Hoán đổi tiền tệ (Currency Swaps) được các ngân hàng sử dụng rất phổ biến để bảo hiểm rủi ro ngoại hối của mình.
Trong trường hợp các tiền tệ trên bảng cân đối tài sản không cân xứng với nhau, chúng ta dễ thấy rằng trong giao dịch hoán đổi tiền tệ thì phần gốc và phần lãi đều được bao gồm trong hợp đồng. Đối với giao dịch hoán đổi lãi suất thì chỉ phần thanh toán lãi suất là bao gồm trong hợp đồng. Lý do là vì trong giao dịch hoán đổi tiền tệ thì cả phần gốc và phần lãi đều bộc lộ rủi ro ngoại hối.
24 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2493 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường ngoại hối - Khoa kinh tế luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI:
THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
GVBM: HOÀNG THỌ PHÚ
SVTH: ĐOÀN VĂN HIỆP
MSSV:K084020135
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc sống của chúng ta bị chi phối mạnh mẽ bởi các yếu tố vật chất, nếu cho chúng ta một điều ước thì chúng ta sẽ mong muốn rằng “tôi muốn có nhiều tiền”,vì hơn ai hết chúng ta biết rằng “có tiền ta có tất cả”. Ước muốn đó hầu hết mỗi người đều giống nhau. Tiền là cái gì đó không thể thiếu đối với chúng ta đặc biệt trong thời kỳ kinh tế phát triển. Một học sinh muốn có tiền để trang trải học phí và các sinh hoạt hằng ngày, một nhà kinh tế muốn có tiền để kinh doanh, người lao động muốn có nhiều tiền để ngoài việc trang trải cuộc sống còn có thu nhập để gửi về cho gia đình…Ở các quốc gia khác nhau người ta sử dụng những đồng tiền khác nhau, song song với đồng tiền quốc gia còn có các đồng tiền của các nước khác. Những đồng tiền này du nhập vào theo nhiều cách khác nhau, FDI, khách du lịch, trợ cấp, hoạt động thương mại…Chính cì thế nhu cầu sử dụng đồng ngoại tệ là cần thiết thuận tiện trong thương mại.
Tại sao người Việt Nam thích Đôla hơn là VND?
Tại sao đơn vị các đồng tiền giữa các quốc gia lại khác nhau?
Trong nền kinh tế toàn cầu thì tại sao chính phủ các quốc gia không quy định một đồng tiền chung để tiện giao dịch mà vẫn duy trì một hệ thống các gồm nhiều đồng tiền với các tỷ giá khác nhau.
Chính phủ các quốc gia làm gì để quan lý đơn vị tiền tệ của nước mình và quản lý thị trường các đồng tiền nước khác trên lãnh thổ quốc gia (thị trường ngoại hối). Thị trường ngoại hối ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế.
Trong những ngày gần đây thế giới đang có những sự kiện kinh tế nóng bỏng như Hy lạp nợ nước ngoài mất khả năng thanh toán, điều đó có ảnh hưởng gì đến đồng EUR mà các nước EU phải có những kế hoạch can thiệp vì lần đầu tiên từ 2005 đồng EUR mất giá nhất so với USD.
Giá trị các đồng tiền ở các quốc gia khác nhau , điều đó hình thành nên các tỷ giá khác nhau hay còn gọi là “ tỷ giá ngoại tệ “ . Các tỷ giá khác nhau liệu có ảnh hưởng đến lải suất giữa các quốc gia, vì sao khi cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra lải suất ở Mỹ rất thấp ( một số ngân hàng cho vay với lãi suất 0,02%-0,03%) trong khi ở Việt Nam lãi suất vẩn ổn định và hầu như không thay đổi.
Chính sự chênh lệch các đồng tiền tạo nên những cơ hội đầu tư sinh lời cao khá hấp dẩn các nhà đầu tư, từ đó hình thành nên một thị trường mới là thị trường ngoại hối. Là một thị trường mới ra đời nhưng phát triển khá mạnh. Nhưng bên cạnh cơ hội lợi suất sinh lời cao thì luôn tồn tại những rủi ro lớn.
Việt Nam là thành viên của quỷ tiền tệ thế giới IMF, là thành viên của tổ chức thương mại thế giới và nhiều tổ chức khu vực khác nữa, chính vì vậy chúng ta chịu ảnh hưởng khi có một sự kiện kinh tế xảy ra, một tỷ giá thay đổi ảnh hưởng thế nào đến thu nhập của người dân Việt Nam, lợi ích kinh tế, kinh tế vĩ mô thay đổi, nợ nước ngoài tăng hay giảm, chúng ta có lợi hay bị thiệt thòi? nền kinh tế chúng ta chủ yếu từ xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, viện trợ ODA, FDI…khi tỷ giá thay đổi sẽ ảnh hưởng thế nào đến GDP, nhà nước cần phải điều chỉnh thế nào để mang lại lợi ích kinh tế nhất cho người dân ?
