Giám định TTCK thường xuyên, ngăn chặn các hoạt động đầu cơ gây ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh doanh nghiệp, đặc biệt là sự lũng đoạn của tư bản nước ngoài, mặc dù cần mở cửa hơn nữa để huy động vốn. Nên khuyến khích đầu FDI, vốn ODA cho các công trình dài hạn, chỉ vay thương mại khi cần thiết.
ở Việt Nam, về lâu dài có thể mở thêm trung tâm giao dịch Hà Nội thúc đẩy kinh tế khu vực miền Bắc, áp dụng công nghệ tiên tiến kết nối nhiều trung tâm lớn tạo sự thống nhất, đặc biệt là trong tình hình công nghệ thông tin thế giới và cơ sở hạ tầng viễn thông Việt Nam đang phát triển nhanh. Việc mở rộng thêm trung tâm giao dịch và kết nối vừa đa dạng hoá vừa chuyên môn hoá, giảm được các chi phí giao dịch trên thị trường.
Riêng nhu cầu vốn dài hạn cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào miền núi nông thôn. là rất lớn. Cần có chế độ khuyến khích bằng lãi suất ưu đãi sẽ tăng nhu cầu về vốn, đảm bảo cho tính khả thi của dự án lại giảm cho Nhà nước nhiều gánh nặng.
Cuối cùng, một môi trường kinh tế xã hội ổn định, pháp luật đồng bộ, nâng cao vai trò Nhà nước cũng là tất yếu cần thiết cho một thị trường với Việt Nam.
c. Đối với mô hình thị trường cấp I và thị trường cấp II.
Đảm bảo tính cơ sở của thị trường cấp I, đó là việc tăng hàng hoá cho thị trường cấp I. Việc áp đặt một giá hợp lý cho thị trường cấp I là quan trọng bởi vì nó liên quan trực tiếp đến lợi nhuận doanh nghiệp.
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2323 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường tài chính và vai trò của thị trường tài chính trong việc góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có thể diễn ra nhiều lần cho cùng một khoản vốn. Một cá nhân, tổ chức có thể vừa là người đi vay, cũng lại là người cho vay, chẳng hạn như các tổ chức tài chính trung gian, các công ty sản xuất...
Lãi suất trên thị trường tác động lớn vào hoạt động của thị trường nợ, nó quyết định đến cung cầu vốn nợ và cả thời hạn của các khoản vay. Điều chỉnh một mức lãi suất ổn định, hợp lý sẽ làm cơ sở cho tính ổn định thị trường.
b. Thị trường vốn cổ phần.
Là một bộ phận của TTTC, hoạt động thông qua việc phát hành mua bán cổ phiếu, trái phiếu. Các cổ phiếu, trái phiếu là các chứng từ công nhận quyền góp vốn của cổ đông.
Thông qua cơ chế hoạt động huy động vốn của các công ty cổ phần, các công ty này phát hành cổ phiếu, trái phiếu mà hiện nay chủ yếu là trên TTCK, các nguồn vốn nhãn rỗi sẽ trực tiếp đầu tư vào hoạt động ở các công ty. Vốn được thu hút từ mọi nguồn cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và được thu hút vào các công ty cổ phần các ngân hàng, tổ chức tài chính và cả chính phủ.
Đặc trưng của cổ phiếu trái phiếu là không có một thời hạn cụ thể, sự đóng góp vốn vào công ty có thời hạn phụ thuộc vào việc lưu giữ cổ phiếu của người sở hữu và cả tình hình kinh doanh của công ty, thông thường sau một kỳ hạn nhất định (thường là một năm) chủ sở hữu cổ phần được chia lợi tức.
Hoạt động trên thị trường vốn cổ phần không phản ánh mối quan hệ giữa những người đi vay và người cho vay về ở đây không được đặc trưng bởi sự vay mượn các công cụ nợ. Nó là mối quan hệ giữa những người chủ sở hữu trong công ty cổ phần họ cùng tham gia góp vốn đầu tư vào các công ty và thu lợi nhuận. Điều đó lý giải tại sao cổ phiếu, trái phiếu không có một thời hạn cụ thể.
Như vậy, mỗi cá nhân, tổ chức mua cổ phiếu, trái phiếu sẽ là một nhà đầu tư do đó, họ sẽ không được hưởng lợi đầu tư như những nhà cho vay. Lợi nhuận sau thuế được phân bổ trả lãi thuế vốn, tài sản, tái đầu tư, thuê lao động... sau đó mới chia cho các cổ đông. Nếu có rủi ro xảy ra, họ phải cùng liên đới chịu trách nhiệm hữu hạn ứng với phần vốn đã đóng góp.
Diễn biến kinh tế trên thị trường vốn cổ phần phụ thuộc vào lợi nhuận kinh doanh của công ty. Lãi suất chỉ có tác động gián tiếp vì mỗi mức lãi suất sẽ tác động đến đầu tư, thu nhập và lợi nhuận ròng của công ty. Còn lợi nhuận ảnh hưởng trực tiếp đến trị giá cổ phiếu mà mỗi cổ đông có thể nhận được khi đầu tư vào công ty cổ phần. Nếu tình hình kinh doanh thấp kém, các nhà đầu tư để đồng loạt bán ra cổ phiếu, trái phiếu ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn công ty.
Như vậy, việc huy động vốn trên thị trường nào, nợ hay vốn cổ phần là tuỳ thuộc vào tình hình mỗi công ty cũng như sự quy định của luật doanh nghiệp. Thông thường, các doanh nghiệp huy động vốn cơ bản chủ yếu là trên thị trường nợ đảm bảo nguồn vốn lớn, tập trung cho đầu tư sản xuất. Còn khi muốn mở rộng sản xuất, tăng vốn điều lệ hoặc để nâng cao hình ảnh của mình thì có thể thamgia huy động trên thị trường vốn cổ phần.
2. Dựa vào kỳ hạn của các công cụ tài chính: Thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
a. Thị trường tiền tệ.
Là một bộ phận của TTTC mua bán các công cụ ngắn hạn.
Các công cụ nợ ngắn hạn có đặc trưng cơ bản là: Có tính lỏng cao, thời gian lưu hành luân chuyển ngắn và chi phí chuyển về tiền mặt thấp.
Các công cụ này tham gia trên thị trường tiền tệ ít rủi ro do thời gian ngắn. Do đó, giá cả trong thị trường tiền tệ là khá ổn định.
Trong thị trường tiền tệ, tiền là một hàng hoá đặc biệt, nó phụ thuộc vào sự phát triển của kinh tế thị trường mà ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian cùng tham gia hoạt động. Lãi suất của nó phụ thuộc vào cung cầu tiền tệ trên thị trường và kiểm soát tiền tệ luôn luôn là công việc của chính phủ và mọi ngân hàng trung ương.
Tham gia vào thị trường tiền tệ gồm có các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, kho bạc, NHTW, các doanh nghiệp, chính phủ...
Thị trường tiền tệ đóng vai trò:
+ Tạo môi trường đầu tư sinh lời cho các cá nhân và các tổ chức tài chính đầu tư ngắn hạn.
+ Đảm bảo tính hiệu quả hệ thống, ổn định của các ngân hàng thương mại
+ Giúp NHTW thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Các bộ phận chủ yếu của thị trường tiền tệ.
Thị trường tín phiếu kho bạc chủ yếu là chính phủ phát hành trái phiếu nhằm bù đắp phần bội chi ngân sách và nhu cầu chi tiêu của mình.
Thị trường nội tệ - liên ngân hàng nhằm đảm bảo điều hoà về vốn hoạt động trong hệ thống ngân hàng.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tổ chức mua bán ngoại tệ giữa các ngân hàng được kinh doanh ngoại tệ.
Thị trường tín dụng thể hiện quan hệ vay mượn sử dụng vốn lẫn nhau giữa các pháp nhân, thể nhân trong nền kinh tế.
Ngoài ra còn thị trường thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng chủ yếu tham gia phát hành các công cụ vay ngăn hạn.
b. Thị trường vốn:
Là một bộ phận của TTTC diễn ra việc mua bán, trao đổi các công cụ nợ trung, dài hạn và cổ phiếu.
