. Tuổi thọ trung bình đạt 72 tuổi. Trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn dưới 20%. Ngân sách nhà nước đã bảo đảm được 78% chi phí cho giáo dục đào tạo toàn xã hội (đạt 20% ngân sách nhà nước)
Công tác xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt được kết quả khả quan. Theo chuẩn quốc gia (cũ), tỷ lệ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống dưới 7% năm 2005. Còn theo chuẩn quốc tế (tính theo chuẩn 1 USD/ngày/người), thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002. Ngay từ năm 2002, Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là "hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015" Sự nghiệp giáo dục phát triển mới về quy mô, đa dạng hoá các loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Đến năm 2005 cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, trong đó có 24 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và 26 tỉnh đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Năm học 2004 - 2005 cả nước có 230 trường đại học và cao đẳng, 285 trường trung học chuyên nghiệp, 236 trường dậy nghề và 1,5 nghìn cơ sở dạy nghề. So với năm 2000, số trường dạy nghề tăng 70% với quy mô đào tạo tăng. Trong báo cáo giám sát giáo dục toàn cầu năm 2005, Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên hợp quốc UNESCO đánh giá về tiến bộ thực hiện mục tiêu "giáo dục cho tất cả đến năm 2015"
Về chỉ số HDI
Chỉ số HDI của Việt Nam đã tăng từ 0,539 năm 1994 (xếp hạng 120/174 nước) lên 0,733 năm 2007 (105/177). Thứ bậc HDI cao hơn đáng kể so với thứ bậc phát triển kinh tế (hơn 10 bậc) cho thấy sự phát triển kinh tế của Việt nam có xu hướng phục vụ con người và đảm bảo công bằng xã hội. Việt nam xếp hạng 105 về HDI và xếp hạng 123 về chỉ số GDP/đầu người (chênh lệch 18 bậc). Nhận định này càng được khẳng định vững chắc khi chúng ta qua sát thực tế rằng tỷ lệ số người sống dưới mức nghèo khổ của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với các nước có mức GDP/ đầu người vượt trội. Trong những năm qua, tuy nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng như đánh giá trên đây, song vẫn còn không ít yếu kém và khuyết điểm về tăng trưởng kinh tế, công bằng và tiến bộ xã hội cũng như việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội ở Việt Nam. - Tăng trưởng kinh tế tuy đạt cao và tương đối ổn định song chưa bền vững và chất lượng tăng trưởng thấp. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp và của sản phẩm còn thấp.
3.2 Những vấn đề còn tồn tại
Mặc dù cần phải ghi nhận những thành tựu đáng kể mà cả nước đã đạt được. Tuy nhiên, trong quá trình gắn liền tăng trưởng với tiến bộ và công bằng xã hội, chúng ta còn gặp phải không ít những khó khăn:
Thứ nhất, giữa chính sách kinh tế tài chính và chính sách xã hội chưa thực sự gắn kết với nhau, dẫn đến sự phân hóa về thu nhập và tài sản ngày càng lớn. Hiện ở nước ta chưa có cuộc điều tra nào về sự phân hóa thu nhập và tài sản, mà chỉ có điều tra về mức chi tiêu (thang đo theo ngũ phân vị nêu trên dựa vào chi tiêu của các tầng lớp xã hội, chứ không phải thu nhập). Sự giàu nhanh của một bộ phận dân cư, chủ yếu dựa vào sự bất cập của cơ chế và yếu kém trong quản lý nhà nước, chứ không phải dựa vào tài năng, sự sáng tạo và hiệu quả của lao động. Chẳng hạn, trong 10 năm gần đây, có rất nhiều người giàu nhanh là nhờ vào "lỗ hổng" trong quản lý đất đai. Tuy chưa có cuộc điều tra nào về vấn đề này, nhưng thực tế dễ nhìn thấy được là do yếu kém và tiêu cực trong quản lý đất đai, nhất là ở các đô thị lớn, đã biến nguồn vốn xã hội này thành của cải của một thiểu số, tạo sự bất công xã hội ngày càng gay gắt. Tình hình khiếu nại, khiếu tố kéo dài của một bộ phận dân cư mất đất trong thời gian qua có nguyên nhân từ sự yếu kém này.
Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn thế giới cho thấy, ở những quốc gia có tỷ lệ đô thị hóa còn thấp, quá trình đô thị hóa chính quỹ đất đô thị là "con gà đẻ trứng vàng", mà chính quyền có thể điều tiết để đầu tư phát triển các phúc lợi công cộng, nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng, tạo sự hưởng thụ bình đẳng cho các tầng lớp dân cư... nếu có sự phân phối hợp lý nguồn vốn này. Do chính sách thiếu đồng bộ, nhất là sử dụng không hiệu quả các công cụ quản lý, như quy hoạch, quản lý sử dụng đất, quản lý dự án đầu tư bất động sản.., sử dụng công cụ tài chính như thuế, phí để điều tiết và chống đầu cơ, đã tạo ra bất công xã hội.
