I. Mở đầu
Trong bối cảnh thị trường thế giới có nhiều biến động, giá dầu tăng cao, khủng hoảng nhà
đất ở Mỹ, thì ở trong nước cùng với lạm phát tăng cao, thi trường bất động sản đóng băng,
thị trường chứng khoán mất điểm liên tục, việc thâm hụt cán cân thương mại và tài khoản
vãng lai
2
trong năm 2007 rất lớn và những tháng đầu năm 2008 cho thấy chiều hướng
ngày càng xấu đi đã làm dấy lên những quan ngại của nhiều nhà hoạch định chính sách
cũng như các chuyên gia kinh tế cho rằng việc nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai là
đáng lo ngại, không thể kéo dài (unsustainable), và có thể dẫn tới khủng hoảng kinh tế.
Trong thời gian gần đây báo chí trong và ngoài nước cũng như các tổ chức nước ngoài
đồng loạt đưa ra các báo cáo không tích cực về sự bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
3
Trong báo cáo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước Quốc hội 31/5/2008 cũng đề cập
tới vấn đề nhập siêu có thể gây ra mất cân bằng cán cân thanh toán và ảnh hưởng đến
kinh tế vĩ mô.
Theo kinh nghiệm quốc tế cũng như l y thuyết kinh tế, khi thâm hụt tài khoản vãng lai
lớn và kéo dài mà không có các biện pháp cần thiết (như tăng lãi suất, hạ/phá giá
(devaluate) đồng tiền, cắt giảm chi tiêu chính phủ, thì nền kinh tế có thể sẽ gặp phải nguy
cơ khủng hoảng tiền tệ. Một trường hợp hay được lấy ra làm ví dụ đó là cuộc khủng
hoảng tiền tệ của Thái Lan năm 1997, khi nước này do thâm hụt tài khoản vãng lai quá
lớn, cùng với các khoản vay nợ ngắn hạn không có khả năng thanh toán đã không thể giữ
giá được đồng tiền, và dữ trữ ngoại hối bị cạn kiệt.
Mục lục
I. Mở đầu . 3
II. Tình hình nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam . 5
III. Nguy cơ khủng hoảng của thâm hụt tài khoản vãng lai 9
IV. Nguyên nhân và giải pháp đối với thâm hụt tài khoản vãng lai . 16
4.1 Đầu tư tăng cao? . 16
4.2 Mức tiết kiệm thấp 21
4.3 Thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai . 22
4.4. Gợi y về giải pháp . 26
V. Lời kết 28
VI. Một số tài liệu tham khảo . 29
Hộp số 1 31
Hộp số 2 32
Phụ lục 1: Tình hình tài khoản vãng lai của các nước châu Á trước khủng hoảng 1997 . 33
33 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2548 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thâm hụt tài khoản vãng lai: Nguyên nhân và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên tài khoản vãng lai, thì quan niệm này cho rằng thặng dư
thương mại là điều tốt và thể hiện một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh tốt. Mặc dù
trong một số ít trường hợp, quan niệm như trên không phải là không đúng, nhưng theo ly
thuyết kinh tế thì không hẳn là như vậy.
Trong nhiều trường hợp, thì thâm hụt cán cân thương mại là thể hiện một nền kinh tế
đang tăng trưởng tốt. Khi một nền kinh tế có tiềm năng tăng trưởng tốt, có nhiều cơ hội
đầu tư với lợi nhuận cao, nhu cầu đầu tư cao hơn khả năng tiết kiệm trong nước, điều này
sẽ làm cho các dòng vốn nước ngoài chảy vào quốc gia đó để đáp ứng nhu cầu đầu tư.
Vietnam’s current account deficits 8
Tức là một quốc gia có thể sử dụng nguồn lực của nước khác để phát triển kinh tế trong
nước. Một ví dụ điển hình là tài khoản vãng lai của nền kinh tế Hoa Kỳ luôn ở trong tình
trạng thâm hụt trong những năm gần đây. Điều này không thể hiện Hoa Kỳ là một nền
kinh tế yếu kém. Ngược lại, một tài khoản vãng lai có thặng dư lại có thể là dấu hiệu bất
ổn của nền kinh tế, dòng vốn trong nước chảy ra nước ngoài tìm kiếm những cơ hội đầu
tư tốt hơn. Tức là nguồn lực không được sử dụng cho phát triển nền kinh tế trong nước.
Và trong nhiều trường hợp khác, thì sự mất cân bằng của cân cân thương mại (thặng dự
hay thâm hụt) chẳng phải là một dấu hiệu nghiêm trọng nào.6
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thì thâm hụt thương mại (nhập siêu) và hệ quả là
thâm hụt tài khoản vãng lai thực sự gây ra nhiều vấn đề cho một số nước. Nhiều nước đã
lâm vào khủng hoảng (khủng hoảng nợ, khủng hoảng đồng tiền) sau khi có mức thâm hụt
thương mại lớn, thường xuyên và lâu dài. Điển hình là cuộc khủng hoảng Châu Á những
năm 1997-1998.
III. Nguy cơ khủng hoảng của thâm hụt tài khoản vãng lai
Thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai thường được hiểu là nhập khẩu
nhiều hơn xuất khẩu, và tiêu dùng trong nước nhiều hơn khả năng sản xuất. Làm thế nào
để một quốc gia có thể duy trì thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai?
Tương tự như ở một hộ gia đình, để có thể tiêu dùng nhiều hơn thu nhập, một gia đình sẽ
có hai cách để có tiền trang trải cho tiêu dùng cao hơn thu nhập của mình. Đó là: (i) đi
vay; và (ii) bán tài sản. Ở cấp quốc gia, khi có thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản
vãng lai, thì để có tiền (ngoại tệ) trả cho các khoản nhập khẩu và thâm hụt này, cần có
dòng vốn chảy vào (FDI, đầu tư gián tiếp, vay ngắn hạn, dài hạn, kiều hối, ODA). Nên
thông thường, thâm hụt thương mại (và tài khoản vãng lai) thường đi cùng với thặng dư
trên tài khoản vốn. Nếu không có thặng dư trên tài khoản vốn (tương tự như cấp ở hộ gia
đình là không vay đủ tiền), thì nước nhập siêu buộc phải sử dụng đến dự trữ ngoại hối để
6 Suranovic (1999) cho rằng một trong những nguyên nhân là do thuật ngữ. Bất kể trong hoàn cảnh nào, thì
từ thâm hụt thường có nghĩa xấu, và ngược lại thặng dư thường có nghĩa tốt, và con người thường thích
những điều gì đó dư thừa.
Vietnam’s current account deficits 9
đáp ứng cho các nhu cầu NK của mình (bán tài sản). Nếu dự trữ ngoại hối không đủ đáp
ứng, thì chắc chắn sẽ dẫn tới việc đồng tiền buộc phải mất giá.
Hình 5 Tài khoản vãng lai và tài khoản vốn của Việt Nam trong những năm qua
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Barclays Capital. Con số của năm 2007 là số ước lượng, còn số của năm 2008 là số dự kiến
Như Hình số 5 cho thấy, không phải đến năm 2007 Việt Nam mới nhập siêu và thâm hụt
tài khoản vãng lai. Nhưng đến năm 2007 thì tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai tăng
mạnh, và dự kiến trong năm 2008 sẽ thâm hụt còn lớn hơn nữa. Cũng theo Hình số 5,
trước năm 2008, mặc dù Việt Nam liên tục bị thâm hụt tài khoản vãng lai, nhưng trong
cán cân thanh toán, tài khoản vốn luôn có thặng dư. Trong trường hợp của Việt Nam
trong năm 2007, mặc dù tài khoản vãng lai thâm hụt lớn, nhưng do triển vọng của nền
kinh tế được nhận định là tốt nên tài khoản vốn lại thặng dư do các nguồn như đầu tư trực
tiếp (FDI) đạt 6,5 tỷ USD, viện trợ chính thức (ODA) đạt 1,6 tỷ USD, đầu tư gián tiếp
(Portfolio investment) đạt 6,2 tỷ USD, và kiều hối đạt hơn 6 tỷ USD.
So với năm 2007, triển vọng của nền kinh tế trong năm 2008 không còn được đánh giá là
tốt như năm 2007, do một loạt các vấn đề như lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán
đi xuống. Cụ thể là Quốc hội đã phải điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng từ mức 8,5-9%
Vietnam’s current account deficits 10
xuống còn mức 7% trong năm 2008.7 Điều này làm dấy lên mối lo ngại là với mức nhập
siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai lớn như hiện nay, nếu nguồn vốn nước ngoài chảy vào
Việt Nam bao gồm ODA, FDI, kiều hối, đầu tư gián tiếp không đủ để đáp ứng khoản
thâm hụt, hoặc tệ hơn nữa dòng vốn “nóng” ngắn hạn lại có thể chảy ra ngoài, thì có thể
tạo ra áp lực đối với đồng tiền Việt Nam, dẫn tới mât giá đồng tiền, khủng hoảng tiền tệ
và khủng hoảng kinh tế.