Là một sinh viên khi đồng tiền Việt Nam mất giá liệu bạn có giám bỏ tiền ra để đi du học. Vâng chính sự quan trọng của thị trường ngoại hối có ảnh hưởng lớn đến lợi ích của đất nước hay lợi ích của bản thân vì vậy em xin chọn đề tài thị trường ngoại hối nhằm trình bày những quan điểm của bản thân mình và trong quá trình thực hiện đề tài có thể nâng cao khả năng nhận thức về một thị trường khá là mới mẻ. Trong quá trình trình bày có những sai sót mong thầy và các bạn có thể bổ sung nhằm hoàn thiện đề tài. Em xin chân thành cám ơn.
MỤC LỤC
Phấn 1: thị trường ngoại hối( forex maket)
Lịch sử giao dịch forex
Khái niệm “Forex”?
Những chủ thể tham gia thị trường Forex.
Đối tượng và phương tiện tham gia Forex.
Hàng hóa trên thị trường Forex và đặc điểm của nó.
Phần 2: Các hoạt động ngân hàng trên thị trường Forex.
Hoạt động của ngân hàng trong thị trường Forex.
Cách quản lý rủi ro của ngân hàng..
Rủi ro ngoại hối là gì?
Các biện pháp phòng ngừa rủi ro.
PHẦN 1 : THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI ( FOREX MAKET )
1.Lịch sử giao dịch forex-Hiệp ước The Bretton Woods.
Vào năm 1967 một ngân hàng Anh từ chối cho một giáo sư đại học tên là Milton Friedman vay một lượng tiền bằng bảng anh (Pound Sterling ) bởi vì ông ta dự định dùng số tiền này để mua và bán USD, ông ta đã nhận ra rằng đồng Pound có giá quá cao so với USD. Ông ta muốn bán khoản tiền mặt này và sau đó mua lại khi giá đồng Pound xuống thấp và trả lại cho ngân hàng. Dĩ nhiên bằng cách này ông ta nhanh chóng thu được lợi nhuận. Lời từ chối của ngân hàng dẫn đến thỏa ước The Bretton Woods Agreemant được thỏa ước 20 năm sau đó. Thỏa ước The Bretton Woods lấy đồng Dollar(USD) làm tiêu chuẩn và thiết lập tỷ giá giửa vàng và USD là 35 $ / 1 ounce.
Thỏa ước The bretton Woods được thiết lập năm 1944 hướng đến xây dựng một chính sách tiền tệ vững chắc ngăn chặn tiền mặt tự do di chuyển tự do giữa các nước. Ngăn chặn việc đầu cơ tiền tệ trên thế giới, lấy vàng làm tiêu chuẩn trao đổi- Thịnh hành từ năm 1876 cho tới chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nó kiểm soát hệ thống nền kinh tế thế giới. Bằng việc dùng vàng trao đổi, các đồng tiền bước vào một thồi kỳ mới với sự vững chắc nhờ sự che chắn của giá vàng. Vào thời cổ đại do các ông vua và những nhà độc tài chuyên chế sử dụng vàng trong giao dịch là chính và hạ thấp giá trị của tiền gây ra tình trạng lạm phát.
Tuy nhiên tiêu chuẩn dùng và trao đổi cũng không thiếu những “ khiếm khuyết”. Khi nền kinh tế mạnh lên, việc nhập khẩu hàng nước ngoài tăng nhanh chóng. Nhưng khi nền kinh tế suy yếu dự trử vàng được tung ra để mua lại lượng vàng chạy ra nước ngoài, kết quả là tiền bị mất giá, tỷ lệ lãi suất giảm và nền kinh tế bị chậm lại dẫn đến tình trạng suy thoái. Cuối cùng giá hàng hóa tăng lên quá mức bình thường của nó, và dĩ nhiên sức hút của việc bán hàng hóa ra nước ngoài tăng lên cao, tỷ lệ lãi suất giảm xuống tạo ra sự thịnh vượng cho nền kinh tế. Dùng vàng làm giao dịch thịnh hành cho đến khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất, chấm dứt các luồng giao dịch và vàng di chuyển tự do.
Sau chiến tranh hiệp ước The Bretton Woods được thành lập. Các nước tham gia hiệp ước đồng ý duy trì giá trị đồng tiền riêng của họ bằng số tiền bảo chứng tương đương với đồng Dollar và tỷ lệ vàng tương ứng như nhu cầu. Các nước bị cấm hạ thấp đồng tiền của họ để tiện cho việc giao dịch với nước ngoài, và chỉ được hạ thấp giá nhỏ hơn 10%. Vào những năm 50 của thế kỷ 19, khi lượng tiền tệ giao dịch quốc tế được mở rộng dẫn đến những nguồn vốn cho phục vụ tái thiết và xây dựng lại do hậu quả của chiến tranh di chuyển một cách ồ ạt. Điều này dẫn đến việc làm mất ổn định tỷ giá trao đổi ngoại tệ đã được thiết lập trong hiệp ước The Bretton Woods.