Thứ hai, quá trình đô thị hóa diễn ra tự phát, thiếu quy hoạch và chính sách điều tiết chưa hợp lý dẫn đến mâu thuẫn giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội. Nghiên cứu kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy, trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, vấn đề khó khăn nhất là làm thế nào để chuyển một bộ phận nông dân mất đất thành thị dân, trở thành người lao động trong các ngành nghề phi nông nghiệp. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua, chúng ta chưa có các chính sách và giải pháp thực sự hữu hiệu để giải quyết bài toán khó khăn này. Ngược lại, ở nhiều địa phương, chính quyền chủ yếu chỉ quan tâm vào việc giải tỏa nhanh để lấy đất, đền bù cho người dân một số tiền theo kiểu "áp đặt giá mua", trong khi việc quan trọng hơn là giúp họ tổ chức cuộc sống cho bản thân và gia đình sau khi mất đất thì ít được quan tâm. Nhiều người đã hiểu sai lệch về cơ chế kinh tế thị trường theo kiểu "thuận mua vừa bán" trong công tác đền bù giải tỏa (để chuyển từ đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp), mà không hiểu rằng, chỉ có việc làm mới là cơ sở quan trọng nhất tạo sự ổn định cuộc sống cho mỗi con người.
Thứ ba, trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thông qua sự vận động của cơ chế thị trường, công cụ quan trọng nhất để Nhà nước điều tiết là thuế và phí. Trong đó, chính sách thuế phải chuyển dần từ thuế gián thu sang thuế trực thu, như thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản bất động sản trong nguồn thu ngân sách nhà nước. Sau Đại hội IX (năm 2001), Chính phủ đã có chiến lược cải cách về thuế trong giai đoạn 2001 - 2010 nhằm thay đổi cơ cấu nguồn thu. Nhưng đến nay vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể. Thuế trực thu hiện mới đóng góp khoảng 7% - 8% cho ngân sách, còn chủ yếu dựa vào thuế gián thu. Từ đó có thể nói, chính sách thuế chưa thực sự thúc đẩy công bằng xã hội. Mặt khác, những nỗ lực của Nhà nước thời gian qua để kiểm soát thu nhập của các tầng lớp dân cư nhằm điều tiết bằng công cụ thuế thu nhập cá nhân đã không mấy thành công do chưa giải quyết được tình trạng của nền kinh tế tiền mặt.
Thứ tư, mô hình kinh tế dựa vào nền tảng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là mô hình tạo ra tầng lớp trung lưu chiếm chủ yếu trong cơ cấu xã hội, nên tính bình đẳng càng cao. Trong nhiều năm qua, chúng ta cũng có chủ trương hỗ trợ để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trên thực tế, khi thực hiện chủ trương này, hầu như không có chính sách cụ thể kèm theo, như chính sách thuế, chính sách tín dụng, chính sách hỗ trợ về đất đai, dịch vụ sản xuất, ứng dụng công nghệ, đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại... Hiện nay, cả nước có đến hàng chục tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng chủ yếu vẫn chỉ là cung cấp dịch vụ để thu phí, thay vì thực thi chính sách quốc gia hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
Thứ năm, có sự lệch lạc trong việc thực thi chủ trương xã hội hóa các dịch vụ thuộc về hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa v.v.. Điển hình nhất là thương mại hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế với chủ trương cho phép thành lập các loại công ty kinh doanh y tế, giáo dục. Ai cũng biết, bản chất của công ty là tối đa hóa lợi nhuận, nên không thể vừa cho lập công ty kinh doanh vừa kêu gọi hạn chế lợi nhuận. Trong khi đó, y tế, giáo dục là vấn đề của Nhà nước chứ không phải là vấn đề của thị trường. Một khi để thị trường điều tiết 2 loại dịch vụ công này, thì không thể rút ngắn được khoảng cách biệt về hưởng thụ giữa các tầng lớp dân cư, để từ đó góp phần nâng cao tính chất công bằng xã hội.
3.3 Giải pháp góp phần hoàn thiện hơn nữa mục tiêu gắn liền tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
Tiêu chí hàng đầu của công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là xem nó có lợi hay hại cho đời sống nhân dân và sự phát triển của đất nước. Kinh nghiệm cho thấy, đặt công bằng xã hội lên hàng đầu sẽ dẫn tới chỗ triệt tiêu những yếu tố phát triển kinh tế, nhưng đặt hiệu quả kinh tế lên hàng đầu lại giãn khoản cách xã hội và nhất là dồn một số người không nhỏ vào tình trạng nghèo khổ và bế tắc, và cuối cùng cũng tạo ra những trở ngại lớn cho hiệu quả của phát triển kinh tế, những nguy cơ bùng nổ xã hội.
