Đề tài Thâm hụt thương mai: Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 1 Nhìn nhận tình hình thâm hụt ngân sách của các quốc gia trên thế giới trong những năm gần đây 2 Tình hình thâm hụt ngân sách Việt Nam và những ảnh hưởng của nó giai đoạn 2009 đến nay 2.1 Thâm hụt NSNN 2.2 Thực trạng thâm hụt ngân sách Việt Nam trong năm 2009 2.3 Thực trạng thâm hụt ngân sách Việt Nam trong năm 2010 và ước tính đến năm 2011 2.4 Ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách 3 Nguyên nhân thâm hụt ngân sách 3.1 Thất thu thuế 3.2 Nhà nước huy động vốn từ kích cầu 3.3 Đầu tư công kém hiệu quả 3.4 Quy mô chi tiêu của Chính phủ quá lớn 3.5 Chưa chú trọng giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên 3.6 Sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua còn được sử dụng như một công cụ trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế 4 Kiến nghị và giải pháp giảm thâm hụt NSNN 4.1 In tiền 4.2 Vay trong nước 4.3 Vay nước ngoài 4.4 Tăng thuế 4.5 Cắt giảm đầu tư công 4.6 Cắt giảm các khoản đầu tư và chi phí thường xuyên, chi tiêu không đáng có của nhà nước KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

docx16 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2680 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thâm hụt thương mai: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng luôn luôn phải đối mặt với những khó khăn, bất ổn gây ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô. Một trong số những vấn đề khó khăn đó là tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước. Đây được xem là vấn đề nan giải mà có thể nói chưa có một giải pháp nào hữu hiệu nhất để chống lại nó bởi vì hầu hết những giải pháp đưa ra đều để lại những hệ lụy về sau. Thâm hụt ngân sách sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất thị trường, do đó cản trở nhu cầu đầu tư của các nhà kinh doanh làm giảm sự tăng trưởng kinh tế, lãi suất tăng làm giá trị đồng nội tệ tăng, dẫn đến tình trạng siêu nhập. Ngoài ra thâm hụt ngân sách còn ảnh hưởng tới tình trạng lạm phát, sự ổn định xã hội... Vì vậy vấn đề thâm hụt ngân sách là một trong những mối quan tâm sâu sắc của mỗi quốc gia hiện nay. Để hiểu rõ vấn đề thâm hụt ngân sách của Việt Nam giai đoạn 2009 đến nay như thế nào, trong bài viết này em sẽ trình bày: thực trạng thâm hụt ngân sách Việt Nam, tác động của nó đến nền kinh tế, nguyên nhân và giải pháp nhằm giảm bớt tình trạng thâm hụt ngân sách trong giai đoạn này. Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã cố gắng, nhưng không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được sự góp ý của giảng viên để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế NSNN Ngân sách nhà nước IMF Quỹ tiền tệ quốc tế PVN Tập đoàn dầu khí Việt Nam ODA Hỗ trợ phát triển chính thức (vốn đầu tư nước ngoài) WTO Tổ chức thương mại thế giới VND Đơn vị tiền tệ chính thức tại Việt Nam MỤC LỤC trang LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..1 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT………………………………………………….2 KẾT LUẬN……………………………………………………………………14 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…….................................................15 . Nhìn nhận tình hình thâm hụt ngân sách của các quốc gia trên thế giới trong những năm gần đây Thâm hụt ngân sách nghiêm trọng nhất bắt đầu từ năm 2009, khi cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng và không thể kiểm soát. Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), năm 2010 khu vực OECD thâm hụt khoảng 7,5% GDP (3,3 nghìn tỷ USD) và năm 2011 mức thâm hụt khoảng 6,1% GDP. Cả hai mức thâm hụt đều là mức cao nhất trong lịch sử của khu vực này.  