Về cơ bản thâm hụt tài khoản vãng lai có thể được hiểu là một khoản vay mà các nhà đầu
tư nước ngoài cho chính phủ và người tiêu dùng của một nước khác vay để thanh toán
cho việc tiêu dùng quá mức. Thông thường điều này sẽ không có vấn đề gì nếu như
khoản thâm hụt nhỏ. Nhưng nếu khoản thâm hụt này là lớn, đến một mức độ hoặc đến
một thời điểm nào đó, các nhà đầu tư sẽ mất lòng tin vào việc là họ sẽ thu lại được khoản
đầu tư/ khoản đã cho vay, và khi đã mất lòng tin, rất có thể sẽ xẩy ra đổ vỡ, do tất cả các
nhà đầu tư sẽ bán tháo và tìm cách rút tiền ra để tránh mất thêm tiền. Tuy nhiên, không ai
có thể dự đoán được một cách chính xác là khi nào thì lòng tin sẽ bị khủng hoảng! Trong
điều kiện của Việt Nam, có hàng loạt các báo cáo của nước ngoài đưa ra các cảnh báo về
mức độ nghiêm trọng của mức độ thâm hụt của tài khoản vãng lai của VN. Điều này có
nghĩa là gì? Ơ một mức độ nào đó, so với các nước khác thì mức thâm hut tài khoản vãng
lai của VN là quá lớn, và ở một khía cạnh khác, Chính phủ cần có những biện pháp để
cải thiện tài khoản vãng lai, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư.8
Để có thể đưa ra một số nhận định về khả năng khủng hoảng cán cân thanh toán, khủng
hoảng tiền tệ, chúng ta xem xet một số trường hợp sau:9
7 Xem bài viết “Nâng lên đặt xuống chỉ tiêu GDP” đăng trên Sài Gòn Giải phóng số 20 năm 2008. Trong
bài viết này có số liệu về tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Khi thực hiện
chính sách tiền tệ nới lỏng, ngoài việc dẫn tới lạm phát, nó cũng sẽ dẫn tới tăng đầu tư trong nước và làm
thâm hụt tài khoản vãng lai. Một số nghiên cứu của nước ngoài cho rằng mức 7% này là khó đạt được.
8 Nhiều người có so sánh tình hình của Việt Nam hiện nay với tình hình của Thái Lan những năm 1997
trước khi xẩy ra khủng hoảng dẫn tới việc đồng Bath Thái mất giá. Mặc dù VN giống Thái Lan ở tình trạng
thâm hụt cán cân thương mại (nhập siêu) lớn, nhưng điểm khác biệt căn bản giữa VN và Thái Lan chính là
việc Thái Lan có các khoản nợ ngắn hạn quá nhiều, còn VN thì không.
9 Để đơn giản hóa vấn đề, ta chỉ xét tài khoản vãng lai nhu sau: Tài khoản vãng lai = Cán cân thương mại
(hàng hóa và dịch vụ) + Kiều hối + Viện trợ không hoàn lại + Lãi đầu tư nước ngoài chuyển về nước.
Vietnam’s current account deficits 11
Trường hợp 1: Tốc độ nhập siêu từ nay đến cuối năm không thay đổi
Theo số liệu ghi nhận trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhập siêu của Việt Nam
trong 5 tháng đầu năm là 14,4 tỷ USD, như vậy mỗi tháng VN nhập siêu khoảng 2,7 tỷ
USD. Nếu ta giả thiết rằng tốc độ nhập siêu từ nay đến cuối năm 2008 không thay đổi, thì
đến cuối năm 2008, nhập siêu của VN có khả năng lên tới 34,6 tỷ USD.
Trường hợp 2: Với một số biện pháp hành chính cũng như kinh tế của chính phủ, tốc độ
nhập siêu sẽ giảm xuống. Với con số gần đây nhất, quí 2 của năm 2008, thâm hụt cán cân
thương mại giảm từ 8,3 tỷ trong quí 1 xuốn còn 6,4 tỷ trong quí 2 (giảm 33%).10 Như vậy,
nếu giả thiết rằng các quí 3 và 4, tỷ lệ nhập siêu sẽ ở mức của quí 2, thì cả năm VN sẽ
nhập siêu khoảng 27,5 tỷ USD.
Trường hợp 3: Nếu giả thiết rằng trong quí 3 và quí 4, tốc độ nhập siêu sẽ giảm với tốc
độ 33%, thì con số nhập siêu của quí 3 và 4 sẽ là 4,85 tỷ USD và 3,7 tỷ USD, và cả năm
VN sẽ nhập siêu khoảng 23,3 tỷ USD.11
Nếu ta giả thiết rằng, trong năm 2008, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển lợi nhuận ra
khỏi Việt Nam cũng bằng năm 2007 là 2,1 tỷ USD (theo dự báo của Ngân hàng Thế giới
thì mức chuyển lợi nhuận ra khỏi VN năm 2008 sẽ cao hơn 2007, nhưng ở đây ta chỉ giả
thiết là ở mức năm 2007). Kiều hối sẽ đạt mức 8,2 tỷ USD (số dự báo cho năm 2008 của
Ngân hàng thế giới). Giải ngân FDI sẽ ở mức 6,5 tỷ USD của năm 2007 (cao hơn mức dự
báo của Ngân hàng Thế giới).12 ODA ở mức 5 tỷ USD (là mức cam kết của các nước tài
10 Báo Vietnam News, ra ngày 23 tháng 6 năm 2008.
11 Nếu VN có thể giảm được nhập siêu ở mức độ như trường hợp 3 thì có thể coi là một thành công. Theo
thông tin mới nhất, nhập siêu trong tháng 5 của năm 2008 chỉ còn là 1,3 tỷ USD (Thời báo kinh tế Việt
Nam số 150 ra ngày 23/6/2008). Nếu ta giả thiết là từ nay đến cuối năm, mỗi tháng ta chỉ nhập siêu khoảng
1,3 tỷ USD, thì cả năm 2008 VN sẽ nhập siêu khoảng 23,5 tỷ USD, tương đương với trường hợp 3.
12 Theo số liệu mới nhất đăng trên Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 151, ngày 24/6/2008, thì trong 6 tháng
đầu năm 2008, FDI đạt hơn 31 tỷ USD (vốn đăng ky). Riêng trong tháng 6 tổng số vốn đầu tư đăng ky là
hơn 16 tỷ USD. Tỷ lệ giải ngân của các dự án FDI trong năm 2008 cũng khá cao, với mức vốn thực hiện là
khoảng 5 tỷ USD. Đây có thể nói là một tín hiệu khá lạc quan, vì như vậy áp lực giảm giá đồng VN do
thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ thấp đi. Đáng lưu y là trong số này có những dự án bất động sản rất lớn,
như dự án của tập đoàn Good Choice (HK) trị giá hơn 11 tỷ USD đầu tư vào khu vui chơi giải trí, khách
sạn. Về lâu dài có thể tạo ra thâm hụt cán cân thương mai. Theo công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày
21/6/2008, con số đăng k y đầu tư trực tiếp FDI vào Việt Nam trong 6 tháng đầu năm đạt 31,6 tỷ USD
Vietnam’s current account deficits 12
trợ cho VN)13 và vốn đầu tư gián tiếp là 2 tỷ USD (mức dự báo của Ngân hàng Thế giới).
Bảng 1 dưới đây, tổng kết thâm hụt thương mại năm 2007 và so sánh với ba khả năng
của năm 2008.
Bảng 1: Cán cân thanh toán Việt Nam, một số tình huống
Tài khoản vãng lai Tài khoản vốn
Thâm hụt
thương mại
Lợi nhuận FDI
chuyển ra
ngoài
Kiều hối
ODA
FDI
Đầu tư
gián tiếp
Tổng cộng
Năm 2007 -10,3 - 2,1 6,4 4 6,5 6,2 10.70
Trường hợp 1 -34,6 - 2,1 8,2 5 6,5 2(?) -15.00
Trường hợp 2 -27,7 - 2,1 8,2 5 6,5 2(?) -8.10
Trường hợp 3 -23,3 - 2,1 8,2 5 6,5 2(?) -3.70
Đơn vị: Tỷ USD. Các giả thiết là do tác giả đưa ra.
