Tổng thu NSNN 3 năm 2006-2008 ước đạt 67,4% chỉ tiêu 5 năm. Tốc độ tăng thu bình quân (đã loại trừ yếu tố tăng giá dầu) là 13,4% (chỉ tiêu đề ra cho 5 năm là 10,8%/năm). Quy mô thu NSNN năm 2008 tăng 75% so với năm 2005, động viên NSNN 3 năm 2006-2008 bình quân đạt 27,7%GDP, trong đó huy động từ thuế và phí (đã loại trừ yếu tố tăng giá dầu) đạt 23%GDP (mục tiêu đề ra cho 5 năm là 20-21%GDP).
- Tổng chi NSNN 3 năm 2006-2008 ước đạt 64% chỉ tiêu 5 năm 2006-2010. Tốc độ tăng chi bình quân hàng năm đạt 21,3%/năm (chỉ tiêu đề ra 11,2%/năm). Quy mô chi NSNN năm 2008 tăng 79% so với năm 2005. Đã đảm bảo tỷ lệ chi cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo - dạy nghề chiếm 20% tổng chi NSNN, chi khoa học công nghệ chiếm 2%, chi lĩnh vực văn hoá - thông tin đạt trên 1,5%, chi sự nghiệp môi trường trên 1%; tăng chi ngân sách thực hiện chính sách an sinh xã hội; dành nguồn trên 82.000 tỷ đồng để thực hiện điều chỉnh tiền lương ở mức cao hơn và sớm hơn so với lộ trình đã đề ra.
- An ninh tài chính quốc gia được củng cố; bội chi NSNN bình quân 3 năm ở mức xấp xỉ 5% GDP; bố trí chi trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn theo cam kết. Đến 31/12/2008, dư nợ Chính phủ (bao gồm cả nợ Trái phiếu Chính phủ) bằng 33,5% GDP, dư nợ ngoài nước của Quốc gia bằng 27,2% GDP.
19 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2811 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thu - Chi của ngân sách nhà nước và biện pháp cân đối ngân sách của nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hối tổng sản phẩm xã hội. Trong điều kiện kinh tế hàng hoá- tiền tệ, các hình thức tiền tệ trong phân phối như: thuế bằng tiền, vay nợ…được Nhà nước sử dụng để tạo lập quỹ tền tệ riêng có: NSNN. Như vậy, NSNN là ngân sách của Nhà Nước, hay Nhà Nước là chủ thể của ngân sách đó Với mục tiêu “quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng Ngân sách Nhà Nước (NSNN) lành mạnh, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của của Nhà Nước; tăng tích luỹ để thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân; đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại”,.
I. Vị trí, vai trò của thu-chi ngân sách nhà nước:
* Vai trò ngân sách nhà nước:
-Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội
-Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
-Đầu tiên , chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
1.Vị trí và vai trò của hoạch động chi NSNN:
a.Vị trí:
-Chi NSNN luôn gắn chặt với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-chính trị-xã hội
-Chi NSNN gắn liền với quyền lực nhà nước
-Chi NSNN mang tính pháp lí cao làm cho NSNN trở thành công cụ có hiệu lực trong quá trình điều hành,quản lí kinh tế ,xã hội của NN
-Tính hiệu quả của các khoản chi NSNN được xem xét trên tầm vĩ mô.thông qua việc hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế ,xã hội,ANQP...
-Chi NSNN là một bộ phận cấu thành luồng vận động tiền tệ và nó gắn chặt với sự vận động của phạm trù giá trị khác như tiền lương,lãi xuất...
b.Vai trò :
-Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế:
Thông qua hoạt động chi ngân sách, nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế(có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn.
Giải quyết các vấn đề xã hội:
Xây dựng và phát triển các vấn đề xã hôi:y tế,giáo dục,giao thông…
Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội,trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu,các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số,chính sách việc làm,chống mù chữ,hỗ trợ đồng bào bão lụt.
-Về mặt thị trường:
Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát ,bình ổn giá cả thị trường hàng hoá: nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến lược. cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu, dự trũ quốc gia. thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ. kiềm chế lạm phát: cùng với nhân hàng trung ương với chính sách tền tệ thích hợp NSNN góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ.
*Các lĩnh vực thường chi:
-Chi đầu tư phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng, trong đó phần lớn là xây dựng cơ bản, khấu hao tài sản xã hội
-Chi bảo đảm xã hội, bao gồm:
+Giáo dục
+Y tế
+Công tác dân số
+Khoa học và công nghệ
+Văn hoá
+Thông tin đại chúng
+Thể thao
+Lương và trợ cấp xã hội …
Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước đựoc chia ra:
-Tiêu dùng cuối cùng (của Nhà nước): các khoản chi thường xuyên cho mua sắm của các cơ quan Nhà nước
-Đầu tư kết cấu hạ tầng: xây dựng cơ bản và khấu hao tài sản
-Phân phối và tái phân phối xã hội: lương công nhân viên chức và các khoản trợ cấp xã hội, hưu trí.
2.Vị trí và vai trò của hoạch động thu NSNN:
a.Vị trí :
-Cơ cấu các khoản thu NSNN đều gắn liền với chức năng nhiện vụ và quyền lực chính trị của nhà nước.Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước là điều kiện xuất hiện nhưng khoản thu của NSNN
-Các khoản thu nhà nước là tiền đề vật chất không thể thiếu được thực hiện chức năng ,nhiệm vụ nhà nước
b.Vai trò:
-Thu để tạo quỹ cho NSNN
-Tạo nguồn ngân quỹ không chỉ cho các khoản chi NSNN mà còn nhằm vào mục đích xã hội khác như:trợ cấp thiên tai,cứu tế...
-Thu bù đắp thiếu hụt NSNN: khi số thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu
-Thu NSNN có tác dụng kiềm chế và đẩy lùi lạm phát
VD : Khi lạm phát xãy ra ,giá tăng làm cung-cầu mất cân đối,chính phủ có thể tăng thuế tiêu dùng,giảm thuế đầu tư...
-Tác dụng của việc thu thuế:
+Đối với thuế thu nhập cá nhân,thuế doanh nghiệp nhằm giúp sự phân hoá giàu nghèo,tiến tới đảm bảo xã hội công bằng về thu nhập
+Thuế hang hoá: thuế cao cho hàng hoá xa xỉ,thuế thâp cho hàng thiết yếu nhằm phân phối lại thu nhập người giàu
+Khuyến khích các DN trong nước phát triển băng các tăng thuế các mặt hàng nhập khẩu
-Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh
Các nguồn thu chính:
+Thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước: Thu từ sản xuất, thu từ lưu thông
+ phân phốinhàng hóa, thu từ hoạt động dịch vụ
+Thu từ nguồn thu ngoài nước: thu từ vay nợ và viện trợ của ngoại quốc
Có nhiều khoản thu:các hoạt động kinh tế của nhà nước(hoạt động góp vốn của nhà
nước;thu hồi tiền vay của nhà nước);thu từ các hoạt động vay nợ;các hoạt động bán và cho thuê TNTN và các tài sản thuộc quyền sở hữu của nhà nước và các khoản thu khác. Thu thuế: Thuế là 1 khoản thu bắt buộc,không được hoàn trả trực tiếp của nhà nước đối với các cá nhân nhằm mục đichs trang trải các khoản chi phí vì lợi ích.
II. Các khái niệm liên quan:
1.NSNN
NSNN, hay NS chính phủ, là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia.
Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu.
Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quôc gia.
Một cách hiểu tương tự, người Pháp cho rằng: NSNN là toàn bộ tài liệu kế toán mô tả và trình bày các khoản thu và kinh phí của Nhà nước trong một năm.
