Kh¸I qu¸t chung vÒ thÞ trêng chøng kho¸n (TTCK)
1. Khái niệm TTCK
Hiện nay tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về TTCK :
Quan điểm thứ nhất cho rằng TTCK và thị trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: Thị trường tư bản (Capital Market). Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản.
Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: “TTCK được dặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một”. Như vậy, theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác nhau, tròn đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của TTCK.
Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được tại đa số các Sở giao dịch chứng khoán lại cho rằng “TTCK là thị trường cổ phiếu”, hay là nơi mua bán các phiếu cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn. Theo quan điểm này, TTCK được đặc trưng bởi thị trường mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu.
Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay đó là: TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán (CK) được hiểu là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Nó được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và chứng khoán phái sinh (quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán).
2. Bản chất kinh tế - xã hội của TTCK
Bản chất kinh tế - xã hội của TTCK do các quan hệ kinh tế - xã hội, trong đó CK trở thành hàng hoá quy định. Về thực chất, CK không có giá trị nội tại, chúng chỉ là các bằng chứng xác nhận về mặt pháp lý quyền sở hữu của chủ nhân CK về phần vốn đã góp hoặc đã cho tổ chức phát hành vay. Sở dĩ các CK trở thành hàng hoá là do trong nền kinh tế thị trường, nó là phương tiện đầu tư mang lại lợi tức. Tóm lại, TTCK là một cấu trúc xã hội đặc biệt của sự vận hành vốn trong nền kinh tế thị trường. Cùng với thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng, TTCK giúp cho vốn vận động liên tục từ nơi thừa đến nơi thiếu.
NẾU CÓ THẮC MẮC GÌ VỀ BÀI VIẾT BẠN LIÊN HỆ SỐ ***********
10 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2557 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kh¸I qu¸t chung vÒ thÞ trêng chøng kho¸n (TTCK)
Khái niệm TTCK
Hiện nay tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về TTCK :
Quan điểm thứ nhất cho rằng TTCK và thị trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: Thị trường tư bản (Capital Market). Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản.
Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: “TTCK được dặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một”. Như vậy, theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác nhau, tròn đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của TTCK.
Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được tại đa số các Sở giao dịch chứng khoán lại cho rằng “TTCK là thị trường cổ phiếu”, hay là nơi mua bán các phiếu cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn. Theo quan điểm này, TTCK được đặc trưng bởi thị trường mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu.
Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay đó là: TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán (CK) được hiểu là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Nó được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và chứng khoán phái sinh (quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán).
Bản chất kinh tế - xã hội của TTCK
Bản chất kinh tế - xã hội của TTCK do các quan hệ kinh tế - xã hội, trong đó CK trở thành hàng hoá quy định. Về thực chất, CK không có giá trị nội tại, chúng chỉ là các bằng chứng xác nhận về mặt pháp lý quyền sở hữu của chủ nhân CK về phần vốn đã góp hoặc đã cho tổ chức phát hành vay. Sở dĩ các CK trở thành hàng hoá là do trong nền kinh tế thị trường, nó là phương tiện đầu tư mang lại lợi tức. Tóm lại, TTCK là một cấu trúc xã hội đặc biệt của sự vận hành vốn trong nền kinh tế thị trường. Cùng với thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng, TTCK giúp cho vốn vận động liên tục từ nơi thừa đến nơi thiếu.
CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI ĐỂ HÌNH THÀNH TTCK Ở VIỆT NAM
Những điều kiện kinh tế cần thiết để hình thành TTCK ở Việt Nam
Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vừa tạo điều kiện, vừa đặt ra yêu cầu phải xây dựng TTCK
Từ những năm 1980, Việt Nam thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế mang tính hiện vật sang nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển đổi này được chia làm 2 giai đoạn:
1980 – 1989: Thời kỳ này thực thi các cải cách nhằm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, từng bước thị trường hoá các quan hệ trao đổi sản phẩm, tư liệu sản xuất, sức lao động,… Đến cuối giai đoạn này, Việt Nam cơ bản chuyển sang quỹ đạo của kinh tế thi trường, đặc biệt đã xuất hiện những yếu tố sơ khai của thị trường tài chính:
+ Quan hệ trao đổi hàng - tiền ngày càng mở rộng. Đồng tiền từ chỗ làm công cụ bổ sung của chỉ tiêu pháp lệnh, đã ngày càng đảm nhiệm nhiều hơn chức năng phương tiện lưu thông, thanh toán và cất trữ.
