Đề tài Thư tín dụng và các loại rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ

MỤC LỤC 1 LỜI MỞ ĐẦU 3 NỘI DUNG 4 PHẦN I: L/C VÀ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN L/C 4 I. Hệ thống Swift:. 4 1. Khái niệm:. 4 2. Một số Ngân hàng là thành viên của Swift:. 6 3. Cách phân chia mẫu điện SWIFT 6 II. Thư tín dụng ((Letter of Credit-L/C):. 7 1. Khái niệm: 7 2. Phân loại các loại L/C:. 7 2.1. Phân loại theo loại hình (Types):. 7 2.2. Phân loại theo phương thức sử dụng (Uses): có các loại thư tín dụng sau: 8 2.3. Phân loại theo thời hạn thanh toán:. 8 2.4. Một số loại thư tín dụng thường được sử dụng trong thực tế:. 8 3. Giới thiệu đơn xin mở thư tín dụng:. 9 4. Nội dung thư tín dụng:. 14 III. Bộ chừng từ trong thanh toán quốc tế. 19 IV. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:. 20 1. Khái niệm:. 20 2. Các bên tham gia trong thư tín dụng chứng từ:. 21 V. Q.trình thanh toán tín dụng chứng từ - Giải thích từng bước trong quy trình: 22 1. Quy trình mở L/C 22 2. Quy trình thanh toán L/C 23 VI. Phân tích chi tiết quy trình thanh toán L/C 25 1. Nghiệp vụ của ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu. 25 1.1. Phát hành L/C:. 26 1.2. Nghiệp vụ xử lý chứng từ và thanh toán L/C 30 1.3. Nghiệp vụ ký hậu vận đơn và bảo lãnh nhận hàng. 32 2. Nghiệp vụ của ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu. 32 2.1. Nghiệp vụ thông báo L/C 33 2.2. Quy trình thanh toán bộ chứng từ hàng xuất khẩu tại ngân hàng thương mại: 36 Phần II: Các loại rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 41 1. Khái niệm . 41 2. Phân loại và phân tích các loại rủi ro ở các bên tham gia vào quá trình thanh toán tín dụng chứng từ:. 41 2.1. Rủi ro kỹ thuật. 41 2.2. Rủi ro chính trị 47 2.3. Rủi ro ngoại hối 48 2.4. Rủi ro đạo đức. 49 2.5. Rủi ro tín dụng. 51 3. Nguyên nhân:. 52 3.1. Đối với rủi ro kỹ thuật. 52 3.2. Đối với rủi ro chính trị 53 3.3. Đối với rủi ro ngoại hối 53 3.4. Đối với rủi ro đạo đức. 54 3.5. Đối với rủi ro tín dụng. 54 Phần III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ 55 1. Một số kiến nghị đối với Nhà nước. 55 2. Một số kiến nghị đối với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu:. 57 3. Một số kiến nghị đối với các ngân hàng TM:. 58 3.1. Chú trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá khách hàng. 59 3. 2. Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. 59 3.3. Thành lập bộ phận quản lý và phòng ngừa rủi ro. 60 3.4. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng. 61 3.5. Tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng. 63 4. Một số kiến nghị cụ thể về nghiệp vụ. 63 KẾT LUẬN 66 TÀI LIỆU THAM KHẢO 67 LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam đã và đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Điển hình, sau gần một thập niên duy trì nền kinh tế bao cấp, Việt Nam đang nỗ lực để bắt kịp trình độ phát triển chung của thế giới và đạt nhiều thành tựu đáng khích lệ trong lĩnh vực kinh tế. Để bắt kịp với thế giới, Việt Nam luôn thể hiện sự chủ động, linh hoạt trong hoạt động giao lưu thương mại với nước ngoài. Điều đó thể hiện một định hướng được xem là kim chỉ nam là sự hội nhập quốc tế. Trải qua những sự kiện kinh tế lớn như gia nhập ASEAN vào năm 1995 và AFTA vào năm 1996, Việt Nam đã trở thành thành viên của APEC năm 1998. Ngày 7 tháng 11 năm 2006, sau quá trình đàm phán kéo dài và căng thẳng, Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sau khi gia nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới, Việt Nam ngày càng có nhiều cơ hội để khẳng định mình trên thương trường quốc tế và cũng gặp không ít thách thức do điều kiện kinh tế mới mẽ, quan hệ kinh tế, cũng như những quy ước, hiệp ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Một điều hiển nhiên, Việt Nam không chỉ giao thương với chính mình mà còn giao thương với các nước trên thế giới. Do đó, hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động không thể thiểu trong nền kinh tế mở này. Trong áp lực của nền kinh tế thị trường, các trung gian tài chính cũng phát triển nhanh chóng và gần như đáp ứng tất cả những yêu cầu mà thị trường đòi hỏi. Các trung gian tài chính này có vai trò quan trọng trong việc cung cấp những dịch vụ thanh toán đa dạng, góp phần phát triển hoạt động giao dịch giữa các công ty Việt Nam và nước ngoài; nhận thức được tầm quan trọng của việc thanh toán trong hợp đồng ngoại thương, các bên ký kết hợp đồng luôn chọn lựa phương thức thanh toán thích hợp nhằm bảo vệ lợi ích của mình trong trường hợp phát sinh tranh chấp. Hiện nay, có nhiều phương thức thanh toán trong thương mại quốc tế như nhờ thu, chuyển tiền, tín dụng chứng từ, v.v Trong số đó, tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến nhất. Điều đó cho thấy vai trò của phương thức thanh toán này rất quan trọng trong thanh toán quốc tế, nó góp phần đẩy mạnh phát triển của nước nhà. Nhưng đi song song với mặt mạnh của phương thức thanh toán này thì nó cũng chứa đựng đầy rủi ro mà chúng ta cần phải cẩn trọng và xem xét. Do đó, nắm bắt được tình hình đó chúng em sẽ đi sâu vào tìm hiểu đề tài :” Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ,và rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ” cho bài tiểu luận

doc67 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4395 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thư tín dụng và các loại rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g được người mở thư tín dụng chấp nhận nên điều kiện “hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng” đã không được thoả mãn. Nhưng theo trong tài thì việc thư tín dụng có được thanh toán hay không phụ thuộc vào thiện chí của người mở thư tín dụng (nguời mua). Việc hiểu điều kiện “hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng” như vậy mâu thuẫn với mục đích của thư tín dụng chứng từ. Theo đó, việc thanh toán không được phụ thuộc vào thiện ý hay ý chí chủ quan của Cadtrak. Ở đây, hàng của Lagergren không có bất cứ sai phạm gì theo thoả thuận giữa hai bên, mà việc hạn sử dụng của hàng hoá là do Cadtrak không kiểm chứng từ trước, hãng có thể khởi kiện vi phạm hợp đồng chứ không thể từ chối thanh toán được. Điều đó có nghĩa là nếu căn cứ vào lập luận của Cadtral thì hoàn toàn không an toàn cho Lagergren. Như vậy rõ ràng Cadtrak đã sai khi từ chối việc thanh toán hoặc việc cho phép thanh toán cho Ngân hàng Thuỵ Điển. Bởi vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định Lagergren được hưởng số tiền hàng cộng với mức lãi suất là 13%/năm trong thời gian thanh toán quá hạn. Ba loại rủi ro nêu trên đều là rủi ro liên quan đến kinh nghiệm và trình độ nghiệp vụ của các cán bộ trong đơn vị mua hàng: theo một số báo cáo thống kê, có hơn 40% cán bộ thuộc các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia hoạt động xuất nhập khẩu nhưng chưa qua đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương. Do sự yếu kém trong nghiệp vụ ngoại thương của các đơn vị XNK, vì vậy họ đã sai sót trong việc lựa chọn đối tác; không tìm hiểu kỹ, không nắm vững khả năng của bên bán dẫn đến khi không nhận được hàng hoặc nhận được hàng không đúng theo