Đề tài Thúc đẩy niêm yết cổ phiếu các ngân hàng thương mại cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam

MỤC LỤC Lời cảm ơn 4 LỜI MỞ ĐẦU 5 CHƯƠNG I- CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN 9 1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán 9 1.1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán 9 1.1.2. Phân loại thị trường chứng khoán 11 1.1.2.1. Phân loại theo hàng hóa 11 1.1.1.2. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn 12 1.1.2.3. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường 13 1.1.2. Niêm yết chứng khoán 15 1.1.2.2. Khái niệm niêm yết chứng khoán : 15 1.1.2.3. Mục đích của niêm yết chứng khoán 16 1.1.2.4. Các hình thức niêm yết chứng khoán 17 1.1.2.5. Tiêu chuẩn niêm yết chứng khoán 18 1.2. Giới thiệu về ngân hàng thương mại cổ phần 22 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, sự tham gia trên TTCK của NHTM CP 22 1.2.2. Sự cần thiết niêm yết cổ phiếu các ngân hàng thương mại cổ phần 24 1.2.3. Tác động của việc niêm yết cổ phiếu các NHTM CP 25 1.2.3.1. Tác động tới ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết 25 1.2.3.2. Tác động tới hệ thống ngân hàng 27 1.2.3.3. Tác động tới thị trường chứng khoán 28 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc niêm yết cổ phiếu các NHTM CP 29 1.3.1. Các nhân tố thuộc về các ngân hàng thương mại cổ phần 29 1.3.2. Các nhân tố thuộc về ngân hàng nhà nước 31 1.3.3. Các nhân tố thuộc về thị trường chứng khoán 32 1.3.4. Các nhân tố khác 32 CHƯƠNG 2- TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ THỰC TRẠNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM 33 2.1. Qúa trình hình thành và phát triển của Thị trường chứng khoán Việt Nam 33 2.1.1. Kết quả đạt được 34 2.1.2. Những hạn chế 36 2.1.3. Nguyên nhân của hạn chế 38 2.2. Khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam 39 2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam 40 2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 42 2.2.3. Đề án cải cách các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 46 2.3. Thực trạng các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. 47 2.3.1 Thực trạng vốn chủ sở hữu 47 2.3.2. Thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 51 2.4. Đánh giá thực trạng các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 59 2.4.1. Kết quả 59 2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân 62 2.4.2.1. Hạn chế 62 2.4.2.2. Nguyên nhân 65 CHƯƠNG III - GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM TRÊN TTCK 67 3.1. Định hướng và giải pháp phát triển TTCKVN 67 3.1.1. Mục tiêu 67 3.1.2. Quan điểm phát triển thị trường chứng khoán 67 3.1.3. Giải pháp thực hiện 68 3.2. Định hướng phát triển ngân hàng thương mại cổ phần Việt nam 69 3.2.1. Nhu cầu niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 69 3.2.1.1. Nhu cầu của bản thân ngân hàng thương mại cổ phần 69 3.2.1.2. Nhu cầu từ cải cách hệ thống ngân hàng 71 3.2.1.3. Nhu cầu từ phát triển thị trường chứng khoán 72 3.2.2. Định hướng phát triển của TTCK và xu hướng phát triển của các NHTM CP Việt Nam 72 3.3. Xác lập tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 74 3.3.1. Quan điểm xác định tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 74 3.3.2. Hình thức niêm yết cổ phiếu NHTM CP Việt Nam 75 3.3.3. Tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần Việt nam 76 3.4. Giải thúc đẩy niêm yết cổ phiếu các ngân hàng thương mại cổ phần Việt nam 78 3.4.1. Nhóm giải pháp vĩ mô 78 3.4.1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý 78 3.4.1.2. Hoàn thiện môi trường kinh tế, môi trường đầu tư 80 3.4.1.3. Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán 81 3.4.1.4. Chính sách hỗ trợ từ chính phủ và Ngân hàng Nhà Nước 82 3.4.1.5. Tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước 83 3.4.2. Nhóm giải pháp vi mô 83 3.4.2.1. Tăng cường huy động vốn chủ sở hữu 83 3.4.2.2. Điều chỉnh kết cấu nguồn vốn và tài sản 84 3.4.2.3. Giải quyết dứt điểm nợ xấu, nợ đọng 84 3.4.2.4. Nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực hoạt động 85 3.4.2.5. Hoàn thiện hoạt động quản lý, điều hành 86 3.4.2.6. Nâng cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin 87 3.4.2.7. Đào tạo nguồn nhân lực 88 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92

doc87 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2565 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thúc đẩy niêm yết cổ phiếu các ngân hàng thương mại cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó vốn điều lệ trên 300 tỷ đồng (tương đương 20 triệu USD). Quy mô của NHTMCP vủa Việt nam hiện nay còn quá nhỏ bé. NHTMCP có vốn điều lệ cao nhất là Sài gòn thương tín – 550 tỷ đồng, ương ứng khoảng 32 triệu USD. Còn phần lớn có mức vốn trên 100 tỷ đồng, tương ứng trên 6 triệu USD, còn thua xa so với các ngân hàng trong khu vực. Nhiều NHTMCP rất khó khăn trong việc tăng vốn điều lệ. Vốn điều lệ của tất cả các NHTMCP đô thị chỉ bằng vốn điều lệ của 1 NHTM Nhà nước. Vốn tự có không đủ lớn thì khó có thể cạnh tranh được với các ngân hàng lớn về lãi suất, đầu tư vốn và dịch vụ ngân hàng, không thể trang bị và phát triển công nghệ tiên tiến (thí dụ : nếu trang bị 1 máy ATM là 34.000 USD). Vốn điều lệ thấp thì cũng không thể làm ăn lớn được. Các NHTMCP chủ yếu tập trung trên các địa bàn Hà nội và TP. HCM, là 2 nơi mà các NHTM Nhà nước, ngân hàng nước ngoài đã có mạng lưới và ảnh hưởng chi phối mọi hoạt động dịch vụ ngân hàng. Tuy vậy, cũng có NHTMCP vốn điều lệ trên 200 tỷ mà mở tới 34 chi nhánh cấp I, cấp II dàn trải trên cả nước. Việc mở rộng quy mô này là không phù hợp với khả năng tài chính và điều kiện quản lý điều hành. Năng lực quản trị điều hành của nhiều ngân hàng còn bất cập : Những năm gần đây, nhiều NHTMCP, nhất là các ngân hàng lớn, đã chú trọng tới việc nâng cao năng lực quản trị điều hành bằng nhiều phương thức : tìm các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực ngân hàng về tăng cường cho Ban điều hành, cử nhiều cán bộ các cấp đi đào tạo tại các trung tâm có chất lượng cao ở trong và ngoài nước. Song, nhìn chung, năng lực quản lý điều hành của nhiều ngân hàng vẫn còn bất cập. Sự chồng chéo và phân định chưa rõ ràng giữa chức năng quản trị và điều hành, sự can thiệp quá sâu của quản trị vào điều hành dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, không phát huy được sức mạnh và trí tuệ tập thể. Cá biệt, còn một số ngân hàng tình hình nội bộ không ổn định để kéo dài, các quy trình tác nghiệp chưa được quy định đầy đủ và kịp thời, trinh độ cán bộ còn yếu, nhất là các chi nhánh ở xa trụ sở chính. Một số NHTMCP có vốn góp của Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) chiếm tỷ trọng cao thưòng còn mang tư duy quản lý điều hành theo kiểu bao cấp của các vị đại diện chủ DNNN là thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT). Những vị thành viên lãnh đạo này thưòng ít có điều kiện có mặt tại nhiệm sở để chỉ đạo điều hành ngân hàng, nên HĐQT của ngân hàng còn mang tính