+ Lượng tiền tiết kiệm của dân cư tăng nhanh, làm tăng số lượng tiền gửi vào các tổ chức tín dụng. Do đó, ngoài hệ thống ngân hàng quốc doanh, các tổ chức tín dụng xuất hiện khá nhiều.
+ Xuất hiện nhiều hình thức huy động vốn với mức huy động không phải nhỏ để đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh.
Từ năm 1990 trở lại đây: Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường đã bắt đầu đi vào chiều sâu nhằm tạo ra khung pháp lý căn bản cho các quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Những nội dung cải cách trong giai đoạn này đã từng bước tạo điều kiện làm xuất hiện thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng.
Nội dung cải cách quan trọng nhất liên quan đến hệ thống doanh nghiệp Nhà nước mà vấn đề cơ bản là cơ cấu lại và xác lập cơ chế vận hành vốn Nhà nước. Cùng với đó là quá trình đa dạng hoá sỡ hữu doanh nghiệp Nhà nước đã làm xuất hiện khá nhiều yếu tố của TTCK như công ty cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu,nhu cầu định giá giá trị doanh nghiệp nhà nước,…Chính vì thế, thị trường vốn nói chung và TTCk nói riêng cũng nhen nhóm hình thành.
Ngoài ra còn phải kể đến việc từng bước pháp lý hoá các quyền về tài sản và xây dựng nền kinh tế mở, nâng cao độ lưu động của nền kinh tế.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế đòi hỏi bổ sung thêm kênh huy động vốn qua TTCK ở Việt Nam
Quá trình công nghiệp hóa đất nước với nhu cầu vốn khổng lồ của nó sẽ là động lực thúc đẩy TTCK phát triển. Chính phủ khuyến khích dân cư tự bỏ vốn kinh doanh, cho phép phát triển các hình thức huy động vốn đa dạng từ xã hội. Do vậy, các tổ chức tín dụng phát triển mạnh ở khắp các địa phương trong cả nước, huy động và cho vay những nguồn vốn lớn. Tính đến năm 1990, cả nước đã có gần 1200 quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng.
Hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng ngày càng hoàn thiện làm cho việc huy động và cho vay đầu tư các công trình công nghiệp không ngừng tăng lên nhờ mức huy động tiền gửi từ xã hội ngày càng lớn (năm 1985 – 1990: khoảng 2000 tỷ đồng; năm 1995: 17000 tỷ đồng). Để có thể khai thác được nguồn vốn trong nước phục vụ quá trình công nghiệp hoá, cần có những hình thức huy động hấp dẫn các nhà đầu tư. Và hình thức được kỳ vọng nhất là phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp. Bản thân TTCK cũng được coi là hình thức hấp dẫn để thu hút thêm đầu tư nước ngoài,cả dưới góc độ đầu tư gián tiếp lẫn góc độ cung cấp môi trường thuận lợi hơn cho đầu tư trực tiếp. Do đó, vào cuối những năm 1990, cùng với việc triển khai các thị trường trao đổi ngoại tệ, thị trường liên ngân hàng, thi trường mở, thực tiễn đã bắt đầu đặt ra các yêu cầu bức bách phải có thị trường chứng khoán.
Quá trình hình thành công ty cổ phần với tư cách là chủ thể phát hành CK ở Việt Nam
Tính đến thời điểm 31/02/2001, Việt Nam đã có 1457 công ty cổ phần, với tổng số vốn điều lệ gần 9700 tỷ đồng. Với số lượng công ty cổ phần không phải nhỏ này đã tạo cơ sở ban đầu cung cấp òang hoá cho thị trường giao dịch thứ cấp. Tuy nhiên nhìn chung số công ty cổ phần hiện mới chỉ phát hành cổ phiếu lần đầu khi thành lập doanh nghiệp. Số công ty đại chúng còn rất ít. Nhu cầu phát hành CK chưa cao, phương thức phát hành chưa đi vào chuẩn tắc, CK chưa có chất lượng cao,…nên sau hơn một năm Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động, tính đến cuối năm 2001 mới có 9 công ty niêm yết với tổng số cổ vốn 436 tỷ đồng.