hợp đồng..vv.. thì kế hoạch kinh doanh bị phá vỡ. 2.1.3. Rủi ro đối với Ngân hàng Rủi ro kỹ thuật xuất hiện ở các khâu trong quy trình thanh toán, xảy ra khi ngân hàng tuân thủ không đúng theo quy định của luật pháp và các quy tắc được áp dụng. Ngân hàng thường gặp phải một số rủi ro về kỹ thuật sau: Do công tác quản lý và kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng: Nghiệp vụ TTQT là một nghiệp vụ không hề đơn giản, hơn nữa, sự xuất hiện của nhiều thủ đoạn lừa đảo mới rất tinh vi trong TTQT đã làm cho nghiệp vụ này càng trở nên phức tạp, nhiều rủi ro. Chính vì vậy, các cán bộ nghiệp vụ của ta ở một số chi nhánh do chưa có kinh nghiệm, chưa được đào tạo sâu, chưa nắm bắt kịp thời kỹ thuật nghiệp vụ nên đã dẫn đến không ít trường hợp sơ suất trong quá trình thực hiện thanh toán, gây ra thiệt hại lớn cho khách hàng và ngân hàng. Ví dụ: đối với cán bộ nghiệp vụ của ngân hàng phát hành cần phải xem xét kỹ bộ chứng từ do nhà xuất khẩu lập để tránh trường hợp ngân hàng do không phát hiện bộ chứng từ sai sót mà thanh toán cho nhà xuất khẩu. Đến khi ngân hàng phát hành gửi bộ chứng từ yêu cầu nhà nhập khẩu thanh toán thì nhà nhập khẩu không chấp nhận thanh toán. Khi đó, ngân hàng phát hành buộc phải chấp nhận mất tiền. Rủi ro như vậy cũng có thể xảy ra đối với ngân hàng chiết khấu,ngân hàng chỉ định,… Do sai sót trong quan hệ với khách hàng trong nước: Việc thu nhập, phân tích thông tin, đánh giá tình hình hoạt động trong kinh doanh của các doanh nghiệp còn chưa được đầy đủ và chặt chẽ. Có khách hàng có hiện tượng vi phạm cam kết về tài chính với ngân hàng nhưng vẫn được bảo lãnh, hay có những khách hàng làm ăn phạm pháp song ngân hàng cũng không tìm hiểu kỹ và kết quả là khi doanh nghiệp rơi vào vòng tố tụng thì ngân hàng phải chịu hết rủi ro. Trong trường hợp này, nếu ngân hàng đứng ra trả tiền thay cho các doanh nghiệp đó thì rủi ro rất cao bởi vì khả năng thu hồi tiền là rất mong manh. Nhưng theo quy định của L/C thì ngân hàng mở phải có trách nhiệm trả tiền cho người bán khi người mua mất khả năng thanh toán. VD: Công ty A mua hàng với công ty B. Công ty A lập hồ sơ đề nghị ngân hàng C mở L/C. Vì công ty A là khách hàng quen của ngân hàng C nên cán bộ nghiệp vụ của ngân hàng không tiến hành thẩm định kỹ mà tiến hành phát hành L/c cho khách hàng A với mức ký quỹ thấp. Khi đó, ngân hàng C không ngờ rằng chỉ một tháng sau, công ty A vì làm ăn phạm pháp nên dẫn đến bị tố tụng và bị tuyên bố giải thể. Do vậy, ngân hàng phải đứng ra cho phần tiền mua hàng còn lại của công ty A. Các quy định về an toàn trong ký quỹ L/C, đánh giá tài sản thế chấp, cầm cố, cam kết của ngân hàng chưa được áp dụng chặt chẽ. Thậm chí đối với các L/C thế chấp bằng chính lô hàng nhập cũng chưa có sự giám sát chặt chẽ của cán bộ ngân hàng đối với hàng nhập về này nên khách hàng đã bán hàng và sử dụng tiền vào mục đích khác mà ngân hàng không phát hiện ra. Hậu quả lớn nhất chính là ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Mất mát về uy tín là mất mát lớn nhất và sâu sắc nhất ảnh hưởng tới vị thế của ngân hàng trong lòng thị trường. Nói tóm lại, tất cả những sai sót về mặt kỹ thuật dù từ phía nào cũng đều làm cho quá trình thanh toán bị gián đoạn, kéo dài, thậm chí gây thiệt hại rất lớn cho các bên. 2.2. Rủi ro chính trị Rủi ro chính trị hay rủi ro quốc gia (Country Risk) quốc gia là những rủi ro về sự thay đổi chính trị, kinh tế, chính sách của một quốc gia khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiền hàng và nhà nhập khẩu không nhận được hàng hoá, qua đó có ảnh hưởng không tốt tới ngân hàng. Những biến động về chính trị như: chiến tranh, nổi loạn, đảo chính và các biến cố chính trị xã hội khác đã gây cản trở cho việc giao nhận hàng và thanh toán qua ngân hàng của các doanh nghiệp. Những biến động này thường khiến cho các bên xuất nhập khẩu và ngân hàng không thực hiện được nghĩa vụ của mình, làm cho L/C có thể bị huỷ bỏ gây thiệt hại cho các bên. Bên cạnh đó, biến động về môi trường pháp lý cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các bên tham gia phương thức thanh toán L/C và nó cũng để lại những hậu quả đáng kể. Rủi ro này xảy ra khi có sự vận dụng không thống nhất các nguồn luật điều chỉnh L/C ngoài UCP600. Nó thường xuất hiện khi có sự tranh chấp hoặc khiếu kiện giữa các bên. Ví dụ trường hợp một công ty nhập khẩu đến B xin mở một L/C cho người hưởng lợi nước ngoài. Sau khi xem xét đơn yêu cầu mở L/C và giấy cam kết của khách hàng, căn cứ vào tình hình tài chính, phân tích đánh giá nhu cầu thị trường, ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp ký quỹ 20%. Quy định mức tiền ký quỹ này là một biện pháp để ngân hàng mở tự bảo vệ mình. Khi đồng ý mở L/C cho doanh nghiệp, B cũng vận dụng kết hợp các thông lệ quốc tế không chỉ trong ngân hàng mà còn trong các lĩnh vực khác như vận tải, bảo hiểm... và yêu cầu vận đơn phải được theo lệnh của ngân hàng phát hành. Theo thông lệ quốc tế về vận tải, với vận đơn đó ngân hàng sẽ được quyền nhận hàng hoặc bán hàng cho khách hàng khác nếu đơn vị mở L/C không có khả năng thanh toán hoặc có nguy cơ bị phá sản. Song thực tế lại diễn ra không theo như ý muốn của các bên tham gia. Sau khi hàng đã giao và bộ chứng từ thanh toán đã đến ngân hàng mở - B, ngân hàng yêu cầu đơn vị nhập khẩu thanh toán để nhận chứng từ đi lấy hàng thì họ lại không có khả nãng thanh toán do có nhiều hợp ðồng bị thua lỗ trýớc ðó. Sau khi không còn có hy vọng gì về việc người mua có thể thanh toán được tiền hàng, B đã phải cầm chứng từ hàng hoá đi nhận hàng của người nhập khẩu nhưng đã bị hải quan từ chối với lý do: “ngân hàng chỉ là người bảo lãnh chứ không phải người mua nên không được nhận hàng”. Đây là mặt hàng phải có quota nhập khẩu nên ngân hàng không có đủ điều kiện để nhận hàng hoặc bán lại cho bên thứ ba. Rõ ràng ngân hàng mở trong trường hợp này đã tìm cách tự bảo vệ mình nhưng rủi ro vẫn xảy ra ngoài tầm kiểm soát. Hay chẳng hạn như trường hợp của một doanh nghiệp cung ứng vật liệu xây dựng ký một hợp đồng xuất khẩu gỗ cho một công ty C. Sau khi hợp đồng được ký kết, Nhà nước lại ban hành quyết định tăng thuế, hạn chế xuất khẩu mặt hàng này. Do đó doanh nghiệp đã không cung cấp được đủ số lượng cho bên nước ngoài theo đúng thời hạn. Bên C đã căn cứ vào đó để phạt thanh toán chậm 20 ngày, gây thiệt hại về tài chính cho doanh nghiệp. Cùng với mất mát tài chính của đơn vị xuất khẩu, uy tín của B với tư cách là ngân hàng thông báo cũng bị ảnh hưởng. 