Hiện tại, mục tiêu cao nhất của các nước là cải thiện tính cân đối giữa phục hồi và phát triển kinh tế với củng cố tài khóa, thúc đẩy niềm tin tiêu dùng và tăng trưởng bền vững. Chính sách tài khóa được điều hành theo 2 xu hướng cơ bản: Nới lỏng (đơn cử như Mỹ và Nhật Bản thực thi gói kích thích kinh tế mới) và tiếp tục thắt chặt (điển hình tại khu vực châu Âu). Chính sách tài khóa thắt chặt dựa trên cơ sở vẫn đảm bảo các vấn đề an sinh, xã hội, đảm bảo cuộc sống người dân ít bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng: Cắt giảm chi tiêu Chính phủ ở mức độ vừa phải; Cơ cấu lại các khoản chi cho hợp lý theo xu hướng đầu tư cho tương lai như tăng chi cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển, giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội...; Cải cách chính sách thuế theo hướng bổ sung thuế, hạ thuế suất, mở rộng đối tượng chịu thuế thông qua việc hạn chế miễn và giảm thuế, giảm thuế trực thu và tăng thuế gián thu... Nhìn chung, tình trạng thâm hụt trong năm 2010 của các nước đã được cải thiện với mức thâm hụt giảm nhẹ. Các nước phát triển thâm hụt giảm 1% GDP từ 8,8% xuống 7,9%, Mỹ và Đức ghi nhận mức thâm hụt thấp hơn dự báo tương ứng là 0,5% và 1%. Tuy nhiên, thị trường thâm hụt của các nền kinh tế mới nổi không được cải thiện nhiều. Năm 2011, khu vực kinh tế châu Âu dự kiến mức thâm hụt ở mức 4% (giảm khoảng 0,4% so với dự báo từ tháng 11/2010 của IMF). Đức có thể sẽ giảm mức thâm hụt xuống còn 1,5% năm 2011. Các nền kinh tế mới nổi mức thâm hụt vào khoảng 3,2% (giống mức thâm hụt dự báo từ tháng 11/2010 của IMF).  . Tình hình thâm hụt ngân sách Việt Nam và những ảnh hưởng của nó giai đoạn 2009 đến nay Thâm hụt NSNN NSNN là tổng các kế hoạch chi tiêu, thu nhập hàng năm của Chính phủ, bao gồm các khoản thu (chủ yếu từ thuế) và các khoản chi ngân sách. Nhưng khi tình trạng các khoản chi của NSNN lớn hơn các khoản thu, và phần chênh lệch đó chính là thâm hụt ngân sách. Thực trạng thâm hụt ngân sách Việt Nam trong năm 2009 Theo báo cáo của Bộ tài chính, tình trạng bội chi NSNN năm 2009 là -115.900 tỷ đồng, chiếm 6,9% GDP , tăng 28.600 tỷ đồng so với dự toán và cao hơn nhiều so với năm 2008 ( -67.677 tỷ đồng). Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế toàn cầu lan rộng, diễn biến phức tạp, khó lường và theo chiều hướng xấu. Tình hình kinh tế thế giới và trong nước đang gặp rất nhiều trở ngại, nguồn thu NSNN gặp khó khăn. Yêu cầu tăng chi là rất lớn để thực hiện các giải pháp kích thích kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Thực tế trước đó, Chính phủ đã báo cáo và được Quốc hội chấp thuận tăng mức bội chi không quá 7%GDP. Vì vậy con số 6,9% vẫn trong phạm vi Quốc hội cho phép, được sử dụng toàn bộ cho đầu tư phát triển theo đúng quy định của Luật NSNN, tập trung cho các công trình, dự án kích thích kinh tế thực hiện trong năm 2009. CÂN ĐỐI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2009 Đơn vị: tỷ đồng Stt Nội dung Dự toán năm 2009 A TỔNG THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 389.900 1 Thu nội địa 233.000 2 Thu từ dầu thô 63.700 3 Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu 88.200 4 Thu viện trợ không hoàn lại 5000 B KẾT CHUYỂN TỪ NĂM TRƯỚC SANG 14.100 C TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 491.300 1 Chi đầu tư phát triển 112.800 2 Chi trả nợ và viện trợ 58.800 3 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính 696.300 4 Chi cải cách tiền lương 36.600 5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100 6 Dự phòng 13.700 C BỘI CHI NSNN -87.300 Tỷ lệ bội chi so GDP -4.82% D NGUỒN BÙ ĐẮP BỘI CHI NSNN 87.300 1 Vay trong nước 71.300 2 Vay ngoài nước 16.000 So sánh kết quả thực tế đạt được và số liệu dự toán đưa ra trong