Tiết kiệm của dân cư Việt Nam và TTCK
Từ năm 1991 trở lại đây, khi nền kinh tế đã bước vào ổn định và tăng trưởng, tích luỹ trong nền kinh tế dần được cải thiện và tăng nhanh đã tạo điều kiện cho dân cư tiết kiệm để tham gia vào thị trường vốn.
Lượng tiền gửi vào NHTM Việt Nam từ 1995 – 1999 (Đơn vị: tỷ đồng)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
Tiền gửi TK của dân cư
16.370
18.739
25.710
42.164
53.070
Tiền gửi của các tổ chức
16.678
22.717
30.560
31.987
48.257
Như vậy, trong tổng số tiền nhàn rỗi của xã hội, lượng tiền do cá nhân sở hữu chiếm tỷ trọng khá lớn, trên dưới 50% tổng tiền gửi. Đây là tín hiệu tích cực cho TTCK Việt Nam, bởi lẽ theo sự đánh giá tương đối thống nhất của các chuyên gia, thị trường cổ phiếu thứ cấp của Việt nam trong giai đoạn đầu sẽ cơ bản là thị trường của các nhà đầu tư cá nhân, do quy mô của thị trường này còn nhỏ và lượng hang hoá đầu tư chưa nhiều.
Quá trình hình thành các tổ chức trung gian môi giới và dịch vụ trên TTCK.
Công ty chứng khoán
Các tổ chức dịch vụ trên TTCK
Các định chế đầu tư trên TTCK ở Việt Nam
Các điều kiện xã hội cần thiết để hình thành và phát triển ổn định TTCK ở Việt Nam
Môi trường chính trị - xã hội và TTCK
Một trong những điều kiện để TTCK có thể ra đời và hoạt động bình thường là môi trường chính trị - xã hội ổn định. Ở thập kỷ 90 thế lỷ XX, Việt Nam đã cơ bản đạt đến tình trạng đó.
Nhờ ổn định chính trị - xã hội và nhất quán đường lối kinh tế thị trường đa thành phần, Việt nam đã tạo được môi trường đầu tư vừa ít rủi ro, vừa có tính khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Hiệu lực quản lý của Nhà nước cũng tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trên TTCK vào một thị trường ổn định, trung thực, bảo vệ nhà đầu tư, đấu tranh có hiệu quả với các hành vi gian lận.
Tuy nhiên, môi trường chính trị - xã hội của Việt nam cũng còn mặt hạn chế đối với TTCK. Đó là dân cư và doanh nghiệp chưa có thói quen thực thi dân chủ theo luật. Rất nhiều quan hệ kinh tế - xã hội còn được xử lý theo tập quán, lệ làng. Người dân còn thiếu tri thức trong việc nhờ cậy pháp luật bảo vệ cho mình. Việc thi hành luật pháp trong thực tế chưa nghiêm minh, chính sách còn hay thay đổi, do đó các doanh nghiệp chưa thực sự tính toán làm ăn lâu dài nên nhu cầu phát hành CK không lớn,…
Nhu cầu đầu tư vào CK và tri thức về TTCK của dân cư Việt Nam
Do điều kiện kinh tế thị trường còn sơ khai nên đa phần dân cư Việt Nam còn bỡ ngỡ với TTCK. Trước năm 1990, tiền tiết kiệm chủ yếu được giữ dưới hình thức mua vàng. Từ năm 1992 trở lại dây, khi hệ thống ngân hàng thương mại và trái phiếu chính phủ duy trì mức lãi suất hấp dẫn, thực dương, dân cư mới tích cực gửi tiền vào ngân hàng và mua trái phiếu. Tuy nhiên, việc mua trái phiếu trước khi Trung tâm giao dịch CK thành phố Hồ Chí Minh ra đời không được dân cư hiểu là đầu tư vào CK, mà coi là hình thức gửi tiền vào kho bạc, bởi vì trái phiếu chính phủ trước năm 2000 chủ yếu là trái phiếu trung hạn và không được khuyến khích chuyên nhượng.
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã kích thích một bộ phận dân cư mua cổ phiếu hoặc với tư cách người lao động trong doanh nghiệp, hoặc với tư cách cổ đông bên ngoài.