2.3. Rủi ro ngoại hối Rủi ro ngoại hối là những rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn định bằng đồng tiền nước ngoài. Rủi ro này xảy ra đối với tất cả các bên tham gia, nó phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là tỷ giá hối đoái và trạng thái ngoại hối về loại ngoại tệ đó của ngân hàng. Thứ nhất là vấn đề tỷ giá hối đoái: đây là một yếu tố nhạy cảm và sự biến động của nó là không thể lường trước được, nó có ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định của doanh nghiệp. Bởi vì khi ngoại tệ tăng giá so với nội tệ thì gây thiệt hại cho bên nhập khẩu, khi ngoại tệ giảm giá so với nội tệ thì sẽ gây thiệt hại cho nhà xuất khẩu. Khi kí hợp đồng mua hàng, nhà nhập khẩu không thể lường trước được mức độ trượt giá đồng nội tệ so với ngoại tệ mạnh. Khi hàng nhập về, tỷ giá trượt mạnh, đối với những mặt hàng giá bán cạnh tranh không thể tăng giá được, nhà nhập khẩu có thể từ chối nhận hàng vì sợ bị lỗ và vì cũng không có đủ khả năng thanh toán, khi đó thì rủi ro tất yếu sẽ xảy ra đối với ngân hàng thương mại. Bản thân ngân hàng đã có những biện pháp để tự phòng ngừa những ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá hối đoái một cách có hiệu quả. Tuy nhiên trong một số trường hợp, do sơ suất ngân hàng đã phải chịu một số thiệt hại do sự biến động của tỷ giá hối đoái gây nên. Ví dụ: Trong thực tế ở nước ta, một số doanh nghiệp nhập khẩu thường không sẵn có ngoại tệ hoặc nếu có thì số lượng không đáng. Do đó khi cần ngoại tệ, họ sẽ chuyển nội tệ vào ngân hàng và yêu cầu ngân hàng bán ngoại tệ cho mình để thanh toán. Khi có yêu cầu mở L/C thanh toán ngân hàng sẽ thu tiền ký quỹ đối với nhà nhập khẩu. Do trong TTQT ngoại tệ mạnh thường được sử dụng nên ngân hàng mở sẽ phải dùng số tiền đó để mua ngoại tệ. Số tiền ký quỹ mà doanh nghiệp nộp vào ngân hàng đã được tính ra ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm đó. Nếu vì một lý do nào đó ngân hàng không thực hiện ngay việc trao đổi lấy ngoại tệ tại thời điểm đó mà lùi lại một thời gian, giả sử khi đó đồng nội tệ giảm giá và ngân hàng không lường trước được điều này, ngân hàng sẽ phải mất thêm một khoản tiền để bù vào mức giảm đó khi mua ngoại tệ. Kết quả là ngân hàng sẽ bị mất một khoản tiền do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Bên cạnh đó, nếu trạng thái ngoại hối của ngân hàng không tốt, một mặt ngân hàng sẽ không đáp ứng được nhu cầu mua ngoại tệ của khách hàng, mặt khác bản thân ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn trong quá trình thanh toán cho ngân hàng. Thiệt hại xảy ra có thể về mặt tài chính vì ngân hàng phải đi vay ngoại tệ của ngân hàng khác, nhưng đồng thời cũng ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng trong hoạt động thanh toán nói riêng, hoạt động ngân hàng nói chung. Cụ thể là trường hợp xảy ra đối với Petrolimex Hà Nội. Trong quá trình thanh toán, VCB đã cố gắng cung cấp ngoại tệ để thanh toán các L/C đến hạn. Tuy nhiên có một vài trường hợp khi đến hạn thanh toán, ngân hàng đã không thể thanh toán được như kế hoạch vì khi đó Petrolimex Hà Nội không kịp chuẩn bị tiền VND hoặc ngân hàng chưa có đủ ngoại tệ để bán. Kết quả chúng ta đã bị ngân hàng nước ngoài phạt. Petrolimex Hà Nội khi đó không những không quan tâm mà còn đổ lỗi cho ngân hàng vì không chuẩn bị đủ ngoại tệ để bán cho họ. Như vậy, Vietcombank vừa bị mang tiếng với ngân hàng nước ngoài vừa có trục trặc trong quan hệ với khách hàng. 2.4. Rủi ro đạo đức Rủi ro đạo đức là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia phương thức L/C cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại đến quyền lợi của một bên hoặc các bên còn lại. Trong phương thức thanh toán L/C, dù quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia được quy định rõ ràng. Song không phải lúc nào những nguyên tắc đó cũng được tôn trọng. Rủi ro đạo đức có thể xảy ra khi: Người xuất khẩu có nghĩa vụ phải giao hàng đúng theo hợp đồng, theo đúng L/C nhưng anh ta không giao hàng hoặc giao hàng không đúng, không đủ nhưng lại xuất trình được bộ chứng từ hoàn hảo. Cũng có thể người bán không giao hàng vì muốn tăng giá, dẫn đến làm chậm trễ việc giao hàng... Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến người mua và đồng thời cũng có ảnh hưởng gián tiếp đến ngân hàng. Nếu người mua gặp rủi ro thì khả năng anh ta thanh toán lại tiền cho ngân hàng là rất khó. Do đó ngân hàng có thể sẽ bị chậm trễ trong việc thu hồi tiền từ người mua, thậm chí nghiêm trọng hơn là sẽ không được người mua thanh toán. Người nhập khẩu có nghĩa vụ trả tiền cho ngân hàng mở L/C nhưng anh ta có thể cố tình trì hoãn hoặc từ chối thanh toán, từ chối nhận hàng bằng những thủ đoạn nghiệp vụ bắt lỗi sai sót chứng từ hoặc phát hành thư tín dụng giả mạo bởi một ngân hàng không có thực. VD: Công ty H ký hợp đồng bán 50000 thùng hột vịt muối cho công ty T - Giao hàng đợt đầu tháng 9/2005: 15000 thùng, đk giao hàng: CIF HK(incoterm 2000) Thanh toán: L/C không hủy ngang, at sight Giám định hàng hóa: Do Vinacontrol làm và có giá trị cuối cùng Ngày 27/8/2005 người mua gửi thư cho công ty H với nội dung: Chưa mở được L/C do còn mắc một số thủ tục ở HK Đề nghị công ty H cứ giao hàng mà không chờ L/C, người mua sẽ thanh toán bằng TTR. Vì hàng đã sẵn sàng để giao xuống tàu và cũng tin tưởng ở những lời hứa hẹn hợp tác, hữu nghị của bạn hàng, công ty H đã chấp thuận đề nghị của công ty T (mà thực chất là chuyển từ phương thức thanh toán bằng L/C qua TTR). Trong trường hợp này, lẽ ra công ty H phải yêu cầu người mua chuyển tiền thanh toán trước khi giao hàng xuống tàu hoặc chậm nhất là khi tàu rời cảng xếp hàng để hạn chế rủi ro, nhưng công ty H đã không làm việc đó. Kết quả là công ty T (Hongkong) đã nhận 15000 trứng vịt muối nhưng cố tình không thanh toán sòng phẳng cho H với lý do :cỡ hàng kém phẩm chất, bo bì đóng gói không đúng quy cách, hàng giao chậm v.v.... để trì hoãn thanh toán và chiếm dụng vốn công ty H. Người bán giao hàng cho nhà chuyên chở, nhưng bị họ lừa đảo nhận hàng, lấy tiền cước rồi biến mất, hoặc có tìm thấy tàu nhưng hàng thì không còn. Trong trường hợp này, nếu nhà xuất khẩu vẫn xuất trình được bộ chứng từ hợp lệ thì ngân hàng phát hành vẫn buộc phải thanh toán, nhưng thực tế thì nhà nhập khẩu lại không nhận được hàng nên họ sẽ từ chối thanh toán, khi đó rủi ro xảy ra đối với ngân hàng thanh toán (ngân hàng mở L/C) là điều chắc chắn. Trong nhiều trường hợp các ngân hàng phát hành có thể cũng vi phạm những cam kết của mình như trì hoãn, hoặc từ chối thanh toán, đứng về phía người mua để gây khó khăn cho quá trình thanh toán. Điều này sẽ gây rủi ro đối với người bán, ngân hàng xác nhận và ngân hàng chiết khấu. Ngược lại, nếu ngân hàng chiết khấu không trung thực, bộ chứng từ có sai sót mà vẫn đòi tiền bằng điện thì sẽ gây rủi ro cho nhà nhập khẩu và ngân hàng phát hành. Ví dụ: Có khách hàng yêu cầu B phát hành bảo lãnh nhận hàng và chấp nhận thanh toán kể cả khi chứng từ có sai sót, nhưng khi có sai sót lại yêu cầu ngân hàng không thanh toán. Có trường hợp khách hàng không chịu thanh toán phần còn lại của lô hàng để răn đe nhà cung cấp mặc dù công trình đã được nghiệm thu, bất chấp thông lệ quốc tế. Với những khách hàng như thế Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn để giữ uy tín của mình. Một số khách hàng nhập khẩu vì lợi ích riêng của doanh nghiệp đã bội ước với ngân hàng, trây ỳ trong thanh toán. Hàng đã bán hết nhưng không trả tiền cho ngân hàng mà mang tiền bán hàng sử dụng vào mục đích khác. Đến khi làm ăn thua lỗ lại không thực hiện được cam kết với ngân hàng. 2.5. Rủi ro tín dụng Ngoài những rủi ro kể trên, hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ cũng như các hoạt động khác của ngân hàng còn có thể gặp rủi ro do 1 trong các bên mất khả năng thanh toán do các