Luật NSNN đã được quốc hội Việt Nam thông qua năm 1996 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của quốc gia trong dự toán đã được cơ quan chính phủ có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của chính phủ.
Từ các quan điểm trên ta có thể xác định:NSNN là các quan hệ phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập,phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước khi hà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước trên cơ sở luật định.
2. Hệ thống mục lục ngân sách nhà nước
Hệ thống mục lục ngân sách nhà nước là bảng phân loại các khoản thu, chi ngân sách nhà nước theo hệ thống tổ chức nhà nước, ngành kinh tế và các mục đích kinh tế - xã hội do nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ cho công tác lập, chấp hành, kế toán, quyết toán ngân sách nhà nước và phân tích các hoạt động kinh tế, tài chính thuộc khu vực nhà nước.
3.Thu NSNN
Thu ngân sách nhà nước là quyền lực của nhà nước để tập trung 1 phần thu nhập kinh tế vào tay nhà nước dể hình thành nên quỹ tiền tệ
Các mục thu ngân sách nhà nước quy định trên cơ sở chế độ, chính sách thu ngân sách nhà nước.
4.Chi NSNN
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước cho việc thực hiện các nhiệm vụ của chính phủ. Thực chất của nó là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của chính sách.
Các mục chi ngân sách nhà nước quy định trên cơ sở chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu ngân sách nhà nước.
5.Một số khái niệm khác:
Thâm hụt ngân sách (bội chi) trong kinh tế vĩ mô và kinh tế học cộng đồng là tình trạng các khoản chi của NSNN (ngân sách chính phủ) lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách. Trường hợp ngược lại, khi các khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư NS (bội thu)
NỘI DUNG CHÍNH
I. Tình hình ngân sách nhà nước giai đoạn trước năm 2003
1. Chi ngân sách nhà nước
Trong những năm đầu thập niên 90, diễn biến NSNN khá thất thường. Tổng chi NSNN chiếm 20,5% GDP năm 1990 đã giảm xuống còn 15,9% năm 1992. Sau đó tăng đột ngột lên 29,4% năm 1993. Từ năm 1994, tổng chi so với GDP lại giảm liên tục, từ 29,4% (năm 1993) xuống còn 22.7% GDP (năm 1998), tương ứng với việc cắt giảm 1/5 tổng chi NSNN. Nhưng xét bình quân giai đoạn 1991-1995 đạt 24,5% GDP và khoảng 24,1% GDP giai đoạn 1996-2001 là tăng mạnh so với mức bình quân 19,7% giai đoạn 1986-1990.
Giai đoạn 1991 – 2001, chi NSNN được kết cấu lại theo hướng chi trên cả ba lĩnh vực chi đầu tư, chi thường xuyên và chi trả nợ. Trong đó, chi đầu tư phát triển, nhất là chi đầu tư xây dựng cơ bản được quan tâm. Mặc dù chi thường xuyên vẫn chiếm tỷ trọng lớn, bình quân khoảng 63,5% tổng chi NSNN, nhưng tỷ trọng chi đầu tư phát triển đã vươn lên đạt mức bình quân khoảng 25%, chi viện trợ và trả nợ chiếm hơn 11% trong tổng chi NSNN.
Đầu năm 2003 các khoản chi mới phát sinh như chi phòng chống và dập dịch SARS, chi công tác chuẩn bị SEA Games 22 và ASEAN Paragames 2, chi bổ sung khắc phục hậu quả thiên tai đã dẫn đến chi 2003 tăng 6,1% so với dự toán ban đầu và chiếm 27,3% so với GDP, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 7,8% GDP và chi thường xuyên bằng 15,5% GDP. Cũng trong năm 2003 cải cách tiền lương khiến tổng quỹ lương nhà nước tăng 13.302 tỷ đồng so với 2002 lấy từ khoản giảm chi thường xuyên 10%, và một số nguồn khác.
Những khoản chi mang tính bao cấp không thuộc chức năng, nhiệm vụ của NSNN nhìn chung được cắt giảm đáng kể, giảm bớt gánh nặng chính đáng cho NSNN trong điều kiện mới. Đồng thời các khoản chi bao cấp cho DNNN cũng giảm đáng kể nhờ có biện pháp cổ phần hóa và kiên quyết cắt giảm chi bao cấp từ NSNN. Bên cạnh đó, ta thấy được một xu hướng mới đang hình thành. Chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn tập trung của Nhà nước đang được dành chủ yếu cho xây dựng cơ sở hạ tầng và những khu vực khó hoặc không thu hồi được vốn. Xu hướng này tích cực, phù hợp với thực tế nước ta, cần được củng cố và tăng cường trong giai đoạn chuẩn bị bước đầu hội nhập.
2.Thu ngân sách nhà nước
Trong thời gian qua, thu ngân sách góp phần củng cố và tăng cường tiềm lực tài chính nhà nước. Thu ngân sách không những đã bảo đảm đủ nguồn thu cho chi tiêu thường xuyên của Chính phủ mà còn để dành ra một phần tích luỹ cho đầu tư phát triển. Số thu ngân sách, theo giá hiện hành, đã tăng 7,7 lần từ năm 1991 đến năm 2000. Trong đó số thu từ thuế lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu NSNN. Bình quân thu từ thuế, phí và lệ phí đạt khoảng 95% trong tổng số thu. Về quy mô, thu NSNN so với tổng GDP tăng từ 13,8% GDP năm 1991 lên đến đỉnh cao 23,3% năm 1995. Bình quân thu ngân sách giai đoạn này là 20,5% GDP. Giai đoạn 1996 – 2000, mục tiêu Đại hội Đảng đề ra là huy động 20% – 21% GDP vào NSNN thông qua thuế và phí. Nhưng thực tế thực hiện năm 1997 đạt 19,4%, năm 1998 đạt 17,7%, năm 1999 đạt 17% và năm 2000 đạt 19,4%. Và như vậy là chưa năm nào đạt mục tiêu đề ra.
Trong năm 2001-2003 cơ cấu thu NSNN đã dịch chuyển theo chiều hướng tích cực hơn, thu từ nguồn trong nước đã tăng từ 50,7% lên 52,6% so với tổng thu trong năm 2003 nhưng thu từ dầu thô, hoạt động XNK đã giảm từ 47,4% xuống còn 45,9% năm 2003. Ngoài ra do thực hiện pháp lệnh về phí và lệ phí đã bãi bỏ 140 khoản phí thuộc các bộ ngành TW và 105 khoản phí thuộc các địa phương đã làm giảm chi phí xã hội khoảng 1.000 tỷ đồng mỗi năm. Thu NSNN năm 2004 dự kiến đạt 166.900 tỷ đồng, vượt dự toán 11,8%, tăng 17,4% so với năm 2003 và tương đương 22,7% GDP. Trong số tăng thu, số tăng từ dầu thô, nhà đất chiếm tỷ trọng lớn.