Các công cụ lưu hành có tính lỏng kém, thời gian lưu hành dài. Do đó hoạt động trên thị trường vốn mang tính rủi ro cao và giá cả biến đổi phức tạp do kỳ hạn dài.
Thị trường vốn xét về mặt bản chất phản ánh các quan hệ mua bán không phải là số lượng nhất định các khoản tiền mặt, các tư liệu sản xuất mà là các quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và vốn tiền mặt. Như vậy, thị trường vốn là một bộ phận của TTTC được chuyên môn hoá đối với các nguồn lực tài chính và trao quyền sử dụng dài hạn. Do đó, các nguồn lực tài chính này chủ yếu là được đầu tư dài hạn vào đầu tư sản xuất kinh doanh.
Khi lãi suất không ổn định, xu hướng lạm phát cao, hoạt động của thị trường vốn bị thu hẹp và phải nhường chỗ cho thị trường tiền tệ vì lúc đó tham gia thị trường vốn có độ rủi ro rất cao. Do đó, tính ổn định của nền kinh tế thị trường ảnh hưởng lớn đến hoạt động của thị trường vốn.
Vai trò của thị trường vốn:
Đảm bảo nguồn tài trợ vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế, cho các tổ chức tín dụng ngân hàng đầu tư vào các lĩnh vực dài hạn.
Tạo cơ hội kinh doanh cao cho các nhà đầu tư.
Nhà nước có thêm vốn đầu tư vào các công trình lớn, cơ sở hạ tầng. Các bộ phận của thị trường vốn:
+ Thị trường trái phiếu chính phủ chủ phát hành các công cụ nợ có mệnh giá cao, khối lượng lớn của chính phủ, lãi suất thấp không có rủi ro.
+ Thị trường trái phiếu công ty do các công ty phát hành trái phiếu, lãi suất tuỳ thuộc vào tình hình công ty song có độ rủi ro cao.
+ Thị trường cổ phiếu bằng các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu trên TTCK, lãi suất hấp dẫn song không cố định, rui ro rất cao.
3. Dựa vào cơ chế hoạt động của TTTC: Thị trường tài cấp I và cấp II.
a. Thị trường cấp I: (sơ cấp).
Là nơi phát hành các công cụ tài chính, được bán trong phạm vi hẹp giữa các nhà phát hành và những người mua đầu tiên.
Trong quá trình phát hành, người phát hành nhìn chung không giao dịch trực tiếp với người mua mà cần thông qua các trung gian xử lý, tức là những người môi giới. Do đó thị trường cấp I là thị trường phát hành các công cụ tài chính lần đầu tiên và còn được gọi là thị trường môi giới thông thường, người mua đầu tiên là các ngân hàng, các công ty kinh doanh chứng khoán, các nhà môi giới và các nhà kinh doanh khác.
Phát hành trên thị trường sơ cấp mới là mục đích tài trợ cho nhu câùa vốn của công ty phát hành. Tuy nhiên, phạm vi trên thị trường sơ cấp thường diễn ra hẹp, thông tin mua bán ít và chủ yếu là dành cho các nhà chuyên môn kinh doanh ở thị trường sơ cấp. Hoạt động phát hành không diễn ra ở một trụ sở cố định và hầu như mang tính nội bộ.
Tuy vậy, giá cả, số lượng trên thị trường cấp I lại là cơ sở cho thị trường cấp II hoạt động vì các công cụ tài chính không chỉ được phát hành một lần, nó còn được tiếp tục mua đi bán lại trên thị trường cấp II.
b. Thị trường cấp II:
Diễn ra các hoạt động mua đi bán lại các công cụ tài chính đã được phát hành trên thị trường cấp I.
Các chứng khoán ở đã được mua ở thị trường cấp I do nhiều nguyên nhân đã được các nhà đầu, môi giới thu hút sự chú ý của nhiều cá nhân, tổ chức khác. Đây mới chính là nơi giao dịch hàng ngày mua đi lại - bán lại kiếm lời trên TTCK.
Lúc này, người bán là các nhà đầu tư đầu tiên, người mua là tất cả các cá nhân, tổ chức muốn đầu tư, kinh doanh kiếm lời.
Phát hành trên thị trường cấp II nói chung không có mục đích tài trợ vốn cho công ty phát hành, nhưng phạm vi diễn ra rộng lớn và thông tin phong phú, phổ biến. Thị trường cấp II như là một dấu hiệu theo dõi công việc kinh doanh không chỉ của doanh nghiệp mà còn của cả nền kinh tế. Hoạt động đã diễn ra khỏi nội bộ các nhà kinh doanh và liên quan đến hoạt động, chú ý của dân chúng.
Cả hai thị trường phụ thuộc vào nhau. Thị trường cấp II ảnh hưởng đến thị trường cấp I, việc định giá cả, khối lượng ở thị trường cấp II vừa quy định, vừa phụ thuộc vào hoạt động của thị trường cấp I.
Thông thường không tồn tại ranh giới rõ rệt giữa hai thị trường, các hoạt động đan xen hoà lẫn vào nhau. Thị trường cấp I là cơ sở cho thị trường cấp II, còn thị trường cấp II lại là động lực cho thị trường cấp I.
4. Các công cụ trên TTTC:
a. Các công cụ của thị trường tiền tệ:
+ Trái phiếu kho bạc là công cụ vay nợ ngắn hạn do chính phủ phát hành nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách tạm thời và tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của mình.
Trái phiếu kho bạc có độ an toàn cao nhất vì khả năng vỡ nợ của chính phủ là gần như không thể xảy ra, tuy vậy lại có lãi suất thấp nhất và được trả cùng với gốc (lãi suất chính phủ là lãi suất cơ sở của thị trường). Khách hàng của trái phiếu kho bạc là nhân dân, ngân hàng thương mại, NHTW các tổ chức tài chính trung gian.
+ Các chứng chỉ tiền gửi là việc chứng nhận cho tiền gửi vào các ngân hàng thương mại của các nhân, tổ chức.
Phổ biến nhất là hình thức sổ tiết kiệm, séc thanh toán... có thể dùng các chứng chỉ này để thanh toán, tuỳ thuộc vào mức độ chấp nhận thanh toán của dân cư, nền kinh tế và quy định của các tổ chức.
+ Các thương phiếu kỳ phiếu do các ngân hàng thương mại phát hành chủ yếu là để huy động vốn tạm thời, ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách của các ngân hàng, lãi suất cao song thời gian rất ngắn.
b. Các công cụ của thị trường vốn:
+ Cổ phiếu là một chứng chỉ chứng nhận quyền góp vốn của các cổ đông, nó không phải là một công cụ vay nợ trên TTTC.
Cổ phiếu có mệnh giá trên cổ phiếu song không có lãi suất, tỷ lệ lợi tức cố định mà hoạt động dựa trên khả năng thu lợi nhuận của công ty vào một giai đoạn nhất định. Cổ phiếu có khả năng thu lợi tức cao, hấp dẫn song cũng có mức độ rủi ro rất cao.
Gồm có cổ phiếu ký danh, vô danh, ưu đãi và thông thường. Mỗi loại có những thuận lợi kvà ràng buộc riêng.
+ Trái phiếu là công cụ vay nợ dài hạn của chính phủ, doanh nghiệp trái phiếu chính phủ, vay để thu hút nguồn vốn trung và dài hạn, đặc biệt là dài hạn cho nhu cầu xây dựng, đầu tư các công trình lớn của nền kinh tế, lãi suất cao hơn lãi suất trái phiếu kho bạc do vay dài hạn và củng cố độ an toàn khá cao. Đầu tư vào trái phiếu chính phủ là đầu tư mang tính dài hạn và an toàn.
Trái phiếu doanh nghiệp do các công ty phát hành, lãi suất hấp dẫn nhưng có độ rủi ro khá cao. Đây cũng là khoản đầu tư dài hạn của những người cho vay mạo hiểm.
Các loại trái phiếu gồm có: trái phiếu vay đơn, tiền gốc và lãi được thanh toán một lần khi vào ngày đáo hạn.
Trái phiếu trả cố định sẽ thanh toán các khoản cố định đều nhau cho người mua trong suốt kỳ hạn trái phiếu.
Trái phiếu coupon, tiền lãi trả hàng năm, tiền gốc trả vào ngày đáo hạn sẽ được thanh toán theo mệnh giá.