nguyên nhân khách quan như động đất, sóng thần hay do các nguyên nhân chủ quan như doanh nghiệp phá sản làm cho các bên tham gia gặp phải thiệt hại với hậu quả khôn lường. Rủi ro xảy ra đối với người nhập khẩu còn có thể do nguyên nhân khi ngân hàng phát hành đứng trước tình trạng mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp này, mức độ thiệt hại của người mua phụ thuộc vào số tiền ký quỹ. Như ta đã biết, khi nhà nhập khẩu mở L/C, ngân hàng có thể yêu cầu nhà nhập khẩu ký quỹ 100%, hoặc thấp hơn 100% hoặc không ký quỹ phụ thuộc vào mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng phát hành và nhà nhập khẩu.Nếu ngân hàng phát hành yêu cầu ký quỹ 100% hoặc ít hơn 100% thì nhà nhập khẩu có khả năng chưa nhận được hàng mà bị mất số tiền ký quỹ. Rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản: Đây là loại rủi ro gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngân hàng mở thư tín dụng, bởi vì ngân hàng buộc phải thanh toán cho người bán trong khi không thể thu hồi được vốn lại từ phía người mua. VD: Công ty A ở Việt Nam có giao dịch bán cho công ty B ở Nhật Bản 1000 tấn cà phê. Phương thức thanh toán L/C không hủy ngang. Ngân hàng phát hành là ngân hàng C. Một tháng sau, tại Nhật Bản xảy ra động đất, công ty B rơi vào tình trạng khó khăn, không còn khả năng thanh toán cho ngân hàng C. Rủi ro đối với ngân hàng chiết khấu hoặc ngân hàng xác nhận hoặc bên nhập khẩu khi ngân hàng phát hành bị phá sản: rủi ro này ít khi xảy ra nhưng không phải là không có, sự kiện sụp đổ của ngân hàng Bearing của Anh tháng 2 năm 1995 là minh chứng cho sự rủi ro loại này. Khi đó, số tiền mà ngân hàng chiết khấu trả cho bên xuất khẩu sẽ không được nhận lại, hoặc ngân hàng xác nhận phải trả tiền cho bên xuất khẩu. Hoặc nêu trong trường hợp không có ngân hàng xác nhận, thì người nhập khẩu sẽ mất số tiền ký quỹ. Trong điều 36 UCP 600 quy định: “ Ngân hàng không có nghĩa vụ hoặc trách nhiệm đối với các hậu quả phát sinh ra tự sự gián đoạn hoạt động kinh doanh của mình do thiên tai, bạo động, dân biến, nổi dậy… hoặc bất cứ nguyên nhân nào khác nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Khi bắt đầu kinh doanh trở lại, ngân hàng không phải thanh toán hoặc thương lượng thanh toán theo tín dụng mà tín dụng này đã hết hạn trong lúc kinh doanh của ngân hàng bị gián đoạn”. Rõ ràng khi có bất khả kháng xảy ra, nếu người Nhập khẩu hoặc ngân hàng chiếu khấu chưa kịp được chấp nhận thanh toán thì chính họ sẽ là những người bị thiệt hại. 3. Nguyên nhân: 3.1. Đối với rủi ro kỹ thuật Nguyên nhân của rủi ro kỹ thuật chủ yếu là do trình độ nghiệp vụ ngoại thương và thanh toán xuất nhập khẩu của các bên tham gia còn yếu nên chưa nắm bắt được các yêu cầu của L/C. Điều này dẫn đến những sai sót trong quá trình lập chứng từ và thanh toán. Một nguyên nhân không thể không nhắc đến là từ phía ngân hàng mở L/C. Việc mở L/C quy định quá nhiều các điều kiện, khoản mục sẽ gây khó khăn cho người bán. Để khắc phục nguyên nhân này, với người bán, phải nâng cao trình độ nghiệp vụ, thận trọng trong việc giao hàng, lập chứng từ. Với các ngân hàng phải thận trọng trong các nghiệp vụ của mình. Đặc biệt là các ngân hàng mở L/C, chỉ nên đưa những quy định quan trọng liên quan đến chất lượng, số lượng, tiêu chuẩn hàng hoá, ngày giao hàng…tránh việc đòi hỏi quá nhiều chứng từ và nhiều nội dung trong chứng từ. 3.2. Đối với rủi ro chính trị Nguyên nhân sâu xa của loại rủi ro này là môi trường pháp lý và luật pháp của các nước khác nhau. Nếu có sự khác biệt, thậm chí đối nghịch giữa UCP600 và luật pháp quốc gia thì luật quốc gia sẽ vượt lên trên tất cả và phải được tuân thủ. Do đó trong nhiều trường hợp, quyết định của toà án địa phương mới là quyết định cuối cùng. Điều đáng nói ở đây là luật pháp ở một số nước cho phép toà án của họ áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo sự an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu, bất kể quy định đó trái ngược với UCP600. Chính vì vậy rủi ro về vấn đề pháp lý đối với thanh toán tín dụng chứng từ thường rất khó lường. Ngoài ra cũng cần quan tâm tới tình hình kinh tế của một quốc gia. Đó là những vấn đề như: Nợ nước ngoài, dự trữ ngoại hối và cán cân thanh toán của một quốc gia, sự cấm vận kinh tế, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách thương mại và các quy định về xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia,…Nếu nợ nước ngoài của quốc gia quá lớn thì một số biện pháp như tăng thuế, phá giá đồng nội tệ sẽ được áp dụng và như vậy nó sẽ có ảnh hưởng đến khả năng chi trả của người mua; người mua có thể sẽ không đủ khả năng chi trả và ngân hàng có nguy cơ gặp rủi ro do không đòi được tiền. Các biến động kinh tế - chính trị - xã hội dù trực tiếp hay gián tiếp, tức thì hay lâu dài, đều gây ra những ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của ngân hàng và khách hàng. Và vì vậy, rủi ro quốc gia luôn là mối đe doạ tới hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng, trong đó có hoạt động thanh toán L/C. 3.3. Đối với rủi ro ngoại hối Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải đối mặt với rủi ro ngoại hối trong trường hợp tỷ giá hối đoái biến động hay trạng thái ngoại hối của ngân hàng không tốt. Những tình huống này nếu xảy ra không chỉ gây thiệt hại cho ngân hàng về mặt tài chính mà còn ảnh hưởng tới uy tín của Ngân hàng trong hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. 3.4. Đối với rủi ro đạo đức Nguyên nhân sâu xa của vấn đề rủi ro đạo đức đó là vấn đề thông tin không đầy đủ và thiếu chính xác. Đó là việc các bên tham gia không có đầy đủ những thông tin cần thiết về khả năng tài chính, về tình hình hoạt động kinh doanh cũng như về uy tín và tính trung thực của đối tác, hoặc được cung cấp các thông tin không chính xác...Vì vậy mà đưa ra những phán đoán và quyết định sai lầm gây nên rủi ro trong thanh toán. Ngoài ra còn do việc thanh toán L/C chỉ dựa trên bề mặt của chứng từ, không căn cứ vào thực trạng của hàng hoá, nên đã tạo khe hở cho một số cá nhân lừa đảo. Để hạn chế rủi ro đạo đức, vấn đề cốt lõi là phải khắc phục tình trạng thông tin không cân xứng. Đứng ở góc độ ngân hàng phải tiến hành điều tra thu thập các thông tin chính xác về khách hàng của mình cũng như thông tin về các ngân hàng có liên quan như tình hình tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng và mối quan hệ của họ với các ngân hàng khác...từ đó mới có thể có được những khách hàng tốt nhằm hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra. 3.5. Đối với rủi ro tín dụng Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cũng như các ngân hàng thương mại luôn phải hoạt động trong một môi trường cạnh tranh gay gắt, chịu sự chi phối của quy luật cung-cầu, quy luật cạnh tranh,…nên phải đối mặt với rủi ro từ mọi phía. Đôi khi do nền kinh tế bất ổn, khủng hoảng kinh tế, công nghệ lạc hậu, khả năng quản lý và điều hành yếu kém của doanh nghiệp,…gây ra phản ứng di chuyền khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn, thua lỗ trong kinh doanh, thậm chí có thể dẫn đến vỡ nợ, phá sản. Do thông tin ứng dụng không đầy đủ, nếu một bên không nắm vững tình hình tài chính, uy tín cũng như khả năng thanh toán của đối tác, không am hiểu, không kiểm tra được thông số kỹ thuật và hiệu quả dự án do mình tài trợ thì rủi ro tín dụng là điều không thể tránh khỏi. Đây chính là thông tin bất cân xứng. Vì vậy việc lựa chọn khách hàng và ngân hàng nước ngoài có quan hệ tín dụng tốt là một điều vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong thanh toán quốc tế. Phần III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ 1. Một số kiến nghị đối với Nhà nước Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước ngày càng được khẳng định. Xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới đem lại một cơ hội lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia nhưng đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với khả năng tồn tại và phát triển của quốc gia đó. Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi tổ chức, cá nhân trong nước, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, từ đó tác động mạnh mẽ đến hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng. Xuất phát từ thực tế đó, trong việc thanh toán xuất nhập khẩu nói chung, phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ nói riêng rất cần đến những chính sách thích hợp, phù hợp với mục tiêu của từng thời kỳ để hoạt động ngày càng được mở rộng và ngày càng phát triển, đồng thời có thể tối thiểu hóa được những rủi ro có thể xảy ra cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu và ngân hàng. Thứ nhất, cần tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ của toàn Hệ thống NHTM Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro pháp lý trong giao dịch tín dụng chứng từ là sự thiếu vắng các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các bên trong quy trình thanh toán. Ở Việt Nam hiện nay, ngoài bộ tập quán quốc tế về tín dụng chứng từ do ICC phát hành và một số thông lệ quốc tế khác, ta không có một luật hay văn bản dưới luật nào điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại thương của người mua và người bán với giao dịch tín dụng chứng từ của ngân hàng. Khi có tranh chấp thương mại quốc tế xảy ra, Trọng tài quốc tế có thể ra phán quyết đối với quan hệ hai bên mua bán mà không đề cập đến quan hệ thanh toán giữa các ngân hàng. Đối với các ngân hàng Việt Nam khi có phát sinh tranh chấp thì chỉ áp dụng bộ tập quán là chưa đủ. Chính phủ cần sớm ban hành những văn bản pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa hợp đồng ngoại thương và hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, nêu lên nghĩa vụ, quyền hạn của các bên tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ: nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu và các ngân hàng trung gian. Trước hết nên đề cập đến một số vấn đề sau: v Quyền được miễn thanh toán của ngân hàng mở khi quan hệ giao nhận bị trọng tài tuyên án huỷ bỏ. v Quyền được nhận hàng của ngân hàng mở khi người thế chấp lô hàng bị mất khả năng thanh toán. v Quyền được bảo lưu số tiền chiết khấu của ngân hàng trong quan hệ mua bán đứt đoạn. Cần phải có quy chế chiết khấu hối phiếu lập theo thư tín dụng cụ thể hoá luật quốc tế làm cơ sở giải quyết tranh chấp giữa ngân hàng chiết khấu và doanh nghiệp xuất khẩu. v Cần tạo hành lang pháp lý cho giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng trong quan hệ tín dụng chứng từ. Cho đến nay, hầu hết các khách hàng đến ngân hàng yêu cầu mở L/C đều không có văn bản pháp lý có tính chất hợp đồng được thoả thuận bằng văn bản. Ngay như ở Ngân hàng Ngoại thương chỉ có các loại giấy tờ như: đơn yêu cầu mở L/C, giấy cam kết thanh toán, đơn xin bảo lãnh nhận hàng và ký hậu vận đơn, thông báo thư tín dụng, đơn xin chiết khấu chứng từ... Các chứng từ này chỉ đơn giản là các giao dịch ngân hàng, không thể hiện được tính pháp lý và ràng buộc giữa hai bên nên gây khó khăn cho toà án khi xét xử tranh chấp. Thứ hai, cần có chính sách khuyến khích và kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, Nhà nước cần tăng cường hiệu lực các văn bản và thủ tục xuất nhập khẩu. Cần có quy chế bắt buộc đối với các doanh nghiệp phải có đủ điều kiện về tài chính, trình độ quản lý, phương hướng phát triển kinh doanh... thì mới cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp (trở thành các bên tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ). Thực tế cho thấy, thực lực tài chính của các doanh nghiệp nước ta hiện nay vẫn còn yếu, hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng. Nếu kinh doanh thua lỗ sẽ trực tiếp có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, uy tín thanh toán đối với ngân hàng. Do vậy, trước mắt Chính phủ cần rà soát lại các đơn vị, tổ chức kinh tế không đủ điều kiện tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp thì chuyển sang uỷ thác xuất khẩu, tránh những rủi ro có thể xảy ra. Bên cạnh đó, các thể chế, thủ tục xuất nhập khẩu cần phải tạo nên sự cân bằng giữa khuyến khích và kiểm soát xuất nhập khẩu. Hiện nay một số chủ trương khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước đang tạo lợi thế cho doanh nghiệp này nhưng lại bất lợi đối với doanh nghiệp khác làm mất cân đối giữa cung và cầu gây nên tồn đọng một số loại vật tư gây lãng phí và kém hiệu quả. Tình trạng nhập khẩu tràn lan làm cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá bị đình trệ, hàng hoá trong nước sản xuất ra không tiêu thụ được. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của nền kinh tế nói chung, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng. Thứ ba, cần tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC). Việc thu thập, phân tích, xử lý kịp thời và chính xác các thông tin về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, khả năng thanh toán, tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài là vô cùng quan trọng. Để công tác thông tin phòng ngừa rủi ro đạt hiệu quả cao, cần tăng cường trang bị các phương tiện thông tin hiện đại cho trung tâm. Đồng thời cũng nên có cơ chế khuyến khích và bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng về việc cung cấp thường xuyên các thông tin về tình hình dư nợ của doanh nghiệp tại tổ chức tín dụng... 2. Một số kiến nghị đối với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu: Rủi ro trong thanh toán quốc tế một phần là do những nguyên nhân chủ quan từ phía các đơn vị kinh doanh XNK. Chính những yếu kém về nghiệp vụ đã khiến họ là người phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề nhất. Vì vậy, những biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa rủi ro và đẩy mạnh hoạt động thanh toán XNK không thể không xuất phát từ phía 2 bên xuất khẩu và nhập khẩu. Hiện nay có rất nhiều các đơn vị tham gia hoạt động XNK nhưng có không ít các giám đốc của các đơn vị này lại chưa sử dụng thành thạo ngoại ngữ do vậy khi đàm phán ký kết hợp đồng với bạn hàng phải qua phiên dịch. Bên cạnh đó trình độ của cán bộ cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của thương mại quốc tế. Như vậy, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương và nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong các đơn vị kinh doanh XNK hiện nay