Hiệp ước The Bretton Woods cuối cùng bị xóa bỏ vào năm 1971, và lúc này đồng Dollar(USD) có thể sử dụng thay thế cho vàng(gold). Vào năm 1973, các đồng tiền của các quốc gia công nghiệp phát triển được thả nổi tự do, lúc này nguồn lực điều khiển tỷ giá chính phụ thuộc vào mức cung-cầu( supply and demand ) của nền kinh tế, chúng là tác động chính tác động vào thị trường ngoại hối. Tỷ giá của các cặp đồng tiền này được thả nổi hằng ngày, với lượng tiền giao dịch lớn, tốc độ và tỷ giá không nghừng biến đổi trong suốt những năm 70 của thế kỷ XX, việc áp dụng những công cụ tài chính mới vào thị trường, dẫn đến những quy luật trước đó dần bị xóa bỏ và bước sang một thời kỳ tự do hóa thương mại toàn cầu.
Vào những năm 80, biên độ di chuyển đồng vốn không nghừng mở rộng nhờ sự phát triển bùng nổ của máy tính và kỷ thuật công nghệ, thị trường không nghừng mở rộng xuyên suốt từ Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ…lượng tiền giao dịch ngoại hối tăng lên một cách đột ngột từ 70 tỷ Dollar mỗi ngày lên 1,5 ngàn tỷ USD/ngày trong hai thập kỷ sau đó.
2 Forex là gì?
Forex là hình thức kinh doanh, mua bán tiền tệ mà chúng ta vẫn thường gọi là kinh doanh ngoại hối.
Cơ sở của Forex là sự chênh lệch tỷ giá giữa các đồng tiền của các quốc gia. Tỷ giá chênh lệch này ai cũng biết nhưng nó không cố định mà luôn được tính toán và cập nhật liên tục bởi các tổ chức tài chính hay hệ thống các ngân hàng. Tỷ giá đó được tính toán dựa trên số tiền đẩu tư của tất cả mọi ngưởi trên thế giới vảo một loại tiền nào đó. Nó có thể tăng lên hay giảm xuống túy vào tình hình cụ thể của thị trường và chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Những yếu tố đó có thể là tin tức chính trị, chính sách kinh tế, biến động kinh tế, một sự kiện kinh tế ở bất kỳ một quốc gia nào đó có sự giao thương mạnh…làm ảnh hưởng tới “ sức khỏa “ của một loại tiền tệ nào đó.
Cơ sở để sinh lời khi tham gia thị trường Forex: Đó chính là sự phán đoán tình hình và phân tích của nhà đầu tư mà quyết định mua loại tiền tệ nào để sinh lời theo nguyên tắc: Mua vào lúc nó đang xuống (giảm giá trị) và bán ra khi nó tăng lên (tăng giá trị) và đương nhiên phải là trong tương quan với một loại tiền tệ cụ thể nào đó. Chính khoản chênh lệch khoản tiền giửa mua vào và bán ra là khoản tiền bán sẻ thắng/ thua trong mỗi giao dịch( được gọi là một trade ).
Forex là một nhóm gồm khoảng 4500 tổ chức giao dịch tiền tệ, các ngân hàng quốc tế, các ngân hàng trung tâm của chính phủ và các công ty thương mại. Việc chi trả cho xuất nhập khẩu cũng như việc mua bán tài sản đầu thông qua thị trường trao đổi ngoại tệ. Đây được gọi là thị trường trao đổi ngoại tệ “tiêu thụ” . Cũng có những đoạn đầu cơ trong những công ty Forex đó là sự phơi bày về tài chính rộng lớn để các nền kinh tế nước ngoài tham gia vào Forex để bù đắp rủi ro của việc đầu tư quốc tế.
Thị trường ngoại hối đã vượt lên tất cả các thị trường khác để trở thành thị trường tài chính lớn nhất và phổ biến nhất trên thế giới. được giao dịch bởi hàng triệu cá nhân và tổ chức quốc tế. Tại đây ngưởi tham gia sẽ quyết định chủ thể giao dịch tùy vào điều kiện giá cả và uy tín của đối tượng.
3 Hàng hóa trên thị trường Forex.
Vậy “hàng hóa” của thị trường FOREX là gì? Câu trả lời là TIỀN. Giao dịch
ngoại hối là hoạt động giao dịch mua một số lượng tiền này và bán một số
lượng tiền khác diễn ra cùng thời điểm. Tiền được giao dịch thông qua
người môi giới hoặc trực tiếp theo từng cặp; ví dụ cặp EUR/USD hay
GBP/JPY.
7 loại tiền được giao dịch thường xuyên nhất trên thị trường là : Dollar,
Euro, Yen, Bảng Anh, Franc. Kí hiệu các loại tiền gồm 3 chữ cái, trong đó 2
chữ cái đầu tiên là viết tắt của tên quốc gia và chữ cái cuối cùng là tên của
loại đồng tiền giao dịch
4. Đối tượng tham gia Forex
Những đối tượng tham gia Forex bao gồm các ngân hàng thương mại, ngân
hàng TW và các tổ chức tài chính, phi tài chính khác. Những năm gần đây,
các cá nhân ngày càng tham gia nhiều hơn vào thị trường này.