Trái phiếu vĩnh cưủ: Người mua sẽ nhận một khoản thu nhập hàng năm cố định đến lúc chết và không được rút tiền gốc, không thừa kế.
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT SƠ LƯỢC VỀ TTTC VIỆT NAM:
1. Các điều kiện để hình thành TTTC Việt Nam.
TTTC là một thị trường hàng hoá đặc biệt, là sản phẩm của nền kinh tế phát triển cao. Do đó, để hình thành TTTC Việt Nam cần phát triển một nền kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ đa dạng hoá sở hữu, mở rộng phát triển các thành phần kinh tế.
Nền kinh tế thị trường đó phải được phát triển ổn định trong một thời gian dài, ổn định cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh.
Chuyển sang kinh tế thị trường nhưng phải luôn luôn khẳng định vai trò của nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước trong việc định hướng phát triển của nền kinh tế, tạo điều kiện thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tài chính - tiền tệ.
Nền kinh tế phải có những chuyển biến tích cực, bắt đầu có tích luỹ và xuất hiện nhu cầu gửi tiền dư thừa cũng như đầu tư trong dân chúng.
Đã xây dựng được một mạng lưới cơ sở hạ tầng kinh tế cũng như hệ thống thông tin liên lạc rộng khắp, hiện đại, đồng bộ trong cả nước tạo thành một thể thống nhất từ TW đến địa phương.
Các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng được phép hoạt động độc lập tự chủ, hoạt động trong phạm vi khuôn khổ pháp luật. Nới lỏng và tiến đến tự do hoá lãi suất tín dụng.
Đã xây dựng được một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh làm cơ sở cho quản lý điều hành đất nước.
2. Đặc điểm của TTTC Việt Nam hiện nay:
Trước hết, cần khẳng định TTTC Việt Nam là một TTTC Xã hội chủ nghĩa chính vì vậy mà nó có nhiều điểm tương đồng và khác biệt so với TTTC của thế giới TBCN.
Cơ sở tồn tại và xây dựng TTTC Việt Nam được xây dựng chủ yếu dựa trên chế độ công hữu về TLSX, có mối quan hệ bình đẳng hợp tác cùng có lợi giữa các loại hình, thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp và người lao động. Ngân hàng TW là chủ thể của cơ cấu tài chính, của TTTC. Điều này rất khác biệt so với TTTC TBCN xây dựng trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thể hiện ở mối quan hệ người bóc lột người.
Thứ hai, mục đích của TTTC Việt Nam là nhằm phục vụ làm sống động các hoạt động tài chính - kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường chủ yếu dưới sự chỉ đạo có kế hoạch của nhà nước. Trong khi đó TTTC TBCN chịu sự tác động của quy luật giá trị và mục đích là giá trị thặng dư TBCN.
Thứ ba, TTTC Việt Nam huy động vốn, lưu thông tiền tệ dưới sự chỉ đạo có kế hoạch của nhà nước, tự giác vận động các quy luật khách quan đảm bảo ổn định của nền kinh tế. Trong khi đó, TTTC TBCN phát triển nhiều khi mang tính tự phát hay xảy ra khủng hoảng cơ cấu gây nhiều chấn động cho nền kinh tế.
Thứ tư, các chủ thể tham gia trên TTTC Việt Nam là độc lập, bình đẳng, toàn bộ thị trường chịu sự giám sát và quản lý của ngân hàng nhà nước, trong khi đó chủ thể trên TTTC TBCN thường là các nhà tư bản, tài phiệt, thị trường hay bị thao túng bởi họ.
Thứ năm, TTTC Việt Nam hoạt động căn cứ vào phương châm chính sách của chính phủ, thống nhất được các hoạt động tài chính từ TW đến địa phương. Còn TTTC TBCN mang tính chất phân tán, nhiều khi không có sự thống nhất, vô kế hoạch.
Thứ sáu, TTTC Việt Nam là TTTC độc lập, tự chủ không chịu sự can thiệp của bất kỳ tổ chức tài chính quốc tế nào, căn cứ vào nhu cầu xây dựng đất nước để mở rộng cửa ra bên ngoài song luôn thi hành các biện phaps bảo đảm đúng bản chất của mình. Còn TTTC TBCN chịu ảnh hưởng tương đối lớn của TTTC quốc tế.
3. Chức năng của TTTC Việt Nam:
+ Tích lũy và huy động tất cả mọi nguồn lực tài chính trong xã hội, từ đó lưu thông vốn cho nền kinh tế điều tiết từ người có vốn sang người cần vốn TTTC Việt Nam tạo nên một chu trình cấp vốn thông qua chức năng của thị trường sơ cấp. Từ thị trường này, các nguồn vốn nhỏ bé, phân tán của các hộ gia đình, các nguồn vốn trong các tổ chức dư thừa chuyển thành vốn dài hạn cho các xí nghiệp. Thực tiễn tại Việt Nam, nhu cầu vốn là rất lớn, giai đoạn 1996 - 2000 cần 41 tỷ cho đầu tư sản xuất phát triển kinh tế. Trong nhân dân, do đời sống ngày càng được cải thiện, đã xuất hiện lượng tiền dư thừa, nếu lượng tiền này được huy động sẽ là nguồn lực rất lớn, vừa tạo thu nhập từ nguồn vốn nhàn rỗi cho người dân, vừa giúp nhiều doanh nghiệp thiếu vốn hiện nay có đủ vốn hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân.
Hiện nay, vẫn còn nhiều bất cập trong hoạt động của hệ thống doanh nghiệp tư nhân do những ràng buộc về việc huy động vốn từ ngân hàng thương mại, nếu phát huy tốt nguồn lực này trong dân chúng sẽ là cơ sở cho các doanh nghiệp này mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất.
+ Thông qua việc hoàn trả lãi và vốn, đảm bảo yêu cầu sử dụng vốn có hiệu quả cao, đầu tư vào các ngành trọng điểm.
Điều này là rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường song nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước vẫn còn giữ nguyên cơ chế làm việc của nền kinh tế bao cấp kế hoạch hoá, chưa tự hoạch toán thu chi, mà vẫn trông chờ, ỷ lại vào nguồn vốn của nhà nước. Thông qua việc vay vốn, hoàn trả lãi buộc các doanh nghiệp phải tự đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng hạch toán trong kinh doanh lại không làm lãng phí nguồn lực xã hội. Mặt khác, cơ chế hoàn trả này giúp chúng ta đầu tư được vào các ngành có trọng điểm. Giai đoạn đầu, áp đặt một tỷ lệ lãi suất khá cao giúp các doanh nghiệp phải sử dụng đầu tư vào các ngành vốn ít, sử dụng nhiều lao động, sau đó hạ dần tỷ lệ lãi suất đảm bảo đầu tư dài hạn, ổn định, đầu tư vào các ngành yêu cầu hàm lượng vốn và kỹ thuật cao. Có thể hạ lãi suất, áp dụng lãi suất ưu đãi cho các ngành công nghệ mũi nhọn, các ngành hướng về xuất khẩu như công nghịep điện tử - tin học, chế biến, may mặc...
+ Hướng cho nền kinh tế vĩ mô hoạt động an toàn có hiệu quả. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam mới đi vào hoạt động, còn nhiều yếu kém chưa thể khắc phục được ngay. Thông qua vai trò điều tiết cung cầu tiền tệ bằng lãi suất sẽ đảm bảo cho nền kinh tế an toàn, có hiệu quả, từ việc huy động mọi nguồn lực xã hội đến việc yêu cầu sử dụng vốn tối ưu của mọi doanh nghiệp.
Thực tiễn ở Việt Nam giai đoạn cuối những năm 80 đầu 90, nền kinh tế Việt Nam bị lạm phát trầm trọng. (Năm 87: 429%; Năm 88: 682%; Năm 89: 348%...)nhà nước đã kịp thời khắc phục bội chi ngân sách, giảm cung ứng tiền tệ đặc biệt là thông qua chính sách lãi suất cao (như lãi suất kỳ hạn 3 tháng giai đoạn 87 - 88: 8,0%/tháng, năm 89: 12%/tháng...) từ đó đẩy lùi siêu lạm phát, bình ổn được nền kinh tế, ổn định đời sống nhân dân.
+ Tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao và cải thiện tình hình phân phối thu nhập cho đại bộ phận dân cư. Hoạt động của TTTC Việt Nam có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra công ăn việc làm. Các nghiệp vụ hoạt động tài chính yêu cầu có các nhân viên quản lý, làm việc như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... Mặt khác và cũng là điều chủ yếu là, thông qua các hoạt động thu hút và luân chuyển vốn trong nền kinh tế, đảm bảo phát triển mở rộng sản xuất, từ đó nâng cao được công ăn việc làm góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động.
Các hoạt động tài chính - tín dụng - bảo hiểm cũng góp phần nâng cao thu nhập (thông qua nghiệp vụ gửi tiền tín dụng, đầu tư chứng khoán...) và phân phối lại thu nhập cho người lao động, cho đại bộ phận dân cư khi mà mức thu nhập của họ còn thấp.
Điều này càng có nghĩa khi mà hàng năm chúng ta có thêm từ 1,5 - 1,7 triệu người tham gia vào thị trường lao động.
+ Góp phần đắc lực vào tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay. Chúng ta bước vào công nghiệp hoá cũng như bước vào xây dựng CNXH từ một khởi điểm rất thấp, lại bị tụt hậu xa so với thế giới và khu vực. Để có thể hoàn thành công nghiệp hoávào năm 2020, không chỉ cần đủ vốn cho đầu tư phát triển mà còn đảm bảo phát huy mạnh mẽ tất cả mọi năng lực sản xuất sẵn có, thu hút công nghệ qua đầu tư. Điều này chỉ có thể thành hiện thực khi chúng ta phát triển hoàn thiện một TTTC và hoà nhập được vào quốc tế, khu vực. Thông qua việc tham gia vào hội nhập còn giúp chúng ta tiếp thu được năng lực sản xuất quốc tế, tăng tích cạnh tranh phát huy lực lượng sản xuất. Do toàn cầu hoá buộc mỗi quốc gia phải tranh thủ hết các nguồn lực, đầu tư vào các ngành mũi nhọn, đối với Việt Nam còn giúp đi tắt, đón đường giảm bớt sự tụt hậu về khoảng cách phát triển.
+ Thông qua việc hội nhập, Việt Nam có thể tham gia vào TTTC quốc tế, giúp phát triển kinh tế đối ngoại, khai thác được cả nguồn lực ngoài nước (về vốn, khoa học công nghệ), tránh bị tụt hậu và thôn tính trong xu thế toàn cầu hoá.
II. THỰC TRẠNG CỦA TTTC VIỆT NAM HIỆN NAY:
Cơ chế thị trường XHCN đang dần dần hình thành phát triển tạo tiền đề cho một TTTC ở Việt Nam. Cùng với đã tăng trưởng của nền kinh tế, TTTC Việt Nam ngày càng đóng một vai trò to lớn và đạt được nhiều thành tựu. Song với chúng ta, phạm trù TTTC vẫn còn là một điều mới mẻ, bước đầu đi vào hoạt động còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng.
1. Thị trường tiền tệ:
+ Thị trường tiền gửi tín dụng ngắn hạn, ra đời cùng với sự hoạt động của hệ thống tín dụng ngân hàng, hoạt động chưa có hiệu quả. Các nguồn lực trong dân chúng chưa được khai thác tối đa. Đặc biệt hiện nay, do hạ lãi suất chiết khấu nhằm nâng cao đầu tư đã kéo theo sự trì trệ của hoạt động tín dụng.
Theo thống kê, nguồn vốn trong dân thì 44% mua vàng, ngoại tệ, 28% mua nhà đất, 17% gửi tiết kiệm ngắn hạn và 19% cho các dự án ngắn hạn.
Trong khi mà TTTC chưa phát triển, hoạt động tín dụng ngắn hạn còn đóng một vai trò to lớn cho huy động vốn cho nền kinh tế, thì sự lãng phí nguồn lực, sự trì trệ trong hệ thống tín dụng ngân hàng là một vấn đề lớn đối với chúng ta. Nhất là khi mà hiện nay, mặc dù lãi suất thấp song các ngân hàng lại không cho vay được hết phần vốn huy động kéo theo sự thua lỗ cho rất nhiều ngân hàng thương mại hoặc hoạt động thu hẹp. Nhiều doanh nghiệp vẫn thiếu vốn, còn nhân dân chỉ coi tín dụng ngắn hạn là biện pháp chống lại lạm phát đồng tiền.
+ Thị trường nội tệ liên ngân hàng đi vào hoạt động từ tháng 7/93, hiện nay đang hoạt động dưới sự tổ chức và điều hành của Nhà nước. Thông qua quan hệ hợp tác đã đảm bảo cho việc sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn, có đủ khả năng chi trả thanh toán khi gặp khó khăn.
Việc quy định hoạt động trong thị trường này còn nhiều hạn chế như yêu cầu ngân hàng tham gia phải có tài khoản tại NHTW, có đại diện giao dịch tại trung tâm giao dịch thị trường, đảm bào hệ thống thông tin nội bộ và nối mạng... đặc biệt là còn rất hạn chế cho một tổ chức tín dụng tham gia.
Điều đó làm cho hoạt động của thị trường chưa được rộng khắp và toàn diện, chưa tạo được điều kiện thuận lợi cho nhiều ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng cùng tham gia.
+ Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Đi vào hoạt động từ tháng 10/94 dưới sự điều hành giám sát của nhà nước.
Thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ, giữa các ngân hàng đã tác động đến cung - cầu tiền tệ, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngoại thương xuất - nhập khẩu, vay thương mại, đầu tư nước ngoài...
Điều kiện tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng còn khắt khe hơn tham gia vào thị trường nội tệ, đặc biệt là chỉ cho phép các ngân hàng là ngân hàng được phép kinh doanh tiền tệ. Điều đó làm hạn chế nhiều đến quy mô thị trường, song bước đầu hoạt động của thị trường là khả quan, đảm bảo nguồn cung cầu về ngoại tệ.
+ Thị trường tín phiếu kho bạc và các công cụ nợ ngắn hạn khác:
Tín phiếu kho bạc được phát hành từ đầu những năm 90, có kỳ hạn ngắn, đã đáp ứng được nhu cầu chi tiêu chính phủ và bù đắp thâm hụt ngân sách. Giai đoạn đầu, trái phiếu và tín phiếu kho bạc tăng nhanh, từ 220,5 nghìn tỷ năm 91 lên 6.186 tỷ năm 97 và có lãi suất từ 9 - 12%/năm.
Hiện nay, đặc biệt sau năm 98, thị trường đi vào hoạt động trì trệ, mặc dù đã có lúc nâng đến một mức lãi suất rất cao chưa từng có 2,1%/tháng (25,2%/năm) năm 93 nhưng vốn huy động vẫn còn nhỏ bé so với tiềm năng.
Đối với thị trường thương phiếu, kỳ phiếu hoạt động còn nhỏ bé, chủ yếu mới trên thị trường sơ cấp.
2. Thị trường vốn:
+ Thị trường trái phiếu chính phủ: Đi vào hoạt động từ tháng 7.94 đã giúp Nhà nước huy động được nguồn vốn dài hạn đầu tư xây dựng được một số công trình lớn, trọng điểm quốc gia (đặc biệt là đường dây 500KV, đường Hồ Chí Minh (đang thực hiện và nhiều công trình khác), với số vốn có thể lên đến hàng chục tỷ đồng.
Thời hạn của cả trái phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ hiện nay đang có xu hướng tăng lên, lãi suất gắn liền với thị trường và có xu hướng giảm dần, làm giảm gánh nặng trả lãi cho ngân sách nhà nước. Hoạt động của thị trường đang ngày càng trở nên phong phú, đa dạng hơn và phổ biến trên cả nước.
Trong năm 1996, cả hai công trình thủy điện Yaly và Bình Thuận đã thu hút được 196,6 tỷ đồng (loại kỳ hạn 1 năm), còn đường dây 500 KV tổng số là 334 tỷ. Đây là kết quả bước đầu khả quan.
+ Thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Đi vào hoạt động từ năm 94, có đặc điểm chủ yếu là tồn tại duy nhất thị trường sơ cấp, mà tại đó chỉ có một phần trái phiếu là được thanh ngắn, tỷ trọng trái phiếu của các công ty kinh doanh còn rất nhỏ, chiếm khoảng 9% so với trái phiếu do ngân hàng phát hành và chủ yếu là bán trực tiếp.
Hiện nay, trái phiếu doanh nghiệp có thời hạn dài nhất mới chỉ là 5 năm như của công ty điện lạnh TP Hồ Chí Minh, nhà máy xi măng Anh Sơn.
+ Thị trường cổ phiếu.
Bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 6 - 2000, trước đó 9.94 đã được chính phủ ban hành quy chế hoạt động. Theo đó, chỉ có các công ty cổ phần mới được phát hành cổ phiếu.
Hiện tại đã có hơn 200 công ty cổ phần và nhiều doanh nghiệp đã phát hành cổ phiếu mong chỉ được sở hữu mà chưa được đưa vào lưu thông do chưa được phép niêm yết trên TTCK. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho việc cung ứng với cho nền kinh tế, làm chậm quá trình đổi mới. Đặc biệt là tiến trình cổ phần hoá diễn ra còn chậm, kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hoá không được thông tin hoạt động.
Tuy vậy, sự ra đời của TTCK với 4 công ty được niêm yết bắt đầu gây dựng cơ sở cho TTCK sau này (REE, SACOM, HAPHACO, TRANSIMEX). Các phiên giao dịch đã bắt đầu sôi động mặc dù còn nhỏ bé, hàng giao dịch còn ít. Trước đó, năm 97m, SACOM nhờ phát hành cổ phiếu (240.000 cổ phiếu mệnh giá 500.000đ) mà tăng tài sản lên 10 lần, thông qua hoạt động giao dịch trên TTCK, các công ty trên đã mở rộng được sản xuất kinh doanh, nâng cao được uy tín vị thế của mình trên thị trường cạnh tranh tạo được những hướng đi mới. Nhìn chung TTCK Việt Nam còn mới mẻ song bước đầu đã tạo lòng tin cho nhân dân.
Thực trạng TTTC Việt Nam.
Nhìn về tổng thể, số vốn huy động được trên TTTC tăng, nhưng tổng giá trị tín phiếu cổ phiếu giai đoạn 91 - 97 đạt 2,5% GDP. Nó còn quá nhỏ bé so với nhu cầu kinh tế xã hội (trong khi ở các quốc gia phát triển, khoản vay trong nước chiếm hơn 50% GDP).
Kho bạc nhà nước, theo ước tính, mới chỉ huy động được 15% số tiền nhàn rỗi trong dân, khi mà lượng tiền này ước đạt 25 - 30 nghìn tỷ đồng. Lãi suất trái phiếu luôn cao hơn lãi suất như là một điều không thực tế so với nhiều nước trên trong mà một nguyên nhân chính là do sự yếu kém của hệ thống ngân sách, do tài sản này của họ thiếu, nợ khó đòi tăng, tình hình kinh doanh khó khăn buộc phải tăng lãi suất tiền gửi lên cao hơn quy định, do đó mà người dân thích gửi tiền vào ngân sách hơn là mua trái phiếu cổ phiếu và trái phiếu công ty. Để có thể thu hút cổ phiếu đã phải nâng lãi suất lên rất cao.
Hiện tại mới chỉ có khi bạc nhà nước và NHTW được quyền tham gia vào việc phát hành vay nợ. Điều này, mặc dù thể hiện sự non yếu của thị trường về các thiết chế thị trường khác vẫn chưa xuất hiện nhưng hiện tại là chấp nhận được.
Mặc dù còn nhiều yếu kém, bất cập, song về cơ bản, TTTC Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, đã thu hút được một lượng vốn nhất định cho đầu tư phát triển đất nước. Bước đầu hình thành TTCK ở Việt Nam tạo cho mọi cá nhân tham gia, tiếp xúc với một TTTC hiện đại, phát triển.
III. PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN TTTC Ở VIỆT NAM.
1. Hoàn thiện TTTC ở Việt Nam là một tất yếu khách quan.
Với bất cứ một quốc gia nào đi theo nền kinh tế thị trường, TTTC là "phong vũ biểu", là dấu hiện đặc trưng của nền kinh tế. Các tín nhiệm trên TTTC có ảnh hưởng lớn đến tâm lý tiêu dùng, đầu tư. TTTC lành mạnh, ổn định sẽ giúp, đảm bảo cho các hoạt động kinh tế bền vững, an toàn, tạo một không khí yên tâm, thoải mái trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ nhu cầu cấp bách hiện nay, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần có một TTTC hoàn thiện nhằm phát huy mọi nguồn nội lực và ngoại lực, tài trợ đủ vốn, công nghệ kỹ thuật cho quá trình phát triển hoàn thành công nghiệp hoá đất nước.
Xuất phát từ thực trạng nhỏ bé, yếu kém của TTTC Việt Nam hiện nay cần phải phát triển và hoàn thiện để có thể đáp ứng được yêu câùa đặt ra, từng bước nâng cao vai trò của mình đối với nền kinh tế và hội nhập vào quốc tế, khu vực.
Xuất phát từ thực tiễn của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, hoàn thiện TTTC luôn là một điều tất yếu khách quan do tầm quan trọng cũng như tính nhạy cảm của nó. Đứng trước xu thế toàn cầu hoá, TTTC dễ chịu những cú sốc bên ngoài. Dù TTTC có phát triển ở một trình độ cao như Nhật Bản, Hàn Quốc thì vẫn chịu những hậu quả nặng nề từ cuộc khủng hoảng.
Chính vì vậy, phát triển, hoàn thiện TTTC ở Việt Nam luôn là tất yếu.
2. Các giải pháp chung cho phát triển, hoàn thiện TTTC ở Việt Nam.
+ Để phát triển TTTC cần dựa trên một nền kinh tế thị trường hoàn thiện đây là điều hiển nhiên. TTTC vững mạnh góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, ngược lại kinh tế thị trường hoàn thiện sẽ tác động ngược trở lại chính TTTC và làm nền tảng cơ sở, làm môi trường cho TTTC phát triển bền vững.
Để phát triển hoàn thiện kinh tế thị trường, từ ngay bây giờ cần có các chính sách cho phù hợp. Đường lối phát triển kinh tế đóng một vai trò quyết định bao trùm lên cả sự phát triển, điều này phụ thuộc lớn vào hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước.
Phát triển đồng bộ các ngành, lĩnh vực dựa trên việc khai thác tối đa các nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào và giá nhân công thấp. Mặc dù vậy vẫn phải hướng nền kinh tế vào mô hình hướng về xuất khẩu mà nhiều nước châu á (Nhật Bản, các nước NICs) đã rất thành công; ưu tiên vào các ngành mũi nhọn và ngành thế mạnh: chế biến nông lâm thủy sản, dệt may, dầu khí... và đặc biệt là điện tử - tin học, ngành học có nhiều triển vọng. Luôn luôn coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu do chúng ta có gần 80% dân số nông thôn, nâng cao thu nhập cho họ sẽ là tăng thu nhập cho một bộ phận rất lớn dân cư, từ đó tăng được tiêu dùng, tích lũy cho nền kinh tế và vượt được ra khỏi đường giới hạn khả năng sản xuất.
Đối với Việt Nam, cần lưu ý rằng, phát triển hoàn thiện TTTC phải dựa trên một nền kinh tế thị trường XHCN đề cao vai trò của Nhà nước và thành phần kinh tế Nhà nước về quản lý kinh tế, dựa trên chế độ đa sở hữu song công hữu vẫn là ưu thế, đại bộ phận nhân dân làm chủ.
+ Nâng cao vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước, đặc biệt là NHTW cũng như kiện toàn hệ thống ngân hàng thương mại.