mang tính cấp thiết. Cụ thể phải chú trọng những vấn đề sau: Các đơn vị khi tham gia XNK phải có cán bộ chuyên trách về XNK. Các cán bộ này phải qua đào tạo nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu luật pháp trong thương mại quốc tế và thanh toán quốc tế, có năng lực trong công tác và đặc biệt phải có phẩm chất trung thực trong kinh doanh. Kiên quyết bài trừ tư tưởng làm ăn kiểu chụp giựt, lừa đảo. Trong kinh doanh, trung thực là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo duy trì quan hệ làm ăn lâu dài với các bạn hàng và do đó nó cũng chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong quan hệ thanh toán với Ngân hàng, các doanh nghiệp cần giữ vững chữ tín, thực hiện cam kết với Ngân hàng. Phải luôn giữ quan hệ chặt chẽ với Ngân hàng, thực hiện đúng các chỉ dẫn của về các điều khoản của L/C. Khi có tranh chấp, doanh nghiệp cần thông báo ngay cho Ngân hàng và phối hợp với Ngân hàng để tìm ra nguyên nhân, giải pháp khắc phục chứ không nên quy trách nhiệm cho ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, khi lập bộ chứng từ thanh toán cần phải chú ý đến những đặc điểm của từng loại chứng từ, nhất là những chi tiết dễ bị sai sót và xuất trình bộ chứng từ theo đúng thoả thuận. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, khi chấp nhận bộ chứng từ để thanh toán tiền hàng cần kiểm tra hàng và/hoặc bộ chứng từ cẩn thận để tránh xảy ra tranh chấp về hàng hoá sau này đặc biệt là trong trường hợp do nhu cầu cấp thiết về hàng hoá nên đã chấp nhận mọi điều kiện của chứng từ để ngân hàng bảo lãnh cho nhận hàng trước khi chứng từ tới. Các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế phải lường trước được những bất lợi khi có tranh chấp xảy ra và bị khởi kiện ở nước ngoài. Trong trường hợp bị khởi kiện ở nước ngoài, do khả năng về tài chính và nghiệp vụ có hạn nên phía Việt Nam ít thành công trong các phiên toà quốc tế. Do vậy, khi được quyền chọn toà xử án khi có tranh chấp nên chọn Trọng tài xét xử trong nước (Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam) để tránh những rủi ro trên. Như vậy, chỉ khi các doanh nghiệp tham gia thương mại quốc tế thực hiện đúng các điều kiện trên thì công tác thanh toán qua Ngân hàng mới nhanh chóng thuận tiện và hoạt động XNK của đơn vị mới có hiệu quả. 3. Một số kiến nghị đối với các ngân hàng TM: 3.1. Chú trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá khách hàng Biện pháp quan trọng mang lại hiệu quả cao nhất để phòng ngừa rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán L/C là các Ngân hàng thương mại nên chú trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá khách hàng. Có thể thấy rằng trong thực tế những năm gần đây, rủi ro gây thiệt hại nặng nề về tài chính cũng như uy tín của các Ngân hàng thương mại chủ yếu xuất phát từ phía khách hàng. Và cũng chủ yếu là do khách hàng không có đủ khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán. Chính vì vậy, chất lượng công tác thẩm định đánh giá khách hàng có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán L/C tại các ngân hàng thương mại. Trong công tác thẩm định, đánh giá khách hàng, ngân hàng cần tiến hành phân tích một cách kỹ lưỡng năng lực tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Song việc đánh giá khách hàng cũng không chỉ dừng ở lần đầu tiên khách hàng đặt quan hệ giao dịch với ngân hàng mà còn cần được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình ngân hàng quan hệ với khách hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng không chỉ quan tâm phân tích đánh giá năng lực tài chính, phương án kinh doanh, mặt hàng nhập của khách hàng, mà còn phải đặc biệt quan tâm đến tư cách của khách hàng mở L/C cũng như đối tác nước ngoài của khách hàng nữa. Trên cơ sở đó có quyết định đúng đắn cho mở L/C với những điều kiện cụ thể phù hợp với từng ngân hàng, vừa đảm bảo an toàn trong thanh toán, vừa đảm bảo được chính sách khách hàng. Tuy nhiên để có thể tiến hành công tác thẩm định, đánh giá khách hàng một cách có hiệu quả thì cần phối hợp đồng bộ với việc xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, tư cách đạo đức nghề nghiệp tốt. Vì cán bộ ngân hàng mới chính là những người trực tiếp thẩm định đánh giá khách hàng và cũng là người có quyền quyết định cuối cùng trong việc đồng ý hay không đồng ý mở L/C cho khách hàng. 3. 2. Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp Con người luôn là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong quá trình đổi mới đầy khó khăn của ngân hàng. Yêu cầu của giao dịch thương mại quốc tế đòi hỏi cán bộ lãnh đạo cũng như cán bộ trực tiếp làm công tác thanh toán L/C không chỉ có trình độ ngoại ngữ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải có phẩm chất đạo đức, có tinh thần trách nhiệm cao, có kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế, họ phải có kỹ năng phân tích, am hiểu tường tận bộ tập quán quốc tế về tín dụng chứng từ ( UCP 600; ISBP 681, eUCP 1.1, URR 525) và các văn bản luật liên quan. Đồng thời họ phải am hiểu luật pháp, tập quán và thực tiễn hoạt động ngân hàng của từng nước, từng vùng, từng khu vực để vừa có khả năng tư vấn cho khách hàng, đồng thời tránh được rủi ro cho ngân hàng. Để đạt được điều này, các ngân hàng thương mại cần xây dựng cho mình một chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao, am hiểu nghề nghiệp và có tư cách đạo đức nghề nghiệp tốt. Trước hết là việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn ngành từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo đến các nhân viên, từ trung ương đến các chi nhánh và công ty trực thuộc. Đoàn kết để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với các cán bộ làm công tác thanh toán mà cho bất kỳ một bộ phận nào trong ngân hàng. Những cán bộ còn hạn chế về mặt này hay mặt khác sẽ nhận được sự giúp đỡ từ đồng nghiệp của mình để tiến bộ hơn, và điều quan trọng là cùng nhau tiến bộ. Những chi nhánh hoạt động hiệu quả chưa cao sẽ nhận được sự hỗ trợ của các chi nhánh khác. Mọi người cùng làm việc và cùng tin tưởng lẫn nhau, khách hàng tin tưởng vào họ, niềm tin ấy tạo nên một sức mạnh lớn lao, góp phần hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra. Thứ hai là nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, áp dụng công nghệ thông tin của thanh toán viên để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của phát triển kinh tế và hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu qua ngân hàng. Để có được một đội ngũ cán bộ đủ mạnh, các ngân hàng thương mại cần có một chiến lược đào tạo phù hợp. Nội dung đào tạo cần được chú trọng cả về kiến thức kinh tế, nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời đặc biệt coi trọng công tác quản lý giáo dục lý tưởng đạo đức nghề nghiệp cho thanh toán viên. 3.3. Thành lập bộ phận quản lý và phòng ngừa rủi ro Ngân hàng nên thành lập một bộ phận quản lý rủi ro thanh toán chuyên trách lưu giữ, khai thác, cung cấp thông tin về những vụ lừa đảo tranh chấp trên thế giới cũng như ở Việt Nam liên quan đến lĩnh vực thanh toán quốc tế nhằm trước hết là phục vụ cho hoạt động nội bộ ngân hàng, sau đó