Từ khi chủ trương xây dựng TTCK ở Việt Nam được triển khai, cùng với việc mở rộng tuyên truyền quảng bá cho TTCK, đã dần hình thành một tầng lớp các nhà đầu tư các nhân quan tâm tích cực đến TTCK. Theo điều tra của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, khoảng non nửa số người được hỏi có ý định sử dụng tiền tiết kiệm đầu tư vào CK (49,4% ở thành phố Hồ Chí Minh và 25% ở Hà Nội).
Chính từ những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan đó mà:
Ngày 20/07/2000: Trung tâm Giao dịch CK thành phố Hồ Chí Minh khai trương, đánh dấu sự ra đời của TTCK Việt Nam.
Năm 2005: Trung tâm Giao dịch CK Hà Nội lần đầu tiên tổ chức bán đấu giá cổ phiếu của các công ty quốc doanh cho các nhà đầu tư.
Ngày 29/06/2006: Luật CK được Quốc hội thông qua và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2007, đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng trong hoạt động của thị trường, đảm bảo tính minh bạch và an toàn của thị trường.
III. TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TTCK VIỆT NAM
1. Cam kết hội nhập
Theo kết quả đàm phán, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên do nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan:
Về dịch vụ ngân hàng, ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 01/04/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam (không quá 30%).
Về dịch vụ chứng khoán, ngay khi gia nhập WTO, theo Biểu cam kết về dịch vụ thì các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài được thành lập văn phòng đại diện và công ty liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không vượt quá 49%.
Còn sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO, các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng khoán sẽ được mở chi nhánh hoặc công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam để cung cấp các dịch vụ như quản lý tài sản, tư vấn đầu tư, tư vấn tài chính bao gồm tư vấn về mua lại và sáp nhập,…
2. Thuận lợi và thách thức
Khi gia nhập WTO, cũng có nghĩa là phải mở cửa và hội nhập, phải chấp nhận những điều khoản đã ký kết với các đối tác nước ngoài và của WTO, trong đó có lĩnh vực dịch vụ, bao gồm cả tài chính, ngân hàng và đương nhiên có cả TTCK. Trong điều kiện đó, sự phát triển của TTCK vừa có những thuận lợi rất cơ bản, nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức rất lớn.
Hai thuận lợi cơ bản:
Thứ nhất, là tăng trưởng chu chuyển vốn, trong đó đầu tư nước ngoài tăng đáng kể (riêng lĩnh vực đầu tư trên TTCK của các nhà đầu tư nước ngoài như đã nêu trên đã lên đến 7 tỉ USD). Đây là một trong những vấn đề quan trọng thúc đẩy cho việc tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Hơn nữa, việc gia tăng nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam sẽ tạo ra cơ hội lớn cho các công ty chứng khoán trong nước thông qua việc cung cấp các dịch vụ chứng khoán cho các nhà đầu tư tổ chức. Do đó, buộc các công ty chứng khoán trong nước phải tự ý thức nỗ lực vượt lên chính mình, nâng cao chất lượng dịch vụ, xây dựng uy tín và thương hiệu để trụ vững và phát triển trong thị trường.
Thứ hai, TTCK phát triển, nhất là thị trường sơ cấp trong đó có việc cổ phần hoá các Công ty có yếu tố vốn nước ngoài sẽ có điều kiện tăng huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh trong nước, và đương nhiên tác động tích cực trở lại cho sự phát triển của TTCK.
Ba thách thức lớn:
Thứ nhất, khi mở cửa ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng thì trước hết là tạo ra sức ép về quản lý thị trường vốn trên một số lĩnh vực: (1) Đồng bản tệ sẽ lên giá, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế; (2) Sức ép về gia tăng phương tiện thanh toán nhằm đáp ứng yêu cầu gia tăng lượng ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào và sự thao túng của các nhà đầu tư nước ngoài làm cho tỉ lệ lạm phát tăng, qua đó phải tăng cường năng lực của các cơ quan quản lý để giảm thiểu những rủi ro của thị trường vốn (bao gồm cả thị trường tiền tệ và TTCK).