Đối với Nhà nước, cần có biện pháp quản hành chính song song với quản lý kinh tế. Thông qua các chính sách tài khoá và tiền tệ có thể điều chỉnh ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Thực tiễn không chỉ đối với Việt Nam mà còn rất nhiều nhà nước khác, để đạt được mục tiêu kinh tế này thì lại bị ảnh hưởng mục tiêu kinh tế khác. Chẳng hạn, để giảm lạm phát thì có thể thất nghiệp tăng, để kích cầu nền kinh tế có thể dẫn đến thâm hụt ngân sách, lạm phát tăng, hay tăng thuế thì giảm thâm hụt ngân sách song kinh tế lại trì trệ vv... Chính vì vậy, cần chú ý rằng nhà nước đang theo đuổi mục tiêu vĩ mô nào, và khi thực thi sẽ ảnh hưởng như thế nào đến TTTC - tiền tệ, vì hầu hết các chính sách vĩ mô đều tác động đến TTTC: lạm phát, tỷ giá hối đoái thâm hụt ngân sách, lãi suất chiết khấu.v.v...
Tuỳ theo chế độ tỷ giá hối đoái mà áp dụng chính sách tài khoá mạnh hay chính sách tiền tệ mạnh. Ở nước ta, với NHTW cần từng bước nâng cao tính độc lập tự chủ. Hiện tại, mô hình NHTW t rực thuộc chính phủ vẫn là tối ưu vì nền kinh tế thị trường còn chưa phát triển, cần phát huy mạnh mọi nguồn lực xã hội. Tuy vậy tránh sự áp đặt hoạt động từ phía chính phủ, đặc biệt là chính phủ nên tự cân đối ngân sách, trong trường hợp khẩn cấp mới dựa vào cơ chế phát hành tiền của NHTW.
+ Tạo điều kiện cho mọi chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào thị trường bình đẳng. Điều này là cần thiết cho một TTTC XHCN. Tạo cho tất cả mọi chủ thể có cùng một cơ hội như nhau, khi đó sẽ tạo ra được môi trường cạnh tranh hoàn hảo, tất cả mọi chủ thể sẽ phát huy được năng lực của mình, góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Không được phân biệt nhà nước - tư nhân, trung ương - địa phương, có như vậy mới đảm bảo tính năng động của thị trường cũng như khai thác tối đa mọi nguồn lực của mọi thành phần kinh tế.
+ Hình thành cơ chế đồng bộ, về hoạt động cho TTTC Việt Nam thống nhất từ trung ương đến địa phương:
Cơ chế hoạt động cho tổng thể TTTC Việt Nam phải dựa trên cơ chế thị trường XHCN, có sự quản lý thống nhất giữa NHTW và các ngân hàng địa phương làm rõ chức năng phát hành tiền tệ, quy định tỷ lệ dự trữ, liên hệ lãi suất chiết khấu, giám sát hoạt động của NHTW đối với hệ thống ngân hàng thương mại.
Đối với hệ thống ngân hàng, làm rõ chức năng luân chuyển vốn, hướng vào thị trường vốn dài hạn, còn lĩnh vực vốn tiền tệ ngắn hạn thì chủ yếu cho các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, đẩy nhanh xí nghiệp hoá hệ thống ngân hàng đảm bảo động lực thúc đẩy cạnh tranh nâng cao phục vụ cho nền kinh tế. Có chế độ quản lý các tổ chức tài chính tín dụng ngân hàng bằng việc chịu trách nhiệm kinh tế và pháp luật tránh dựa hoàn toàn vào ngân hàng TW cung cấp vốn. Nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của hệ thống tổ chức tài chính - ngân hàng, đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh song vẫn phải phục tùng các yêu cầu vĩ mô tài chính của nhà nước và chấp hành chính sách tài chính.
+ Cải tiến phương thức phát hành các công cụ tài chính, tăng thêm hàng hoá giao dịch và khuyến khích mua đi bán lại trên TTTC.
Các công cụ tài chính như trái phiếu chính phủ, doanh nghiệp, cổ phiếu, tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu, thương phiếu...
Hầu như hình thức phát hành còn mang tính nội bộ, chưa công khai nhiều khi gây nên những thái độ tiêu cực trong nhân dân và nhiều nhà đầu tư. Do đó, đối với các trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, cần được thông báo rộng rãi trên các phương diện thông tin đại chúng: truyền hình, phát thanh, báo chí đến mọi người dân. Đồng thời tránh các thủ tục rườm rà, đặc biệt là nên nâng cao, tính lỏng của các công cụ tài chính này sẽ góp phần đắc lực cho việc trao đổi, mua đi bán lại trên thị trường cấp II.
Về trái phiếu doanh nghiệp, tránh tình trạng không công khai hoá thông tin doanh nghiệp. Điều này gây tâm lý e ngại cho công chúng cũng như các nhà đầu tư. Đặc biệt hiện nay rất nhiều ngân hàng thương mại không có tình hình tài chính lành mạnh, thiếu thông tin công khai làm giảm hiệu năng của ngân hàng và hạn chế việc thanh toán ngoài thị trường bằng các công cụ nợ này. Do đó, đi đôi và việc xã hội hoá phát hành (phát hành rộng rãi) là việc xã hội hoá thông tin.
Để tăng hàng hoá giao dịch, đặc biệt là trên TTCK, cần khuyến khích tăng cường phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Đặc biệt là tăng số công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán từ 4 công ty như hiện nay, có thể giảm số vốn quy định để nhiều công ty có cơ hội tham gia.
+ Phát triển, đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tài chính đảm bảo hoạt động chính xác, kịp thời, an toàn.
Việc điện tử hoá các hệ thống giao dịch, trao đổi đảm bảo xử lý công bằng và hình thành hệ thống giá thị trường tốt nhất cho các nhà đầu tư, cho phép các trung tâm lớn (...) kết nối với nhau tạo nên một thị trường thống nhất trên cả nước. Đây là một giải pháp khác hợp lý cho tình hình phát triển công nghệ quốc tế và sự ứng dụng công nghệ viễn thông đang diễn ra với tốc độ nhanh tại Việt Nam.
Không chỉ đảm bảo sự thống nhất trong nước ứng dụng, công nghệ thông tin còn giúp TTTC Việt Nam hoà nhập dễ hơn vào TTTC quốc tế và khu vực, tranh thủ thông tin của quốc tế vào tạo điều kiện tốt hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Phát triển mạnh cơ sở hạ tầng kỹ thuật sản xuất điện, đường, nhà xưởng... góp phần tạo ra một môi trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư giúp huy động các nguồn lực tài chính, đặc biệt là nước ngoài. Thực tiễn ở Việt Nam, cơ sở hạ tầng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Vùng Đông Nam bộ (Thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bình Dương - Vũng Tàu...) là vùng có cơ sở hạ tầng phát triển nhất Việt Nam hiện nay hàng năm thu hút hầu hết vốn tư bản nước ngoài và cũng là vùng có TTTC phát triển nhất Việt Nam hiện nay, đang thử nghiệm trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên của Việt Nam.
+ Đào tạo đội ngũ nhân viên hoạt động trên TTTC năng động, có chuyên môn nghề nghiệp. Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất trong bất cứ tổ chức nào, đặc biệt là lĩnh vực tài chính ngân hàng luôn luôn cần có sự nhạy bén, sáng tạo, biết phân tích đánh giá tình hình thị trường.
Cần đào tạo các nhân viên hoạt động và nhân viên quản lý đảm bảo đủ cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là chất lượng vì hoạt động luôn đòi hỏi sự nhạy bén, năng động. Có thể đào tạo theo các chương trình đại học, đào tạo tại chỗ và hợp tác đào tạo với nước ngoài... đảm bảo đủ cung cấp nhu cầu đổi mới thường xuyên trên TTTC.
+ Hình thành hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh.
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý về kinh tế trên TTTC đảm bảo sự hoạt động an toàn, có hiệu quả. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh vừa đảm bảo tính thống nhất của thị trường, vừa lành mạnh hoá các quan hệ tài chính lại là môi trường đảm bảo cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Hệ thống pháp luật phải rõ ràng, thống nhất, nghiêm minh mà vẫn đảm bảo được tính hấp dẫn cho các nhà đầu tư chân chính. Luật cần được điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với sự phát triển của TTTC, đặc biệt là luật kinh tế, doanh nghiệp, tuy vậy vẫn phải đảm bảo sự thích ứng kịp thời từ các doanh nghiệp. Cần tham khảo hệ thống luật kinh tế từ các nước phát triển đảm bảo phù hợp mặt bằng chung. Hạn chế tối đa các kẽ hở pháp luật gây nhiều hiệu quả cho TTTC và hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Từng bước đưa TTTC Việt Nam hội nhập vào quốc tế và khu vực. Hội nhập từng bước qua nhiều hoạt động: Đầu tư nước ngoài, vay thương mại, viện trợ ODA, đầu tư chứng khoán...