Như có thể thấy, với thâm hụt thương mại khoảng hơn 10,3 tỷ USD, và lợi nhuận của
doanh nghiệp FDI chuyển ra nước ngoài khoảng 2,1 tỷ USD. Trong năm 2007, các nguồn
tiền để cân bằng con số 12,4 tỷ này là từ các nguồn như FDI, kiều hối, ODA và đâu tư
gián tiếp, và do các nguồn tiền này lớn, nên Việt Nam có thặng dư cán cân thanh toán,
khoảng 10 tỷ USD.14
Các trường hợp từ 1 đến 3 cho thấy tình hình có thể diễn ra của tài khoản vãng lai của
Việt Nam. Ở trường hợp 1, nếu không hạn chế được nhập siêu, và các điều kiện khác là
rất thuận lợi, thì VN sẽ thiếu khoảng 15 tỷ USD, và buộc phải sử dụng tới dự trữ ngoại
hối. Theo thông tin mới nhất, thì dự trữ ngoại hối của VN là khoảng 20 tỷ USD. Với
khoản dự trữ ngoại hối này, Việt Nam có thể đảm bảo được nhu cầu ngoại tệ trong trường
hợp xấu nhất. Do đó, khả năng và nguy cơ xẩy ra khủng hoảng là không đến mức nghiêm
( Mặc dù FDI cao như vậy, nhưng con số này mới chỉ là con
số cam kết, con số quan trọng hơn chính là con số FDI tực hiện (giải ngân). Nếu trên thực tế, việc giải ngân
các dự án FDI cao hơn con số dự kiến ở đây, thì là một điều hết sức đáng mừng. Vấn đề đặt ra là liệu sang
năm 2009 chúng ta có tiếp tục thu hút và giải ngân FDI tốt hay không?
13 Trên thực tế không bao giờ việc giải ngân sẽ đạt được mức cam kết. Tuy nhiên giả thiết này đưa ra để dễ
hình dung. Ngoài ra, trong những năm tới, nguồn ODA có thể sẽ giảm sút, ví dụ như viện trợ của EU cho
Việt Nam năm 2008 là 665 euro triệu so với 719 triệu euro năm 2007. Nên trên thực tế, con số giải ngân
ODA có thể sẽ thấp hơn, và khả năng thâm hụt sẽ còn cao hơn.
14 Về mặt kỹ thuật, cán cân thanh toán bao giờ cũng cân bằng do có các bút toán dự trữ ngoại hối. Khi có
chênh lệch giữa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn, thì lúc đó sẽ có các giao dịch liên quan tới dự trự ngoại
hối.
Vietnam’s current account deficits 13
trọng như báo chí và các báo cáo của nước ngoài nhận định. Điều lưu y ở đây là trong các
phân tích này, chúng ta giả thiết các dòng vốn chẩy vào VN là không thay đổi. Nếu thực
tế không phải như vậy, thì tình hình sẽ nguy hiểm hơn.
Tuy nhiên, theo đánh giá của nhóm tác giả thì dự trữ ngoại hối như vậy là khá mỏng
manh với một số l y do như sau:
(i) Ngân hàng nhà nước và Chính phủ có quyết tâm sử dụng cả 20 tỷ USD dự trữ
ngoại hối để bảo vệ đồng tiền hay không? Nếu không, thì điều này có nghĩa là
thực tế dữ trự ngoại hối có thể sử dụng cho mức thâm hụt tài khoản vãng lai là
không tới 20 tỷ USD. Kinh nghiêm thực tế cũng cho thấy trong nhiều trường hợp,
mặc dù khả năng bảo vệ đồng tiền là có thừa, nhưng nếu giới đầu cơ không tin
vào quyết tâm bảo vệ đồng tiền của Chính phủ, thì họ sẽ tiến hành tấn công tiền tệ
(speculative attack). Ví dụ kinh điển của trường hợp này là Hồng Kông năm
1997-1998. Mặc dù dự trữ ngoại hối của Hồng Kông là rất lớn và thừa khả năng
bảo vệ đồng tiền của mình. Nhưng giới đầu cơ lại không tin vào quyết tâm của
chính quyền Hồng Kông trong việc bảo vệ đồng tiền, nên họ liên tục đầu cơ giá
xuống. Mặc dù giới đầu cơ đã thất bại trong việc tấn công đồng Đô la Hồng Kông,
nhưng bài học ở đây từ trường hợp của Hồng Kông là Chính phủ cần có một
thông điệp mạnh mẽ về quyết tâm của mình.
(ii) Trong trường hợp xấu, nếu có xẩy ra tấn công tiền tệ (speculative attack), Việt
Nam có thể sử dụng tới Quỹ dự phòng bình ổn của các nước ASEAN. Mặc dù về
mặt ly thuyết, điều này là khả thi. Nhưng trên thực tế, bao giờ cũng gặp phải vấn
đề khó khăn về thực tiễn và giải ngân. Điển hình là trường hợp của Thái Lan năm
2007. Trong khủng hoảng tài chính năm 1997, IMF mặc dù có cam kết cho Thái
Lan vay tiền là hơn 17 tỷ USD, nhưng lại đi kèm các điều kiện rất chặt chẽ và
thực tế giải ngân của IMF rất chậm so với tình hình thực tế.15
15 Và IMF lại đưa ra nhiều điều kiện bắt buộc không phù hợp với tình hình thực tế các nước bị khủng hoảng.
Sau khi trải qua khủng hoảng, một phản ứng chính sách của các nước này để không còn phải lệ thuộc vào
IMF là xây dựng dự trự ngoại hối lớn. Các nước này đã thực hiện được điều này thông qua việc tài khoản
vãng lai của họ luôn trong tình trạng thặng dư.
Vietnam’s current account deficits 14
Như vậy, nếu không thực hiện các biện pháp để hạn chế thâm hụt tài khoản vãng lai, thì
dự trữ ngoại hối sẽ cạn kiệt. Điểm lưu y ở đây, là chúng ta giả thiết các điều kiện khác
thuận lợi, ví dụ như kiếu hối về với khối lượng lớn, FDI không suy giảm, giải ngân được
ODA. Nhưng trên thực tế, khi tình hình kinh tế vĩ mô xấu đi, các nhà đầu tư mất lòng tin
vào nền kinh tế, thì khó có thể đảm bảo được việc duy trì các dòng vốn chẩy vào Việt
Nam.
Trường hợp 2 và 3, tương đối khả quan hơn, nếu các biện pháp hạn chế nhập siêu của
chính phủ phát huy tác dụng. Trong hai trường hợp trên, thì trường hợp thứ 3 là tương đối
gần với con số thâm hụt thương mại lên tới mức 20 tỷ USD mà chính phủ đưa ra.16 Tuy
nhiên, với cả hai trường hợp 2 và 3 thì gần như chắc chắn là chính phủ phải sử dụng tới
dự trữ ngoại hối để cân bằng cán cân thanh toán. Như vậy dự trữ ngoại hối quốc gia sẽ bị
suy giảm và nếu kéo dài hơn nữa thì sẽ cạn kiệt. Trên thực tế, với tình hình tốc độ nhập
siêu đã giảm như báo chí đưa gần đây, chúng ta có thể hy vọng rằng trường hợp 1 sẽ
không xảy ra. Đồng thời, mặc dù tình hình kinh tế có khó khăn, nhưng dường như các
nhà đầu tư vẫn còn lạc quan và tin tưởng vào triển vọng kinh tế của Việt Nam. Lòng tin
này thể hiện qua việc các cam kết đầu tư FDI trong 6 tháng vừa qua tăng kỷ lục. Nếu như
Việt Nam có thể cải thiện được tình hình thực hiện các dự án đầu tư này (giải ngân tốt),
thì áp lực đối với cán cân thanh toán sẽ giảm đi.17 Điểm mấu chốt của phần phân tích này
là với mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn như hiện nay, cán cân thanh toán dễ mất ổn
định. Chính phủ và Quốc hội với vai trò giám sát cần thực hiện những biện pháp không
chỉ nhằm cắt giảm nhập siêu, thâm hụt tài khoản vãng lai trong năm 2008, mà còn cần
những biện pháp dài hạn hơn cho những năm 2009 và sau đấy, để đảm bảo ổn định kinh
tế vĩ mô.
16 Báo điện tử thời báo kinh tế Việt Nam, ra ngày 27/6/2008, phỏng vấn Thống đốc Nguyễn Văn Giàu.
Theo bài báo này, cán cân thanh toán Việt Nam sẽ tiếp tục có thặng dư khoảng 2,5 tỷ USD, nhờ vào các
nguồn FDI, đầu tư gián tiếp, du lịch, kiều hối.