là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu muốn sử dụng dịch vụ này. Khi cung cấp dịch vụ này cho các doanh nghiệp, ngân hàng đã giúp doanh nghiệp trong việc lựa chọn bạn hàng, tránh được những rủi ro do bạn hàng làm ăn không uy tín, là những công ty ma hay những đối tượng lừa đảo... Để có được lượng thông tin đầy đủ, chính xác, bộ phận này cần có sự phối hợp chặt chẽ với: mạng lưới các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các ngân hàng thương mại Việt Nam, Bộ thương mại và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu... bằng con đường giao dịch xin hoặc mua thông tin trực tiếp, hoặc thông qua trung tâm phòng ngừa rủi ro của ngân hàng Nhà nước (CIC)... Khi có thông tin phong phú, chính xác, bộ phận này có thể thực hiện nghiệp vụ hướng dẫn, tư vấn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Việc cung cấp thông tin, tư vấn trong nội bộ cũng như cho doanh nghiệp, cho các ngân hàng với nhau ngoài việc giúp hạn chế rủi ro trong thanh toán còn đem lại cho các ngân hàng thương mại một nguồn thu dịch vụ mới, góp phần đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng, thu hút khách hàng cũng như khẳng định thêm vị thế của ngân hàng trên thương trường. 3.4. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng Trước thực trạng kinh tế như hiện nay, thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu và là một chủ thể tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh ngân hàng cần tư vấn cho khách hàng một cách có hiệu quả nhất, cụ thể: * Ngân hàng thông qua việc hướng dẫn các quy định, quy chế, thủ tục, hồ sơ cho khách hàng sẽ giúp khách hàng nắm bắt nhanh và cụ thể hơn những yêu cầu về mặt thủ tục và pháp lý trong thanh toán L/C, tiết kiệm được cả thời gian, công sức và chi phí. * Ngân hàng với nguồn thông tin đa dạng và chuyên môn nghiệp vụ của mình có thể tư vấn cho khách hàng trong việc xem xét tính hiệu quả của dự án so sánh với các chỉ tiêu kinh tế của các dự án cùng loại (đặc biệt đối với các dự án có giá trị lớn), có tính đến các yếu tố thị trường trong và ngoài nước. Lợi ích của ngân hàng gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì mới đảm bảo khả năng thanh toán cho người bán khi đến hạn. Có thể kể ra đây một số vấn đề mà ngân hàng có thể tiến hành tư vấn cho khách hàng của mình: ¨ Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu: Tư vấn cho doanh nghiệp xuất khẩu yêu cầu bên mua mở cho mình một L/C đảm bảo nhất Tư vấn cho doanh nghiệp trong việc chọn ngân hàng mở L/C và ngân hàng thanh toán. Những ngân hàng càng lớn, càng có uy tín, quan hệ tốt và thường xuyên thanh toán sòng phẳng thì việc thanh toán sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. Tư vấn cho doanh nghiệp cách thức đòi tiền bằng thư hay bằng điện. L/C cho phép đòi tiền bằng điện là loại có lợi hơn cả vì tiền thu được nhanh hơn, tạo điều kiện tăng nhanh vòng quay của vốn Tư vấn cho doanh nghiệp cân nhắc các điều kiện bất lợi của L/C Ngân hàng cũng nên tư vấn cho khách hàng cách giải quyết khi bộ chứng từ có sai sót ¨ Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu: Tư vấn cho nhà nhập khẩu nên mở loại L/C nào Tư vấn cho doanh nghiệp trong việc đưa các điều khoản vào L/C Tư vấn cho doanh nghiệp trong việc chấp nhận các yêu cầu của bên bán khi mở L/C, sửa đổi L/C sao cho không làm tổn hại đến lợi ích của mình... Để góp phần phòng ngừa rủi ro, ngay từ ban đầu ngân hàng không chỉ làm tốt công tác thẩm định mà còn phải tư vấn cho khách hàng những nội dung nằm trong khả năng của ngân hàng ngay từ khi khách hàng kư kết các hợp đồng ngoại thương. Có nghĩa là ngân hàng không chỉ thụ động ngồi chờ khách hàng tìm đến với mình mà phải chủ động giữ mối quan hệ thường xuyên với khách hàng, hỗ trợ ngay khi khách hàng có yêu cầu. Với vốn kiến thức và kinh nghiệm về các lĩnh vực có liên quan như phương thức thanh toán, điều kiện ràng buộc, thời hạn trả nợ, lãi suất,...ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng, thậm chí nếu cần có thể tham gia đàm phán để có những điều khoản hợp đồng chặt chẽ hơn giảm thiểu sự bất lợi cho khách hàng Việt Nam. Đây có thể coi là một trong những biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro, vừa giải quyết được nhu cầu xuất - nhập khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp, vừa phát triển được nghiệp vụ cho bản thân ngân hàng. Chúng ta cũng đã thấy một thực tế là hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta hiện nay còn có nhiều hạn chế về nghiệp vụ ngoại thương, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán. Do đó, đồng thời với việc tư vấn cho khách hàng thì ngân hàng cũng có thể mở các lớp tập huấn nghiệp vụ nhằm nâng cao trình độ ngoại thương cho khách hàng. Thông qua hoạt động này, trình độ nghiệp vụ ngoại thương của khách hàng được nâng cao và ngân hàng cũng tạo được mối quan hệ tốt với khách hàng. Có thể nói đây là một biện pháp phòng ngừa rủi ro khá hữu hiệu, đồng thời uy tín của ngân hàng trong con mắt của khách hàng cũng được nâng lên. 3.5. Tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng Trong những năm qua, không chỉ các ngân hàng thương mại mà toàn bộ hệ thống Ngân hàng đã và đang vươn lên về mọi mặt trong đó nổi bật nhất là áp dụng công nghệ kỹ thuật cao trong kinh doanh đưa mối quan hệ giao dịch của toàn hệ thống đi trước một bước, phục vụ đắc lực mục tiêu sớm hoà nhập vào cộng đồng khu vực và thế giới. Các ngân hàng đã áp dụng phần mềm SWIFT tiên tiến phù hợp với công nghệ của các Ngân hàng đại lý ở nước ngoài. Với phương châm đổi mới và áp dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng để nâng cao chất lượng phục vụ, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý qua đó tăng sức cạnh tranh, từ nhiều năm nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã đầu tư một số vốn rất đáng kể cho việc nâng cấp trang thiết bị máy móc, cải tiến và nâng cấp chương trình tin học chuẩn hoá đáp ứng yêu cầu hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện đại. Những kỹ thuật tiên tiến này đã giúp cho hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc đầu tư cho công nghệ như vậy vẫn mới ở mức ban đầu so với quốc tế. Do vậy, trong những năm tới, các NHTM cần tiếp tục đầu tư vào việc đổi mới công nghệ nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển không ngừng của hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng. 4. Một số kiến nghị cụ thể về nghiệp vụ Quy trình thanh toán là nhân tố trực tiếp tác động đến thanh toán tín dụng chứng từ. Bất kỳ một sai sót dù nhỏ trong quá trình thực hiện quy trình cũng có khả năng dẫn đến rủi ro trong thanh toán. Đối với các NHTM, rủi ro không chỉ là những gì đã xảy ra mà còn là những gì đang tiềm ẩn cần tiếp tục được phân tích, nghiên cứu để tìm ra biện pháp ngăn ngừa thích hợp. Hoàn thiện quy trình thanh toán tín dụng chứng từ là biện pháp ngăn ngừa mang tính chất trực tiếp và sát thực nhất so với các biện pháp đã được đề ra. ¨ Hoàn thiện quy trình thanh toán L/C hàng nhập: Định mức ký quỹ một cách hợp lý Định mức ký quỹ một cách hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng mở tránh được rủi ro về tỷ giá. Định