Trong thập kỉ trước, chỉ có những “gã khổng lồ” mới gia nhập thị trường này
được. Điều kiện tối thiểu nếu bạn muốn giao dịch trong thời gian đó là bạn
phải có từ 10 đến 50 triệu USD để bắt đầu. FOREX ra đời lúc đầu nhằm mục
đích đáp ứng nhu cầu của các ngân hàng và các công ty khổng lồ trong
ngành, không phải là những “chàng tí hon”. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ kì diệu
của Internet, hệ thống giao dịch trực tuyến, các công ty giao dịch đã ra đời
cho phép mở những tài khoản “lẻ” cho chúng ta. Ngày nay, những nhà môi
giới trên thị trường được phép phá vỡ những đơn vị giao dịch rộng lớn và
cho phép những giao dịch nhỏ có cơ hội để mua và bán bất cứ số nào trong
những giá trị nhỏ hơn này (lots). Điều này đồng nghĩa với việc 1 cá nhân
cũng có thể tham gia thị trường Forex với số vốn ban đầu nhỏ hơn lượng
tiền được giao dịch nhiều lần.
Ngân hàng thương mại có 2 vai trò trong thị trường Forex:
1. Làm cho việc giao dịch giữa hai bên trở nên dễ dàng, ví dụ như những
công ty muốn trao đổi tiền tệ (người tiêu thụ).
2. Đầu cơ bằng cách mua và bán tiền tệ. Ngân hàng có vai trò trong những
đơn vị tiền tệ nhất định bởi vì người ta tin rằng trong tương lai chúng sẽ có
giá cao hơn (nếu mua trữ) và thấp hơn (nếu bán sớm). Người ta thống kê
rằng 70% lợi tức thường niên của những ngân hàng quốc tế được sinh ra từ
việc đầu cơ tiền tệ. Những đầu cơ khác bao gồm những nhà giao dịch thành
công nhất trên thế giới
ví dụ George Soros.
Đối tượng thứ 3 của Forex bao gồm những ngân hàng trung ương của các
quốc gia giống như ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ. Họ tham gia Forex để
đảm bảo lợi nhuận tài chính của quốc gia họ. Khi ngân hàng trung tâm mua
và bán tiền tệ hoặc ngoại tệ thì mục đích là để giữ vững giá trị đồng tiền của
đất nước họ.
Forex rất rộng và có rất nhiều người tham gia chứ không phải một người, chỉ
có những ngân hàng trung tâm của chính phủ mới có thể kiểm soát thị
trường. So sánh với mức giao dịch trung bình hằng ngày 300 tỷ đô của thị
trường Trái phiếu chính phủ và khoảng 100 tỷ đô được giao dịch trên thị
trường chứng khoán Mỹ thì Forex rất lớn vì đã vượt qua mức 1.9 nghìn tỷ đô
mỗi ngày (2006)
5. Phương tiện để tham gia thị trường
Từ “thị trường” là sự nhầm tên nhẹ nhàng trong việc mô tả giao dịch Forex.
Không có vị trí trung tâm cho việc hoạt động giao dịch vì nó đã có trong
những thị trường tiền tệ ở tương lai. Giao dịch được thực hiện qua điện thoại
và thông qua những máy vi tính ở hàng trăm vị trí trên khắp thế giới. Phần
lớn giao dịch được thực hiện giữa khoảng 300 ngân hàng quốc tế lớn nơi sở
hữu những giao dịch cho công ty lớn, chính phủ và cho chính tài khoản của
họ. Những ngân hàng này tiếp tục cung cấp giá (“bid” để mua và “ask” để
bán) với nhau và với những thị trường rộng hơn. Chỉ số gần đây nhất từ 1
trong những ngân hàng này được xem là giá hiện tại trên thị trường của đồng
tiền đó. Những dịch vụ báo cáo dữ liệu riêng khác nhau cung cấp những
thông tin về giá cả “trực tiếp” thông qua internet.
Tất cả những gì cần khi giao dịch là một chiếc máy vi tính, kết nối Internet,
và những thông tin về thị trường
6. Đặc điểm của thị trường Forex
Không phí dịch vụ : Không phí trao đổi, không phí thanh toán, không phí
chính phủ, không phí môi giới. Người môi giới sẽ được trích từ phí giao dịch
thông qua điểm “bid-ask” (trung bình 3-5 pips)
Không qua trung gian đặt lệnh: Giao dịch tiền tệ không cần trung gian và
cho phép khách hàng giao dịch trực tiếp với thị trường và được cập nhật
thông tin trực tiếp về giá và tỉ giá các cặp tiền tệ.
Không giới hạn giao dịch: trong các thị trường khác hợp đồng giao dịch
được giới hạn bởi tỉ lệ nhất định ( ví dụ hợp đồng quyền chọn tương lai đối
với vàng là 5000 ounces). Trong Forex, có thể giao dịch với chỉ một tài
khoản nhỏ 300$.
Phí giao dịch thấp: Phí giao dịch cho các tài khoản nhỏ ( bid/ask spread) chỉ
khoảng 0.1% với những điều kiện thường. Tài khoản càng lớn phí giao dịch
càng thấp( tức là bạn càng có lợi về chi phí giao dịch khi tài khoản của bạn càng lớn vì sự chênh lệch phí giửa tài khoản nhỏ và lớn là ít).