17 Một câu hỏi trái chiều là liệu có phải do lo ngại về tình hình kinh tế vĩ mô như hiện nay, mà chúng ta
phải gấp rút cấp phép các dự án FDI lớn hay không?
Vietnam’s current account deficits 15
IV. Nguyên nhân và giải pháp đối với thâm hụt tài khoản vãng lai
Như phân tích ở trên, nguy cơ của khủng hoảng cán cân thanh toán và khủng hoảng đồng
tiền Việt Nam mặc dù nhỏ, nhưng không phải là không hiện hữu. Để đưa ra các giải pháp
hiệu quả nhằm cải thiện thâm hụt tài khoản vãng lai, trong phần này các tác giả sẽ sử
dụng một số đẳng thức căn bản trong kinh tế học vĩ mô để xác định nguyên nhân, đồng
thời cũng đưa ra một số suy nghĩ về giải pháp hạn chế nhập siêu và thâm hụt tài khoản
vãng lai.
Theo Bernanke (2007) Chủ tịch Quỹ dự trữ liên bang Hoa Kỳ thì thâm hụt tài khoản vãng
lai chính bằng sự chênh lệch giữa đầu tư trong nước và tiết kiệm trong nước.18 Như vậy,
ở mức độ cơ bản nhất ta cần xem xét, hai vấn đề đó là đầu tư và tiết kiệm trong nước.
Theo l y thuyết kinh tế, thâm hụt tài khoản vãng lai là do sự mất cân đối giữa đầu tư và
tiết kiệm. Chúng ta sử dụng một đẳng thức cơ bản trong kinh tế học nói lên quan hệ giữa
tài khoản vãng lai, mức tiết kiệm và đầu tư như sau19
CA = S – I (1)
Trong đó CA (current account) là mức thâm hụt/thặng dư của tài khoản vãng lai, S
(domestic savings) là mức tiết kiệm trong nền kinh tế và I (investment) là đầu tư. Đẳng
thức cơ bản này cho thấy rất rõ mối quan hệ giữa thâm hụt tài khoản vãng lai (nhập siêu)
với mức tiết kiệm và đầu tư trong nước. Cũng theo đẳng thức này, vấn đề của thâm hụt
Tài khoản vãng lai không nằm ở chính sách thương mại, mà có nguồn gốc ở các vấn đề
kinh tế vĩ mô.
4.1 Đầu tư tăng cao?
18 Ben Bernanke (2007) cho rằng một trong những ly do giải thích cho sự thâm hụt cán cân thanh toán của
Hoa Kỳ, là mức độ tiết kiệm tại các nước đang phát triển, nhất là các nước Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan, Trung Quốc) tăng lên một cách mạnh mẽ, còn ở Hoa Kỳ thì mức tiết kiệm lại thấp đi và mức tiêu
dùng tăng cao, dẫn tới thâm hụt tài khoản vãng lai.
19 Xem Hộp số 2.
Vietnam’s current account deficits 16
Một trong những nguyên nhân gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai là do nhu cầu đầu tư
của khu vực tư nhân tăng cao hơn mức tiết kiệm trong nền kinh tế. Nếu thâm hụt là do
nhu cầu đầu tư tăng cao thì thâm hụt không phải là một vấn đề nghiêm trọng, vì khi đầu
tư nhiều vào nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất, thì trong tương lai năng
suất sẽ cao hơn và sẽ sản xuất nhiều hơn, và hàng hóa sản xuất ra có thể để tăng xuất
khẩu nhằm cân bằng cán cân thương mại và tài khoản vãng lai (trả nợ). Tuy nhiên, nếu
nhu cầu đầu tư tăng cao là vào khu vực bất động sản, thì lại đáng lo ngại, vì khu vực này
thường không làm tăng năng suất (như đầu tư vào máy móc, thiết bị), cũng như tạo ra các
sản phẩm có thể được dùng để trả nợ (thông qua xuất khẩu).
Những ly do dẫn tới dầu tư tăng cao:
1. Chính sách tiền tệ: Một trong những nguyên nhân có liên quan đến đầu tư tăng cao là
chính sách tiền tệ nơi lỏng của Việt Nam trong thời gian qua. Khi thực hiện chính sách
tiền tệ nơi lỏng sẽ dẫn tới tăng đầu tư trong nước, do trong ngắn hạn điều này làm giảm
lãi suất.
Ngoài tác động trên, chính sách tiền tệ còn có tác động thông qua tỷ giá. Để nghiên cứu
về tác đông của chính sách tiền tệ thông qua tỷ giá, có lẽ cần một bài viết đầy đủ hơn.
Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng ta có thể hình dung như sau: Thông thường,
khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thì sẽ tạo nên áp lực giảm giá đồng tiền nội tệ so
với đồng tiền của nước khác. Nếu tỷ giá hối đoái được tự do thay đổi, thì khi đó, nhập
khẩu sẽ trở nên đắt hơn và xuất khẩu sẽ trở nên rẻ hơn. Tuy nhiên, khi tỷ giá không được
tự do thay đổi (tỷ giá cố định), thì đồng tiền nội tệ về bản chất là đã lên giá. Việc duy trì
một đồng tiền nội tệ đã lên giá như vậy sẽ làm giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu. Trong
suốt một thời gian dài Việt Nam đã duy trì tỉ giá cố định gắn vào đồng USD. Khi lạm
phát thấp đây làm một chính sách hợp l y để làm tăng khả năng xuất khẩu của hàng hóa
Việt Nam. Tuy nhiên, từ cuối năm 2006, và đặc biệt là năm 2007, lượng vốn đầu tư (cả
gián tiếp và trực tiếp) chảy vào Việt nam tăng đột biến, làm cho đồng Việt Nam tăng giá
so với các đồng tiền khác. Để duy trì tính cạnh tranh về giá của hàng XK, Ngân hàng Nhà
nước đã tung một lượng tiền lớn ra để mua USD (làm tăng dự trữ ngoại hối), dẫn tới một
lượng cung tiền rất lớn trong hệ thống thanh toán của Việt Nam. Theo một số con số
Vietnam’s current account deficits 17
thống kê, cung tiền tăng 135%, là con số rất lớn (mặc dù NHNN đã có những động thái
để rút tiền ra khỏi lưu thông). Với mức cung tiền lớn và đột biến vào lưu thông để duy trì
tỷ giá cố định như trình bầy ở trên, năm 2007 lại là năm tăng trưởng tín dụng nóng. Điều
này đã làm cho lạm phát tăng rất cao, dự kiến ở mức trên 20%. Tác động của lạm phát,
như trình bầy ở trên, có tác dụng làm đồng tiền mất giá, nhưng việc duy trì tỷ giá cố định
về cơ bản là việc duy trì một đồng tiền định giá quá cao đã làm cho hàng VN mất tính
cạnh tranh (trở nên đắt hơn) và hàng NK trở nên rẻ hơn. Đây cũng chính là một nguyên
nhân của tình trạng nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Phải thấy rằng tỷ giá cứng
là một nguyên nhân dẫn đến thâm hụt thương mại. Trong bối cảnh hiện tại, do tính phức
tạp và mức độ nhạy cảm từ sự biến động tỷ giá, việc điều chỉnh cần thận trọng. Trong
tương lai gần, cần điều chỉnh tỷ giá để đảm bảo mức thâm hụt tài khoản vãng lai chấp
nhận được
2. Tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán: Trong năm 2006 và 2007 đã chứng
kiến hàng loạt các công ty thực hiện cổ phần hóa, lên sàn, phát hành thêm cổ phiếu. Năm
2007 còn được nhìn nhận là năm của IPO. Bản chất của các hoạt động này, kể cả việc
thực hiện cổ phẩn hóa (không chỉ của các công ty nhà nước) là các hoạt động huy động
vốn của doanh nghiệp để đầu tư. Với lượng vốn đầu tư được huy động qua kênh của thị
trường chứng khoán, rõ ràng là mức đầu tư của VN đã tăng lên rất nhiều. Hệ quả tất yếu
của việc tăng đầu tư là nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Để đáp ứng được nhu
cầu đầu tư tăng vọt của các doanh nghiệp Việt Nam, một lượng lớn vốn đầu tư gián tiếp
đã chảy vào Việt Nam (Xem hình số 6).