3.Những thách thức trong cân đối ngân sách thời gian qua
Năm 1996 luật NSNN ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong phương pháp điều hành tài khóa. Nhìn chung chúng đã giúp cải thiện rất lớn tình hình ngân sách những năm qua. Tuy vậy, liên tiếp từ năm 1999 đến nay, bội chi ngân sách tính trên GDP tăng liên tục, năm 1999 là 4,9%; năm 2000 là 5%, điều này cũng cho thấy chính sách nới lỏng tài khóa đã được thực hiện. Nhưng xét về hình thức thì lại xuất hiện mâu thuẫn giữa tốc độ tăng chi đầu tư xây dựng cơ bản chậm, tỷ lệ giải ngân vốn còn thấp với chủ trương tăng chi ngân sách cho đầu tư phát triển nhằm kích thích tổng cầu nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng. Chính những bất cập trong lĩnh vực đầu tư và cấp phát vốn đầu tư từ NSNN đã cho thấy những dấu hiệu cảnh báo cần thận trọng khi sử dụng chính sách tài khóa nới lỏng. Tăng mức chi ngân sách cho đầu tư phát triển là chủ trương đúng, là biện pháp kinh tế có thể làm tăng tổng cầu, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng bội chi tăng thêm phải được sử dụng cho những công trình có hiệu quả, tạo sản phẩm, hàng hóa dịch vụ cho nền kinh tế, vừa tích luỹ tài chính tạo nguồn để trả nợ, bù đắp bội chi; hoặc phải sử dụng bội chi để đầu tư vào những công trình xây dựng cơ bản tạo môi trường thuận lợi cho kinh doanh. Tuy nhiên, khi quan sát diễn biến thực tế chi NSNN thời gian qua chúng ta có thể nhận thấy chính sách tài khoá được điều hành dưới áp lực chống lạm phát. Do đối mặt với những khó khăn về nguồn thu, tiềm lực tài chính, tâm lý lo ngại nguy cơ giá cả tăng vọt không kiểm soát được, tình trạng lãng phí. Ngân sách đã được điều hành theo chủ trương thắt chặt chi tiêu tiến hành tiết kiệm, cắt giảm chi thường xuyên.
Trong giai đoạn 2001-2003 bội chi NSNN năm 2001 là -4,67%, sang năm 2002 có tăng đôi chút là -4,96% và trong năm 2003 là -5,0% so với GDP, như vậy mức thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây đều nằm trong phạm vi cho phép (là mức đã được Quốc hội thông qua) và không gây mất ổn định kinh tế vĩ mô. Để bù đắp cho các khoản thiếu hụt này Chính phủ đã vay nợ trong nước bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ chủ yếu khoảng 60% và bù đắp bội chi từ bên ngoài ở mức xấp xỉ 39%-40%. Bên cạnh việc đạt được những kết quả tích cực, thu chi NSNN vẫn còn không ít tồn tại, cần có những thay đổi cơ bản.
° Tình trạng thất thu còn khá phổ biến, hiệu quả kiểm soát nguồn thu ngân sách còn hạn chế. Thu NSNN vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các biến động theo thị trường thế giới như dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu. Theo những đánh giá của IMF, hoạt động ngân sách trong một số năm nay là tích cực, ngoài ra, do có nguồn thu lớn từ dầu thô cho nên vị thế về trung hạn của ngân sách là có thể kiểm soát được, miễn là hoạt động cho vay lại và các khoản nợ nằm ngoài ngân sách được kiểm soát chặt chẽ.Tuy nhiên trong năm gần đây cũng ghi nhận những chuyển biến, theo đó cơ chế quản lý tài chính được sửa đổi theo hướng minh bạch và tăng cường tự chủ tài chính, gắn trách nhiệm của đơn vị sử dụng ngân sách, tạo cơ sở cho việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính công trong những năm tới.
° Việc hoàn thuế và kiểm tra hoàn thuế còn nhiều bất cập. Vấn đề không hoàn thành các mục tiêu đề ra là cần phải xem xét. Như vậy, trong bối cảnh tiến hành hội nhập với những biến động phức tạp của thị trường thế giới thì đây là dấu hiệu cảnh báo về quản lý NSNN. Nguồn thu ngân sách qua các năm không ổn định và Thực hiện công khai, minh bạch toàn bộ hoạt động đầu tư từ nguồn vốn NSNN là một giải pháp cấp bách trong quá trình hội nhập. Nhất là khi đường lối chủ động hội nhập quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế quan được công khai.
° Bên cạnh những nhiệm vụ chi thực hiện sát với dự toán, một số nhiệm vụ chi tăng so với dự toán là cần thiết như tăng chi sự nghiệp kinh tế để khắc phục hậu quả thiên tai; hỗ trợ nông dân khắc phục hậu quả của dịch bệnh cúm gia cầm và khôi phục sản xuất chăn nuôi; tăng chi đầu tư phát triển; một số địa phưng đã chủ động bố trí vốn trong dự toán ngân sách năm 2004 để thanh toán nợ xây dựng cơ bản… Tuy nhiên, những tồn tại trong quản lý ngân sách còn lớn như nhiều địa phương bố trí vốn còn phân tán; sử dụng ngân sách lãng phí; việc sử dụng vốn trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng trường, lớp học chưa hiệu quả, vốn huy động phi lãi suất chưa được sử dụng kịp thời, thường xuyên bị tồn đọng ở mức lớn.
° Chi đầu tư xây dựng cơ bản còn dàn trải, sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, tỷ lệ thất thoát lớn khi mà nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn NSNN cao là vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế – xã hội và kết quả cân đối ngân sách nhưng vẫn chậm được xử lý.
II. Tình hình ngân sách nhà nước giai đoạn 2004- 2006:
1. Tổng kết thu chi ngân sách nhà nước 2004:
Năm 2004, cả nước sẽ “thu” 152.920 tỉ đồng
Theo quyết định của Quốc hội (QH), trong năm 2004 tổng số thu cân đối ngân sách trung ương là 107.777 tỉ đồng, chiếm 70,5% tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước; tổng số thu cân đối ngân sách địa phương là 45.143 tỉ đồng, chiếm 29,5% tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước.
Tổng số chi cân đối ngân sách T.Ư là 142.527 tỉ đồng. Sau khi bổ sung cân đối, bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương thì tổng số thực chi cân đối ngân sách T.Ư là 106.890 tỉ đồng, chiếm 57% tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước. Tổng số thực chi cân đối ngân sách các địa phương (bao gồm cả bổ sung từ ngân sách T.Ư cho ngân sách địa phương) là 80.780 tỉ đồng, chiếm 43% tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước.
Chi 6.600 tỉ cho cải cách tiền lương
Dự toán chi ngân sách T.Ư (kể cả bằng nguồn vay nợ, viện trợ) theo lĩnh vực năm 2004 như sau: tổng số chi cân đối ngân sách T.Ư 142.527 tỉ đồng. Trong đó chi ĐTXDCB 28.992 tỉ đồng; chi bổ sung quĩ hỗ trợ xuất khẩu, thưởng xuất khẩu, hỗ trợ xuất khẩu cho một số mặt hàng quan trọng 300 tỉ đồng; chi cho vay tôn nền nhà và làm nhà ở đồng bằng sông Cửu Long, cho vay làm nhà đồng bào Tây nguyên 300 tỉ đồng. Đầu tư cho Tổng công ty Dầu khí 2.500 tỉ đồng; chương trình 135: 1.550 tỉ.
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh: 48.529 tỉ đồng. Trong đó, chi cải cách tiền lương: 6.600 tỉ, quản lý hành chính 3.154 tỉ, tinh giản biên chế: 300 tỉ; chi giáo dục, đào tạo, dạy nghề: 4.558 tỉ; chi phát thanh, truyền hình: 493 tỉ; chi khoa học, công nghệ: 1.732 tỉ; chi lương hưu và bảo đảm xã hội: 14.262 tỉ đồng.