bảng trên ta có thể thấy nhìn chung tình hình thu và chi ngân sách trong năm này đều vượt mức dự toán ban đầu, cụ thể : Thu NSNN đạt 390.650 tỷ đồng, vượt 100,2% so với dự toán (vượt 750 tỷ đồng), tuy nhiên giảm 6,3% so với năm 2008 đạt tỷ lệ động viên 23,3% GDP, trong đó: Thu nội địa =102,9% dự toán ( tăng 6.650 tỷ đồng ) Thu ngân sách dầu thô =91,1% dự toán ( giảm 5.700 tỷ đồng ) Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu =98,6% so với dự toán ( giảm 1.200 tỷ đồng) Thu viện trợ không hoàn lại Tăng 1,2% so với dự toán ( tăng 1.000 tỷ đồng ) Tổng chi NSNN ước đạt 533.000 tỷ đồng, tăng 8,5% so với dự toán ( tăng 41.705 tỷ đồng ) và tăng 7,5 % so với năm 2008, trong đó: Chi đầu tư phát triển Tăng 20,1% ( 22.700 tỷ đồng ), chiếm 25,4% tổng chi NSNN và bằng 8,1%GDP Chi trả nợ và viện trợ Tăng 10,2% ( 6000 tỷ đồng ) Qua đó cho ta thấy, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu cùng với những khó khăn trong nước và áp lực chi để phục hồi kinh tế, ổn định đời sống nhân dân thì việc bội chi ngân sách là đều không tránh khỏi. Mặc dù con số bội chi 6,9% GDP vẫn nằm trong phạm vi cho phép của Quốc hội nhưng bội chi ngân sách tăng trong bối cảnh chính sách tiền tệ nới lỏng, luôn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao trở lại. Điều này cũng cảnh báo độ an toàn của ngân sách trong các năm tiếp theo nếu như không chủ động có các biện pháp cải cách để tạo nền tảng tăng nguồn thu cũng như tăng cường kỷ luật tài chính cho ngân sách. Thực trạng thâm hụt ngân sách Việt Nam trong năm 2010 và ước tính đến năm 2011 So với năm 2009, nhiều yếu tố nền tảng của kinh tế sẽ được cải thiện trong năm 2010, trong đó phải kể đến cầu đầu tư và cầu tiêu dùng trong nước. Chính những chuyển biến tích cực đó đã tạo điều kiện để tăng thu NSNN, cụ thể: Nội dung Năm 2010 So với dự toán So với năm 2009 Thu NSNN Ước đạt 520.100 tỷ đồng Tăng 12,7% Tăng 17,6% Tổng chi NSNN Ước đạt 637.200 tỷ đồng Tăng 9,4% Tăng 9% Bội chi NSNN Ước tính 117.000 tỷ đồng, 5,95% GDP Giảm 0,25 % Giảm 6,9% Nguồn: Bộ tài chính Quan sát biểu đồ trên ta có thể thấy trong giai đoạn (2005-2008) bội chi ngân sách ở mức khoảng 5% GDP, nhưng đến năm 2009 mức bội chi ngân sách lại tăng tới mức báo động 6,9% và đến năm 2010 thì giảm xuống ỏ mức 5,95%GDP. Trên đây là những kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh nền kinh tế vừa trải qua suy giảm. Chính việc chấp hành kỷ luật ngân sách không nghiêm, thất thu, gian lận, nợ đọng thuế, kể cả thuế nội địa và thuế xuất nhập khẩu còn lớn, số nợ thuế chờ xử lý (chiếm hơn 20% tổng số nợ thuế) tăng khá nhiều sẽ là dư địa quan trọng để tăng thu ngân sách và giữ kỷ cương luật pháp về NSNN ( Tổng quan về kinh tế Việt Nam năm 2010 và kiến nghị cho năm 2011 ). Tuy nhiên, “chúng ta cần thừa nhận rằng, một điểm đặc biệt đáng lưu ý của Việt Nam là những cân đối vĩ mô lớn như thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại đang có khuynh hướng trở thành căn bệnh kinh niên. Đây là nguyên nhân của những bất ổn kinh tế trong ngắn hạn, đồng thời xói mòn tiềm năng tăng trưởng trong trung và dài hạn, đi liền với sự suy yếu khả năng thích nghi của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”.( Nguyễn Đức Thành, Hai kịch bản cho nền kinh tế Việt Nam 2010, ngày 9/4/2010 ). Do thường xuyên trong tình trạng thâm hụt ngân sách nên nợ công tăng rất nhanh trong những năm vừa qua. Mặc dù tỷ lệ nợ công Việt Nam được coi là vẫn nằm trong tầm kiểm soát, nhưng đã trở nên cao hơn hẳn so với tỷ lệ phổ biến 30% – 40% ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi khác. Bởi thế, vấn đề nợ công tăng nhanh trong bối cảnh thâm hụt ngân sách cao và kéo dài đã đe dọa tính bền vững của quản lí nợ công và gây áp lực lên lạm phát, đây cũng là nguyên nhân chính khiến xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam đều bị các cơ quan xếp hạng tín dụng hạ thấp. Ước tính đến năm 2011 Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại so với năm 2010, theo dự báo của IMF trong ấn phẩm World Economic Outlook Việt Nam là một trong số ít nước được dự báo tăng trưởng cao hơn so với năm 2010. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta năm 2011 từ 7- 7,5%, áp lực lạm phát vẫn tiếp tục duy trì trong năm 2011, thâm hụt ngân sách dự báo là 5,3%, vẫn ở mức cao. Theo Nghị quyết về dự toán NSNN năm 2011 mà Quốc hội đã thông qua, tổng thu cân đối NSNN là 595 nghìn tỷ đồng, tương đương 26,2% GDP. Tính cả 10 nghìn tỷ đồng thu chuyển nguồn năm 2010 sang năm 2011, tổng thu cân đối NSNN là 605 nghìn tỷ đồng và tổng chi cân đối NSNN là 725,6 nghìn tỷ đồng. Như vậy, thâm hụt ngân sách năm 2011 không quá 120,6 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 5,3% GDP, có giảm so với thực hiện năm 2010 là 5,8%, nhưng vẫn ở mức cao. Ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách Tích cực: Thâm hụt NSNN nhỏ hơn mức 5%GDP thì sẽ tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Tăng bội chi ngân sách nhằm chống suy thoái.  Thâm hụt ngân sách tạm thời trong giai đoạn suy thoái sẽ kích thích đầu tư phát triển, góp phần đưa đến tăng trưởng cao.  Khi nền kinh tế gặp khủng hoảng, việc tăng chi tiêu Chính phủ sẽ kích thích kinh tế phát triển tạo ra việc làm lâu bền cho người lao động góp phần làm cho doanh thu từ thuế tăng và trợ cấp thất nghiệp giảm. Tuy nhiên trong những năm gần đây: năm 2009 thâm hụt ngân sách là 6,9%, còn năm 2010 là 5,95%. Những số liệu chính là cơ sở để giải thích tại sao cần phải giảm thâm hụt ngân sách? Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của Chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm phát kỳ vọng của người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ trước sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt. Tiêu cực: Thâm hụt NSNN tác động đến lạm phát, lãi suất, thất nghiệp và tỷ giá. Thâm hụt NSNN làm nền kinh tế thiếu tiền, do đó phải đi vay, phát hành tiền. Khi phát hành tiền sẽ làm tăng lượng tiền trong nền kinh tế, dẫn đến giá cả tăng (tiền mất giá) gây ra lạm phát. Đối với việc đi vay, bao gồm vay trong nuớc và vay nước ngoài luôn có những điều khoản ràng buộc và một mức lãi suất nhất định nhưng nếu nhà nước chi tiêu khoản tiền này không phù hợp sẽ không thể tái tạo, quay vòng số tiền đó, nghĩa là sử dụng không hiệu quả dẫn đến tình trạng gây mầm cho lạm phát gia tăng ở thời kì sau. Khi lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa cũng tăng theo. Khi đó trong nước sẽ hạn chế tiêu dùng, đầu tư, tăng cường tiêt kiệm, sản lượng trong nước giảm đáng kể, nền kinh tế kém tăng trưởng.các doanh nghiệp sẽ hạn chế việc sản xuất làm nhu cầu về nhân lực giảm, thất nghiệp gia tăng. Tiền trong nuớc mất giá, tỷ giá sẽ tăng cao,nghĩa là số tiền VND phải nhiều hơn trước mới có thể đổi được 1 đơn vị tiền tệ khác. Việc này sẽ làm giảm đầu tư, đặc biệt là đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam và các đầu tư có yếu tố nuớc ngoài. Tóm lại, thâm hụt ngân sách cao kéo dài sẽ đe dọa sự ổn định vĩ mô, khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế, gây nguy cơ lạm phát và vỡ nợ của quốc gia. . Nguyên nhân thâm hụt ngân sách Thâm hụt NSNN khi số chi lớn hơn số thu ngân sách. Vì thế, nguyên nhân của nó cũng xuất phát từ việc thu và chi NSNN. Thất thu thuế Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho NSNN bên cạnh các nguồn thu khác như tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước, vay, nhận