Liên quan tới việc tăng trưởng của thị trường chứng khoán là nguồn vốn đầu tư gián tiếp
ngắn hạn chảy vào Việt Nam do chênh lệch lãi suất của trái phiếu Chính phủ VN với trái
phiếu Chính phủ của các nước khác. Theo l y thuyết kinh tế, các nhà đầu tư quốc tế đã
thực hiện thành công một nghiệp vụ arbitrage, tận dụng chênh lệch lãi suất giữa hai
khoản đầu tư mà về mặt ly thuyết là có mức độ rủi ro như nhau (cùng là trái phiếu chính
phủ). Luồng tiền đầu tư gián tiếp chảy vào Việt Nam, có tác dụng gián tiếp làm cho nhu
cầu đầu tư và tiêu dùng (xem phần dưới) tăng lên.
Vietnam’s current account deficits 18
Hình 6: Nguồn vốn đầu tư gián tiếp
Nguồn: Báo cáo của Merril Lynch
Thông qua các quan sát tình hình xã hội những năm gần đây, mặc dù chưa có con số
chính xác, nhưng dường như ở Việt Nam mức độ tiết kiệm giảm đi còn mức độ đầu tư lại
cao lên. Đây chính là một nguyên nhân l y giải cho thâm hụt cán cân thanh toán của Việt
Nam. Khi nhu cầu đầu tư trong nước tăng cao, mà nguồn tiết kiệm trong nước lại không
đáp ứng đủ, trong khi đó nguồn vốn tiết kiệm tại các nước xung quanh lại cao, thì rõ ràng
là nhu cầu đầu tư trong nước sẽ được đáp ứng bởi nguồn vốn tiết kiệm dư thừa của các
nước khác. Điều này một phần thể hiện thông qua con số đầu tư gián tiếp vào Việt Nam
tron năm 2007 và đầu năm 2008. Trong năm 2007, con số đầu tư gián tiếp mà Việt Nam
chính thức ghi nhận được theo số liệu của Ngân hàng thế giới là vào khoảng 6,2 tỷ USD.
Như vậy, chính nhu cầu đầu tư trong nước tăng cao trong khi mức độ tiết kiệm không
tăng theo kịp hoặc giảm đi là nguyên nhân dẫn tới tình trạng nhập siêu và thâm hụt tài
khoản vãng lai.
Vietnam’s current account deficits 19
Cũng liên quan tới vấn đề đầu tư, đó là dòng vốn FDI chảy vào VN cũng góp phần làm
tăng thâm hụt cán cân thương mại, nhất là các dự án đầu tư vào bất động sản. Tương tự
như trên, khi đầu tư vào bất động sản, nhìn chung sẽ không làm cải thiện tình hình XK
của VN, mà lại làm tăng nhu cầu NK, do đó làm tăng nhập siêu. Tuy nhiên, vấn đề NK
do các dự án FDI thường không gây ra vấn đề cho tài khoản vãng lai, do các nhà đầu tư
về cơ bản sẽ mang ngoại tệ vào VN để trả cho nhu cầu NK của họ. Trong những tháng
đầu năm 2008, đầu tư FDI vào Việt Nam tăng mạnh, nhưng chủ yếu là chảy vào các dự
án kinh doanh bất động sản, khách sạn (chiếm tới 54% tổng số vốn đăng ky)20
Giải pháp để giảm đầu tư
Mặc dù đẳng thức (1) rất đơn giản, nhưng lại có y nghĩa rất to lớn. Đó là để giảm được
thâm hụt tài khoản vãng lai, thì chúng ta cần làm giảm nhu cầu đầu tư trong nước. Điều
này đặc biệt có y nghĩa khi nền kinh tế phát triển quá nóng.
Như chúng ta đều biết, khi lãi suất tăng, thì nhu cầu đầu tư sẽ giảm. Trong thời gian vừa
qua, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh mức lãi suất cơ bản từ mức 8,75 lên
mức 12%, và sau đó lên mức 14%. Đây là một bước đi đúng, vừa để mức lãi suất này thể
hiện đúng với điều kiện của thị trường, vừa cho phép các NH nâng lãi suất để hạn chế
đầu tư. Mặc dù theo nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá, thì mặc dù mức lãi suất của VN
đã tăng rất cao, nhưng mức lãi suất thực vẫn âm do lạm phát cao hơn lãi suất danh nghĩa.
Mặc dù đã tăng cao, nhưng với mức lãi suất thực âm, thì việc hạn chế và làm giảm nhu
cầu đầu tư của khu vực tư nhân sẽ khó đạt hiệu quả. Nếu như lãi suất danh nghĩa được
tăng cao hơn nữa, thì cùng một mũi tên sẽ đạt được hai mục đích, đó là kiềm chế lạm
pháp và hạn chế nhu cầu đầu tư để cải thiện tình trạng thâm hụt của tài khoản vãng lai.
Cùng với việc tăng lãi suất cơ bản, Ngân hàng Nhà nước dường như đã và đang thưc hiện
chính sách thu hẹp tiền tệ, hạn chế tăng trưởng tín dụng. Ngoài tác động làm hạn chế lạm
phát, biện pháp này sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư và sẽ hạn chế được thâm hụt tài khoản
vãng lai.
20 Theo báo điện tử số ra ngày 8/5/2008
Vietnam’s current account deficits 20
4.2 Mức tiết kiệm thấp
Để làm rõ mối quan hệ giữa tiết kiệm và thâm hụt tài khoản vãng lai chúng ta phân tách
mức tiết kiệm trong nước thành tiết kiệm của khu vực tư nhân và khu vực nhà nước như
sau
CA = Sp + Sg – I (2)
Trong đó Sp là tiết kiệm của khu vực tư nhân (thu nhập trừ đi tiêu dùng và nộp thuế cho
chính phủ); Sg là tiết kiệm của khu vực chính phủ. Theo đẳng thức này, nếu như các yếu
tố khác như Sg và I mà không thay đổi, thì tài khoản vãng lai sẽ thâm hụt nếu như mức
tiết kiệm trong nước của khu vực tư nhân giảm đi.
Nhìn chung ở giai đoạn mới bắt đầu phát triển, các nước đang phát triển thường có mức
tiết kiệm khá thấp so với nhu cầu đầu tư trong nước (do thu nhập thấp, nên mức tiết kiệm
cũng thấp). Là một trong những nước đang phát triển, Việt Nam cũng không có tiết kiệm
cao. Với mức tiết kiệm vốn dĩ đã không cao, trong thời gian vừa qua mức độ tiết kiệm
của Việt Nam còn trở nên thấp hơn nữa do mức tiêu dùng tăng cao đột biến (consumption
boom).
Trong năm 2006 và 2007, có nhiều nguyên nhân dẫn tới có sự thay đổi lớn trong mức tiêu
dùng của người dân Việt Nam (consumption boom). Một trong những nguyên nhân là
hiệu ứng tăng tài sản (wealth effects), do sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường
chứng khoán và thị trường bất động sản của Việt Nam gây ra. Việc thị trường chứng
khoán bùng nổ đã kéo theo một lượng vốn đầu tư gián tiếp lớn ở mức kỷ lục đã chảy vào
thị trường chứng khoán Việt Nam. Về ngắn hạn, dòng tiền chẩy vào đã làm cho người
dân giầu có hơn (cảm giác?), dẫn đến việc tăng tiêu dùng và giảm tiết kiệm. Tương tự
như thị trường chứng khoán, giá bất động sản tăng trưởng mạnh làm cho khu vực dân
chúng trở nên giầu có hơn, và cũng làm cho mức tiết kiệm suy giảm. Ngoài hai yếu tố
trên, trong những năm qua, với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, các sản phẩm tài
chính mới đã làm các khoản tín dụng tiêu dùng, làm cho mức tiết kiệm thấp đi.21
21 Xem thêm What's Behind the Low U.S. Personal Saving Rate? Tại
Vietnam’s current account deficits 21
Nếu mức tiêu dùng tăng cao và tiết kiệm thấp trong khu vực tư nhân (bao gồm tiết kiệm
cá nhân và tiết kiệm của doanh nghiệp) là do những l y do nêu trên, thị trong giai đoạn
hiện nay với sự sụt giảm của thị trường chứng khoán và sự đóng băng của thị trường bất
động sản, có lẽ mức tiêu dùng của sẽ giảm xuống. Trong gói biện pháp mà chính phủ đưa
ra có biện pháp tăng cường tiết kiệm, hạn chế lãng phí là rất đúng đắn. Cùng với việc thắt
chặt tiền tệ và tăng lãi suất như hiện nay, các khoản tín dụng tiêu dùng chắc chắn cũng sẽ
bị giảm bớt.
4.3 Thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai
Một trong những nguyên nhân gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai chính là thâm hụt ngân
sách nhà nước. Một trong những nguy cơ gây ra khủng hoảng kinh tế, đó là vấn đề thâm
hụt kép: Vừa thâm hụt tài khoản vãng lai lớn, lại vừa thâm hụt ngân sách chính phủ cũng
lớn. Hiên nay, theo các báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), dường như Việt Nam
đang gặp phải vấn đề thâm hụt kép.