Thị trường giao dịch 24h: Không phải chờ đợi giờ thị trường mở cửa và
đóng cửa. Giao dịch từ tối chủ nhật đến trưa thứ 6 giờ EST, có thể nói thị trường
FOREX không bao giờ ngủ. Đây là thuận lợi lớn đối với những người muốn
giao dịch trong thời gian rảnh hoặc thời gian thích hợp nhất trong ngày, bởi
vì bạn có thể chọn giao dịch bất kì lúc nào (sáng, trưa, tối hoặc đêm)
Không ai có khả năng định hướng thị trường: Thị trường Forex quá lớn và
quá nhiều người tham gia nên không ai , cho dù cả 1 ngân hàng , có thể kiểm
soát giá trị trường trong dài hạn. Sự can thiệp của ngân hàng trung ương chỉ
có tác dụng trong ngắn hạn và không hiệu quả. Ngân hàng trung ương ngày
càng có ít tác động hay can thiệp vào thị trường toàn cầu.
Access (Truy cập): Forex được mở 24h/ngày từ khoảng 6g chiều Chủ Nhật
tới khoảng 3g chiều Thứ Sáu. Những người giao dịch riêng lẻ có thể đối phó
với tin tức khi nó được tung ra còn hơn là đợi tiếng chuông mở cửa của
những thị trường khác lúc mọi người đều có những tin tức giống nhau. Điều
này cho phép những người giao dịch tham gia trước khi tin tức chi tiết được
phân tích trên tỷ lệ giao dịch. Liquidity cao và giao dịch 24 giờ cho phép
những người tham gia thị trường vào và thoát ra bất cứ lúc nào. Có nhiều
nhà môi giới phân phối Forex ở từng vùng, từng trung tâm thị trường chính (
Tokyo , Hong Kong, Sydney , Paris , London , Mỹ, v.v…) sẵn sàng tiếp tục
đưa ra giá mua và bán.
Độ thanh khoản cao: Bởi vì thị trường Forex quá lớn, nó cũng rất dễ thanh
khoản. Điều này giúp bạn nhanh chóng thực hiẹn giao dịch chỉ với 1 cú nhấp
chuột trong điều kiện bình thường. Bạn có thể mua bán ngay lập tức tùy ý.
Bạn không bao giờ bị “kẹt” trong thị trường. Bạn cũng có thể thiết lập chế
độ tự động cho sàn giao dịch kết thúc lệnh giao dịch khi bạn đã đạt được lợi
nhuận mong muốn ( định mức lãi) hoặc đóng khi thị trường dịch chuyển
ngược chiều mong muốn ( chống lỗ)
Thị trường 2 mặt: tiền được giao dịch theo cặp, ví dụ: đô/yên, hoặc đô/đồng
Thụy Sỹ. Mỗi vị trí liên quan đến việc bán đồng tiền này và mua đồng tiền
kia. Nếu người giao dịch tin rằng đồng Thụy Sỹ sẽ cao giá hơn đô, họ có thể
bán đô và mua đồng Thụy Sỹ (bán sớm). Nếu người khác tin ngược lại thì
họ sẽ mua đô và bán đồng Thụy Sỹ (mua và trữ). Khả năng lợi nhuận tồn tại
vì tỷ giá trao đổi (giá cả) luôn luôn dao động. .Giao dịch Forex cho phép thu
lời từ 2 phía cả tăng và giảm giá trị tiền tệ liên quan tới đô. Trong mỗi giao
dịch tiền tệ, mỗi bên đều có được và mất.
Excution Quality: Bởi vì Forex rất hay thay đổi, hầu hết những giao dịch có
thể được thực hiện với giá của thị trường hiện tại. Trong tất cả những thị
trường di chuyển nhanh, không thể tránh được rủi ro trong tất cả các giao
dịch (chứng khoán, bất động sản, v.v…) nhưng có thể được tránh bằng 1 vài
chương trình phần mềm của nhà môi giới tiền tệ, các chương trình này sẽ
thông báo cho bạn biết giá nhập vào chính xác trước khi thực hiện lệnh. Bạn
được phép chọn tránh hoặc chấp nhận rủi ro. Khả năng thanh khoản của thị
trường Forex rộng lớn đề ra những khả năng khớp lệnh có chất lượng cao.
Giao dịch được xác nhận ngay lập tức và người giao dịch qua Internet chỉ
việc in 1 bản sao của màn hình máy vi tính để ghi chép lại tất cả hoạt động
giao dịch. Nhiều người cho rằng đặc điểm của việc giao dịch bằng Internet
an toàn hơn so với việc sử dụng điện thoại để giao dịch. Những hãng nổi
tiếng như Charles Schwab, Quick $ Reilly và T.D. Warehouse đề nghị giao
dịch qua Internet.
Họ sẽ không mạo hiểm danh tiếng của họ nếu dịch vụ Internet không đáng
tin cậy và an toàn. Trong tình huống xuất hiện vấn đề về kỹ thuật, máy vi
tính tạm thời ngừng hoạt động, nhưng với hệ thống đặt lệnh (ordering) của
nhà môi giới (broker), người giao dịch có thể ngay lập tức gọi điện thoại cho
broker để vào hoặc thoát ra khỏi giao dịch.