Phải đi tìm một công thức mới, trong đó hai mặt công bằng xã hội và phát triển kinh tế không đối kháng nhau, loại bỏ nhau, mà làm cho hai mặt đó trở thành tiền đề của nhau, hơn nữa để cho mặt này bao hàm cả mặt kia ở mức độ hợp lý nhất. Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, sự kết hợp hai mặt đó đang vấp phải những khó khăn. Một mặt, chủ nghĩa bao cấp vừa bình quân, vừa đặc quyền có để lại di chứng, không những trong đời sống vật chất mà cả trong ý thức con người. Mặt khác, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường chứa đầy những yếu tố độc quyền, lũng đoạn, vô chính phủ, tự phát tạo nên một sức ép tâm lý về xã hội của lối sống hãnh tiến, chạy theo đồng tiền một cách mù quáng.
Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra môi trường thuận lợi nhất cho các hoạt động kinh tế một cách văn minh, với những hoạt động sinh lợi thực sự và được pháp luật kiểm soát chặt chẽ, có lợi cho quốc kế dân sinh. Bản thân kinh tế thị trường không tự động bảo đảm công bằng xã hội. Phải có những điều tiết xã hội thông qua Nhà nước để phân phối lại những kết quả hoạt động kinh tế theo hướng bảo đảm công bằng xã hội ở mức cần thiết tối thiểu. Không thể đồng ý với quan niệm cho rằng, nếu coi trọng công bằng xã hội thì khó lòng tập trung các nguồn lực bên trong và bên ngoài để phát triển kinh tế. Đứng về ngắn hạn thì như vậy, nhưng nếu xét theo triển vọng lâu dài thì quan niệm này rất có hại. Theo tư duy kinh tế, đầu tư cho các lĩnh vực xã hội cũng là trực tiếp đầu tư cho kinh tế, nhất là xét theo triển vọng dài hạn. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng không thể chỉ bó hẹp vào những kết cấu hạ tầng kinh tế mà phải mở rộng ra những kết cấu hạ tầng xã hội.
Những nước đang phát triển đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá sẽ thu được kết quả khả quan về phát triển kinh tế, đồng thời khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư ngày càng doãng ra và một bộ phận dân cư sẽ giàu lên trước là khó tránh khỏi, nhưng là cần thiết cho sự phát triển. Thực tế chứng tỏ những nước đang phát triển kém bình đẳng hơn các nước phát triển. Xu hướng này ngày càng tăng lên nếu như nước đang phát triển nào không thu hẹp được khoảng cách phát triển của mình so với các nước phát triển. Thách thức cho các nước đang phát triển hiện nay là làm thế nào để kết hợp hài hoà giữa phát triển với tiến bộ và công bằng xã hội, vừa giảm được sự bất bình đẳng lại vừa không làm giảm động lực thăng tiến, làm giàu theo pháp luật, không có một hệ thống thuế nặng nề và hệ thống trợ cấp xã hội quá lớn. Nhà nước có vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ và công bằng xã hội. Nhưng, so với sự nghiệp phát triển kinh tế, Nhà nước có vai trò lớn hơn, tác động trực tiếp, sâu rộng hơn tới sự tiến bộ và công bằng xã hội nhằm khắc phục sự bất bình đẳng trong quá trình phát triển. Việc chủ động và tích cực tham gia toàn cầu hoá sẽ góp phần đem lại những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội. Hình thành một hệ thống pháp luật cụ thể, rõ ràng về phòng, chống tham nhũng, tổ chức thực hiện nghiêm, tất cả tuân theo pháp luật và tạo điều kiện cho đông đảo quần chúng nhân dân tích cực và chủ động tham gia phòng chống tham nhũng sẽ góp phần không nhỏ thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay cả trong trường hợp thu nhập của quốc gia và người dân còn thấp. Những nước đang phát triển mà lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao, nếu lao động nông nghiệp không có sự chuyển dịch đáng kể sang công nghiệp và dịch vụ thì khó có thể đạt được tăng trưởng cao, bền vững và thu hẹp được khoảng cách về tiến bộ và công bằng xã hội so với các nước phát triển. Để bảo đảm công bằng xã hội, có nhiều giải pháp, nhưng trước mắt phải thực hiện những giải pháp cơ bản sau:
Xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với chế độ dân chủ, kinh tế, văn hóa phát triển, kiên quyết xóa bỏ sự độc quyền, đặc quyền đặc lợi. Phát triển chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự, nhân dân tham gia quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.