hình thức, chủ yếu là uỷ thác cho Tổng giám đốc (Giám đốc). Do đó, việc quản lý ngân hàng chưa được sâu sát, giải quyết vụ việc còn thụ động, chưa có mục tiêu chiến lược lâu dài. Mức thu nhập còn rất khác nhau : Việc phân chia lợi nhuận cho các cổ đông chưa được ổn định, chênh lệch nhiều và chưa nhất quán trong hệ thống. Về cơ chế tài chính, cơ chế tiền lương của các NHTMCP còn rất khác nhau, mỗi ngân hàng áp dụng một cách, tuỳ thuộc vào sự hiểu biết của HĐQT, nên ít nhiều đã tạo nên sự di chuyển CBNV, dẫn đến tình trạng không ổn định trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Thực trạng tài chính của một số ngân hàng chưa lành mạnh : Việc xử lý nợ tồn đọng của các NHTMCP còn gặp nhiều khó khăn. Nếu con nợ là DNNN thì hiện nay chưa có phương cách giải quyết do tài sản thế chấp, cầm cố các khoản vay thông thường là trụ sở cơ quan, dây chuyền thiết bị máy móc chuyên dùng.... Những tài sản này rất khó phát mại, hồ sơ giấy tờ liên quan đến tài sản thường không đảm bảo (không có giấy tờ gốc, tài sản giao theo chế độ tự quản hoặc tài sản được bổ sung khi nhận nợ bắt buộc...) khi phát mại tài sản của DNNN thưòng liên quan đến vấn đề xã hội (việc làm người lao động, cơ quan chủ quản buông lỏng trách nhiệm....) và phải được sự chấp thuận của Cục Quản lý Công sản Bộ Tài chính. Dịch vụ của nhiều ngân hàng còn rất nghèo nàn : Mặc dù các ngân hàng đều nỗ lực mở rộng danh mục dịch vụ cung cấp cho khách hàng như dịch vụ chiết khấu, cho thuê, bảo lãnh, dịch vụ chứng khoán, thanh toán thẻ..., song chủ yếu các hoạt động của ngân hàng là hoạt độnng tín dụng và thanh toán. Đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng đang là nhu cầu thiết thực tại các ngân hàng. Qúa trình này sẽ làm tăng những nguồn thu mới cho ngân hàng bên cạnh những nguồn thu từ các dịch vụ truyền thống. Khả năng huy động vốn trên thị trường của nhiều ngân hàng còn ở mức thấp : Nhiều ngân hàng cân đối dư nợ tín dụng bằng nguồn vốn của thị trường liên ngân hàng – vốn ngắn hạn. Tỷ trọng vốn huy động trên thị trường của một số ngân hàng chiếm tỷ lệ thấp trên tổng nguồn vốn, trong khi đó, tốc độ phát triển tín dụng lại vượt xa tốc độ tăng trưởng vốn huy động. Các NHTMCP mới chỉ huy động vốn chủ sở hữu thông qua việc phát hành cổ phiếu với phương thức phát hành riêng lẻ, chưa huy động vốn thông qua TTGDCK dưới bất kỳ hình thức nào. Nguyên nhân: a) Nguyên nhân chủ quan : Ý thức chấp hành pháp luật, quy chế ở nhiều NHTMCP chưa nghiêm, thậm chí có NHTMCP còn tìm mọi cách lợi dụng sơ hở để kiếm lời không chính đáng. Việc kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ từng ngân hàng còn bộc lộ yếu kém, không thường xuyên, không kịp thời và thiếu kiên quyết. Ban kiểm soát ở một số NHTMCP mang tính chất hình thức, không có hiệu quả. Trình độ quản lý, điều hành nghiệp vụ chưa theo kịp sự phát triển nhiều mặt hoạt động ngân hàng. Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc điều hành ở một số NHTMCP mất đoàn kết, hoặc mang tính chất gia đình, họ hàng...Cán bộ điều hành và quản lý thiếu kiến thức và kinh nghiệm về tài chính ngân hàng, hoặc tuổi đã cao, kém sự năng động, linh hoạt, mạnh dạn trong kinh doanh. Ngược lại có một số NHTMCP, ban lãnh đạo lại quá mạo hiểm trong kinh doanh. Mô hình tổ chức của một số ngân hàng còn manh mún, không đảm bảo điều kiện để phát triển ngân hàng thành ngân hàng thương mại đa năng, hiện đại. Khả năng phát triển dịch vụ của các ngân hàng còn hạn chế bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân nguồn vốn nhỏ bé và khả năng tiếp cận thị trường yếu. Mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động ở một số ngân hàng thiếu tính ổn định và không có nền tảng vững chắc. Môi trường làm việc và chế độ không rõ ràng ở một số NHTMCP đã không tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên phát huy năng lực và thiếu định hướng phấn đấu. Vai trò của các tổ chức Đảng và các đoàn thể tại các NHTMCP chưa được quan tâm đúng mức trong khi thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong lĩnh vực ngân hàng có một đội ngũ đông đảo các Đảng viên, Đoàn viên có trình độ và trí tuệ đang làm việc. b) Nguyên nhân khách quan : Những yếu kém của nền kinh tế, sự bất hợp lý trong quản lý chậm được khắc phục. Cơ sở vật chất-kỹ thuật, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế xã hội đang còn ở trong tình trạng nghèo nàn và lạc hậu, sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển không đồng đều. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Trình độ công nghệ và khả năng tài chính của nhiều doanh nghiệp đang ở mức thấp. Tình trạng tham nhũng, lãng phí trong nền kinh tế, bộ máy quản lý cồng kềnh cũng là một trong những yếu tố dẫn đến gia tăng một cách bất hợp lý chi phí đầu vào của nền kinh tế. Bối cảnh nền kinh tế còn trong giai đoạn chuyển đổi tác động một phần đến hoạt động của hệ thống ngân hàng. Kết quả đổi mới cho thấy những thành phố và tỉnh đã đạt được mức độ phát triển tốt thì nhu cầu vốn dịch vụ ngân hàng cũng phát triển theo, và do đó thúc đẩy các hoạt động ngân hàng phát triển mạnh mẽ. Hệ thống pháp luật chưa dồng bộ, còn nhiều kẽ hở cũng là một nguyên nhân khác. Những hạn chế của hệ thống văn bản pháp lý hiện hành đã bộc lộ như ràng buộc NHTMCP phải có cổ đông là DNNN hoặc công ty cổ phần có vốn góp của DNNN trên 30% vốn điều lệ tham gia đã hạn chế việc NHTMCP huy động vốn chủ sở hữu, ràng buộc về đối tượng mua cổ phần....Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể trong việc xử lý các NHTM phá sản, vì vậy trường hợp các ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản thì NHNN cũng chưa có đủ cơ sở pháp lý để xử lý. Qúa trình thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm của NHNN chưa thường xuyên, chặt chẽ, thiếu sâu sát, còn nương nhẹ...đã làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước đối với các NHTMCP. -CHƯƠNG III - GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM TRÊN TTCK 3.1. Định hướng và giải pháp phát triển TTCKVN Mục tiêu Phát triển TTCK cả về quy mô và chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát trị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. 3.1.2. Quan điểm phát triển thị trường chứng khoán Một là, phát triển TTCK phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và thông lệ quốc tế, từng bước hội nhập với thị trường tài chính khu vực. Hai là, tổ chức và vận hành TTCK an toàn, hiệu quả, đảm bảo tính thống nhất của thị trường tài chính, gắn phát triển TTCK với phát triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ. Ba là, thực hiện quản lý nhà nước về TTCK bằng công cụ pháp luật, tạo điều kiện và khuyến khích các chủ thể tham gia TTCK, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư. Bốn là, gắn việc phát triển TTCK với tiến trình CPH các DNNN, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và huy động vốn cho ngân sách, cho đầu tư phát triển. 