Để thấy được mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai, ta viết
lại đẳng thức số 2 ở trên như sau:22
CA = Sp + Sg – I
= (Y – T – C) + (T – G) – I (3)
trong đó Sp là tiết kiệm của khu vực tư nhân, Sg chính là chênh lệch giữa thu ngân sách
(T) và chi tiêu của chính phủ (G). Con số chênh lệch giữa thu (T) và chi ngân sách (G)
chính là thâm hụt ngân sách. Từ đẳng thức trên, ta thấy việc tăng tiết kiệm của khu vực tư
nhân sẽ cải thiện tài khoản vãng lai. Việc tăng đầu tư hay tăng thâm hụt ngân sách sẽ dẫn
tới thâm hụt tài khoản vãng lai. Và như vậy, nếu các yếu tố khác không thay đổi, thì rất
có thể chính thâm hụt ngân sách sẽ dẫn tới thâm hụt tài khoản vãng lai. Các nước phát
triển, như Hoa Kỳ, cũng gặp phải vấn đề thâm hụt kép, và nhiều nhà kinh tế học cho rằng
22 Xem hộp số 2.
Vietnam’s current account deficits 22
việc tăng chi tiêu của chính phủ Hoa Kỳ là nguyên nhân của việc thâm hụt tài khoản vãng
lai của nước này.23
Để giảm được thâm hụt ngân sách (T-G), thì chúng ta có thể (i) giảm chi tiêu của chính
phủ; và (ii) tăng thu ngân sách. Hiện nay chính phủ VN đang có chương trình tăng thu
ngân sách thông qua việc tăng cường hiệu quả thu ngân sách của ngành thuế (với sự hỗ
trợ của Ngân hàng Thế giới). Hy vọng trong tương lai, nguồn thu ngân sách của chính
phủ sẽ tốt hơn với sự hoạt động hiệu quả hơn của bộ máy thuế, và điều này cũng sẽ giảm
bớt áp lực của thâm hụt tài khoản vãng lai.24 Tuy nhiên, đây là biện pháp dài hạn, còn về
ngắn hạn, để giảm được thâm hụt ngân sách thì điều hiển nhiên là phải cắt giảm chi tiêu
của chính phủ.25 Theo con số chính thức, thì thâm hụt ngân sách của VN hiện đang ở
mức 5%. Tuy nhiên, theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) ước tính thì con số thâm
hụt ngân sách của VN lên tới 7%, và có thể lên tới 10% trong năm 2007.26
Hình số 7 cho thấy mức thâm hụt ngân sách tính theo tỷ lệ phần trăm của GDP của các
nước mới phát triển trong đó có Việt Nam. Việc thâm hụt ngân sách không phải là một
điều mới lạ với các nước đang phát triển, nhưng thâm hụt ngân sách cao như ở Việt Nam,
thì có rất ít. Đại đa số các nước đều có mức thâm hụt là dưới 4% so với mức 5% của Việt
Nam trong bảng này, và mức 7% do ADB ước tính. Đối chiếu với Hình số 3 ở trên, mặc
dù Ấn độ và Hungary có mức thâm hụt ngân sách cao hơn Việt Nam, nhưng thâm hụt tài
khoản vãng lai lại thấp hơn Việt Nam nhiều (Hungary khoảng 5-6%, Ấn độ khoảng 2%
của GDP).
23 Xem Menzie D. Chinn (2005), Getting serious about the twin deficits, the Bernard and Irene Schwartz
Series on the Future of American Competitiveness. Chinn (2005) cho rằng thủ phạm chính của tình trạng
thâm hụt tài khoản vãng lai chính là thâm hụt ngân sách nhà nước.
24 Theo ly thuyết kinh tế, việc tăng thuế suất không chắc sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách mà còn có thể
làm giảm thu ngân sách. Việc nghiên cứu về việc tăng hay giảm thuế suất nằm ngoài phạm vi nghiên cứu
của bài viết này.
25 Chi tiêu cho chính phủ ở đây bao gồm cả các hoạt động chi cho hoạt động của chính phủ và các hoạt
động đầu tư của chính phủ và các công ty thuộc sở hữu nhà nước.
26 Thâm hụt ngân sách cũng có thể dẫn tới tình trạng lạm phát cao (expansionary fiscal policy). Vấn đề lạm
pháp không nằm trong phạm vi của bài viết này.
Vietnam’s current account deficits 23
Hình 7 : Tình hình ngân sách của các nước đang phát triển trong năm 2007
Nguồn: Báo cáo của Merril Lynch
Nguyên nhân thâm hụt ngân sách:
1. Chính sách tài khóa không nhất quán: Theo Jonathan Pincus27, hiện tại VN không
có một chính sách tài khóa nhất quán. Và đáng lo ngại hơn, đó là chính phủ VN hiện
không nắm được mức chi! Cũng theo Pincus, việc tốt nhất để giải quyết vấn đề nhập siêu
và thâm hụt tài khoản vãng lai chính là giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách (bội chi
ngân sách).
2. Đầu tư tràn lan, không hiệu quả: Trong thời gian qua, VN đã đạt mức tăng trưởng
hơn 7% một năm, một mức tăng trưởng được thế giới đánh giá cao. Năm 2008, VN còn
đề ra mức tăng trưởng cao hơn nữa là hơn 8%. Để đạt được mức tăng trưởng này, đòi hỏi
phải tăng cường đầu tư (của cả khu vực tư nhân và chính phủ). Tuy nhiên, một khó khăn
rất lớn mà VN đang gặp phải, đó chính là hiệu quả đầu tư thấp. Điều này thể hiện qua hệ
số ICOR của VN rất cao so với các nước trong khu vực, với hệ số ICOR cao (hiệu quả
đầu tư thấp).28 Mặc dù mức đầu tư của khu vực nhà nước là lớn chiếm tới 50% tổng đầu
27 Xem bài viết Kinh tế Việt Nam và ba yêu cầu cải cách cấp bách, số ra ngày 6/6/200 trên báo điện tử
28 Theo báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội ngày 31/5/2008, chỉ số ICOR của Việt Nam là trong khoảng
4,5-5,3.
Vietnam’s current account deficits 24
tư toàn xã hội, nhưng lại kém hiệu quả hơn đầu tư của khu vực tư nhân (Xem thêm bài
“Hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước” của TS Nguyễn Quang A đăng trên Sài Gòn
Giải phóng 2008, và bài “Giảm thâm hụt ngân sách để khôi phục sự ổn định vĩ mô”
của Vũ Thành Tự Anh, đăng trên báo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần số 248, ra ngày
09/05/2008). Càng ngày, chỉ số ICOR của Việt Nam càng cao, thể hiện một điều là để đạt
được cùng một tỷ lệ tăng trưởng như các năm trước, thì phải có một mức đầu tư cao hơn.
Như vậy có thể nói rằng, một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng thâm hụt tài
khoản vãng lai là do mong muốn đạt mức tăng trưởng trong khi hiệu quả của việc đầu tư
lại thấp. Việc duy trì mức độ tăng trưởng cao chỉ dựa vào việc gia tăng đầu vào như các
nước Châu Á đã và đang làm (tăng đầu tư thiết bị, máy móc, kể cả việc nâng chất lượng
giáo dục) sẽ không thể kéo dài mãi khi hiệu quả đầu tư ngày canf thấp, đó là do qui luật
kinh tế lợi nhuận cận biên giảm dần (diminishing marginal return).29
Như báo chí đã nêu, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được vay tiền với lãi suất ưu
đãi, lập các công ty mới, đầu tư vào chứng khoán, bất động sản, không phải là những lĩnh
vực truyền thống của các DNNN này. Hiện nay tình trạng đầu tư quá mức, đầu tư tràn lan,
đầu tư kém hiệu quả là rất lớn.30 Nếu chúng ta coi việc đầu tư của các doanh nghiệp nhà
nước là một phần của đầu tư công, hoặc một phần việc đầu tư của các DNNN là từ ngân
sách nhà nước thì chính việc đầu tư tràn lan của các tập đoàn nhà nước như báo chí đã
nêu gần đây là một trong những nguyên nhân gây ra thâm hụt ngân sách, và dẫn tới thâm
hụt tài khoản vãng lai. Nếu chúng ta không coi đầu tư của các DNNN này là nằm trong
ngân sách nhà nước, thì các khoản đầu tư này sẽ nằm trong yếu tố đầu tư (I) như đã nêu ở
trên, và điều này trực tiếp ảnh hưởng tới tài khoản vãng lai. Để hạn chế các khoản đầu tư
này, một biện pháp kinh tế rất đơn giản, đó là tăng lãi suất. Nhưng vì đây là các DNNN
nên có một vấn đề khó là các DNNN này lại được vay vốn ưu tiên của Nhà nước.