2. Tổng kết thu chi ngân sách nhà nước 2005:
So với kết quả tạm tính vào cuối năm 2005, báo cáo mới đây của Chính phủ cho biết, tình hình cân đối thu chi ngân sách đầy đủ của năm 2005 và cả nhiệm vụ ngân sách Nhà nước năm 2006 đã có những dấu hiệu tích cực trên nhiều mặt. Trên cơ sở cân nhắc kết quả, khả năng và tình hình mới, Chính phủ đã đề nghị tăng nhiều khoản thu chi trong quyết toán, nhiệm vụ ngân sách Nhà nước trong giai đoạn tới.Theo báo cáo, kết quả thực tế thu cân đối ngân sách Nhà nước năm 2005 là 217.080 tỷ đồng, vượt hơn 7.000 tỷ đồng so với mức báo cáo và vượt 18,6% (34.080 tỷ đồng) so với dự toán.
Tên(+)
Tổng thu
Tổng chi
QuảngNinh
3.596
1.084
Hà Nội
22.439
4.156
Hải Phòng
8.304
1.612
VĩnhPhúc
2.142
691
Đà Nẵng
2.435
1.092
KhánhHòa
2.595
1.063
TP.HCM
47.457
9.288
Đồng Nai
5.209
1.775
BìnhDương
3.103
989
TâyNinh
802
704
Vũng Tàu
32.441
2.153
Long An
925
867
Tiền Giang
900
893
Vĩnh Long
700
635
Cần Thơ
1.562
1.146
Cụ thể, thu nội địa (không kể dầu thô) đạt 115.205 tỷ đồng vượt gần 10 tỷ đồng so với dự toán. Đặc biệt, thu dầu thô dự toán chỉ 38.000 tỷ, báo cáo 55.500 tỷ nhưng thực tế đạt tới 61.533 tỷ, tăng 31,7% so với thực hiện năm 2004.
Các khoản thu khác cũng đều vượt tương tự: thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 38.000 tỷ, vượt 300 tỷ đồng so với dự toán và báo cáo, thu viện trợ không hoàn lại đạt 2.342 tỷ đồng, tăng 142 tỷ so với con số báo cáo.
Nhiều khoản thu vượt mong đợi
Nhiều địa phương kết quả thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tăng khá so với dự toán được giao: Bình Phước vượt 48,3%, Bà Rịa - Vũng Tàu 48,1%, Hải Dương 44,2%, Quảng Ninh 40,4%, Đà Nẵng 34,4%, Bình Dương 33,2%, Hà Tây 30,5%, Hưng Yên 29,4%, Tp.HCM 7,1%...
Như vậy, trong số thu nội địa các khoản thu từ khu vực kinh tế quốc doanh, công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh, thu từ nhà và đất đều có kết quả thực hiện tăng khá so với dự tính (tăng 3.234 tỷ đồng).Ngoài ra, cũng phải kể đến các khoản thu từ doanh nghiệp FDI, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, phí và lệ phí, phí xăng dầu đã không đạt mức mong muốn, tấp hơn 3.029 tỷ đồng so với báo cáo. Trong khi đó, chi phí đầu vào cuối năm 2005 tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp một số doanh nghiệp bị giảm sút.
Vượt chi do tiền lương, đầu tư phát triển
Kết quả thực hiện dự toán chi ngân sách Nhà nước cũng cho thấy đã vượt so với con số tạm tính khá nhiều. Mức báo cáo cuối năm 2005 là 250.470 tỷ đồng được Chính phủ xin bổ sung là 254.385 tỷ đồng, vượt 10,7% (tương đương 24.635 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 20,8% so với thực hiện năm 2004.
Trong đó, một nguyên nhân quan trọng là tổng chi ngân sách Nhà nước, bao gồm số chuyển nguồn từ năm 2004 sang năm 2005, từ năm 2005 sang 2006 để thực hiện cải cách tiền lương và các nhiệm vụ theo chế độ quy định là 264.860 tỷ đồng, vượt 15,3% so với dự toán, và tương ứng với số tăng thu ngân sách Nhà nước.
Chi đầu tư phát triển thực tế đạt 71.957 tỷ đồng, vượt gần 2 tỷ so với báo cáo và 9% so với dự toán, chiếm 28,3% tổng chi cân đối ngân sách Nhà nước, đạt mức 8,5% GDP, tăng 14,9% so với năm trước.
Nhờ nguồn thu tăng, ngân sách Trung ương đã bổ sung tăng chi đầu tư phát triển 1.150 tỷ đồng và bổ sung vốn xử lý khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành một số dự án quốc gia quan trọng. Bên cạnh đó trong năm 2005, Chính phủ đã phát hành 13.401 tỷ đồng công trái và trái phiếu để tăng vốn thực hiện kiên cố hoá trường, lớp học và giao thông, thuỷ lợi trọng điểm.
Tổng chi đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước năm 2005 là 85.358 tỷ đồng, bằng 31,9 tổng chi ngân sách Nhà nước và 10,2% GDP.
Các khoản chi trả nợ, chi sự nghiệp, bảo đảm quốc phòng an ninh, quản lý cũng đạt bằng và vượt dự toán và báo cáo, tổng cộng khoảng 170.000 tỷ đồng. ngân sách Nhà nước bổ sung chủ yếu vào khắc phục thiên tai, phòng chống, khắc phục hậu quả dịch bệnh ở người, gia cầm, các khoản phát triển sự nghiệp giáo dục, khoa học công nghệ, thể dục thể thao.
Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội, số tăng thu ngân sách Nhà nước so với dự toán dự kiến kà 28.520 tỷ đồng, Quốc hội đã cho phép sử dụng gần 20.000 tỷ để hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu nhập khẩu, thực hiện không tăng lớn giá bán trong nước khi giá thế giới tăng, thực hiện 2.820 tỷ đồng thực hiện mức lương tối thiểu 350.000 người/tháng từ 1/10/2005, dành 6.000 tỷ đồng chuyển sang năm 2006 thực hiện cải cách tiền lương.
3. Ngân sách Nhà nước năm 2006: Khởi đầu khó khăn
Thu ngân sách Nhà nước 4 tháng qua ước đạt 77.455 tỷ đồng, bằng 32,6% dự toán, đạt tiến độ thu thấp so với cùng kỳ một số năm gần đây (đều trên 33-34%), trong đó, thu nội địa chỉ tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chính là do ảnh hưởng từ sự trầm lắng của thị trường nhà đất, sản lượng tiêu thụ ôtô giảm mạnh.
Duy chỉ có thu ngân sách Nhà nước từ khối doanh nghiệp FDI tăng mạnh, đạt 26,9% so với dự toán, thu từ dầu thô bằng 34,1% dự toán năm, đạt 21.638 tỷ đồng.
Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu cũng gặp nhiều khó khăn, ước thực hiện 4 tháng qua đạt 12.525 tỷ đồng, bằng 31,3% dự toán, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Lý do chính là kim ngạch nhập khẩu chỉ đạt 8,5 tỷ USD, tăng 1,9% so với cùng kỳ, đặc biệt là những mặt hàng có thuế cao như ôtô, linh kiện ô tô giảm 50%, thép 20%, xăng dầu giảm 12%, phân bón 5,6%, vì vậy, số thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng.
Cân đối ngân sách Nhà nước ước 12.675 tỷ đồng, bằng 26,1% mức bội chi Quốc hội quyết định, được bù đắp bằng vay trong nước 8.975 tỷ đồng, vay nước ngoài 3.700 tỷ đồng.
Năm 2006:
Thực tế bội chi ngân sách năm 2006 là 48.613 tỉ đồng
Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 350.842 tỉ đồng, bao gồm cả số thu chuyển nguồn từ năm 2005 sang năm 2006 là 50.739 tỉ đồng; số thu từ quỹ dự trữ tài chính là 126 tỉ đồng; số thu từ việc huy động vốn đầu tư của ngân sách địa phương theo khoản 3, Điều 8 Luật Ngân sách nhà nước là 9.572 tỉ đồng; số thu kết dư của ngân sách địa phương là 10.934 tỉ đồng. Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước 385.666 tỉ đồng, bao gồm cả số kinh phí đã xuất quỹ ngân sách năm 2006. Số chi chuyển nguồn từ năm 2006 sang năm 2007 là 77.608 tỉ đồng. Mức bội chi ngân sách nhà nước là 48.613 tỉ đồng, bằng 5% tổng sản phẩm trong nước; trong đó nguồn bù đắp bội chi vay trong nước 35.864 tỉ đồng, vay ngoài nước 12.749 tỉ đồng.