3.1.3. Giải pháp thực hiện Thứ nhất, thúc đẩy việc tăng cung chứng khoán trên cơ sở tăng cường số lượng và chất lượng của các chứng khoán niêm yết trên TTCK thông qua việc gắn kết công tác CPH DNNN, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết trên TTCK. Thứ hai, phát triển cơ sở nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư cá nhân trong và ngoài nước trên cơ sở tạo lập môi trường thông thoáng để phát triển các định chế đầu tư chuyên nghiệp nhằm định hướng đầu tư cho các nhà đầu tư nhỏ thông qua việc thực hiện các chính sách khuyến khích về thuế, phí, lệ phí và quản lý ngoại hối. Từng bước nghiên cứu để trình cơ quan có thẩm quyền mở rộng tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam. Thứ ba, từng bước hoàn thiện các thể chế TTCK và tăng cường năng lực cho các định chế trung gian tham gia thị trường trên cơ sở củng cố và hiện đại hóa các định chế thị trường đã có sẵn như TTGDCK, công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Thứ tư, phát triển TTCK trong mối tương quan chặt chẽ với các khu vực khác của thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường bảo hiểm và thị trường tiền tệ nhằm tạo ra sự cân đối vững chắc trong cấu trúc tài chính để huy động các nguồn lực cho phát triển. Từng bước hoàn thiện các thể chế TTCK để có thể tham gia vào tiến trình hội nhập vào các nền kinh tế, trước mắt là hội nhập vào thị trường vốn khu vực ASEAN thông qua việc tham gia vào phát trỉen thị trường trái phiếu Châu Á và kết nối với thị trưòng vốn Singapore. Thứ năm, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và nâng cao năng lực hoạch định chính sách về chứng khoán và TTCK thông qua việc xây dựng Luật chứng khoán nhằm tạo lập môi trường pháp luật toàn diện, nhất quán và đồng bộ với các văn bản pháp luật khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia thị trường. Thứ sáu, nâng cao vai trò quản lý nhà nước và tăng cường công tác giám sát thị trường nhằm đảm bảo môi trường công bằng, công khai, minh bạch, qua đó giảm thiểu các rủi ro, tạo niềm tin cho nhà đầu tư trên TTCK. Định hướng phát triển ngân hàng thương mại cổ phần Việt nam Nhu cầu niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Nhu cầu của bản thân ngân hàng thương mại cổ phần: Sau 4 năm thực hiện chương trình cơ cấu lại các NHTMCP và công ty tài chính cổ phần, số lượng tổ chức này ở nước ta đã giảm từ con số 52 xuống còn 37, chủ yếu do sáp nhập, bán lại....để tăng quy mô và tăng tính hệ thống. Đến nay hầu hết các TCTD cổ phần này đã tăng đủ vốn điều lệ theo quy định của Chính phủ. Một số NHTMCP có số vốn điều lệ tới hàng trăm tỷ đồng. Đồng thời ở thời điểm này về cơ bản là các NHTMCP bảo đảm được tỷ lệ an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, tức là tỷ lệ vốn điều lệ trên tài sản có đạt tối thiểu là 8%. Song với tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân đạt 25%/năm, thì tổng tài sản có cũng tăng với tỷ lệ tương ứng. Trong khi số vốn điều lệ không tăng, thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo thông lệ quốc tế cũng giảm tương ứng là 25%/năm trong các năm tới đây. Bên cạnh đó, hệ thống NHTMCP VN đang đứng trước yêu cầu cấp bách phải nâng cao khả năng cạnh tranh trong điều kiên hội nhập khu vực và quốc tế theo cam kết mở cửa thị trường tài chính và dịch vụ ngân hàng. Song hiện tại mặc dù đã tăng đủ vốn theo quy định, nhưng quy mô còn rất nhỏ so với các ngân hàng trong khu vực chứ chưa nói đến phạm vi quốc tế. Hiện nay bình quân vốn điều lệ của các NHTMCP đô thị là 100 tỷ đồng, tương ứng với trên 6 triệu USD. NHTMCP có số vốn lớn nhất cũng chỉ đạt trên 500 tỷ đồng, tương ứng với trên 30 triệu USD, chỉ bằng khoảng 12%-18% vốn điều lệ trung bình một ngân hàng trong khu vực. Vốn điều lệ thấp sẽ bị hạn chế về khả năng huy động vốn, hạn chế trạng thái ngoại hối, hạn chế tiềm lực tài chính để đầu tư hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hạn chế đầu tư cho phát triển màng lưới, mở rộng thị phần cho vay. Do đó, yêu cầu cấp bách đặt ra hiện nay là phải tiếp tục tăng vốn điều lệ cho các NHTMCP, trong đó biện pháp thông qua thị trường tập trung là một hướng đầy triển vọng. Về uy tín, sau thời gian cơ cấu lại, hệ thống NHTMCP nước ta đã thay đổi cơ bản về chất. Bộ máy điều hành được nâng cao trình độ, nhân viên được tuyển chọn bám sát tiêu chuẩn và quy trình của quốc tế, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Công nghệ ngân hàng được đẩy mạnh đầu tư. Các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao và đa dạng, có hiệu quả... Do đó đến nay tất cả các NHTMCP đều kinh doanh có lãi, nhiều ngân hàng có số lãi lớn. Mức cổ tức trên 10% tính đến cuối năm 2003 cao hơn rất nhiều lãi suất trái phiếu kho bạc, trái phiếu NHTM... nên cổ phiếu của các NHTMCP đương nhiên hấp dẫn các nhà đầu tư mua cổ phiếu nếu nó được phát hành ra. Sự tin tưởng của các nhà đầu tư tương lai còn dựa trên cơ sở báo cáo tài chính minh bạch và rõ ràng của các NHTMCP đô thị đều được kiểm toán quốc tế, Thanh tra NHNN giám sát chặt chẽ. Ngay như Công ty tài chính quốc tế IFC thuộc WB đã bỏ ra gần 10 triệu USD mua cổ phần của NHTMCP Đông Á và NHTMCP Sài Gòn thương tín. Nhiều nhà đầu tư quốc tế đang rất quan tâm đầu tư vốn mua cổ phần của các NHTMCP VN. Như vậy có thể nói đã chín muồi các điều kiện cần và điều kiện đủ cho các NHTMCP niêm yết và phát hành cổ phiếu trên TTCK. Nhu cầu từ cải cách hệ thống ngân hàng: Những năm gần đây, trong điều kiện nền kinh tế mở, nhiều loại hình TCTD ở nước ta, nhất là các NHTMCP khi được thành lập với điểm xuất phát thấp, sau một thời gian hoạt động đã bộc lộ những yếu kém, bất cập về vốn, công nghệ, trình độ quản lý, quản trị và điều hành. Nhiều ngân hàng phải gặp khó khăn, phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, nếu không có “bàn tay của Nhà nước” trợ giúp kịp thời thì có nguy cơ không đủ khả năng chi trả, có thể phải phá sản, mất lòng tin với dân chúng, tác động xấu tới nền kinh tế. Thực trạng trên đã được Bộ Chính trị và Chính phủ đặc biệt quan tâm chỉ đạo để sắp xếp, chấn chỉnh và đổi mới hệ thống ngân hàng ở nước ta. Việc sắp xếp, sáp nhập, mua lại và giải thể áp dụng với các NHTMCP đã mang lại những kết quả khả quan với việc tạo ra các NHTMCP mới có năng lực tài chính mạnh hơn hẳn, cơ cấu tổ chức được cải tổ, hoạt động quản trị điều hành được nâng cao. Song song bên cạnh đó, các NHTMQD cũng đang được tiến hành cổ phần hóa từng bước, tiến tới thực hiện quản lý hoạt động của các ngân hàng này như đối với các công ty cổ phần. Những giải pháp lớn và mạnh mẽ này đang được tiến hành với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Với những ưu thế cạnh tranh cao của mô hình công ty cổ phần, hệ thống NHTM Việt Nam chắc chắn sẽ có được khả năng tài chính rất lớn, chất lượng hoạt động và uy tín cao hơn so với hiện nay rất nhiều, đặc biệt là khi các NHTM này tham gia trên TTCK. Hệ thống tài chính Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng đang có những bước đi đáng kể chuyển từ kiểm soát trực tiếp sang vận hành theo cơ chế thị trường, điều hành bằng pháp luật. Quy định cho phép sự tham gia của cổ đông nước ngoài với tỷ lệ nhất định trong