Hệ thống vi tính của nhà môi giới (broker Internet) được bảo vệ bởi những
bức tường lửa để giữ cho thông tin về tài khoản không bị dòm ngó. Mối
quan tâm lớn nhất của broker là sự an toàn của tài khoản. Họ phải thực hiện nhiều bước để lọai trừ bất kỳ hiểm họa nào đi theo việc giao dịch trên Internet. Người giao dịch Forex trên Internet không phải gọi điện thoại cho broker.
Sự loại trừ người trung gian (broker salesman) làm giảm chi phí, làm cho
tiến trình đặt lệnh nhanh hơn và hạn chế khả năng hiểu lầm.
Tính tập trung (Focus): Thay vì cố gắng chọn 1 chứng khoán, 1 khế ước, quỹ
hỗ tương hoặc bất động sản từ hàng chục ngàn thứ có sẵn trên thị trường,
những người giao dịch Forex chỉ tập trung vào 1 tới 4 đồng tiền. Những
đồng tiền dễ thay đổi và thông dụng là: Yên Nhật, bảng Anh, đồng Thụy Sỹ và
Euro. Những người giao dịch thành công cao là những người tập trung vào
số lượng đầu tư có giới hạn. Những người mới bắt đầu Forex thường tập
trung vào 1 đồng tiền và sau đó kết hợp từ 1 đến 3 đồng trong hoạt động
giao dịch.
Tính xu hướng (Trendiness): Trong 1 khoảng thời gian lịch sử, tiền tệ đã
khẳng định xu hướng là quan trọng. Mỗi đồng tiền có “tính cách” riêng của
nó và đưa ra chỉ 1 xu hướng, bất kể những cơ hội giao dịch đa dạng trong thị
trường đặc điểm Forex.
Sàn giao dịch: Tất cả các lệnh phải được đặt thông qua sàn giao dịch. Để
giao dịch tiền tệ bạn phải cần 1 sàn giao dịch tiền tệ Forex. Hầu hết những
công ty giao dịch có những yêu cầu về tài khoản ký quỹ khác nhau. Bạn cần
phải hỏi họ những yêu cầu về tài khoản ký quỹ nếu muốn tham gia giao dịch
tiền tệ thông qua sàn giao dịch của họ.
Tài khoản: Giao dịch trên Forex cần 1 tài khoản ký quỹ. Khi là người giao
dịch đầu cơ, bạn sẽ không chuyển nhượng sản phẩm mà bạn đang giao dịch.
Khi là người giao dịch trong ngày, bạn chỉ giữ vị trí giao dịch từ vài phút
đến vài giờ, sau đó bạn phải đóng lệnh và kết thúc giao dịch.
Tài khoản ký quỹ không khác gì 1 khế ước về thành tích. Tất cả giao dịch
đều cần tài khỏan ký quỹ. Khi có lãi, họ để lãi vào tài khoản ký quỹ của bạn
ngay trong ngày. Khi thua, họ cần 1 tài khoản để lấy ra số tiền lỗ mà bạn
phải chịu. Tài khoản được thiết lập hàng ngày.
Khoản kí quĩ trong giao dịch ngoại hối, một khoản tiền kí quĩ nhỏ có thể
giúp bạn giao dịch trên một khoản tiền lớn hơn nhiều. Sức bật cho phép
người giao dịch có thể thu được lợi nhuận khổng lồ trên khoản tiền đầu tư
nhưng rủi ro có giới hạn. Một ví dụ, người môi giới đề nghị bạn 1 sức bật
200:1, có nghĩa là với 500$ tiền kí quĩ bạn có thể giao dịch trên số tiền
100.000$. Nhưng sức bật là con dao 2 lưỡi, vì nếu không quản lý rủi ro tốt,
sức bật càng cao thì rủi ro càng lớn và bạn có thể mất khoản tiền kĩ quí trước
khi bắt đầu thu được lợi nhuận.
Một phần rất quan trọng của việc giao dịch là lấy ra phần thắng hay tiền lãi
của bạn. Khi đến lúc lấy ra phần của bạn trong tài khoản ký quỹ, tất cả
những điều bạn cần phải làm là liên lạc với broker của bạn và yêu cầu họ gửi
cho bạn số tiền bạn yêu cầu, họ sẽ gửi chi phiếu cho bạn. Họ cũng có thể
chuyển tiền cho bạn.
Tài khoản “ảo”, tin tức, biểu đồ và phân tích: hầu hết các sàn giao dịch và
môi giới đều hỗ trợ bạn giao dịch bằng tài khoản ảo để thực tập trước khi
chơi thật, và cung cấp cho bạn những tin nóng cũng như những công cụ hỗ
trợ. Đó là những nguồn tài nguyên hữu ích giúp bạn tích lũy kinh nghiệm
với tiền “ảo” trước khi bắt đầu chơi thật sự.
Tài khoản “mini”: Các nhà môi giới sẽ hỗ trợ người mới tham gia chơi với
các tài khoản “mini” với số vốn ban đầu chỉ 300-500$. Điều này giúp cho
FOREX ngày càng khả thi hơn với những cá nhân không muốn đầu tư chi
phí khởi sự ban đầu quá cao.