III. Tình hình ngân sách nhà nước giai đoạn 2007- 2008
1. Tổng kết thu chi ngân sách nhà nước 2007
a. Thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước năm 2007
a.1 Thu nội địa: Dự toán 151.800 tỷ đồng, ước cả năm đạt 159.500 tỷ đồng, vượt 5,1% (7.700 tỷ đồng) so dự toán, tăng 21,4% so với thực hiện năm 2006. Nhiều khoản thu đạt và vượt dự toán, tăng khá so với thực hiện năm 2006, trong đó: thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vượt 10,3%, tăng 39,4%; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao vượt 12,1%, tăng 32,4%; các loại phí và lệ phí vượt 12,3%, tăng 8,4%; lệ phí trước bạ vượt 19,8%, tăng 33,6%... Trong đó:
(1) Kinh tế quốc doanh năm 2007 .Số kinh doanh có lãi chiếm khoảng 94% tổng số doanh nghiệp, số kinh doanh hoà vốn chiếm khoảng 4 - 4,5%, số kinh doanh thua lỗ chỉ chiếm khoảng 1 - 1,5%; thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước có bước cải thiện quan trọng. Thu nộp NSNN từ khu vực ước đạt 53.963 tỷ đồng (chiếm 33,8% thu nội địa), bằng dự toán, tăng 17,0% so với thực hiện năm 2006.
(2) Kinh tế ngoài quốc doanh năm 2007 duy trì đà phát triển khá so với năm 2006, trong đó: giá trị sản lượng công nghiệp ước tăng 20,9%; vốn đầu tư ước tăng 24,8%, chiếm 40,7% tổng vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội... Qua đó đóng góp thu NSNN năm 2007 ước đạt 30.508 tỷ đồng, vượt 10,3% (2.841 tỷ đồng) so dự toán, tăng 39,4% so với thực hiện năm 2006.
Trong năm 2007 đã có khoảng 54 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký khoảng 470 nghìn tỷ đồng; và có khoảng 871 hợp tác xã được thành lập mới, nâng tổng số hợp tác xã hiện có đạt xấp xỉ 17.880 đơn vị.
(3) Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài năm 2007 tiếp tục thu hút được một lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp (FDI), trong đó vốn đăng ký cấp mới và đăng ký bổ sung ước đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006. , Số thu NSNN từ khu vực này cả năm ước đạt 30.378 tỷ đồng, tuy tăng 25,5% so với năm 2006, nhưng chỉ bằng 97,9% (giảm 663 tỷ đồng) so với dự toán được giao.
(4) Các khoản thu liên quan đến nhà, đất năm 2007 đạt khá, tổng thu ngân sách ước đạt 21.724 tỷ đồng, tăng 19,7% (3.581 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 10,3% so với thực hiện năm 2006; riêng thu tiền sử dụng đất tăng 10,3% (1.500 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2006.
a.2 Thu từ dầu thô: Dự toán 71.700 tỷ đồng. Đánh giá cả năm, về sản lượng dầu thô thanh toán: ước đạt 15,57 triệu tấn, giảm 1,93 triệu tấn so với sản lượng tính dự toán, làm giảm thu NSNN khoảng 5.500 tỷ đồng. Về giá dầu thanh toán: dự kiến giá dầu Việt Nam thanh toán bình quân cả năm ước đạt 490,6 USD/tấn (64 USD/thùng), tăng 14,8 USD/tấn (2 USD/thùng) so với giá xây dựng dự toán, tăng thu cho NSNN khoảng 2.300 tỷ đồng.
a.3 Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu: Dự toán 55.400 tỷ đồng, trên cơ sở dự toán thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 69.900 tỷ đồng, hoàn thuế giá trị gia tăng là 14.500 tỷ đồng; ước cả năm đạt 56.500 tỷ đồng, tăng 2% (1.100 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 31,7% so với thực hiện năm 2006, trên cơ sở tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 74.000 tỷ đồng (vượt 4.100 tỷ đồng so với dự toán), hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ 17.500 tỷ đồng .
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2007 ước đạt 109,2 tỷ USD; riêng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 60,8 tỷ USD, tăng 35,5% so với năm 2006. Nhiều mặt hàng nhập khẩu tăng lớn về kim ngạch hoặc sản lượng so với năm 2006, như: máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt gần 10,4 tỷ USD, tăng 56,5%, xăng dầu 7,5 tỷ USD, tăng 25,7%, sắt thép gần 4,9 tỷ USD, tăng 66,2%; điện tử, máy tính và linh kiện 2,9 tỷ USD, tăng 43,7%...
a.4 Thu viện trợ không hoàn lại: Dự toán 3.000 tỷ đồng, ước cả năm đạt 3.400 tỷ đồng, tăng 13,3% (400 tỷ đồng) so dự toán.
b. Thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước năm 2007
b.1 Chi đầu tư phát triển: dự toán 99.450 tỷ đồng, ước cả năm đạt 101.500 tỷ đồng, tăng 2,1% (2.050 tỷ đồng) so với dự toán, chiếm 27,6% tổng chi NSNN và đạt 8,9% so với GDP. Trong đó:
- Chi đầu tư XDCB: dự toán 95.230 tỷ đồng, ước cả năm đạt 97.280 tỷ đồng, tăng 2,2% (2.050 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 19% so với năm 2006.
Tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN năm 2007 ước đạt 31,7% tổng chi NSNN, chiếm 10,8% GDP. Nguồn vốn đầu tư của NSNN, cùng với vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã góp phần đưa tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2007 đạt 40,4% GDP, tăng 16,1% so với năm 2006.
b.2 Chi trả nợ và viện trợ: Dự toán 49.160 tỷ đồng, ước cả năm đạt 49.160 tỷ đồng,
b.3 Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế, giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, thể dục thể thao, văn hoá xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính nhà nước, Đảng, đoàn thể dự toán 199.150 tỷ đồng (đã bao gồm chi thực hiện tiền lương tối thiểu theo mức 450.000 đồng/tháng); ước thực hiện chi cả năm đạt 206.000 tỷ đồng, tăng 3,4% (6.850 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 26,7% so với năm 2006; đảm bảo các nhiệm vụ chi theo dự toán như: chi cho lĩnh vực Giáo dục đào tạo đạt 20%, chi cho Khoa học công nghệ đạt 2% và chi sự nghiệp môi trường đạt 1% tổng chi ngân sách nhà nước.
2. Tổng kết thu chi ngân sách nhà nước 2008
a. Thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước
Kết quả thực hiện ở một số lĩnh vực thu cụ thể như sau:
(1) Thu nội địa: Theo số liệu báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII thì thu nội địa ước thực hiện cả năm 2008 đạt 205.000 tỷ đồng, vượt 8,3% (15.700 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 17,6% so với thực hiện năm 2007, chiếm 51,4% tổng thu NSNN; không kể thu tiền sử dụng đất 22.000 tỷ đồng, thu nội địa đạt 183.000 tỷ đồng, vượt 5,9% (10.200 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 24,1% so với năm 2007.