lĩnh vực ngân hàng cho phép thu hút đầu tư quốc tế, từ đó tiếp thu và học tập được công nghệ ngân hàng hiện đại cũng như các phương pháp quản lý hoạt động tiên tiến của các ngân hàng trên thế giới. Với nhu cầu tăng vốn, mở rộng khả năng tài chính, với yêu cầu về sự minh bạch, chuẩn hóa trong thông tin và hoạt động nghiệp vụ, với những cải cách, thay đổi mạnh mẽ của hệ thống NHTM Việt Nam, việc các NHTM tham gia niêm yết trên TTCK đang là vấn đề được đặt ra phù hợp với thực tiễn hiện nay. Nhu cầu từ phát triển thị trường chứng khoán: Qua 4 năm hoạt động của TTCK Việt Nam cho thấy công tác tạo hàng hóa cho TTCK là rất quan trọng, song hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Số lượng hàng hóa tuy có tăng qua các năm song tăng rất chậm, các công ty niêm yết chủ yếu vẫn là các công ty có quy mô vốn nhỏ. Với khuôn khổ thị trường nhỏ bé, chất lượng cổ phiếu chưa cao nên hoạt động thị trường không thể sôi nổi. Quy mô nhỏ, giá cả chứng khoán và chỉ số chứng khoán luôn biến động, gây tâm lý dè dặt cho các nhà đầu tư tham gia TTCK. Một trong những nguyên nhân của tồn tại và hạn chế trong hoạt động của TTCK hiện nay là do thị trường còn thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức như các ngân hàng, bảo hiểm, tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp nên ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường. Vấn đề tăng cung chứng khoán trên cơ sở tăng cường số lượng và chất lượng của các tổ chức niêm yết, trong đó có các NHTM, đang là nhu cầu bức thiết được đặt ra trong giải pháp nhằm phát triển TTCK hiện nay. Định hướng phát triển của TTCK và xu hướng phát triển của các NHTMCP Việt Nam: Sự ra đời của TTCK Việt Nam là phù hợp với công cuộc đổi mới kinh tế đất nước đang diễn ra mạnh mẽ. Từ nay đến năm 2006 và giai đoạn tiếp theo đến năm 2010, TTCK Việt Nam phải được củng cố và phát triển trên tất cả các mặt : quy mô, phạm vi ảnh hưởng, tính an toàn và hiệu quả nhằm góp phần phát triển nền kinh tế Việt Nam, đáp ứng nhu cầu cấp bách về vốn đầu tư, thúc đẩy tiến trình CPH DNNN, tự do hóa tài chính và hội nhập thị trường tài chính quốc tế. TTCK tập trung được phát triển theo mô hình từ TTGDCK lên SGDCK. UBCKNN chủ động, tích cực phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, các địa phương và doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh công tác tạo hàng hóa cho thị trường, coi công tác phát triển hàng hóa cho thị trường là công tác trọng tâm năm 2004, phối hợp với NHNN nghiên cứu cho phép một số NHTMCP tham gia niêm yết trên TTCK, đồng thời phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét thí đỉem CPH để đưa vào niêm yết một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh dân chúng chưa am hiểu về TTCK, các trung gian tài chính chưa đủ mạnh thì hệ thống NHTM nói chung và NHTMCP nói riêng là một tác nhân cơ bản cho sự phát triển của thị trường này. NHTMCP là một loại hình ngân hàng tồn tại khách quan, đã đáp ứng được những đòi hỏi nhất định của nền kinh tế, được khẳng định vị thế pháp lý của mình thông qua Luật các tổ chức tín dụng, phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN của Đảng cộng sản Việt Nam. Qúa trình hình thành và phát triển hệ thống NHTMCP đã có những đóng góp nhất định cho công cuộc đổi mới kinh tế ở đất nước ta do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nó cũng khẳng định việc khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, để đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế và để khẳng định vị thế của mình, các NHTMCP phải được xây dựng thành những ngân hàng đa năng có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Đây chính là mục tiêu cần phải đạt được và là xu thế phát triển tất yếu của các NHTMCP. Việc niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP trên TTCK là một điều kiện thuận lợi để các ngân hàng này tham gia trên TTCK, thực hiện được mục tiêu đề ra. Như vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam theo định hường thị trường, giữa NHTMCP và TTCK có mối quan hệ ngày càng khăng khít. NHTMCP dựa vào TTCK để huy động vốn, thu lợi nhuận, nâng cao vị thế, uy tín và sức cạnh tranh, từng bước dạt được mục tiêu là xây dựng ngân hàng có tầm cỡ và hoạt động đa năng. Ngược lại, việc gia nhập TTCK của các NHTM nói chung và NHTMCP nói riêng là nhân tố hết sức quan trọng để thúc đẩy TTCK phát triển, đặt biệt là TTCK Việt Nam còn rất non trẻ như hiện nay. Xác lập tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Quan điểm xác định tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam: NHTMCP là một công ty cổ phần đặc biệt bởi loại hình kinh doanh mang tính đặc thù của các ngân hàng - đó là kinh doanh tiền tệ. Bởi vậy, NHTMCP trước tiên phải tuân thủ theo các quy định của Ngành, ngoài ra sẽ phải tuân thủ các quy định khác có liên quan về chứng khoán và TTCK. Tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu NHTMCP về cơ bản phải thoả mãn các điều kiện niêm yết trên TTCK như đối với một công ty cổ phần, nghĩa là cũng phải đảm bảo các quy định về vốn điều lệ, về tình hình tài chính, về tỷ lệ các cổ đông và cơ cấu các cổ đông sở hữu..., nhưng không được trái với các quy định chuyên ngành hoặc không phù hợp với thực tế hoạt động của ngành ngân hàng. Ngoài ra, do những đặc thù riêng của ngành ngân hàng, tiêu chuẩn niêm yết sẽ được bổ sung những tiêu chuẩn riêng có liên quan đến hoạt động ngân hàng như tỷ lệ nợ xấu, đáp ứng các quy định về đảm bảo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động ngân hàng, về tuân thủ giới hạn sở hữu cổ phần theo quy định của Thống đốc, về hồ sơ xin niêm yết v.v... Do đặc tính liên thông cao của hệ thống ngân hàng, do vị trí là huyết mạch của nền kinh tế, sự an toàn và ổn định hệ thống đối với các NHTMCP được đặt lên hàng đầu. Các tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu đối với các NHTMCP do đó sẽ phải chặt chẽ hơn, yêu cầu cao hơn, đảm bảo các NHTMCP được niêm yết sẽ là những ngân hàng thực sự “khoẻ mạnh”, không chỉ đáp ứng nâng cao chất lượng hàng hóa trên TTCK mà còn đủ nội lực để canh tranh bình đẳng và an toàn. Hình thức niêm yết cổ phiếu NHTMCP Việt Nam Theo Luật các tổ chức tín dụng, NHTMCP là “Ngân hàng cổ phần của Nhà nước và nhân dân”, vốn sở hữu của các NHTMCP có phần vốn sở hữu của NHTMQD hoặc của các DNNN. Do vậy, hình thức niêm yết hiện nay sẽ là niêm yết từng phần, trong đó phần vốn góp của Nhà nước không được niêm yết. Quan điểm của NHNN hiện nay thì cổ phiếu của Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng giám đốc và cổ phiếu của cổ đông nước ngoài không được phép niêm yết. Khi những kiến nghị lâu nay về việc xoá bỏ quy định bắt buộc có vốn sở hữu Nhà nước trong cơ cấu sở hữu vốn của các NHTMCP được xem xét và chấp thuận thì việc niêm yết toàn phần là hoàn toàn có thể thực hiện được. Bởi quy định về vốn sở hữu Nhà nước trong sở hữu vốn của các NHTMCP là một ràng buộc hạn chế rất nhiều đến khả năng tăng vốn của các NHTMCP, nhất là trong tiến trình hội nhập. Song, để đảm bảo an toàn hệ thống và xây dựng những bước phát triển vững chắc cho các NHTMCP niêm yết trên thị trường chứng khoán thì thời gian đầu tiên, hình thức niêm yết từng phần là phù hợp nhất. Tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần Việt nam Theo Quyết định số 787/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN quy định tạm thời về việc NHTMCP đăng ký niêm yết và phát hành cổ phiếu ra công chúng, điều kiện để NHTMCP được đăng ký xin niêm yết cổ phiếu là: 1. Vốn điều lệ thực có (gồm vốn điều lệ thực góp trừ số lỗ luỹ kế và các khoản rủi ro chưa được trích lập dự phòng) tối thiểu bằng mức vốn pháp định được quy định theo từng thời kỳ. 2. Có thời gian hoạt động tối thiểu là 05 năm và hoạt động kinh doanh có lãi liên tục trong 2 năm gần nhất kể từ thời điểm xin niêm yết cổ phiếu. 