PHẦN II:
HOẠT ĐỘNG NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG
PHÒNG NGỪA RỦI RO NGOẠI HỐI
Theo thông tư 03 do Ngân hàng Nhà Nước ban hành ngày 11-4-2008, các
cung ứng dịch vụ ngoại hối bao gồm:
Trên thị trường trong nước: cung cấp các dịch vụ hối đoái dưới hình thức
giao dịch giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền lựa chọn, huy động vốn, cho
vay và bảo lãnh bằng ngoại tệ; phát hành, đại lý phát hành thẻ quốc tế; cung
cấp các dịch vụ chuyển tiền và thanh toán, nhận và chi, trả ngoại tệ; chiết
khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá bằng ngoại tệ; ủy nhiệm cho tổ chức tín
dụng khác và tổ chức kinh tế làm đại lý cung ứng một số dịch vụ ngoại hối,
bao gồm dịch vụ đổi ngoại tệ, dịch chi, trả ngoại tệ; cung cấp dịch vụ ủy thác
và quản lý tài sản bằng ngoại hối và các hoạt động ngoại hối khác theo thông
lệ quốc tế .
Trên thị trường quốc tế: cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế; thực hiện các
dịch vụ thanh toán quốc tế; thực hiện các giao dịch mua, bán ngoại hối và
vàng trên thị trường nước ngoài; tham gia các thị trường tiền tệ, thị trường
phái sinh ở nước ngoài; vung cấp các dịch vụ quản lý tài sản tài chính của
khách hàng ở nước ngoài; cung cấp các dịch vụ quản lý tài sản tài chính của
khách hàng ở nước ngoài trên thị trường quốc tế.
Vietcombank là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam tiến hành kinh doanh ngoại
tệ ở Việt Nam, luôn chiếm tỷ trọng về ngoại tệ lớn nhất trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Sacombank-ngân hàng có hoạt động ngoại hối tốt nhất năm 2007 theo đánh giá của tạp chí Asia Money.
Tháng 10-2006 Ngân hàng Nhà Nước đã cho phép 3 ngân hàng thương mại
cổ phần thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại hối: Ngân hàng TMCP Sài
Gòn – Hà Nội, Ngân hàng TMCP Nam Việt và Ngân hàng TMCP Toàn Cầu.
Phòng ngừa rủi ro ngoại hối trong hoạt động ngân hàng:
Rủi ro ngoại hối trong hoạt động của ngân hàng
Hoạt động mua bán ngoại hối của các ngân hàng:
- Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm mục đích thanh toán hợp
đồng ngoại thương;
- Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng (hoặc cho chính mình) nhằm
mục đích thực hiện đầu tư nước ngoài trực tiếp hay gián tiếp;
- Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng (hoặc cho chính mình) nhằm
điều chỉnh trạng thái ngoại hối của đồng tiền có thể giảm rủi ro ngoại hối;
- Mua và bán ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ trong việc dự tính sự
biến động của tỷ giá.
Trong đó, hoạt động đầu cơ ngoại tệ của các ngân hàng là chứa đựng rủi ro ngoại hối.
Sự không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ của ngân hàng
Tài sản có bằng ngoại tệ là các khoản mục trên bảng tổng kết tài sản, như : các khoản cho vay bằng ngoại tệ; các chứng khoán bằng ngoại tệ; tiền gửi bằng ngoại tệ ở ngân hàng khác; tiền mặt bằng ngoại tệ,… Tài sản nợ bằng ngoại tệ là các khoản mục trên bảng tổng kết tài sản, như: phát hành các chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ; phát hành trái phiếu; và các hình thức huy động vốn khác bằng ngoại tệ.
Do tính chất toàn cầu hoá, thị trường tài chính đã tạo ra những cơ hội cho các ngân hàng đa dạng hoá nguồn vốn bằng ngoại tệ, đồng thời có thể thu được lợi nhuận từ các hoạt động dựa trên tài sản có và tài sản nợ, nhưng cũng hàm chứa rủi ro ngoại hối
Các biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối:
Giao dịch kỳ hạn
Trong sự lựa chọn nào đó ngân hàng có thể chọn giải pháp phòng
ngừa rủi ro ngoại hối của mình bằng cách sử dụng nghiệp vụ giao dịch có kỳ
hạn một năm nghĩa là ngân hàng sẽ bán ngoại tệ để nhận lại nội tệ. Mục đích của các hợp đồng kỳ hạn là nhằm loại trừ những khả năng không chắc chắn về tỷ giá giao ngay tại thời điểm tín dụng đến hạn. Như vậy, thay vì chờ đến tận thời điểm cuối năm, mới chuyển lượng ngoại tệ thu được thành nội tệ với một mức tỷ giá giao ngay chưa biết trước, thì ngân hàng có thể tại thời điểm ngày hôm nay bán có kỳ hạn 1 năm lượng ngoại tệ dự tính sẽ thu được bao gồm cả gốc và lãi tại mức tỷ giá kỳ hạn đã biết để nhận nội tệ. Việc giao nhận giữa ngoại tệ và nội tệ được thực hiện tại thời điểm cuối năm. Như vậy, bằng cách bàn kỳ hạn số ngoại tệ dự tính thu được với một tỷ giá đã được xác định ngay ngày hôm nay, ngân hàng đã tránh được rủi ro do tỷ giá biến động tại thời điểm cuối năm và do đó, đảm bảo được mức lợi tức dự tính trong hoạt động tín dụng bằng ngoại tệ.