(2) Thu từ dầu thô: Dự toán 65.600 tỷ đồng trên cơ sở sản lượng thanh toán 15,49 triệu tấn, giá bán dự kiến 64 USD/thùng. Theo số liệu báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII thì thu dầu thô ước thực hiện cả năm đạt 98.000 tỷ đồng, vượt 49,4% (32.400 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 27,3% so với thực hiện năm 2007 trên cơ sở sản lượng cả năm đạt 15,42 triệu tấn, giá bình quân cả năm đạt xấp xỉ 102 USD/thùng, tăng 38 USD/thùng so giá dự toán.
(3) Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu: dự toán 64.500 tỷ đồng (trên cơ sở thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 84.500 tỷ đồng, hoàn thuế giá trị gia tăng là 20.000 tỷ đồng), phấn đấu thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 121.000 tỷ đồng; sau khi thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ, thu cân đối ngân sách cả năm đạt 91.000 tỷ đồng, vượt 41,1% (26.500 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 50,7% so với thực hiện năm 2007 dựa trên cơ sở tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2008 ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007; kim ngạch nhập khẩu kiềm chế ở mức 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007; nhập siêu của cả nền kinh tế khoảng 17,5 tỷ USD, bằng khoảng 27,8% kim ngạch xuất khẩu.
(4) Thu viện trợ: Dự toán 3.600 tỷ đồng, ước cả năm đạt 5.000 tỷ đồng, vượt 38,9% (1.400 tỷ đồng) so với dự toán, chủ yếu do tăng viện trợ của Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình 135) và Chương trình phát triển Nông nghiệp và nông thôn.
b. Thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước
Kết quả thực hiện một số lĩnh vực chi chủ yếu như sau:
Dự toán Quốc hội quyết định là 398.980 tỷ đồng, ước thực hiện cả năm đạt 474.280 tỷ đồng, vượt 18,9% so với dự toán, tăng 22,3% so với thực hiện năm 2007. Trong đó:
(1) Chi đầu tư phát triển: dự toán 99.730 tỷ đồng, ước thực hiện cả năm đạt 117.800 tỷ đồng, tăng 18,1% (18.070 tỷ đồng) so với dự toán, chiếm 24,7% tổng chi NSNN (chiếm 7,9% GDP), tăng 5,0% so với thực hiện năm 2007.
. Tổng hợp nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ, nguồn đầu tư từ xổ số kiến thiết và nguồn vốn cân đối NSNN, tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN năm 2008 ước đạt 144.300 tỷ đồng, bằng 30,3% tổng chi NSNN, bằng 9,7% GDP. Nguồn vốn đầu tư của NSNN, cùng với vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã góp phần đưa tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2008 ước đạt khoảng 39% GDP.
(2) Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính (bao gồm cả chi điều chỉnh tiền lương theo mức lương tối thiểu 540.000 đồng/tháng): dự toán 237.250 tỷ đồng, ước thực hiện chi cả năm đạt 262.580 tỷ đồng, tăng 10,7% so với dự toán, tăng 23,6% so với thực hiện năm 2007.
(3) Chi bù lỗ kinh doanh mặt hàng dầu nhập khẩu: Để thực hiện kiềm chế tốc độ tăng giá tiêu dùng, Chính phủ đã quyết định chậm điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu trong nước trong điều kiện giá dầu thế giới tăng cao, tiếp tục bù lỗ dầu phát sinh năm 2008.
Với kết quả thực hiện thu - chi NSNN năm 2008 nêu trên, hoạt động tài chính - ngân sách cơ bản theo sát mục tiêu nhiệm vụ NSNN 5 năm 2006 - 2010 mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã đề ra:
- Tổng thu NSNN 3 năm 2006-2008 ước đạt 67,4% chỉ tiêu 5 năm. Tốc độ tăng thu bình quân (đã loại trừ yếu tố tăng giá dầu) là 13,4% (chỉ tiêu đề ra cho 5 năm là 10,8%/năm). Quy mô thu NSNN năm 2008 tăng 75% so với năm 2005, động viên NSNN 3 năm 2006-2008 bình quân đạt 27,7%GDP, trong đó huy động từ thuế và phí (đã loại trừ yếu tố tăng giá dầu) đạt 23%GDP (mục tiêu đề ra cho 5 năm là 20-21%GDP).
- Tổng chi NSNN 3 năm 2006-2008 ước đạt 64% chỉ tiêu 5 năm 2006-2010. Tốc độ tăng chi bình quân hàng năm đạt 21,3%/năm (chỉ tiêu đề ra 11,2%/năm). Quy mô chi NSNN năm 2008 tăng 79% so với năm 2005. Đã đảm bảo tỷ lệ chi cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo - dạy nghề chiếm 20% tổng chi NSNN, chi khoa học công nghệ chiếm 2%, chi lĩnh vực văn hoá - thông tin đạt trên 1,5%, chi sự nghiệp môi trường trên 1%; tăng chi ngân sách thực hiện chính sách an sinh xã hội; dành nguồn trên 82.000 tỷ đồng để thực hiện điều chỉnh tiền lương ở mức cao hơn và sớm hơn so với lộ trình đã đề ra.
- An ninh tài chính quốc gia được củng cố; bội chi NSNN bình quân 3 năm ở mức xấp xỉ 5% GDP; bố trí chi trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn theo cam kết. Đến 31/12/2008, dư nợ Chính phủ (bao gồm cả nợ Trái phiếu Chính phủ) bằng 33,5% GDP, dư nợ ngoài nước của Quốc gia bằng 27,2% GDP.
LIÊN HỆ VỚI THỰC TẾ
Hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp (DN) gặp khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm nguồn thu ngân sách Nhà nước (NSNN) của nhiều địa phương.
Bên cạnh đó, việc triển khai các luật thuế mới và luật thuế sửa đổi, nhất là một loạt chính sách giảm, giãn thuế nhằm thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NÐ-CP của Chính phủ về những giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ tới số thu ngân sách. Làm thế nào để bù đắp số hụt thu này là bài toán nan giải đối với cục thuế nhiều tỉnh, thành phố.
So với dự toán được giao năm 2009, dự kiến tổng số thu thuế nội địa của tỉnh Phú Thọ giảm 224,3 tỷ đồng. Phó Cục trưởng Thuế tỉnh Phú Thọ Hoàng Văn Ðài cho biết, dự báo số thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) của một số DN trên địa bàn tỉnh giảm nhiều so với thực hiện năm 2008 do tình hình sản xuất, kinh doanh khó khăn. Hơn nữa, việc thực hiện giảm, gia hạn nộp thuế TNDN năm 2009 cũng khiến số thu từ thuế này giảm đáng kể. Phần lớn các DN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ là DN vừa và nhỏ nên số thuế TNDN dự báo sẽ bị giảm khoảng 36 tỷ đồng so với dự toán được giao. Bên cạnh đó, việc giảm 50% thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với 19 nhóm hàng hóa, dịch vụ cũng làm giảm 46,8 tỷ đồng. Do thực hiện giãn thời gian nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN), dự kiến trong năm tháng đầu năm, số thuế này giảm khoảng 12 tỷ đồng. Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, thị trường bất động sản tiếp tục bị ảnh hưởng, các giao dịch về đất trầm lắng làm cho số thu từ tiền sử dụng đất năm 2009 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ dự kiến giảm 40 tỷ đồng. Ngay trong quý I vừa qua, tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh chỉ đạt hơn 235 tỷ đồng, bằng 98,3% so với cùng kỳ năm trước và đạt 90,1% dự toán quý và 20,9% dự toán năm. Một số chỉ tiêu không hoàn thành dự toán thu ngân sách Nhà nước quý I là thu từ DN nhà nước địa phương (chỉ đạt 71%); thu từ DN đầu tư nước ngoài (48%); thu ngoài quốc doanh (80,4%); thuế thu nhập cá nhân (94,3%); thu tiền sử dụng đất (41,1%)...