Thứ hai, sẽ tạo ra sự dịch chuyển vốn giữa ngân hàng và TTCK, nếu không có sự kiểm soát kịp thời và hiệu quả thì sẽ dẫn đến rủi ro và nếu rủi ro lớn sẽ ảnh hưởng sự an toàn của hệ thống ngân hàng.
Thứ ba, nếu để TTCK tăng trưởng “quá nóng”, sẽ phát sinh hiện tượng “bong bóng” và do đó yếu tố an toàn cho những nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư cá nhân và cả sự an toàn của TTCK bị ảnh hưởng. Khi TTCK sụp đổ sẽ phải mất nhiều năm mới có thể hồi phục, kéo theo nhiều khó khăn không chỉ cho hệ thống tài chính, ngân hàng mà cả đối với nền kinh tế.
3. Giải pháp để TTCK Việt Nam phát triển ổn định
Khi Việt Nam thực hiện hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng lại mở ra những vận hội lớn cho tăng trưởng xuất nhập khẩu, tăng đầu tư, tăng chu chuyển vốn, từ đó có điều kiện cho TTCK phát triển.
TTCK là phong vũ biểu của nền kinh tế. Vì vậy, sự phát triển của TTCK một cách ổn định sẽ là tác nhân quan trọng không chỉ cho sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng mà đối với cả nền kinh tế nói chung. Xin đề xuất một số giải pháp cơ bản cho thời gian tới:
Một là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, sớm triển khai hướng dẫn Luật Chứng khoán (đã có hiệu lực từ 1-1-2007) theo hướng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đồng bộ với các quy định khác của pháp luật Việt Nam, nhưng phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Nâng cao năng lực quản lý và kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng, trong đó chú trọng kiểm soát các hoạt động kinh doanh đối với thị trường OTC để bảo đảm sự ổn định của thị trường và cả đối với các nhà đầu tư nước ngoài để tránh sự thao túng thị trường của những nhà đầu tư này.
Hai là, tiếp tục phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn), tạo điều kiện tốt và thông thoáng hơn theo các cam kết khi gia nhập WTO cho việc phát triển các nhà đầu tư là doanh nghiệp, các định chế tài chính trung gian và các tổ chức phụ trợ trên thị trường, song phải đảm bảo khả năng cạnh tranh trong điều kiện mới, có nghĩa là phải năng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành và kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Ba là, nâng cao năng lực hoạt động của TTCK trên cơ sở hiện đại hoá hệ thống công nghệ thông tin, trước hết là ở các trung tâm giao dịch chứng khoán và các nhà đầu tư là doanh nghiệp. Đồng thời với việc này là tăng cường tính công khai và minh bạch của TTCK từ việc công bố thông tin, cáo bạch, báo cáo hoạt động của các nhà đầu tư là doanh nghiệp và các định chế liên quan khác .
Bốn là, chú trọng đào tạo cho đội ngũ những nhà quản lí, những người tham gia kinh doanh chứng khoán, và các nhà đầu tư. Đi đôi với việc này là tăng cường tuyên truyền để nhiều người cùng biết và định hướng đúng đắn cho việc đầu tư có hiệu quả, tránh hiện tượng đầu tư kiểu phong trào như vừa qua.
Năm là, tăng cường hoạt động giám sát đối với TTCK nhằm giảm thiểu rủi ro, cảnh báo và ngăn chặn sớm sự đổ vỡ của các nhà đầu tư. Cần chú trọng tăng cờng thanh tra giám sát an toàn hoạt động của các ngân hàng thương mại để hạn chế tác động tiêu cực liên quan đến TTCK như:
- Chấn chỉnh việc cho vay của ngân hàng thương mại đối với công ty chứng khoán để kinh doanh trên TTCK, đồng thời tăng cường giám sát hoạt động của các công ty này theo các quy định hiện hành về kinh doanh chứng khoán.
- Chú trọng giám sát nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của TTCK, chống nhà đầu tư nước ngoài thao túng thị trường, đảm bảo tính công khai và minh bạch trong hoạt động của các công ty chứng khoán và các định chế trung gian.
- Tiến tới thành lập cơ quan giám sát thị trường tài chính (sau năm 2010) để thực hiện chức năng giám sát và bảo đảm an toàn cho toàn bộ thị trường tài chính trên cơ sở phát triển của TTCK, hệ thống ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác.
TÁC ĐỘNG CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán.DOC