viện trợ…Tuy nhiên, do hệ thống pháp luật ta còn nhiều bất cập, sự quản lí chưa chặt chẽ đã tạo kẽ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu một lượng đáng kể cho NSNN… Trong khi nguồn thu về cho ngân sách phần lớn là từ thuế, mà thực tế tình trạng gian lận và thất thu thuế ngày càng phổ biến dẫn đến thâm hụt ngân sách ngày càng tăng cao hơn trong những năm gần đây. Trong năm 2009, Chính phủ đã dành 8 tỷ USD để thực hiện kích cầu dành cho mọi thành phần kinh tế, mà khoản tiền này chủ yếu lấy từ thu NSNN. Từ giữa năm 2008 đến giữa năm 2009, có khoảng 1.000 tấn thuốc lá lậu qua biên giới chảy vào nội địa một cách trót lọt. Tính riêng năm 2009 nhập lậu 870 triệu bao chiếm khoảng 20% sản lượng tiêu thụ nội địa, năm 2010 nhập lậu 813 triệu bao. Với diễn biến về tình trạng buôn lậu thuốc lá như hiện nay đã làm chảy máu ngoại tệ khoảng 200 triệu USD/năm và nhà nước thất thu thuế khoảng 3.500 tỷ đồng. Bên cạnh đó, việc giãn thuế, giảm thuế và miễn thuế một mặt giúp các doanh nghiệp có thêm nguồn vốn đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, việc miễn thuế, giảm thuế hoặc chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản chi ngân sách khác gây thâm hụt NSNN. Theo đó, để khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, ngăn chặn suy giảm kinh tế, tháo gỡ khó khăn đối với doanh nghiệp, dựa trên quyết định số 16/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài chính đã ban hành nhiều giải pháp miễn, giảm và giãn thuế. Việc thực hiện các giải pháp giảm, giãn thuế đã làm giảm thu năm 2009 khoảng 20.000 tỷ đồng. Điển hình là Bộ tài chính đã đưa ra văn bản yêu cầu các cơ quan hải quan cho Vinashin chậm nộp thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng 1 năm đối với nguyên vật liệu vật tư thiết bị máy móc, nhập khẩu cho các hợp đồng bị hủy, tức là được gia hạn đến ngày 31/12/2011. Đồng thời cơ quan thuế cũng không áp dụng biện pháp cưỡng chế nộp thuế và Vinashin sẽ được miễn tiền phạt nộp thuế. Chính điều này đã gây lượng thất thu lớn từ thuế. Một nguyên nhân khác gây hụt thu là do giá dầu thô giảm đã ảnh hưởng làm giảm thu ngân sách: do giá dầu thô sụt giảm từ mức đỉnh 149 USD/thùng hồi giữa năm 2008 xuống mức thấp nhất vào khoảng 40 USD/thùng đầu năm 2009 và dao động ở mức 50 USD/thùng đã khiến các chỉ tiêu tài chính, doanh thu của PVN sụt giảm. Cụ thể, trong quý I năm 2009, doanh thu của PVN đạt 52.200 tỷ đồng, bằng 25% so với kế hoạch năm 2009; giảm 20% so với cùng kỳ 2008. Điều này gây lo ngại cho ngân sách quốc gia, khi nguồn thu từ tập đoàn thường chiếm trên 20% ngân sách. Đặc biệt, hiện tượng “bong bong ngân sách” được hình thành với mục tiêu tiếp “sức sống mới” cho những nền kinh tế đang xì hơi, nhưng điều này cũng có thể dẫn đến những trở ngại rất lớn cho tăng trưởng bền vững nhiều năm sau. Nguy cơ thật sự sẽ đến: bong bóng ngân sách càng phình to sẽ buộc phải tiếp tục vay nợ và in tiền, dẫn đến cả bảng cân đối tài sản của ngân hàng trung ương cũng phình to, và nợ vay nước ngoài cũng phình to và mức thâm hụt ngân sách càng lớn. Nhà nước huy động vốn từ kích cầu Năm 2009, Chính phủ thực hiện kích cầu 8 tỷ USD thông qua 3 nguồn tài trợ chính là: Phát hành trái phiếu Chính phủ, miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước. Sử dụng gói giải pháp kích cầu một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sẽ làm mức thâm hụt ngân sách tăng rất cao khoảng 8-12%GDP. Đầu tư công kém hiệu quả Từ năm 2008 đến 2010, lượng vốn đầu tư vào nước ta ngày một gia tăng. Điều này nhằm giúp cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Tuy nhiên, do công tác quản lý, điều hành và xử lý các vấn đề cụ thể của chúng ta còn nhiều bất cập. Đầu tư còn dàn