3. Tỷ lệ nợ xấu (bao gồm: các khoản nợ quá hạn, nợ chờ xử lý, nợ cho vay được khoanh được thể hiện trên Bảng cân đối kế toán hàng tháng, nợ chuyển cho Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để xử lý thu hồi vốn cho tổ chức tín dụng cổ phần) so với tổng dư nợ cho vay liên tục trong 02 năm gần nhất dưới 3%. 4. Không vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật, không bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng với mức xử phạt trên 1.000.000 đồng (một triệu đồng) trong thời gian ít nhất 01 năm tính đến thời điểm xin đăng ký niêm yết cổ phiếu. 5. Tuân thủ giới hạn sở hữu cổ phần theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. 6. Được Ngân hàng Nhà nước xếp loại A theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về xếp loại đối với Ngân hàng thương mại cổ phần, liên tục trong hai năm gần nhất kể từ thời điểm xin đăng ký niêm yết cổ phiếu. 7. Có đủ hồ sơ theo quy định tại Điều 4 Quy định này. Điều 4. Hồ sơ của Ngân hàng thương mại cổ phần đề nghị Ngân hàng Nhà nước chấp thuận cho đăng ký niêm yết cổ phiếu, gồm: 1. Văn bản của Chủ tịch Hội đồng quản trị gửi Ngân hàng Nhà nước xin đăng ký niêm yết cổ phiếu, trong đó: giải trình và cam kết đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 3 Quy định này kèm các tài liệu chứng minh có liên quan. 2. Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông chấp thuận các nội dung trong văn bản của Chủ tịch Hội đồng quản trị tại khoản 1 Điều này. 3. Danh sách cổ đông sở hữu từ 5% trở lên vốn điều lệ của ngân hàng, danh sách cổ đông có ghi tên (bao gồm cổ đông và số cổ phần, cổ phiếu của các đối tượng theo quy định tại Điều 6 Quy định này) đến thời điểm xin đăng ký niêm yết cổ phiếu. 4. Cam kết chấp hành quy định pháp luật hiện hành của các đối tượng tại Điều 6 Quy định này. 5. Đề án niêm yết cổ phiếu, trong đó xác định thuận lợi, khó khăn và đặc biệt là các giải pháp xử lý, quản lý của ngân hàng nhằm ngăn ngừa những biến động tiêu cực đến hoạt động ngân hàng, xử lý kịp thời các hành vi bị cấm được quy định từ Điều 103 đến Điều 108 Chương XI Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Như vậy, cùng với Quyết định này, sự hy vọng của giới đầu tư về một loại hàng hóa có chất lượng tốt được niêm yết đã có cơ sở hơn. Tuy nhiên, do đây là lần đầu tiên thực hiện niêm yết cổ phiếu ngân hàng, nên vẫn còn những hạn chế nhất định về điều kiện trong việc niêm yết. Theo Quyết định mới này thì không phải ngân hàng nào muốn cũng có thể niêm yết cổ phiếu của mình được. Ngoài các quy định về mức vốn điều lệ, về thời gian hoạt động và kinh doanh có lãi trong thời gian 2 năm liên tục gần nhất kể từ thời điểm xin niêm yết cổ phiếu, thì còn một số yêu cầu mang tính đặc thù của ngành ngân hàng như quy định về tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ, quy định về việc đáp ứng các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật....Trong tổng số hơn 30 NHTMCP các loại đang hoạt động, chỉ có khoảng 7 ngân hàng thoả mãn các điều kiện này. Những ngân hàng thoả mãn điều kiện đó là những ngân hàng thực sự lành mạnh hiện nay, đảm bảo khi niêm yết sẽ mang lại nhiều lợi ích cho những ngân hàng đó. Mặc dù vậy thị trường ngân hàng có đặc tính liên thông rất cao nên vẫn có vấn đề đáng lo ngại. Đó là trường hợp giá cổ phiếu ngân hàng niêm yết xuống đột ngột và tình trạng đầu cơ gom cổ phiếu. Chính vì điều đó, trong Quy định vừa ban hành, Mục 3 Điều 10 có quy định là chậm nhất vào ngày 15 tháng đầu tiên của mỗi quý, NHCP phải có văn bản báo cáo những thay đổi trong quý trước đó về cổ đông nắm giữ số cổ phiếu từ 5% vốn điều lệ trở lên. Đồng thời, NHNN vẫn chưa cho phép giao dịch cổ phiếu của Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng giám đốc và cổ phiếu của cổ đông nước ngoài. Cần thiết phải đưa ra một giới hạn tỷ lệ nhất định các cổ phiếu của NHTMCP được niêm yết. Giải thúc đẩy niêm yết cổ phiếu các ngân hàng thương mại cổ phần Việt nam Nhóm giải pháp vĩ mô Hoàn thiện môi trường pháp lý Trong những năm gần đây, môi trường hoạt động ngân hàng, nhất là mội trường pháp lý đã trở nên thông thoáng hơn, giúp các ngân hàng thuận lợi hơn trong hoạt động. Tuy nhiên, để hỗ trợ các ngân hàng hơn nữa, tạo đủ sức cạnh tranh và để chuẩn bị tốt cho hội nhập với khu vực và thế giới, môi trường hoạt động ngân hàng cần được “cởi mở” hơn nữa. Các Bộ, ngành liên quan cần xây dựng hệ thống các yêu cầu hoặc hệ thống tiêu chí có tính định hướng đối với một “NHTM hiện đại” phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội-chính trị ở Việt Nam có tính đến điều kiện hội nhập, chẳng hạn : vốn điều lệ, tổng tài sản, hệ thống các chi nhánh, mô hình tổ chức, số lượng lao động và trình độ cán bộ nhân viên, mức độ tự động hóa nghiệp vụ...Các chỉ tiêu đó cần được xác định dưới dạng định lượng. Bên cạnh các chính sách ngắn hạn, Nhà nước cần có chiến lược dài hạn về xây dựng và phát triển hệ thống tài chính, tiền tệ ở Việt Nam. Trước hết, cần xem xét thay đổi yêu cầu về vốn pháp định theo Nghị định số 82/1998/NĐ-CP. Đã đến lúc phải nâng cao yêu cầu và mục tiêu quản lý, điều tiết hoạt động của các NHTM. Trong vài năm gần đây đòi hỏi phải đặt ván đề nâng cao yêu cầu về vốn pháp định đối với NHTMCP. Mức này có thể là 300 tỷ đồng (tương đương 20 triệu USD) cho tất cả các loại hình ngân hàng (trừ NHTMCP nông thôn). Song song với yêu cầu về vốn pháp định, cần phải có chế tài thưởng phạt đối với các ngân hàng đảm bảo hoặc không đảm bảo vốn pháp định. Đối với các ngân hàng không đảm bảo vốn pháp định có thể tăng yêu cầu về tỷ lệ bảo đảm an toàn hoặc có biện pháp hợp nhất, sáp nhập. Trong quá trình tăng vốn điều lệ, cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm quản lý chặt chẽ hoạt động tăng vốn (trừ trường hợp bổ sung vốn điều lệ bằng nguồn lợi nhuận để lại) nhằm hạn chế và loại trừ các trường hợp có thể phát sinh là tăng vốn qua kênh tín dụng với mục đích dùng quỹ dự phòng để bù đắp tín dụng cho vay để tăng vốn điều lệ tại chính ngân hàng cho vay. Việc tăng vốn chủ sở hữu cần phải có sự quản lý từ phía Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển và xây dựng nền tài chính tiền tệ quốc gia an toàn và ổn định trên cơ sở phát triển có kế hoạch nền kinh tế, tránh tình trạng tăng