Thực hiện hợp lý giữa bảo hộ và mở cửa, đảm bảo cho TTTC Việt Nam hội nhập song tránh bị phụ thuộc, lũng đoạn từ thị trường quốc tế, đảm bảo tranh thủ vốn, công nghệ khoa học kỹ thuật cũng như các kinh nghiệm từ bên ngoài. Đây là điều bắt buộc với chúng ta hiện nay trong xu thế quốc tế hoá các TTTC, do đó bước đầu chúng ta có thể tham gia tích cực vào hoạt động của TTTC khu vực ASEAN, Châu á - Thái Bình Dương.
Để việc hội nhập đạt được kết quả, cần sớm hoàn thiện TTTC với các hoạt động trong nước, tạo sân chơi bình đẳng cho các cá nhân, tổ chức trong nước tham gia và sớm hoàn chỉnh hệ thống pháp luật đồng bộ.
Xây dựng, hoàn thiện TTTC Việt Nam không phải là một việc đơn giản mà chúng ta có thể thực hiện được ngay. Cần hoàn thiện từng bước, áp dụng đồng bộ các giải pháp và đặc biệt chú ý răng TTTC Việt Nam chỉ có thể phát triển hoàn thiện trong một môi trường xã hội ổn định có nền kinh tế thị trường phát triển và một Nhà nước vững mạnh.
3. Xây dựng một mô hình cho các loại thị trường ở Việt Nam.
a. Thị trường tiền tệ.
Cùng với sự đổi mới của đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, thị trường tiền tệ cũng có những căn bản cả về nhận thức cũng như thực tiễn. Hiện nay, thị trường tiền tệ đã được thừa nhận về lý luận cũng như thực tiễn của nó trong nền kinh tế.
Trọng tài trung tâm của thị trường tiền tệ là Nhà nước kiểm soát thị trường tiền tệ ở tầm vĩ mô thông qua cung cầu tiền tệ. Công cụ tác động chủ yếu là cung - cầu tiền và lãi suất. Với mục tiêu là giá cả ổn định, tăng trưởng nhanh, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở mức tự nhiên và lạm phát vừa phải chính phủ cần hài hoà cung cầu tiền tệ.
Khi lạm phát lên nhanh và cao, chính phủ có thể thắt chặt tiền tệ thông qua hoạt động của NHTW (tăng lãi suất chiết khấu, định mức tín dụng) tiến hành mọi biện pháp thắt chặt tiền tệ. Đồng thời, chính phủ cùng nên giảm chi tiêu và giảm thuế cố gắng duy trì mức sản lượng cân bằng.
Khi nền kinh tế đình đốn, giảm phát, tỷ lệ thất nghiệp cao, có thể tăng cung ứng tiền tệ, hạ lãi suất ngân hàng, lúc đó khối lượng tiền tệ sẽ tăng mạnh hơn, sản xuất phát triển, tuy vậy vẫn phải đề phòng nguy cơ lạm phát tiềm ẩn.
Việc điều hành tiền tệ nên sử dụng đồng thời các công cụ: Nghiệp vụ thị trường mở, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ, tỷ lệ cho vay chiết khấu, hạn mức tín dụng và điều hành lãi suất. Mỗi công cụ có ưu điểm, nhược điểm riêng, phát huy mỗi công cụ là tuỳ vào hoàn cảnh của từng thời điểm.
Việc áp dụng một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt cũng ảnh hưởng lớn đến thị trường tiền tệ. (Về lâu dài thì nó ảnh hưởng đến thị trường vốn). Mỗi khi hạ thấp giá trị đồng nội tệ cần tranh thủ tăng cường xuất khâủa, tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, 80% nguyên liệu cho hàng xuất khẩu lại phải nhập khẩu (dệt may, giầy da, nguyên liệu, máy móc cho chế biến). Chính vì vậy tỉ giá hối đoái cao cho đồng nội tệ (hay đồng Việt Nam lên giá) lại là điều giúp tăng xuất khẩu. Đặc biệt, nó sẽ giúp đồng Việt Nam mạnh hơn trong khu vực và tương lai có giá trị chuyển đổi, lúc đó đảm bảo cho thị trường tiền tệ linh hoạt, ổn định hơn.
Cần chuyển mọi hoạt động tiền tệ sang cơ chế thị trường, nhà nước chỉ kiểm soát ở tầm vĩ mô, nới lỏng, tính đến thả nổi lãi suất, đảm bảo cho các thành viên tham gia thị trường bình đẳng. Việc bình đẳng giữa các tổ chức, thành viên đặc biệt là các tổ chức tín dụng, các công ty tài chính sẽ tạo ra thị trường cạnh tranh lành mạnh, khi đó các doanh nghiệp , tổ chức sẽ lựa chọn được phương thức kinh doanh cơ lợi nhất, đảm bảo tự đồng điều chỉnh cơ cấu kinh tế xã hội, tránh độc quyền. Việc áp dụng một chế độ lãi suất bình đẳng sẽ phản ánh đúng cung - cầu tiền tệ thị trường, đây cũng là một điều kiện cơ bản hình thành thị trường tiền tệ.
Ở xây dựng một môi trường kinh tế xã hội ổn định, bình ổn chính trị, hệ thống pháp luật đồng bộ cũng chính là xúc tác cho một thị trường tiền tệ ổn định ở Việt Nam.
b. Mô hình thị trường vốn.
Xây dựng một thị trường vốn như thế nào là yêu cầu cấp bách cho tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá tại Việt Nam.
Đối với thị trường vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, các cơ chế về lãi suất, tỷ giá cũng rất quan trọng. Với một tỷ giá, lãi suất linh hoạt nhưng lành mạnh, ổn định sẽ đảm bảo bình ổn cho thị trường vốn. Bởi vì khi lãi suất, tỷ giá lên xuống thất thường, đặc biệt là vấn đề lạm phát cao sẽ có nguy cơ biến thị trường vốn thành thị trường tiền tệ. Do đó, nâng cao vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước, vai trò của NHTW, bình đẳng về lãi suất, tỷ giá thả nổi có didều tiết... cũng luôn là điều cần thiết cho thị trường vốn Việt Nam.
Cung cấp vốn cho thị trường, hệ thống ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng. Do đó phải xây dựng được hệ thống ngân hàng đa năng theo cơ chế kinh doanh giao vốn và có trách nhiệm bảo toàn sinh lời vốn. Đảm bảo cho hệ thống ngân hàng được tin học hoá, đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề thông tin không cân xứng, vì ở Việt Nam nói riêng (cũng như các nước đang phát triển nói chung) cho ai vậy, vay để làm gì vẫn là một câu hỏi quan trọng (còn ở các nước phát triển thì quan tâm đến cho vay có lợi nhuận cao không và nhiều khi được thế chấp đảm bảo bằng tài sản đầy đủ).
Phát triển một nền kinh tế vĩ mô đi đôi với lại phân phối lại thu nhập công bằng chính là cơ sở cho việc nuôi dưỡng nhiều nguồn vốn thu, đảm bảo cung cấp cho thị trường. Bởi vì nước ta có 80% dân số hoạt động nông nghiệp thu nhập thấp và bấp bênh, điều đó khiến cho sức mua kém, khả năng đóng góp cung cấp vốn hạn chế, lãng phí lớn một nguồn nhân lực dồi dào.
Nâng cao thu nhập sẽ góp phần nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh, họ sẽ cần nhiều vốn dài hạn hơn cho đầu tư sản xuất kinh doanh, từ đó lại tăng thu nhập, đóng góp vốn cho thị trường, giải quyết được nhiều mục tiêu xã hội. Vấn đề đặt ra là cần phân phối lại thu nhập như thế nào cho hợp lý, hài hoà.
Thị trường vốn ở Việt Nam hiện nay còn đơn điệu, nhỏ bé. Tăng dung lượng hàng hoá cho thị trường là điều cần thiết. Trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái, cổ phiếuv.v... cần được đa dạng hoá. Tạm thời cần tập trung hoá thị trường song về lâu dài, cần mở rộng ra nhiều trung tâm giao dịch phù hợp tập trung sẽ vừa đảm bảo thu hút nhiều vốn dài hạn, vừa giảm chi phí giao dịch.