trải, thiếu tập trung vào các trọng tâm, trọng điểm. Nhiều dự án đầu tư triển khai chậm, kéo dài trong nhiều năm. Vốn đầu tư bị xé nhỏ hoặc để thua lỗ, thất thoát nặng nề. Theo số liệu báo cáo năm 2010, có đến 11 tập đoàn, tổng công ty được nêu tên cùng với những con số hàng chục đến hàng trăm nghìn tỷ đồng tiết kiệm chi phí kinh doanh, nhưng chỉ duy nhất Vinashin được nhắc đến trong “một số” các doanh nghiệp làm thất thoát tài sản Nhà nước. Tập đoàn Vinashin là một ví dụ điển hình trong lĩnh vực phát triển công nghiệp đóng tàu và lọc hóa dầu. Vinashin đang gặp nhiều khó khăn rất lớn, bộc lộ nhiều yếu kém, sai phạm nghiêm trọng...Tình hình tài chính đứng trước bờ vực phá sản: Theo số liệu ban đầu, ước tính dư nợ hiện đang rất lớn, lên tới khoảng 86.000 tỷ đồng” - (Kết luận của Bộ chính trị số 81 ngày 6.8.2010). Chính sự kém hiệu quả này làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên trầm trọng, và “vòng xoáy đi xuống” của kinh tế vĩ mô sẽ lại tiếp diễn. Mức thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã vượt xa ngưỡng "báo động đỏ" 5%. Đối với Việt Nam, đáng lo hơn cả là vay nợ nhưng làm ăn kém hiệu quả và khả năng trả nợ ngày càng khó khăn hơn. Nguy cơ đã thấy rõ không giữ nổi tài chính quốc gia trong ngưỡng an toàn. Thiếu hụt ngân sách ngày càng tăng, tỷ lệ chi NSNN thực hiện so với tỷ lệ ngân sách Quốc hội biểu quyết thường cách xa nhau khoảng 20%. Quy mô chi tiêu của Chính phủ quá lớn Tăng chi tiêu của Chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời trong ngắn hạn, nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như lạm phát và rủi ro tài chính do sự thiếu hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu cơ chế giám sát đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của hệ thống tài chính. Lý thuyết kinh tế không chỉ ra một cách rõ ràng về hướng tác động chi tiêu của Chính phủ đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên đa số các nhà kinh tế thường thống nhất rằng chi tiêu của Chính phủ một khi vượt quá một ngưỡng nào đó sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế do gây ra phân bổ nguồn lực một cách không hiệu quả dẫn tới thâm hụt NSNN và cuối cùng là gây ra lạm phát. Vì vậy, cần phải thực hiện tiết kiệm, nhưng không chỉ tiết kiệm chi tiêu gia đình, người dân, mà lớn hơn và quan trọng hơn là tiết kiệm chi tiêu Chính phủ. Đây mới là khoản tiết kiệm lớn và nếu giải quyết được vấn đề này, nguồn tài chính sẽ có điều kiện rót vào những khu vực cần thiết, chẳng hạn như đầu tư vào doanh nghiệp, giải quyết việc làm… Chưa chú trọng giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách, áp lực bội chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy trì, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách. Để có nguồn kinh phí hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN. Sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua còn được sử dụng như một công cụ trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng năm. Về nguyên tắc, sau khi lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định được số thặng dư hoặc thiếu hụt ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân sách chúng ta thường xác định số bội chi trước (thông thường tương đương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại được Quốc hội cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận trọng khi áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều đó không gây xáo trộn trong chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra xem toàn bộ số bội chi có được sử dụng để chi đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm và hiệu quả qua đó tạo thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không. . Kiến nghị và giải pháp giảm thâm hụt NSNN In tiền Đây có lẽ là biện pháp đơn giản nhất nhưng cũng nguy hiểm nhất bởi lẽ nguy cơ gây lạm phát của nó, làm giảm giá trị đồng nội tệ. Lạm phát vào năm 2010 và đến thời điểm này tình hình lạm phát vẫn còn tiếp tục gia tăng. Giá xăng dầu, lương thực thực phẩm ngày một gia tăng…, tiền mất giá. Nên biện pháp này tuy là đơn giản nhưng hậu quả khó lường. Vay trong nước Việc vay trong nước, được thực hiện bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ. Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, việc tài trợ thâm hụt NSNN bằng vay trong nước tuy không gây ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm phát trong tương lai. Việc phát hành trái phiếu sẽ gây ảnh hưởng đến việc tăng lãi suất, vì thế giá cả có xu hướng tăng. Mặt khác nếu Chính phủ tăng cường vay nợ trong nước, số tiết kiệm trong dân cư sẽ giảm, sẽ ảnh hưởng đến đầu tư của khu vực tư nhân. Điều đáng lo là mặt bằng lãi suất hiện nay rất cao, vào khoảng 18%. Điều này không những không hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh mà còn khiến họ lao đao. Nhất là trong những tháng cuối năm 2010, nhu cầu vốn của doanh nghiệp lớn, để tồn tại, nhiều doanh nghịêp phải chấp nhận vay vốn với lãi suất cao, vì thế rủi ro sẽ càng lớn. Vay nước ngoài Vay nước ngoài gồm có vay ưu đãi của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế (Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát tiển Châu Á , Quỹ tiền tệ quốc tế) và vay bằng việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển ODA. Việc vay nợ nước ngoài đã diễn ra nhiều năm nay và có xu hướng ngày càng tăng. Về ngắn hạn có thể tài trợ cho thâm hụt cán cân thanh toán, tránh nguy cơ lạm phát. Tuy nhiên, việc vay nợ nước ngoài thường xuyên và quy mô ngày càng tăng có thể dẫn tới rủi ro tỷ giá. Khi gánh nặng nợ nước ngoài tăng lên sẽ gây ra áp lực cực lớn lên đồng nội tệ khiến nó có khả năng mất giá mạnh. Đồng nội tệ mất giá sẽ lại tiếp tục làm gia tăng giá trị các khoản nợ nước ngoài và tạo ra nguy cơ mất khả năng thanh toán. Khi đó dòng vốn đầu tư sẽ chảy khỏi quốc gia do sợ rủi ro về tỷ giá và làm cán cân thanh toán mất cân bằng hơn. Khi cán cân thanh toán trở nên mất cân bằng nghiêm trọng thị đồng nội tệ lại chịu áp lực giảm giá. Điển hình, ở các nước Mỹ Latinh những năm 1980-1990 đã gặp phải những rủi ro rất cao trong vấn đề này. Tăng thuế Với việc tăng thuế, các doanh nghiệp sẽ phải chịu gánh nặng chi phí nhiều hơn, làm giảm động lực sản xuất và khả năng cạnh tranh. Nếu tăng thuế thu nhập thì mức tiêu dùng cũng giảm, làm giảm một phần tổng cầu. Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam cần cải thiện môi trường kinh doanh và cạnh tranh với các nước trong khu vực để tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn thì khả năng tăng thuế thu nhập doanh nghiệp là không nhiều. Thêm vào đó, việc cam kết các điều khoản của WTO và tham gia vào các hiệp định thương mại song phương cùng các khu vực tự do kinh tế cũng dẫn tới cắt giảm thuế quan chứ không phải ngược lại. Do đó, cơ hội tăng thuế đối với Chính phủ chủ yếu đến từ việc tăng thuế thu nhập cá nhân. Đây là đối tượng còn dư địa cho chính sách thuế, nhưng cũng chưa cải thiện được về quy mô trong ngắn và trung hạn vì đối tượng thu thuế và số thu thuế hiện không đáng kể (chỉ khoảng 8.000 – 10.000 tỷ đồng/năm). Do đó, việc tăng thuế để cải thiện nguồn thu có tính khả thi thấp trong điều kiện hiện nay. Cắt giảm đầu tư công Cắt giảm đầu tư công, một trong những giải pháp thắt chặt chính sách tài khóa, nhằm hướng tới mục tiêu giảm lạm phát và ổn định tăng trưởng vĩ mô được nêu ra trong nghị quyết số 11/NQ-CP (24/02/2011). Có 3 lý do phải cắt giảm chi