Trong bối cảnh chung, số thu thuế nội địa năm 2009 của tỉnh Yên Bái dự kiến cũng giảm vài chục tỷ đồng so với dự toán được giao. Trong quý I, thu thuế nội địa đạt 112 tỷ đồng, bằng 25% dự toán năm. Cục trưởng Thuế Yên Bái Nguyễn Văn Chung cho biết, từ quý IV-2008, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DN trên địa bàn tỉnh đã chững lại, nhiều DN hoạt động cầm chừng. Sang quý I năm nay, do vẫn chịu tác động từ quý IV năm trước nên nhiều DN tiếp tục gặp khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ tới nguồn thu của tỉnh. Tuy nhiên, cơ quan thuế tỉnh Yên Bái xác định rõ, chính trong giai đoạn này cần hỗ trợ tốt nhất cho DN bằng cách đơn giản hóa các thủ tục về thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho DN hoạt động. Ðây chính là một trong những giải pháp bồi dưỡng nguồn thu. Ngay khi Bộ Tài chính có một loạt các thông tư hướng dẫn chính sách giảm, giãn thuế các loại, Cục Thuế tỉnh Yên Bái đã tổ chức hội nghị thông báo, hướng dẫn cụ thể DN và người nộp thuế thực hiện giảm thuế suất thuế GTGT, giảm thuế và gia hạn nộp thuế TNDN; giãn thời hạn nộp thuế TNCN theo đúng quy định tại các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính. Xử lý kịp thời những vướng mắc trong quá trình thực hiện, giúp người nộp thuế thực hiện đúng quy định. Rà soát và hướng dẫn người nộp thuế thực hiện hoàn thuế GTGT năm 2009; tiếp nhận và giải quyết các hồ sơ hoàn thuế GTGT kịp thời. Hoàn trả các khoản nộp thừa của DN và người nộp thuế nhằm tháo gỡ một phần khó khăn về tài chính cho các DN...
Ðối với Cục Thuế tỉnh Phú Thọ, nhằm ổn định và tăng trưởng nguồn thu ngân sách trên địa bàn, đơn vị đã chủ động đánh giá phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu NSNN, làm rõ các nguồn thu còn tiềm năng. Mặc dù tổng số thuế dự kiến giảm so với dự toán được giao năm 2009 lên đến 224,3 tỷ đồng, nhưng Cục Thuế Yên Bái cũng đã xác định được hai nguồn thu còn tiềm năng để khai thác là thuế tài nguyên và phí xăng, dầu với số thu thuế dự kiến tăng so với dự toán được giao là 29,3 tỷ đồng. Ngoài ra, đơn vị cũng tăng cường kiểm tra, kiểm soát nhằm chống thất thu thuế, trong đó tập trung kiểm tra, giám sát đăng ký thuế và chú trọng thanh tra, kiểm tra đột xuất theo yêu cầu quản lý thuế, tập trung vào các DN có quy mô kinh doanh và doanh số lớn, các đơn vị có số thuế nợ đọng lớn và các đơn vị có sự biến động về thuế lớn... Xử lý nghiêm các vi phạm dẫn đến trốn thuế, lậu thuế và thu kịp thời các khoản thu phát sinh vào NSNN. Quy trình quản lý nợ thuế được triển khai đồng bộ, tăng cường các biện pháp đôn đốc thu nợ thuế nhằm giảm tỷ lệ nợ đọng thuế đến mức thấp nhất. Nhằm hỗ trợ các đối tượng nộp thuế, đơn vị tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng phục vụ của bộ phận "một cửa", chú trọng giải quyết các hồ sơ khai thuế, các vướng mắc thông qua bộ phận "một cửa".
V. ĐÁNH GIÁ VÀ ĐƯA RA CÁC GIẢI PHÁP :
1,Đánh giá
+Thu Ngân sách Nhà nước Việt Nam đã tăng đáng kể trong những năm gần đây:
+Về tốc độ tăng thu NSNN, bình quân từ năm 1991 đến 2007:
Tốc độ tăng thu bình quân là 25,11%/năm (Tính theo giá hiện hành).
Tăng trưởng kinh tế bình quân là 7,76% ( so với năm gốc 1994).
Do những nguyên nhân sau đây:
Những năm đầu tiên của đổi mới:
Do hệ thống các chính sách thu ngân sách nhà nước được đổi mới cơ bản:
Luật thuế được ban hành như: Luật thuế lợi tức, Luật thuế xuất – nhập khẩu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp…
Những quy định về quản lý thu nộp phù hợp được ban hành…
Tốc độ tăng thu tăng nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Từ năm 1995 trở đi:
Hệ thống chính sách đã tương đối ổn định
Mức độ tăng thu NSNN đã dần đi vào ổn định nhưng tốc độ tăng thu vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.
+Cơ cấu thu
Dầu khí là khoản thu có đóng góp lớn nhất vào tổng thu NSNN hàng năm ( 28 – 29% tổng thu NSNN vào các năm 2006 và 2007 ). Nhưng đây là khoản thu không vững chắc vì còn phụ thuộc nhiều vào giá dầu thế giới và trữ lượng dầu.
Thu xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng tương đối lớn (khoảng 18 – 23%) trong tổng thu NSNN.
Trong cơ cấu thu trong nước:
Thu từ các thành phần kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và FDI tương đối ổn định và chỉ chiếm khoảng 30 – 35% tổng thu NSNN.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế FDI là có xu hướng gia tăng tỷ trọng đóng góp từ 4-5% lên đến trên 9%.
Thành phần kinh tế quốc doanh đang có khuynh hướng giảm mạnh.
+Chi Ngân sách Nhà nước Việt Nam đã tăng nhanh trong những năm gần đây
+Cơ cấu chi Ngân sách nhà nước Việt Nam ổn định trong thời kì này:
2,Một số biện pháp nhằm nâng cao khả thu ngân sách nhà nước và cân đối ngân sách nhà nước
Một là: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh; huy động tối đa các nguồn lực phát triển; tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Để hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả cần coi trọng phát triển thị trường vốn, thị trường tài chính. Nghiên cứu xây dựng Luật Chứng khoán tạo cơ sở pháp lý để từng bước hoàn thiện và mở rộng thị trường chứng khoán. Tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo phương án kế hoạch đã được quyết định trên cơ sở: sửa đổi, bổ sung những quy định về định giá doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp thuộc loại hình bảo hiểm, ngân hàng...; nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ đầu tư bên ngoài được tham gia cổ phần; chế độ và nguồn kinh phí giải quyết lao động dôi dư; chế độ và kinh phí xử lý công nợ. Tập trung chỉ đạo thực hiện cổ phần hóa đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn, làm ăn có hiệu quả để huy động thêm vốn cho sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu thực hiện thí điểm phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty lớn ra thị trường quốc tế. Thành lập Công ty đầu tư tài chính để đổi mới cơ chế quản lý (kinh doanh) vốn nhà nước tại doanh nghiệp và huy động vốn đầu tư cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Nghiên cứu cơ chế quản lý và phát triển đối với thị trường bất động sản. Đổi mới cơ chế quản lý Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, bỏ những nhiệm vụ chi có tính bao cấp; tăng chi hỗ trợ mở rộng thị trường; ưu tiên các chương trình xúc tiến thương mại ngành hàng trọng điểm. Các tỉnh, thành phố thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa để khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh.