Về TTCK, việc tăng dung lượng thị trường thêm sôi động là quan trọng. Đảm bảo thông tin thị trường, lựa chọn các công ty điển hình đưa vào giao dịch tập trung. Mở thêm nhiều điểm phi tập trung để các doanh nghiệp nhỏ có cơ hội hơn cho huy động vốn và mở rộng kinh doanh, nâng cao uy tín,. Nới lỏng quy định về vốn pháp định song lại hạn chế hơn về điều kiện kinh doanh.
Giám định TTCK thường xuyên, ngăn chặn các hoạt động đầu cơ gây ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh doanh nghiệp, đặc biệt là sự lũng đoạn của tư bản nước ngoài, mặc dù cần mở cửa hơn nữa để huy động vốn. Nên khuyến khích đầu FDI, vốn ODA cho các công trình dài hạn, chỉ vay thương mại khi cần thiết.
ở Việt Nam, về lâu dài có thể mở thêm trung tâm giao dịch Hà Nội thúc đẩy kinh tế khu vực miền Bắc, áp dụng công nghệ tiên tiến kết nối nhiều trung tâm lớn tạo sự thống nhất, đặc biệt là trong tình hình công nghệ thông tin thế giới và cơ sở hạ tầng viễn thông Việt Nam đang phát triển nhanh. Việc mở rộng thêm trung tâm giao dịch và kết nối vừa đa dạng hoá vừa chuyên môn hoá, giảm được các chi phí giao dịch trên thị trường.
Riêng nhu cầu vốn dài hạn cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào miền núi nông thôn... là rất lớn. Cần có chế độ khuyến khích bằng lãi suất ưu đãi sẽ tăng nhu cầu về vốn, đảm bảo cho tính khả thi của dự án lại giảm cho Nhà nước nhiều gánh nặng.
Cuối cùng, một môi trường kinh tế xã hội ổn định, pháp luật đồng bộ, nâng cao vai trò Nhà nước cũng là tất yếu cần thiết cho một thị trường với Việt Nam.
c. Đối với mô hình thị trường cấp I và thị trường cấp II.
Đảm bảo tính cơ sở của thị trường cấp I, đó là việc tăng hàng hoá cho thị trường cấp I. Việc áp đặt một giá hợp lý cho thị trường cấp I là quan trọng bởi vì nó liên quan trực tiếp đến lợi nhuận doanh nghiệp.
Song cũng cần chú ý đến tính tạo động lực của thị trường cấp II, việc định giá, khối lượng của thị trường cấp I ảnh hưởng lớn đến việc mua bán trên thị trường cấp II.
Mở rộng mạng lưới phân phối, xen kẽ giao dịch sơ cấp và thứ cấp, làm mờ đi ranh giới giữa hai thị trường cũng là điều cần thiết để cho các giao dịch được đồng bộ, liên tục, tạo được sự an toàn, thông tin đầy đủ và cũng tránh các rủi ro cho giao dịch.
Đối với Việt Nam, khi mà TTTC còn chưa hoàn thiện, việc mở rộng thị trường cấp II (và cả thị trường cấp I) cần được xét trung dài hạn, gắn với nhiều yếu tố vĩ mô về kinh tế, xã hội.
Tóm lại, để xây dựng được một mô hình hoàn chỉnh cho TTTC nói chung các loại thị trường tiền tệ, vốn, sơ cấp, thứ cấp nói riêng... liên quan trực tiếp đến nhiều yếu tố. Đặc biệt không thể bỏ qua mối quan hệ mật thiết giữa các loại thị trường vì mỗi thị trường trên là một bộ phận của TTTC được xét theo nhiều góc độ. Sự hoàn chỉnh và phù hợp giữa mỗi thị trường là cơ sở, tiền đề cấu thành nên một TTTC phát triển và hoàn thiện.
KẾT LUẬN
Phạm trù "Thị trường tài chính" mặc dù là một vấn đề có khá mới mẻ cho một nền kinh tế 15 năm mở cửa đổi mới song bước đầu, TTTC ở Việt Nam đã có bước hình thành và chuyển biến mạnh mẽ, góp phần đắc lực vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Khẳng định vai trò to lớn của TTTC không chỉ là huy động mọi nguồn lực xã hội và công cuộc phát triển đất nước mà còn nâng cao hiệu quả nền kinh tế, điều hoà hoạt động kinh tế vĩ mô và mở cửa hội nhập khu vực quốc tế là một tất yếu khách quan; đó là điều mà Đảng và Nhà nước đã kịp thời nhìn nhận, đánh giá kịp thời và đang từng bước xây dựng, phát triển hoàn thiện TTTC ở Việt Nam. Chúng ta đang bước vào thế kỷ XXI với trách nhiệm nặng nề. Mục tiêu hoàn thành công nghiệp hoá vào năm 2020 đã đặt ra yêu cầu huy động một lượng vốn rất lớn trong thời gian trước mắt.
Muốn nâng cao và phát huy được nội lực trong nền kinh tế cũng như thu hút tối đa nguồn lực đầu tư nước ngoài, hơn bao giờ hết xây dựng một TTTC phát triển, ổn định, lành mạnh và hoàn thiện là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Điều quan trọng nhất để có được một TTTC theo đúng nghĩa của nó chính là lòng tin của dân chúng, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước và sự an toàn, lành mạnh, hấp dẫn của nền kinh tế thị trường. Yếu tố này chỉ có thể có được trong một môi trường kinh tế xã hội ổn định, một môi trường đã được đảm bảo bằng pháp lý với cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển.
Nhà nước là trọng tài trung tâm của nền kinh tế cần phát huy đúng vai trò kinh tế của mình, hài hoà giữa quản lý kinh tế và quản lý hành chính, tạo cho một đất nước một thế và lực mới với những cơ hội lớn lao bước vào thế kỷ XXI.
Chúng ta luôn ý thức của một sự tụt hậu, song cũng không nên quá nóng vội chủ quan duy ý chí áp đặt một sự đi lên nhanh chóng của TTTC, trong mỗi hoạt động, mỗi sự thúc đẩy phát triển cần luôn dựa vào sự vận động của các quy luật khách quan, dựa vào yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế trong nước và quốc tế để có thể đưa ra các chính sách cho phù hợp. Thực tiễn từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á 7/97 đã chứng minh điều đó, tài chính - tiền tệ là vấn đề trừu tượng nhạy cảm luôn đòi hỏi mỗi chúng ta một sự năng động và thận trọng.
Chính vì vậy, mỗi chúng ta, đặc biệt là các nhà tài chính tương lai luôn phải ý thức tìm tòi, nghiên cứu các phạm trù về thị trường tài chính - tiền tệ, không ngừng học hỏi nâng cao chuyên môn nghiệp vụ để có thể tham gia và đóng góp nhiều nhất năng lực của mình vào việc xây dựng phát triển và hoàn thiện TTTC ở Việt Nam. Trước mắt, cần phải tìm cách để đưa các hoạt động tài chính vào các phương tiện thông tin đại chúng, vào cuộc sống hàng ngày của dân chúng làm cơ sở, tiền đề để có thể huy động tối đa nguồn lực con người cho sự phát triển.
Phạm trù tài chính, TTTC là một phạm trù trừu tượng song không phải không nắm bắt, kiểm soát được. Hiểu rõ và vận dụng tốt các kiến thức cũng như kinh nghiệm của các nước phát triển, chúng ta hoàn toàn có thể hình thành một TTTC phát triển và hoàn thiện.
ĐỀ TÀI CÓ THAM KHẢO MỘT SỐ TÀI LIỆU SAU:
1. Giáo trình "Tài chính học" NXB Thống kê 1993
2. Giáo trình " Thị trường chứng khoán" Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh 1997.
3. F.S Misnkin. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính.
4. Nghiên cứu kinh tế số 212 - 1/1996; Số 219 - 8/1996.
5. Tạp chí tài chính số 1, 2, 4, 5, 9, 10/1996
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thị trường tài chính và vai trò của thị trường tài chính trong việc góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài c.docx