mức ký quỹ là một việc làm không đơn giản bởi lẽ mức ký quỹ quá cao sẽ gây khó khăn cho nhà nhập khẩu, nhà nhập khẩu sẽ sẵn sàng từ bỏ ngân hàng chuyển sang quan hệ với các ngân hàng khác chấp nhận mức ký quỹ thấp hơn. Trong trường hợp ngược lại, nếu mức ký quỹ quá thấp sẽ không đảm bảo thực hiện cam kết của khách hàng. Vì vậy, khi xác nhận định mức ký quỹ Ngân hàng cần dựa vào những yếu tố sau đây: * Uy tín và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. Nếu đơn vị nhập khẩu là khách hàng quan hệ lâu năm, có uy tín thanh toán đối với ngân hàng thì có thể định mức ký quỹ thấp. Ngược lại nếu khách hàng lần đầu tiên đến quan hệ mở L/C thì phải yêu cầu ký quỹ cao, có thể lên đến 100% trị giá thanh toán hoặc phải có tài sản bảo đảm hay tìm người bảo lãnh. * Hiệu quả kinh tế của lô hàng nhập về: định mức ký quỹ phải cao hơn tỷ suất lợi nhuận mà lô hàng mang lại bởi vì trong trường hợp nhà nhập khẩu thế chấp bằng cả lô hàng không có khả năng thanh toán cho ngân hàng mở thì ngân hàng sẽ được quyền định đoạt đối với hàng hoá. Giá chuyển nhượng phải bảo đảm cho ngân hàng thanh toán với nước ngoài. * Tỷ lệ trượt giá của đồng tiền: trong thời kỳ tỷ giá biến động mạnh, ngân hàng phải điều chỉnh tỷ lệ ký quỹ để tránh rủi ro về tỷ giá. Tỷ lệ điều chỉnh phải tương ứng với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong thời gian tới. Cân nhắc các điều kiện đảm bảo thanh toán Trường hợp thường xuyên xảy ra ở các Ngân hàng trong thương mại quốc tế là khi hàng hoá đến trước bộ chứng từ. Nếu để quá thời gian ân hạn nhà nhập khẩu sẽ phải chịu thêm phí lưu kho nên họ thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho phép 1/3 bộ chứng từ được gửi trực tiếp đến người mở và 2/3 bộ chứng từ còn lại gửi qua ngân hàng mở. Trong trường hợp này, nếu chấp nhận điều kiện đó thì nhất thiết vận đơn phải theo lệnh của ngân hàng mở thông qua hình thức ký hậu. Nếu nhà nhập khẩu yêu cầu vận đơn theo lệnh của nhà nhập khẩu thì phải có biện pháp quản lý chặt chẽ tài khoản tiền gửi và tài khoản tiền vay của khách hàng. Xem xét các điều kiện đòi tiền: Đòi tiền bằng điện là hình thức trong đó bảo lưu quyền đòi lại. Nghĩa là sau khi đã chuyển tiền bằng điện thanh toán cho người bán, nếu bộ chứng từ có lỗi và nhà nhập khẩu từ chối thanh toán thì ngân hàng mở có quyền đòi nhà xuất khẩu hoàn tiền lại. Nhưng trong thực tế khả năng hoàn tiền lại của nhà xuất khẩu là rất khó, còn tuỳ thuộc vào thiện chí của họ và khó tránh khỏi những tranh chấp xảy ra. Vì vậy trước khi quyết định mở một L/C cho phép đòi tiền bằng điện, Ngân hàng phải nghiên cứu kỹ lưỡng khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. ¨ Hoàn thiện quy trình L/C hàng xuất: Ngân hàng thông báo sau khi nhận được L/C bằng điện (Telex, Swift) không đầy đủ và không rõ ràng có thể tính sai mã test hoặc không xác định được mẫu điện. Trong trường hợp này ngân hàng thông báo phải yêu cầu ngân hàng mở mở lại thư tín dụng đó hoặc cung cấp mã test chính xác nhằm phòng ngừa gặp phải thư tín dụng giả. Ngoài tư cách là ngân hàng cung ứng dịch vụ thu phí, ngân hàng thông báo còn có thể được yêu cầu xác nhận thư tín dụng. Trong trường hợp này ngân hàng xác nhận sẽ phải gánh chịu rủi ro cùng ngân hàng mở. Nghiệp vụ này thường chỉ được thực hiện với những ngân hàng mở được cấp tín dụng hoặc có uy tín. Tuy nhiên vẫn có thể xác nhận đối với các ngân hàng mở không phải là khách hàng quen thuộc nhưng phải nghiên cứu kỹ khách hàng và yêu cầu được chiết khấu bộ chứng từ nhằm phòng tránh khả năng bộ chứng từ bị từ chối thanh toán. Khi quyết định chiết khấu bộ chứng từ, ngân hàng thương mại cần: Nghiên cứu tình hình kinh tế-chính trị của nước nhà nhập khẩu. Xem xét khả năng thanh toán của nhà xuất khẩu, ngân hàng mở và nhà nhập khẩu. Ví dụ như đối với những quốc gia tình hình tài chính không ổn định, khủng hoảng kinh tế có thể dẫn đến hàng loạt các tổ chức tài chính, tín dụng bị đóng cửa. Với những thư tín dụng được mở ở ngân hàng những nước này ngân hàng không nên chiết khấu bộ chứng từ vì rủi ro cao. Trong quy chế thanh toán của các Ngân hàng đều quy định việc chiết khấu truy đòi và miễn truy đòi với các bộ chứng từ hoàn hảo. Nhưng cho tới nay, chính Ngân hàng ngoại thương là một Ngân hàng đứng đầu trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế mà vẫn chưa thực hiện nghiệp vụ chiết khấu chứng từ theo kiểu “mua đứt bán đoạn” như nhiều Ngân hàng lớn trên thế giới. Quy định này đảm bảo cho sự an toàn của Ngân hàng nhưng lại không có tín cạnh tranh cao. Chính vì vậy theo em đây là sẽ là một nghiệp vụ mang lại lợi nhuận nếu Ngân hàng có thể thẩm định tốt các vấn đề liên quan đến việc chiết khấu bộ chứng từ này. Trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, các Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển trước hết phải khắc phục được những hạn chế trên, cung cấp dịch vụ thanh toán hoàn hảo cho khách hàng trong đó đặc biệt cần chú trọng đến thực hiện đầy đủ nghiệp vụ của phương thức tín dụng chứng từ. Để trống một mảng dịch vụ nào cũng đồng nghĩa với việc Ngân hàng tạo điều kiện cho các đối thủ của mình giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này. KẾT LUẬN Thế giới ngày càng mở cửa thì việc mở rộng giao lưu hợp tác khu vực và trên thế giới ngày càng được khuyến khích. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong đó phải kể đến là lĩnh vực thanh toán quốc tế. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh qua các năm, nền kinh tế dần được cải thiện và phát triển. Đạt được kết quả đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của các ngân hàng thương mại với tư cách là trung gian thanh toán quốc tế, với phương thức thanh toán chủ yếu là tín dụng chứng từ, các ngân hàng đã giúp cho hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra nhanh chóng, liên tục và đạt hiệu quả cao. Các nghiệp vụ thanh toán quốc tế đã không ngừng đổi mới cho phù hợp với những yêu cầu của khách hàng. Bằng uy tín, nguồn vốn và kinh nghiệm dày dạn của các ngân hàng thương mại trong hoạt động thanh toán quốc tế, đặc biệt trong công tác thanh toán tín dụng chứng từ, phương thức TDCT đã thực sự trở thành một công cụ đắc lực cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, góp phần không nhỏ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mà phương pháp TDCT mang lại, các ngân hàng, người xuất khẩu và nhập khẩu cũng đối mặt với không ít các rủi ro khi thanh toán bằng phương thức này. Trước ngưỡng cửa của sự đổi mới và hội nhập, việc hạn chế thậm chí không thể để ra sai sót trong thanh toán quốc tế là một yêu cầu hết sức đúng đắn và thiết thực. Chính vì vậy, việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ, giải quyết những vướng mắc còn tồn đọng chính là một trong những việc mà các ngân hàng TM, người xuất khẩu nhập khẩu và các cơ quan chức năng cần phải sớm hoàn thiện để có thể đứng vững và cạnh tranh được trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. Giáo trình thanh toán quốc tế _PGS.TS. Nguyễn Hoàng Ngân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL-C và các loại rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ.doc
Luận văn liên quan