Hai là: Thực hiện nhiệm vụ động viên ngân sách nhà nước, khuyến khích địa phương phấn đấu tăng thu, tăng nguồn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Muốn tăng thu cho ngân sách nhà nước cần nghiên cứu hoàn thiện chính sách động viên ngân sách (nghiên cứu xây dựng Luật Thuế sử dụng đất, thuế tài nguyên, thuế tài sản...). Từng bước thực hiện giảm mức thuế nhập khẩu theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện cơ chế thưởng vượt thu từ khoản thu phân chia giữa trung ương và địa phương cho địa phương đối với số tăng thu ngân sách trung ương theo Quyết định số 194/2004/QĐ-TTg, ngày 17-11-2004 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, thực hiện cơ chế tài chính - ngân sách đặc thù đối với Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh để khuyến khích hai trung tâm lớn của cả nước phát triển, làm động lực thúc đẩy các địa phương trong cả nước. Các địa phương cần thực hiện đúng mục tiêu ngân sách trung ương đã hỗ trợ, đồng thời chủ động bố trí ngân sách địa phương để thực hiện đúng chế độ quy định. Không nên sử dụng ngân sách bổ sung có mục tiêu từ trung ương trái mục tiêu đã quy định, dẫn đến tình trạng phân tán, dàn trải, nợ đọng.
Ba là: Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, tạo bước chuyển quan trọng trong bố trí, sử dụng ngân sách theo hướng tập trung, chống dàn trải; thực hiện tốt nhiệm vụ cải cách tiền lương.
Quán triệt, tổ chức thực hiện đầy đủ các giải pháp chống lãng phí, chống phân tán trong bố trí xây dựng cơ bản theo Nghị quyết của Quốc hội: Bố trí đủ vốn theo tiến độ đối với các công trình, dự án quan trọng đang thực hiện; bố trí vốn đối ứng các dự án ODA. Các bộ, địa phương chủ động bố trí ngân sách được giao để sớm trả dứt điểm nợ xây dựng cơ bản; kiên quyết đình hoãn những dự án không hiệu quả; không bố trí vốn những dự án không đủ thủ tục đầu tư; không phê duyệt dự án nếu không xác định được nguồn vốn thực hiện. Trong quá trình tổ chức thực hiện, cần quản lý chặt chẽ, không để phát sinh nợ mới, bảo đảm lành mạnh tài chính - ngân sách.
Cùng với việc nâng cao sử dụng ngân sách nhà nước, cần coi trọng thực hiện các giải pháp tạo nguồn để cải cách tiền lương theo Nghị quyết của Quốc hội: Tiết kiệm 10% chi thường xuyên; sử dụng 50% nguồn tăng thu ngân sách; sử dụng một phần (35 - 40%) nguồn thu ở đơn vị sự nghiệp (đối với viện phí không bao gồm phần mua máu, thuốc, dịch truyền và hóa chất) để thực hiện cải cách tiền lương. Sau khi các bộ, địa phương đã thực hiện đầy đủ các giải pháp nêu trên, ngân sách trung ương sẽ hỗ trợ bảo đảm nguồn thực hiện cải cách tiền lương.
Bốn là: Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa, huy động nguồn lực xã hội cho phát triển các hoạt động sự nghiệp.
Để thực hiện giải pháp trên cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 10/2002/NĐ-CP, ngày 16-1-2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu; sửa đổi chế độ thu (mức thu, cơ chế quản lý, sử dụng nguồn thu...), một số phí, lệ phí quan trọng (học phí, viện phí...) nhằm giao đầy đủ hơn quyền chủ động, tự chủ cho đơn vị sự nghiệp cả về nhiệm vụ, tổ chức và ngân sách tạo động lực phát triển đối với khu vực này; mở rộng khoán kinh phí hành chính và biên chế đối với cơ quan quản lý nhà nước. Tập trung chỉ đạo và bố trí ngân sách để hỗ trợ thực hiện các biện pháp ưu đãi về thuế, tín dụng, giao và cho thuê đất nhằm đẩy mạnh xã hội hóa đối với các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục - thể thao; khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư các lĩnh vực này tại Việt Nam.
Năm là: Đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao năng lực quản lý tài chính nhà nước; thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, tiêu cực, tham nhũng; tăng cường công tác thanh tra kiểm tra tài chính.
Thực hiện phối - kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan thanh tra, kiểm toán, kiểm tra tài chính, tăng cường công tác kiểm tra giám sát đối với đơn vị thu nộp ngân sách cũng như đơn vị sử dụng ngân sách. Mặt khác, cần xử lý đầy đủ, kịp thời đối với những cá nhân tập thể vi phạm theo kết luận của các cơ quan có thẩm quyền về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Thực hiện công khai kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và kết quả xử lý. Thực hiện chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những khoản chi sai chế độ, thất thoát lãng phí ở đơn vị được giao phụ trách. Thực hiện chế độ công bố công khai ngân sách nhà nước các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ, các dự án xây dựng cơ bản có sử dụng vốn ngân sách, các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ có nguồn từ ngân sách nhà nước, các quỹ có nguồn đóng góp của nhân dân để tăng cường giám sát của các đoàn thể xã hội, người lao động và nhân dân. Thực hiện rà soát các thủ tục hành chính, quy định rõ thủ tục, quy trình, thời gian thực hiện và chế độ trách nhiệm của từng bộ phận cán bộ trong việc thực hiện thu, chi ngân sách, hoàn thuế. Các cơ quan tài chính, thuế, hải quan tiếp tục định kỳ tổ chức đối thoại với các doanh nghiệp để kịp thời phát hiện, giải quyết những khó khăn, vướng mắc.
Sáu là:Tăng cường quản lý đối tượng nộp thuế để đảm bảo tỷ lệ đăng ký thuế tại địa phương là 100%.
Những địa phương có tỷ lệ DN lập bộ thuế so với DN được cấp mã số thuế thấp cần xác định rõ nguyên nhân và kiểm tra thực tế để chấn chỉnh và đưa vào sổ bộ quản lý hoặc làm rõ các nguyên nhân khác để có đánh giá đúng chất lượng quản lý. Tập trung kiểm tra các DN có hiện tượng nghi vấn về chuyển nhượng giá, các DN kinh doanh trong ngành, lĩnh vực thuận lợi có ưu thế cạnh tranh song kinh doanh thua lỗ nhiều năm như: sản xuất lắp ráp ôtô, xe máy, sản xuất kinh doanh bột giặt, mỹ phẩm, đồ uống, kinh doanh vận tải...; triển khai các biện pháp quản lý nợ thuế, kịp thời thu hồi số thuế nợ đọng có khả năng thu, phấn đấu giảm nợ thuế theo mục tiêu đã đề ra; Tăng cường kiểm tra và xử lý vi phạm việc sử dụng hoá đơn, quyết toán hoá đơn; Đối với thuế CTN dịch vụ ngoài quốc doanh tiếp tục điều tra phân loại hộ, rà soát lại doanh thu tính thuế trên từng địa bàn, từng ngành hàng kinh doanh; đánh giá và giao kế hoạch cụ thể cho từng tổ, đội thuế về số hộ và số thuế...; Phối hợp với các ngành chức năng đánh giá tình hình thu từ đất đai, xác định nguyên nhân cụ thể đưa ra biện pháp tháo gỡ để đẩy mạnh các khoản thu từ đất đai; đồng thời tăng cường công tác thanh tra kiểm tra đối tượng nộp thuế, trong đó chủ trọng vào khu vực DN và những đối tượng nộp thuế có quy mô lớn, đẩy mạnh việc xử lý các trường hợp vi phạm sau khi đã có kết luận của thanh tra.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thu-Chi của ngân sách nhà nước và biện pháp cân đối ngân sách của nhà nước.doc