Huy động các nguồn lực trong nhân dân, xã hội hóa nhiệm vụ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng chương trình xóa đói, giảm nghèo. Ban hành các chính sách nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết, giảm dần sự cách biệt giữa các vùng trong nước. Ưu tiên đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục, y tế ở các vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây, vùng bị chiến tranh tàn phá và bất lợi về kinh tế.
Triển khai đồng bộ các bộ phận chống tham nhũng, sử dụng có hiệu quả viện trợ nhân đạo và phát triển. Thực hiện công bằng trong phân phối và thu nhập theo nguồn phân phối theo lao động. Công khai minh bạch tài sản công và riêng. Tạo ra những cơ hội như nhau cho tất cả các tầng lớp dân cư và cá nhân phát huy tài năng, tham gia vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Khắc phục và hạn chế các khuyết tật của kinh tế thị trường về phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo, tạo điều kiện cho những người thiệt thòi có điều kiện vươn lên hòa nhập với cộng đồng. Tạo lập nếp sống văn minh, duy trì và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước. Hiệu quả của công bằng xã hội là ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Để thực hiện chính sách xã hội đúng mục tiêu, đối tượng và hiệu quả, phải có những điều kiện bảo đảm ở mức cần thiết để chính sách xã hội đi vào cuộc sống.
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển khoa học- công nghệ, tăng cường các biện pháp huy động vốn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định.
Chú trọng giải quyết việc làm, tăng cường hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm như: dịch vụ việc làm, dạy nghề gắn với việc làm, xuất khẩu lao động.
Đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, thực hiện hỗ trợ tín dụng cho hộ nghèo với điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn, có sự hướng dẫn sử dụng vốn một cách hiệu quả; hỗ trợ đất sản xuất; hỗ trợ giáo dục cho con em người nghèo, thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người nghèo, hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất cho hộ nghèo.
Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại để ngành y tế đủ sức phục vụ nhân dân.
Thực hiện hiệu quả chính sách điều tiết thu nhập.
Kết hợp phát triển kinh tế với cải thiện điều kiện và môi trường sống, xây dựng xã hội theo tinh thần dân chủ.
Tài liệu tham khảo
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 88
(2) Văn kiện đã dẫn, tr 88
(3) Cơ quan đại diện Liên hợp quốc tại Việt Nam: Đưa các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đến với người dân, Hà Nội, 2002, tr 1
(4) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t 3, tr 632 - 633
(5)Wikipedia về tăng trưởng kinh tế
(6)Tài liệu Kinh Tế Phát Triển – Poverty của thầy Võ Tất Thắng thangvt@fetp.vnn.vn
(7) Giáo trình Kinh tế phát triển – Trường đại học Kinh Tế Quốc Dân – Chủ biên: GS-TS Vũ Thị Ngọc Phùng
(8) Công bằng xã hội trong Tiến bộ xã hội–TS. Nguyễn Minh Hoàn–NXB Chính trị Quốc gia
(9) Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội (Lý thuyết và thực tiển ở TP.HCM) – TG. Nguyễn Phú Trần Tình – NXB Quốc Gia
CÁC VẤN ĐỀ CẦN THẢO LUẬN
Công bằng và bình đẳng có gì khác nhau ?
Bình đẳng trước hết là bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, đồng thời việc thực hiện sự bình đẳng giữa người với người trong mối quan hệ giữa thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ quyền lợi ấy chính là thực hiện công bằng xã hội. Như vậy, công bằng xã hội là một phạm trù kinh tế, trước hết phải nhấn mạnh tới lợi ích cá nhân và thụ hưởng lợi ích của từng cá nhân bằng lao động của mình. (ST)
Vd : Hiện tại các bạn được đến trường như nhau, được truyền giảng kiến thức như nhau, được tự do phát biểu ý kiến. Đó là bình đẳng, còn ai học chăm chỉ thì nhận kết quả tốt, ai cúp học, chểnh mảng thì chấp nhận thi lại. Đó là công bằng ! That ‘s True ! Keke
2. Bàn về vấn đề tiến bộ XH ? Time nào để chuyển qua cái giai đoạn XHCN, cái từ « Quá độ » - đã hơn 20 năm nay.( ST)
3. Vấn đề tham nhũng trong Đảng và Nhà nước ??Những vụ đc phơi bày ra PL chỉ là mảng nhỏ của tảng băng chìm. Liệu bộ máy lãnh đạo có giữ vững quyết tâm để theo đuổi con đường XHCN ( ST ), để có cái gọi là Công bằng ?
4….
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.doc