Giải pháp
29 Xem thêm bài The Myth of Asia's Miracle của Paul Krugman
30 Xem bài viết Kinh tế Việt Nam và ba yêu cầu cải cách cấp bách, số ra ngày 6/6/200 trên báo điện tử
Vietnam’s current account deficits 25
Như báo chí đã đăng, Chính phủ đang thực hiện gói chính sách gồm 8 điểm để cân bằng
kinh tế vĩ mô, trong đó có biện pháp “cắt giảm đầu tư công, và chi phí thường xuyên
của các có quan sử dụng ngân sách nhà nước, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách”. Trong đó có cắt
giảm đầu tư công, chi tiêu công khoảng 200 triệu USD. Phải khẳng định rằng đây là một
chính sách rất đúng đắn, và cần phải thực hiện càng nhanh các biện pháp này càng tốt.
Tuy nhiên con số này là quá bé nhỏ. Có lẽ cần phải thực hiện cắt giảm mạnh mẽ hơn nữa.
Vì theo quan điểm cá nhân của tác giả, việc giảm thâm hụt ngân sách không chỉ nhằm
giải quyết một mục tiêu là giảm lạm phát, mà còn hạn chế thâm hụt ngân sách, và làm
giảm thâm hụt tài khoản vãng lai. Việc thực hiện cắt giảm chi tiêu công, và đầu tư công ở
đây không có nghĩa là không thực hiện dự án đó nữa, mà tạm thời dừng các dự án đầu tư
công này lại cho tới khi kinh tế vĩ mô ổn định hơn.
Ngoài việc cắt giảm đầu tư công, cần tăng cường kiểm soát đầu tư tràn lan của các doanh
nghiệp nhà nước. Nên đối xử với DNNN như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế,
không nên cho các DNNN được hưởng lãi suất ưu đãi. Lãi suất là một công cụ rất quan
trọng để điều hành nền kinh tế, nên việc cho các DNNN được hưởng lãi suất ưu đãi, nhà
nước đã không chỉ tạo ra một sân chơi không ngang bằng cho DNNN, mà còn từ bỏ một
công cụ điều hành nền kinh tế một cách hữu hiệu. Ngoài ra, khi được ưu tiên vay với lãi
suất ưu đãi, DNNN với lợi thế này sẽ đầu tư tràn lan vào cả những dự án không hiệu quả.
Đây cũng chính là l y do ly giải một phần tại sao hệ số ICOR của Việt Nam lại cao hơn
các nước khác khi trình độ chưa phát triển bằng các nước này.
4.4. Gợi y về giải pháp
Trong báo cáo của Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, ngày 31/5/2008, ngoài việc
nhận định rằng vấn đề nhập siêu của năm 2008 là “ngoài nguyên nhân do giá nhập khẩu
tăng, nhiều mặt hàng nhập khẩu với số lượng lớn31” và đề ra các giải pháp của Chính
phủ để hạn chế nhập siêu bao gồm những điểm sau:
31 Cũng theo báo cáo này, NK thép tăng 106%, ô tô dưới 12 chỗ ngồi tăng 12 lần, linh kiện ô-tô, xe máy
tăng 2-4 lần, nhập khẩu vàng tăng 8 lần.
Vietnam’s current account deficits 26
1. Đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, trong đó cố
gắng đẩy mạnh tăng trưởng XK đạt 26% (so với kế hoạch là 20-22%).
2. Chính sách tài chính và tiền tệ làm giảm cầu trong một số lĩnh vực
3. Sử dụng thuế (XNK), hàng rào kỹ thuật để hạn chế NK những mặt hàng
không thiết yếu
4. Sản xuất và sử dụng những mặt hàng thay thế NK
5. Chống thất thoát, triệt để tiết kiệm
Trong số các biện pháp mà Chính phủ đưa ra, có những biện pháp liên quan tới việc sử
dụng các công cụ của chính sách thương mại như sử dụng thuế quan (biện pháp 1), hàng
rào phi quan thuế (biện pháp 3), đồng thời tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu (biện pháp 1).
Đây là những biện pháp vẫn hay được đề cập tới. Tuy nhiên tính hiệu quả của những biện
pháp này là khá khó xác định. Vấn đề nằm ở chỗ có sự mất cân đối giữa tăng trưởng nhu
cầu của Việt Nam (nhu cầu nhập khẩu hàng ngoại) với tăng trưởng nhu cầu của các nước
khác (nhu cầu nhập khẩu của các nước đối với hàng VN). Nhu cầu của các nước khác đối
với hàng VN có thể tăng tới 26% như chỉ tiêu đề ra, nhưng nhu cầu NK của VN lại tăng
tới 277%,32 sự mất cân đối này làm cho các biện pháp hạn chế NK bằng chính sách
thương mại như thuế quan và phi thuế quan chỉ có tác dụng hạn chế.
Qua phân tích ở phần trên, ta có thể thấy Chính phủ nên bổ sung thêm một số biện pháp
nữa, nhằm trực tiếp tác động tới nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Các biện pháp
đó là:
4.4.1 Các biện pháp ngắn hạn:
1. Giảm thâm hụt thương mại thông qua hạn chế nhu cầu đầu tư và tiêu dùng:
+ Tăng lãi suất
+ Thắt chặt tín dụng
2. Giảm thâm hụt ngân sách thông qua cắt giảm chi tiêu, đầu tư công:
+ Cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu công
+ Ngừng ngắn hạn các khoản đầu tư công (áp dụng trên cơ sở thận trọng)
+ Kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
3. Tìm kiếm thêm các dòng vốn khả dĩ bù đắp trong ngắn hạn:
+ Tăng cường ODA
32 Theo báo cáo Vietnam Economy ngày 3/6/2008 của Daiwa Institute of Research.
Vietnam’s current account deficits 27
+ Đẩy mạnh thu hút FDI (trên cơ sở thận trọng nhằm tránh nguy cơ tiếp nhận FDI
chất lượng kém để lại tác động tiêu cực dài hạn), đồng thời cải thiện tốc độ giải ngân thực
hiện các dự án đã cấp phép.
+ Tạo thuận lợi thu hút kiều hối
+ Hợp tác chặt chẽ với các định chế tài chính quốc tế truyền thống : IMF, WB
+ Kêu gọi, xây dựng, triển khai Quỹ dự phòng bình ổn trong ASEAN – Đông Á
(các nước cũng rất e ngại tác động dây chuyền từ đổ vỡ của bất kỳ thành viên nào trong
khu vực)
4. Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái
+ Tiếp tục thắt chặt tiền tệ
+ Cho phép đồng Việt Nam được biến động linh hoạt hơn.
4.4.2 Các biện pháp dài hạn
1. Tăng hiệu quả đầu tư của cả khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh lẫn DNNN. Cải
thiện chỉ số ICOR.
2. Xây dựng sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp
3. Giảm thâm hụt ngân sách thông qua cắt giảm chi tiêu, đầu tư công: Đặt mục tiêu cắt
giảm thâm hụt ngân sách thành chiến lược dài hạn
V. Lời kết
Trong bài viết này, nhóm tác giả mong muốn được chia sẻ với người đọc quan niệm rằng
thâm hụt tài khoản vãng lai, đi kèm với nó là thâm hụt thương mại và bội chi ngân sách là
những diễn biến thông thường có thể xảy ra với bất kỳ nền kinh tế nào từ nền kinh tế
hàng đầu thế giới –Hoa Kỳ cho tới Việt Nam.
Điều quan trọng là mức thâm hụt này phải được kiểm soát trong ngưỡng an toàn, quan
niệm phổ biến của giới kinh tế thế giới là 5% GDP. Ngưỡng này được công nhận rộng rãi
bởi khi vượt quá nó, nền kinh tế có nguy cơ rơi vào khủng hoảng mà các biện pháp can
thiệp ngắn hạn vừa rất tốn kém, vừa không đủ và kịp phát huy hiệu quả trong khi để lại
rất nhiều hệ lụy tiêu cực cho nền kinh tế. Quốc hội, chính phủ, giới nghiên cứu kinh tế và
chính sách cần phải coi đó là một nguy cơ thường trực và có một cái nhìn dài hạn trong
việc thiết kế triển khai tổng thể chính sách phát triển kinh tế.