tiêu công, đó là: Thứ nhất, đầu tư công hay những chi phí hành chính công quá mức sẽ gây ra bội chi ngân sách, tạo áp lực lạm phát rất lớn. Thứ hai, đầu tư tăng lên mà không kiểm soát được hiệu quả sẽ gây tổn hại về mặt vật chất, hiệu quả nền kinh tế không cao vì phải đầu tư rất nhiều tiền mới có được tăng trưởng kinh tế. Thứ ba, khi đầu tư công đã cao, lại dàn trải có thể sẽ tạo điều kiện cho tham nhũng, gây ra sự mất mát lớn. Trong bối cảnh hiện nay, điều doanh nghiệp cần nhất là ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, trên thực tế, cắt giảm đầu tư công là không dễ dàng. Các tiêu chí để xem xét việc dự án nào sẽ được tiếp tục, dự án nào tạm dừng, bị thu hồi vốn hoặc thậm chí bị loại bỏ là rất khó. Cắt giảm các khoản đầu tư và chi phí thường xuyên, chi tiêu không đáng có của nhà nước Vì tiền ngân sách là tiền của dân, nên việc chi tiêu đồng tiền này yêu cầu Chính phủ cần rạch ròi hơn về chi tiêu cho lĩnh vực công, làm rõ hiệu quả đầu tư, tách bạch hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội. Chi tiêu ngân sách cần được thay đổi theo hướng dựa trên nhu cầu thực tế chứ không phải dựa vào đầu vào như hiện nay. Đồng thời, việc lập ngân sách cần có định hướng vì lợi ích chung, hạn chế tối đa lợi ích cục bộ để kiểm soát tốc độ tăng chi, cải thiện ngân nguồn thu ngân sách, tránh trường hợp ngân sách phụ thuộc quá nhiều vào nguồn thu không bền vững. KẾT LUẬN Thâm hụt NSNN ảnh hưởng đến sự bền vững của nền kinh vĩ mô của đất nước. Do đó, Chính phủ nước ta hiện nay đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm để bù đắp thâm hụt ngân sách của năm trước và hạn chế thâm hụt trong những năm về sau. Tuy nhiên, mỗi biện pháp đó đều có tác động tích cực cũng như tiêu cực đến nền kinh tế vĩ mô. Do vậy, đòi hỏi Chính phủ phải linh hoạt điều chỉnh sao cho phù hợp với nền kinh tế nước ta. Đây không chỉ là vấn đề của riêng Việt Nam mà ngay cả các nước lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật, Trung Quốc,… cũng đang gặp phải. Nếu giải quyết tốt việc thâm hụt NSNN sẽ đem lại sự ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế và tăng an sinh xã hội. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO “Hai kịch bản cho nền kinh tế Việt Nam 2010”, Anh Minh. “Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2010 và triển vọng năm 2011”, TS. Nguyễn Hồng Nga và Nhật Trung; “Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2010 và khuyến nghị năm 2011”, TS. Lê Quốc Hội. “Thực trạng về thâm hụt ngân sách nhà nước Việt Nam”, Trần Mạnh Kiên. “Giảm thâm hụt ngân sách để khôi phục sự ổn định vĩ mô”, Vũ Thành Tự Anh - Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright (Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần). “Thâm thủng ngân sách nhìn từ con tàu Vinashin”, Nguyễn Tuấn. “Chi tiêu ngân sách còn lãng phí…, đầu tư dàn trải thiếu tập trung”, Vũ Nguyên. “Những giải pháp kích cầu năm 2009”, Nhựt Thanh. “17 tỷ đồng kích cầu cho mọi thành phần kinh tế”, Ngọc Lê. “Năm 2009: miễn, giảm, giãn thuế thuế khoảng 20.000 tỷ đồng”. “Quản lý nợ công – nỗi lo chẳng của riêng ai”, Tô Văn Trường; “Hoãn thuế cho Vinashin”, Phạm Huyền. “Làm gì để giảm thâm hụt ngân sách”, Quang Minh. “Tỷ giá, thâm hụt ngân sách: hai áp lực kinh tế Việt Nam năm 2010”, Bình Minh; “Kinh nghiệm quốc tế đối phó tình trạng thâm hụt ngân sách”, Khánh Huyền. “Việt Nam với bài toán thâm hụt ngân sách”, Hoàng Công Tuấn. “Cắt giảm đầu tư công: sẽ cẩn trong hơn!” “Tiết kiệm chi tiêu của Chính phủ là quan trọng nhất”. Nghị quyết “Dự toán ngân sách nhà nước năm 2009”, số 21/2008/QH12.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThâm hụt thương mai- Thực trạng và giải pháp.docx
Luận văn liên quan