Nghiệp vụ kỳ hạn được giao dịch rất phổ biến trên thị trường giao dịch qua quầy OTC (over – the - counter), do đó thỏa mãn được hầu hết các đối tác có nhu cầu bảo hiểm rủi ro, mà chủ yếu là các ngân hàng và các công ty xuất nhập khẩu.
Bảo hiểm rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng tương lai
Thay vì sử dụng nghiệp vụ kỳ hạn, ngân hàng có thể sử dụng các hợp đồng tương lai để bảo hiểm rủi ro ngoại hối. Các hợp đồng tương lai được giao dịch trên cơ sở có tổ chức. Cần phải xác định số lượng hợp đồng mà ngân hàng phải bán là số lượng mà sao cho lợi nhuận thu được từ các hợp đồng tương lai này để bù đắp mọi thua lỗ từ khoản tín dụng bằng ngoại tệ khi giá trị đồng ngoại tệ giảm so với đồng nội tệ. Có hai trường hợp xem xét :
- Mức thay đổi giá trị tương lai của nội tệ và ngoại tệ được dự tính
đúng bằng mức thay đổi giá trị giao ngay của nội tệ và ngoại tệ sau thời gian
1 năm. Nghĩa là, sự thay đổi tỷ giá giao ngay và giao tương lai có mối tương
quan hoàn hảo với nhau, tức là rủi ro cơ bản bằng 0.
- Tỷ giá giao ngay và giao tương lai được dự tính là thay đổi cùng
chiều (tăng cùng tăng và giảm cùng giảm), nhưng mức độ thay đổi khác
nhau, tức là tồn tại rủi ro cơ bản.
Trong nhiều trường hợp, thị trường tuơng lai không cho phép ngân
hàng áp dụng hợp đồng dài hạn 1 năm để bảo hiểm khoản tín dụng có kỳ hạn
một năm. Vì vậy, ngân hàng phải áp dụng phương pháp giao dịch trên thị
trường tương lai và tăng sự không chắc chắn về giá trong các hợp đồng tiếp theo. Điều này đã khiến cho các nhà quản trị ngân hàng ưu tiên bảo hiểm rủi ro các tài sản có kỳ hạn dài trên thị trường kỳ hạn hoặc thị trường hoán đổi hơn là thị trường tương lai.
Giao dịch quyền chọn và bảo hiểm rủi ro ngoại hối
Giống như hoạt động của nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu, nhà đi vay và cho vay bằng ngoại tệ bảo hiểm rủi ro ngoại hối thông qua hợp đồng quyền chọn tiền tệ, một khả năng tương tự là việc các ngân hàng cũng có thể sử dụng được các hợp đồng quyền chọn nhằm bảo hiểm rủi ro ngoại hối.
Tuy nhiên, chúng ta phải trả một khoản chi phí nhất định khi tham gia giao dịch này và khoản chi phí này sẽ chênh lệch nhau phù thuộc vào các yếu tố: sự tồn tại rủi ro cơ bản, tính thanh khoản của thị trường, kỳ hạn của hợp đồng và bản chất của quyền chọn tương lai kiểu Mỹ là có thể thực hiện quyền chọn trước khi hợp đồng đến hạn, trong khi đó bản chất của hợp đồng quyền chọn kiểu châu Âu chỉ có thể thực hiện tại thời điểm khi hợp đồng đến hạn.
Cần lưu ý, một khía cạnh khác của thị trường phi tập trung (OTC) và thị trường không tập trung đó là tính pháp lý và thuế. Trong nhiều giao dịch, thuế chỉ đánh trên sàn, cũng như tính pháp lý được xem xét rất nghiệm ngặt trên thị trường OTC. Ngược lại, khi giao dịch trên sàn thì đối tác của nhà giao dịch là Sở giao dịch, trong trường hợp này thì rủi ro về tín dụng hầu như không có.
Giao dịch hoán đổi tiền tệ và bảo hiểm rủi ro ngoại hối
Hoán đổi tiền tệ (Currency Swaps) được các ngân hàng sử dụng rất phổ biến để bảo hiểm rủi ro ngoại hối của mình.
Trong trường hợp các tiền tệ trên bảng cân đối tài sản không cân xứng với nhau, chúng ta dễ thấy rằng trong giao dịch hoán đổi tiền tệ thì phần gốc và phần lãi đều được bao gồm trong hợp đồng. Đối với giao dịch hoán đổi lãi suất thì chỉ phần thanh toán lãi suất là bao gồm trong hợp đồng. Lý do là vì trong giao dịch hoán đổi tiền tệ thì cả phần gốc và phần lãi đều bộc lộ rủi ro ngoại hối.
THE END.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thị trường ngoại hối.doc