vốn hỗn loạn vì lợi ích cục bộ, dẫn đến tình trạng không kiểm soát được. Như vậy, việc tăng vốn chủ sở hữu phải đáp ứng được hai mục tiêu trong một nhiệm vụ : góp phần giải quyết những vấn đề ở tầm vĩ mô trong quản lý và đảm bảo được tính thanh khoản của hệ thống. Ngoài ra, cũng cần có các văn bản hướng dẫn về tiêu chuẩn hóa các sản phẩm, dịch vụ do tổ chức tín dụng cung cấp. Hoàn thiện môi trường kinh tế, môi trường đầu tư: Nhà nước cần nghiên cứu ban hành Luật chống cạnh tranh không lành mạnh, không chỉ nhằm bảo hộ cho các ngân hàng cạnh tranh lành mạnh mà còn bảo vệ lợi ích cho khách hàng. Các điều khoản của Luật chống cạnh tranh không lành mạnh cần quy định theo hướng : quy định rõ sự cạnh tranh không lành mạnh; các NH trong giao dịch với khách hàng không được dùng các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh như dùng thủ đoạn chào mời để lôi kéo khách hàng, đưa ra hàng loạt các sản phẩm biếu không, tự khoe khoang vượt quá khả năng sự thật của bản thân, sử dụng một số hình thức nhằm giảm thấp giá đối với lãi suất cho vay, hạ thấp phí dịch vụ, giảm thấp điều kiện cấp tín dụng. Nếu do hành động cạnh tranh không lành mạnh mà gây tổn thất cho ngân hàng cạnh tranh thì phải chịu phạt hành chính, kinh tế. Cần tăng cường công tác thanh tra theo hướng giám sát từ xa đối với các hoạt động của các ngân hàng nhằm cảnh báo và đề ra những biện pháp khắc phục vi phạm. Thanh tra tại chỗ cần tiến hành ngay khi phát hiện những vấn đề trầm trọng trong quá trình giám sát từ xa. Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán: Chính phủ cần củng cố quan hệ lãnh đạo, quan hệ phối hợp giữa Bộ Tài chính, NHNN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, UBCKNN, TTGDCK, các công ty chứng khoán, công ty niêm yết... nhằm tạo ra một mối quan hệ phối hợp chặt chẽ và đồng bộ trong việc đưa ra các giải pháp phát triển thị trường. Để các cơ quan đang quản lý nhà nước đối với TTCK có đủ điều kiện hoạt động có hiệu quả, cần tăng cường quyền hạn cho UBCKNN, TTGDCK. Cần có những quy chế ưu đãi để nhanh chóng thành lập các tổ chức, các quỹ đầu tư ...để thực hiện chức năng điều tiết và tạo lập thị trường, bởi vì người đóng vai trò dẫn dắt thị trường phải là các nhà đầu tư chiến lược có tổ chức, là những người có tầm nhìn dài hạn để làm những hạt nhân nòng cốt cho các nhà đầu tư cá nhân đi theo. TTCK là một định chế tài chính, để thị trường hoạt động có hiệu quả, cần thiết phải có những con người với hiểu biết về thị trường này. Đó là các doanh nghiệp, công chúng, các nhà quản lý. Việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức, đào tạo nghiệp vụ cho những đối tượng này về lĩnh vực chứng khoán là hết sức cần thiết. UBCKNN có thể mở các lớp tập huấn nghiệp vụ, nói chuyện chuyên đề, tuyên truyền. Trên TTCK, vấn đề thông tin là hết sức quan trọng. Có được thông tin có chất lượng, nhà đầu tư mới có được các quyết định đầu tư đúng đắn. Chất lượng thông tin có thể làm cho TTCK hoạt động lành mạnh hay hỗn loạn. UBCKNN cần kiến nghị Chính phủ chỉnh sửa pháp luật về chứng khoán và TTCK để thống nhất quản lý Nhà nước về phát hành và kinh doanh chứng khoán, khắc phục sự bất bình đẳng giữa công ty niêm yết và không niêm yết trong việc công bố thông tin và áp dụng chuẩn mực quốc tế vào kiểm toán, vì kiểm toán là công việc không thể thiếu để đảm bảo nguyên tắc công khai của TTCK. Trong giai đoạn hiện nay, phần lớn các nhà đầu tư đang ở tình trạng thiếu hụt vốn để tiếp tục đầu tư. Không ít các nhà đầu tư đã phải cầm cố cổ phiếu để tiếp tục mua cổ phiếu và lại tiếp tục cầm cố tới nhiều lần để mua tiếp...Có thể nên chăng đã đến lúc mở rộng các hình thức giao dịch chứng khoán. Chính sách hỗ trợ từ chính phủ và Ngân hàng Nhà Nước Nhà nước, các Bộ, ngành và NHNN cần có chủ trương và chính sách hữu hiệu nhằm đảm bảo tính công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong hoạt động tài chính ngân hàng. Chỉ có bình đẳng thì các thành phần của nền kinh tế mới phát huy được khả năng tiềm tàng, tính năng động và hiệu quả của mình. Chính phủ có thể xem xét có chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng từ 2 đến 5 năm đối với NHTMCP. Phần giảm thuế này để lại cho các NHTMCP chuyên dùng cho công tác đào tạo cán bộ, nhân viên. Việc nâng cấp công nghệ thông tin đòi hỏi phải có nguồn tài chính đầu tư lớn, do đó các NHTMCP có quy mô nhỏ khó có thể triển khai thực hiện nếu không có vai trò của Chính phủ và NHNN đứng ra làm trung gian trong việc huy động nguồn tài chính trong nước và từ các tổ chức quốc tế cho việc đầu tư nâng cấp. Ngoài ra, Đảng và các cơ quan đoàn thể cần quan tâm và có cơ chế để tổ chức Đảng và các đoàn thể có điều kiện hoạt động và phát huy được vai trò của mình tại các NHTMCP. Mục tiêu là tạo được sự thống nhất chung trong xã hội về vai trò và ý nghĩa của Đảng, đoàn thể trong mọi thành phần kinh tế. Tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước: UBCKNN và NHNN và các Bộ, ngành, địa phương cần tăng cường phối hợp nhằm đảo bảo tính đồng bộ, thống nhất về chủ trương, chính sách. Hoạt động của thị trường vốn nói chung và TTCK nói riêng đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ các chính sách tài chính-tiền tệ. Chính phủ cần chỉ đạo thống nhất việc xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển thị trường tài chính, gắn thị trường tiền tệ với TTCK, trong đó có sự phối hợp tham gia của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, NHNN và UBCKNN. Để thúc đẩy tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCK không chỉ có vai trò của NHNN, của UBCKNN mà còn có vai trò của các Bộ, ngành, địa phương liên quan dưới sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ. Nhóm giải pháp vi mô Tăng cường huy động vốn chủ sở hữu: Phát triển vốn chủ sở hữu trong xu thế hội nhập và trào lưu phát triển các tập đoàn tài chính và ngân hàng lớn trên thế giới dẫn đến khả năng cạnh tranh khốc liệt trên thị trường nội địa nói riêng và thị trường thế giới nói chung. Khi hội nhập các ngân hàng có quy mô nhỏ sẽ không có khả năng cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Vì vậy, phát triển vốn chủ sở hữu để làm nền tảng phát triển hoạt động ngân hàng là một trong những vấn đề trọng tâm. Tự thân các NHTMCP phải có lịch trình và các giải pháp tăng vốn hữu hiệu để đáp ứng được yêu cầu của Nhà nước và phù hợp với chiến lược phát triển đã xây dựng. Việc huy động vốn điều lệ của các NHTMCP đến thời điểm này có thể nói đã “giậm chân tại chỗ” vì đã bắt gặp những cuộc cạnh tranh gay gắt. Vốn điều lệ của hai ông “trùm” trong hệ thống NHTMCP là Á Châu (ACB) và Sài Gòn thương tín (Sacombank) cũng chỉ vượt qua ngưỡng 500 tỷ đồng, tương đương trên 30 triệu USD, vẫn không thấm vào đâu so với các NH trong khu vực. Vì vậy, kênh thu hút vốn điều lệ cho các NHTMCP hiện nay chỉ có thể trông vào TTCK khi cổ phiếu NH được niêm yết, cơ hội tiếp cận với các nhà đầu tư sẽ được mở rộng hơn. Mục tiêu đặt ra cho các NHTMCP để có năng lực tối thiểu tham gia cạnh tranh trên thị trường khi hội nhập là : Quy mô