Bài viết cũng cho thấy các chính sách và can thiệp đồng bộ của Chính phủ thời gian qua
có cơ sở lý thuyết và thực tiễn kiểm chứng. Tuy nhiên, trên thực tế có thể việc thực hiện
Vietnam’s current account deficits 28
các chương chình và chính sách của Chính phủ còn chưa thực sự nghiêm túc. Một có chế
giám sát và cảnh báo cần được thiết lập để đảm bảo rằng các Bộ ngành chủ quản trong
thực hiện nghiêm túc các biện pháp can thiệp ngắn hạn đồng thời cảnh báo những tác
động tiêu cực về mặt kinh tế xã hội tới các tầng lớp nhân dân khi những tác động này đe
dọa vượt khả năng gánh chịu của họ. Chiến lược thắt chặt tiền tệ, giảm chi tiêu ngân sách
có hiệu ứng phân bổ khác nhau. Quá trình triển khai chương trình hành động sẽ có những
tác động với mức độ khắc nghiệt khác nhau đến nhiều tầng lớp và nhóm lợi ích trong xã
hội như doanh nghiệp, người lao động, người tiêu dùng. Chính phủ, các Bộ, ngành cũng
như các nhà hoạch định chính sách cần phải đảm bảo được việc thực hiện tốt việc hạn
chế lạm phát, thâm hụt ngân sách, thâm hụt tài khoản vãng lai, nhưng cũng phải đảm bảo
được lợi ích của các nhóm dễ bị tác động tiêu cực của chính sách.
Thay cho lời kết, chúng ta thường nói hy vọng cái tốt đẹp nhất, nhưng phải chuẩn bị cho
tình huống xấu nhất. Là những người có trách nhiệm với sự phát triển của nền kinh tế,
chúng ta cần phải có sự chuẩn bị chu đáo nhất về mặt nhận thức và phòng bị các biện
pháp phản ứng bởi sự hạn chế và độ trễ của chính sách can thiệp ngắn hạn. Kể cả trong
trường hợp Chính phủ đã nỗ lực can thiệp tối đa, vẫn tồn tại nguy cơ nền kinh tế hứng
chịu khủng hoảng bởi có quá nhiều yếu tố vượt tầm kiểm soát của Việt Nam như nhu cầu
nhập khẩu của các nước trên thế giới, khả năng hợp tác của các tổ chức tài chính quốc tế
cũng như lựa chọn đầu cơ của các nhóm đầu tư tài chính.
VI. Một số tài liệu tham khảo
Barclay Capital (2008) Vietnam: Down but not out, số ra ngày 5 tháng 6 năm 2008.
Bernanke Ben, (2007) Global imbalances: Recent developments and prospect, Speech
delivered at the Bundesbank Lecture, Berlin, Germany.
Daiwa Institute of Research, (2008), Vietnam Economy: Broader Austerity required to
restore medium-term growth prospect.
Merrill Lynch (2008) Vietnam—anatomy of an inflation shock, số ra ngày 23 tháng 5
năm 2008.
Vietnam’s current account deficits 29
Asia Program (2008) Choosing success: The Lessons of East and Southeast Asia and
Vietnam’s Future.
Sài Gòn Giải phóng, nhiều số trong năm 2008.
Vietnam’s current account deficits 30
Hộp số 1
Cán cân thanh toán
Về cơ bản Cán cân Thanh toán bao gồm những hạng mục sau
I. Tài khoản vãng lai (Current Account)
Cán cân thương mại
Cán cân dịch vụ
Cán cân thu nhập (net factor income)
Kiều hối và các khoản chuyển nhượng khác (unilateral
transfer)
II. Tài khoản vốn (Capital Account)
Đầu tư trực tiếp (FDI)
Vay trung hạn và dài hạn
Vay ngắn hạn
Đầu tư gián tiếp (portfolio investment)
III. Sai số
IV. Dự trự ngoại hối
Về nguyên tắc, cán cân thanh toán luôn phải luôn ở trong trạng thái cân bằng. Nếu ở đâu đó có
nhắc tới thặng dư cán cân thanh toán, thì đó là nhắc tới chênh lệch giữa Tài khoản vãng lai và Tài
khoản vốn (hạng mục sai số, thường nhỏ). Và nếu có thặng dư giữa tài khoản vãng lai và tài
khoản vốn thì lúc đó vai trò của dự trữ ngoại hối sẽ phát huy tác dụng. Nếu Tài khoản vãng lai bị
thâm hụt, và số dư trên Tài khoản vốn không đủ để đáp ứng cho thâm hụt tài khoản vãng lai, thì
nhà nước phải sử dụng tới nguồn dự trữ ngoại hối. Trong cán cân thanh toán, khi nhà nước sử
dụng Dự trự ngoại hối. Mặc dù điều này làm giảm dự trữ ngoại hối, nhưng bút toán trên cán cân
thanh toán sẽ mang dấu dương, do đây là nguồn tiền từ dự trữ ngoại hối đưa và cán cân thanh
toán. Ngược lại, khi tài khoản vãng lai có thặng dư lớn, làm tăng dự trữ ngoại hối, thì bút toán
trên cán cân thanh toán sẽ mang dấu âm (do tiền được rút ra khỏi cán cân thanh toán và đưa vào
dự trưc ngoại hối).
Vietnam’s current account deficits 31
Hộp số 2
Tài khoản vãng lai, đầu tư và tiết kiệm
Ở đây chúng ta sẽ xây dựng mối quan hệ giữa Tài khoản vãng lai, đầu tư và tiết kiệm trong một
nền kinh tế. Trong một nền kinh tế đóng, không có hoạt động xuất nhập khẩu ta có
Y = C + I + G (i)
Trong đó, Y là thu nhập quốc dân, được chi vào các khoản C là tiêu dùng, I là đầu tư, và G là chi
tiêu của khu vực chính phủ. Đẳng thức (i) ở trên được viết lại là
Y - C – G = I (ii)
Y – C – G là tiết kiệm, gọi là S. Ta sẽ có S = I. Như vậy trong nền kinh tế đóng, bao giờ cũng có
sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư.
Trong nền kinh tế mởi ta có các hoạt động XNK, nên đẳng thức (i) sẽ được viết như sau
Y = C + I + G + (EX-IM) (iii)
Trong đó EX là xuất khẩu, IM là nhập khẩu. Số chênh lệch giữa EX-IM là thâm hut/thặng dư
thương mại. Để đơn giản hóa việc trình bầy, nếu ta coi EX-IM tương đương với tài khoản vãng
lai, viết tắt là CA, ta sẽ có
CA = Y – C – G – I (iv)
Và ta biết Y – C – G chính là tiết kiệm S. Nên ta có thể viết là
CA = S – I (v)
Đây chính là đẳng thức (1) đã sử dụng trong bài viết. Mức tiết kiệm S ở trên là mức tiết kiệm
quốc gia. Ta có thể phân tách mức tiết kiệm của khu vực tư và khu vựa nhà nước thông qua việc
viết lại đẳng thức (v) ở trên như sau
CA = (Y – T – C) + (T – G) – I
= Sp + Sg – I (vi)
Trong đó Sp là tiết kiệm của khu vực tư nhân (thu nhập trừ đi tiêu dùng và nộp thuế cho chính
phủ); Sg là tiết kiệm của khu vực chính phủ (chênh lệch giữa thu và chi ngân sách).
Ta có thể viết lại đẳng thức (vi) như sau
Tài khoản vãng lai = tiết kiệm của khu vực tư nhân + thâm hụt ngân sách – đầu tư của khu
vực tư nhân. Qua đây có thể thấy mối quan hệ trực tiếp giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt
thương mại.
Vietnam’s current account deficits 32
Phụ lục 1: Tình hình tài khoản vãng lai của các nước châu Á trước khủng hoảng 1997
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
Korea -0.69 -2.83 -1.28 0.3 -1.02 -1.86 -4.75 -1.85
Indonesia -2.82 -3.65 -2.17 -1.33 -1.58 -3.18 -3.37 -2.24
Malaysia -2.03 -8.69 -3.74 -4.66 -6.24 -8.43 -4.89 -4.85
Phillippines -6.08 -2.28 -1.89 -5.55 -4.6 -2.67 -4.77 -5.23
Singapore 8.33 11.29 11.38 7.57 16.12 16.81 15.65 15.37
Thailand -8.5 -7.71 -5.66 -5.08 -5.6 -8.06 -8.1 -1.9
China 3.09 3.27 1.33 -1.94 1.26 0.23 0.87 3.24
Taiwan 6.82 6.94 4.03 3.16 2.7 2.1 4.05 2.72
Nguồn: IMF
Vietnam’s current account deficits 33
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thâm hụt tài khoản vãng lai- Nguyên nhân và giải pháp.pdf