vốn đến năm 2005 phải đạt gấp đôi mức vốn bình quân tại thời điểm hiện nay, tức là phải đạt tối thiểu 300 tỷ đồng, tương đương với 20 triệu USD. Điều chỉnh kết cấu nguồn vốn và tài sản Mối liên hệ giữa nguồn vốn và tài sản chính là mối liên hệ giữa huy động và sử dụng vốn. Đó là hai mặt của quá trình hoạt động của ngân hàng. Tài sản mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, còn nguồn vốn liên quan đến chi phí chủ yếu của ngân hàng, chi phí trả lãi. Các ngân hàng có thể từ cấu trúc, tính thanh khoản của nguồn để quyết định cấu trúc và tính thanh khoản của tài sản. Cơ cấu nguồn ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của ngân hàng. Những nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi quy mô và kết cấu của nguồn thường xuyên thay đổi và cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Đây là cơ sở để ngân hàng đưa ra các quyết định phù hợp để thay đổi quy mô và kết cấu nguồn. Giải quyết dứt điểm nợ xấu, nợ đọng: Việc cơ cấu lại nợ nhằm làm trong sạch Bảng cân đối kế toán của NHTMCP là rất cần thiết. Nhưng mới chỉ giải quyết số nợ xấu đã phát sinh là chưa đủ, ngăn chặn nợ xấu phát sinh trong tương lai là việc làm quan trọng hơn. Do đó, cần tập trung ngưn chặn, hạn chế việc phát sinh nợ xấu mới theo hướng : - Chấm dứt việc cho vay mới đối với bên đi vay có nợ nần chồng chất, dây dưa, chây ỳ hoặc cho vay không có tài sản thế chấp; - Đánh giá tín dụng tốt hơn, nâng cao trình độ thẩm định dự án, giám sát tình trạng của bên đi vay sử dụng vốn vay; - Thông qua việc bổ sung, hoàn thiện quy trình thẩm định, nghiên cứu, xét duyệt cho vay một cách chặt chẽ, thận trọng hơn; - Quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi vật chất trong việc cấp tín dụng; - Thiết lập hệ thống quản lý rủi ro; - Giám sát tình hình tài chính đối với bên vay có số dư nợ lớn. Nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực hoạt động: Năng lực cạnh tranh và hoạt động của một ngân hàng thể hiện ở khả năng tài chính đáp ứng các yêu cầu về vốn của nền kinh tế, ở sự phát triển cả về chiều rộng (mạng lưới hệ thống chi nhánh, đa dạng hoá các sản phẩm, các loại hình dịch vụ) lẫn chiều sâu (xây dựng mô hình quản lý phù hợp; chất lượng các sản phẩm, dịch vụ cung cấp). Mỗi ngân hàng cần có một mạng lưới hợp lý, đủ mạnh đáp ứng được yêu cầu phát triển hoạt động ngân hàng lớn mạnh và hiệu quả. Việc mở rộng hệ thống cần tính đến các yếu tố là tính cân đối hài hòa giữa bề rộng và bề sâu, tính ổn định và lâu dài. Song song với việc mở rộng mạng lưới, cần phải xây dựng mô hình quản lý năng động, hiệu quả để đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường. Mô hình quản lý điều hành theo chiều dọc có thể xây dựng theo nguyên tắc “kiểm soát tập trung” và điều hành phân tán, coi trọng trách nhiệm và quyền hạn của từng cấp. Mô hình mà các ngân hàng cần hướng tới là một mô hình ngân hàng bán lẻ hiện đại, nâng cao khả năng áp dụng công nghệ ngân hàng vào quản lý và hoạt động kinh doanh, tiến tới chuẩn hóa các quy định theo tiêu chuẩn quốc tế về điều hành, kiểm toán, kế toán... Sự phát triển của các tổ chức tài chính, sự thay đổi công nghệ, những đòi hỏi cao hơn của khách hàng đã dẫn đến gia tăng các loại hình dịch vụ ngân hàng. Trong bối cảnh Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập, tham gia vào các tổ chức khu vực (AFTA) và quốc tế (WTO), các ngân hàng Việt Nam nói chung, các NHTMCP nói riêng cần chú trọng xu hướng phát triển thao hướng đa năng. Tính đa dạng sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập, tăng khả năng cạnh tranh, hạn chế rủi ro. Việc nghiên cứu đưa vào các loại hình dịch vụ mới với chất lượng ngày một nâng cao đang được triển khai rất hiệu quả tại một số NHTMCP, cần được phát huy hơn nữa. Những NHTMCP hàng đầu hiện nay như ACB, Sacombank, Đông Á, Eximbank, Techcombank...hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau, có nhiều sản phẩm đa dạng, nghiên cứu và đã đưa ra được những sản phẩm dịch vụ theo hướng nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra giữa các NHTMCP cũng cần có sự tăng cường hợp tác trong mọi lĩnh vực để phát huy năng lực của từng ngân hàng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh. Việc hợp tác trên cơ sở đảm bảo quyền lợi và bình đẳng giữa các ngân hàng sẽ tạo ra một sức mạnh tổng lực góp phần thúc đẩy phát triển từng ngân hàng nói riêng, và cả hệ thống nói chung. Hoàn thiện hoạt động quản lý, điều hành: Cơ chế quản trị và điều hành cần thiết kế theo nguyên tắc trách nhiệm đi đôi với quyền hạn. Các chế độ, quy chế phải được xây dựng trên cơ sở luật định và tránh tình trạng áp đặt theo lối cục bộ và quyền lợi cá nhân. Có như vậy mới phát huy tối đa tính năng động trí tuệ và trách nhiệm của từng người lãnh đạo. Công tác quản lý, điều hành có liên quan trực tiếp tới việc thành công hay thất bại của mỗi ngân hàng. Vì vậy các NHTMCP cần đặc biệt chú trọng tới việc hoàn thiện hoạt động quản lý điều hành, có thể bằng các biện pháp như : Có quy định cụ thể về tiêu chuẩn và thực hiện quy trình lựa chọn chặt chẽ những người có đủ năng lực, trình độ và phẩm chất vào Hội đồng Quản trị. Tuyển chọn Giám đốc giỏi (có thể thuê Giám đốc người nước ngoài) để điều hành hoạt động của ngân hàng. Hoạch định chiến lược phát triển tổng thể dài hạn của ngân hàng mình, có tính đến môi trường kinh doanh trong điều kiện hội nhập. Xây dựng các quy chế quản lý ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế như : quản lý rủi ro, quản lý vốn và đầu tư, quản lý Tài sản Nợ và Tài sản Có... Xây dựng quy trình quản lý tín dụng và sổ tay tín dụng. Xây dựng và kiện toàn bộ máy và quy chế về kiểm soát và kiểm toán nội bộ. Xây dựng hệ thống thông tin quản lý. Xây dựng các thiết chế an toàn, phòng ngừa rủi ro cũng như các phương án phòng ngừa đối với rủi ro đột xuất. Các NH cần có sự liên kết để hình thành quỹ dự phòng rủi ro chung. Nâng cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin: Các ngân hàng trong thời gian qua đã có nhiều cố gắng trong việc tin học hóa các hoạt động nhiệp vụ ngân hàng.Đứng trước những thách thức lớn về cạnh tranh, khả năng đáp ứng yêu cầu khách hàng, khả năng đáp ứng yêu cầu về quản lý của mỗi ngân hàng, các ngân hàng cần phải xác định hiện đại hóa các nghiệp vụ lõi của mình thông qua các hình thức khác nhau như tự phát triển, phối kết hợp với các đối tác trong và ngoài nước hoặc mua các sản phẩm ứng dụng phân mềm. Trong nhiều năm qua, các sản phẩm ứng dụng của các NHTM Việt Nam hầu hết đều do chính đội ngũ làm CNTT của ngân hàng đó tự phát triển và có thể thấy rằng đã phần nào đáp ứng được các yêu cầu hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng. Mặc dù các hệ thống ứng dụng nói chung còn nhiều điểm bất cập nhưng xét một cách đúng mức thì sự đầu tư của mỗi ngân hàng cho đội ngũ tin học ở mỗi ngân hàng còn nhiều bất cập. Thường xuyên phổ cập kiến thức CNTT và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiên tiến cho các cấp, đặc biệt là các cấp lãnh đạo. Ngân hàng cần đào tạo những cán bộ chủ chốt vừa có am hiểu về nghiệp vụ ngân hàng vừa có trình độ về IT. Đặc biệt, cần có cán bộ lãnh đạo am hiểu về IT. Đào tạo nguồn nhân lực: Các NHTMCP cần xây dựng cho mình một kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại cán bộ, nhân viên của mình để từng bước có được đội ngũ các nhà quản lý điều hành giỏi, đáp ứng yêu cầu quản lý điều hành ngân hàng trong cơ chế thị trường, đặc biệt chuẩn bị cho hội nhập quốc tế và khu vực về ngân hàng. Cần phát huy các yếu tố có khả năng tác động tích cực đến từng người lao động để người lao động nhận thức được vai trò của mình trong ngân hàng như thực hiện chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm theo năng lực, gắn quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm với kết quả hoạt động kinh doanh; Xây dựng điều kiện và tuân thủ yếu tố pháp lý để người lao động có thể làm chủ được nghề nghiệp, sức lao động và phát huy được trí tuệ của mình. Thông qua vai trò được đề cao, người lao động sẽ nhận thức được đầy đủ trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần xây dựng chính sách đãi ngộ xứng đáng, khuyến khích vật chất và tinh thần cho những người có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn giỏi, có những đóng góp, sáng kiến năng cao năng suất và hiệu quả trong công việc; Xây dựng một chính sách tiền lương hợp lý. Chính sách tiền lương và phúc lợi phải được xây dựng theo các nguyên tắc : Mối quan hệ khăng khít giữa NSLĐ và tiền lương; Đảm bảo được giá trị tiền lương trong điều kiện lạm phát; Đảm bảo được niềm tin, tính ổn định của tập thể người lao động; xây dựng và phát triển văn hóa trong tập thể người lao động, gắn bó người lao động với tập thể, với ngân hàn. Có khả năng thu hút được nhân tài Cơ chế tiền lương phải phù hợp với Bộ luật lao động và trình độ phát triển dân trí, mức sống của nhân dân. Mâu thuẫn giữa yêu cầu của đổi mới kinh tế đất nước, của hội nhập quốc tế ngày càng nhanh chóng với trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam đang rất thấp là một trong những thách thức đối với hoạt động ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Củng cố các NHTMCP bằng các giải pháp nói trên có thể sẽ đưa hệ thống các ngân hàng này lên một mức độ mới để tiếp cận với mô hình và hoạt động của các ngân hàng hiện đại đủ khả năng cạnh tranh để tồn tại và phát triển, đáp ứng các yêu cầu khi niêm yết trên TTCK tập trung. KẾT LUẬN Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống tài chính phát triển ở bậc cao với sự kết hợp hài hoà giữa hệ thống các ngân hàng – huyết mạch của nền kinh tế và TTCK – chiếc phong vũ biểu thần kỳ. Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước phát triển theo cơ chế thị trường, chế độ đa sở hữu, trong xu thế hội nhập. Sự tồn tại của hệ thống NHTMCP và việc ra đời TTCK là một tất yếu. Tuy nhiên, TTCK chỉ có thể tồn tại và phát triển trong những điều kiện nhất định, khi mà các chủ thể của nó, đặc biệt là các NHTM tích cực tham gia, trong đó có các NHTMCP. Các NHTMCP cũng chỉ tồn tại và lớn mạnh khi phát triển theo hướng ngân hàng đa năng. Hoạt động của NHTM nói chung, của NHTMCP nói riêng và TTCK có quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau, dựa vào nhau để cùng phát triển. Các NHTMCP được niêm yết trên TTCK là một thuận lợi và cũng là yêu cầu cần thiết để nâng cao hiệu quả cho hệ thống ngân hàng cũng như TTCK. Vì vậy, việc nghiên cứu các giải pháp nhằm thúc đẩy niêm yết cổ phiếu các NHTMCP ở Việt Nam trên TTCK là hết sức cần thiết. Với sự vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài, luận văn đã làm sáng tỏ được các vấn đề sau : Một là, luậnvăn đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về niêm yết cổ phiếu của NHTMCP trên TTCK, các nhân tố ảnh hưởng đến việc niêm yết cổ phiếu của NHTMCP. Hai là, luận văn đã đề cập đến thực trạng của hệ thống NHTMCP Việt Nam trên góc độ vốn chủ sở hữu và các hoạt động ngân hàng, đồng thời cũng cho thấy thực tế tình hình hiện nay và nhu cầu của TTCK về các cổ phiếu được niêm yết của các NHTMCP. Ba là, luận văn đã đề xuất và phân tích các giải pháp nhằm thúc đẩy niêm yết cổ phiếu các NHTMCP trên TTCK ở Việt Nam. Vì TTCK Việt Nam và việc niêm yết cổ phiếu các NHTMCP trên thị trường này hiện còn ở giai đoạn đầu của sự phát triển cả về lý luận cũng như thực tế, vì những nguyên nhân khách quan và nghiên cứu mang nhận định chủ quan của người thực hiện, nên luận văn chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, các thầy cô và bạn đọc để luận văn có điều kiện được bổ sung và hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS Nguyễn Văn Nam, PGS.TS Vương Trọng Nghĩa (2002), Thị trường chứng khoán, NXB Tài chính, Hà nội. TS. Phan Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo (2002), Ngân hàng thưong mại-quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống kê, Hà nội. TS. Đinh Xuân Trình, (1998). Thị trường chứng khoán, NXB Giáo dục, Hà nội. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (2002), Hệ thống các văn bản pháp luật về chứng khoán và Thị trường chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội. Đoàn Văn Trường- Ngô Trí Long (1997), Kiến thức phổ thông để kinh doanh trong Thị trường chứng khoán, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội. Quốc hội nước Cộng hòa xẫ hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), Luật các Tổ chức tín dụng. Chính phủ (2000), Nghị định số 49/2000/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại . Chính phủ (1998), Nghị định số 82/1998/NĐ-CP quy định mức vốn điều lệ tối thiểu của các tổ chức tín dụng. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (2001), Quyết định số 1122/2001/QĐ-NHNN ngày 04/9/2001 kèm theo Quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu và vốn điều lệ của NHTMCP của Nhà nước và nhân dân. Chính phủ(2003), Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và Thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 59/2004/TT-BTC ngày 18/6/2004 hướng dẫn về niêm yết cổ phiếu và trái phiếu trên TTCK tập trung. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 60/2004/TT-BTC ngày 18/6/2004 hướng dẫn về việc phát hành cổ phiếu ra công chúng . Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (2004), Tài liệu xây dựng Văn kiện Đại hội Đảng X Ngân hàng Nhà nước - Báo cáo thường niên các năm 1999, 2000, 2001, 2002, 2003. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2003), Hỏi đáp Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng, NXB Xã hội, Hà nội. Thống đốc NHNN (2004), Quyết định số 787/2004/QĐ-NHNN quy định tạm thời về việc NHTMCP đăng ký niêm yết và phát hành cổ phiếu ra công chúng Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, các số 13, 14, 15, 18 năm 2004, các số 22/2001, 6/2002, 11/2000,19/2002, 9/2000, 14/2001, 1/2003, 2/2003, 1/1999 Tạp chí Ngân hàng các số 9/2002, 3/2002, 6/2002

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThúc đẩy niêm yết cổ phiếu các ngân hàng thương mại cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam.doc
Luận văn liên quan